CÔNG GIÁO VIỆT NAM
2020
Đức Tin Tuân Phục
Bài chia sẻ cho Nhóm TĐCTT ngày Tĩnh
Tâm Nên Thánh 2019 (Thứ Bảy 5/10)
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL
Theo cảm
nghiệm tu đức sống đức tin của mình, tôi càng ngày càng sâu xa và mãnh liệt
xác tín rằng:
muốn gặt
hái được nhiều hoa trái thiêng liêng trong hoạt động tông đồ giáo dân nói chung,
và cho tất cả mọi phương diện về đời sống thánh chứng nhân của mình, tôi phải
làm sao để trở nên xứng đáng cho LTXC hiện diện và tỏ hiện. Và tôi đồng thời
cũng cảm nghiệm thấy rằng LTXC chỉ hiện diện nơi tôi khi tôi sống đức tin tuân
phục, và LTXC chỉ tỏ hiện qua tôi, khi tôi sống đức ái trọn hảo.
Trước hết là "đức tin tuân phục" (obedience
of faith or obedient faith – Roma 1:5). Đức tin là một nhân đức đối thần, liên
quan đến mạc khải thần linh, được Thiên Chúa phú bẩm cho chúng ta khi chúng ta
chịu phép rửa, và được chúng ta thể hiện hay chứng thực đức tin siêu nhiên này
bằng việc tuân phục của chúng ta, nhất là tuân phục cả những gì tráí ý chúng ta
nhất.
Điển hình nhất trong việc sống đức tin tuân phục này
là tổ phụ Abraham, vị đã tuân phục Thiên Chúa khi vâng lời Ngài, bỏ nơi mình
đang ở để đến một nơi hoàn toàn xa lạ, đi mà chẳng biết mình đi đâu (xem Khởi
Nguyên 12:1-20; Do Thái 11:8), hay khi vị tổ phụ này vâng lời Thiên Chúa đem sát
tế đứa con trai duy nhất của mình, được sinh ra theo chính lời Thiên Chúa hứa,
để làm mồng mống cho một dân tộc đông như sau trời như cát biển (xem Khởi Nguyên
22:1-19).
Đức Maria cũng nêu gương sống đức tin tuân phục hơn ai
hết, một đức tin khiến Mẹ luôn ở trong tình trạng “đầy ơn phúc” (Luca
1:28), ngay từ giây phút được hoài thai cho đến khi về trời cả hồn lẫn xác, một
đức tin tuân phục được tỏ hiện trong biến cố Truyền Tin, qua lời Mẹ thân thưa
cùng vị sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì
ngài truyền”, và được hoàn toàn nên trọn trong biến cố khổ giá của Chúa
Kitô Con Mẹ trên Đồi Canvê.
Để có thể sống đức tin tuân phục, con người cần phải “bỏ
mình đi và vác thập giá của mình” (Mathêu 16:24). Tại sao? Tại vì con người
thuộc hạ giới hèn hạ và hữu hạn, còn Thiên Chúa thuộc thượng giới cao cả và vô
cùng bất tận. Bởi thế, những gì Ngài nghĩ về con người, Ngài muốn nơi con người,
ngài tỏ ra cho con người, đều vượt lên bản tính tự nhiên hữu hạn của con người,
trên lý trí thiển cận của con người, trên khả năng vụng về của con người, thậm
chí hoàn toàn ngược lại với bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội của họ, một
bản tính vì thế luôn hướng hạ, chỉ tìm kiếm hưởng thụ, và luôn hướng nội, chỉ
tìm kiếm bản thân vị kỷ của mình.
Tác động đức tin tuân phục là tác động “hoán cải và
trở nên như trẻ nhỏ” (Mathêu 18:3), hoàn toàn ngược lại với tác động người
lớn theo ý riêng của nhị vị tổ phụ ngay từ ban đầu, cho mình là khôn ngoan, muốn
làm chủ mình, bằng cách tự động muốn nên giống như Thiên Chúa là Đấng dựng nên
mình, trong việc muốn có quyền và có thể trong việc quyết định mọi sự “lành và
dữ” theo ý mình.
Tác động đức tin tuân phục là tác động hoàn toàn tin
tưởng phó thác vào LTXC, là tác động tin vào Vị Thiên Chúa là Cha trên trời toàn
ái, là tác động tin vào Vị Thiên Chúa quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và
toàn năng, là tác động hoàn toàn để Chúa muốn làm gì thì làm nơi mình, để “Danh
Chúa cả sáng” nơi ý hướng của mình, để “Nước Cha trị đến” trong linh hồn của
mình, và để “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” qua các hành vi cử chỉ
và hoạt động của mình.
Tác động đức tin tuân phục không phải chỉ ở chỗ tuân
theo Thánh Ý Chúa, mà còn ở chỗ chấp nhận mọi sự theo Thánh Ý Chúa nữa. Nghĩa là
chẳng những “mang lấy ách” của Chúa mà còn cả “gánh” của Chúa
nữa (xem Mathêu 11:28-30), nghĩa là “bỏ mình và vác thập giá mình mà theo
Chúa”. Đó là trường hợp của Chị Thánh Faustina, vị đã đáp ứng yêu cầu của
Chúa Giêsu, xin phép bề trên, nhưng hầu như chẳng được bề trên ưng thuận làm
theo ý Chúa. Đó là trường hợp của chính Chúa Kitô, Đấng đến không phải làm theo
ý của mình, đã tuân hành Ý Cha trong hết mọi sự, cho đến độ uống cạn chén Cha
trao, hoàn toàn trái với ý mình.
Tác động đức tin tuân phục mới làm cho linh hồn được
hiệp nhất nên một với Thiên Chúa, nghĩa là được hiệp thông thần linh với Ngài,
nhờ đó, họ mới như cành nho đã sinh trái lại càng sinh trái nhều hơn (xem Gioan
15:2). Nhờ đức tin tuân phục, tức nhờ Thiên Chúa sống trong linh hồn, chiếm đoạt
linh hồn, làm chủ linh hồn, mà linh hồn có thể nghĩ được những gì Thiên Chúa
nghĩ, khôn ngoan phán đoán và chọn lực đúng như Ngài muốn, và nhờ đó linh hồn có
thể làm được những gì theo tự nhiên không thể làm, thậm chí về cả phương diện tự
nhiên, như chữa lành.
Linh hồn sống đức tin tuân phục là một linh hồn, như Mẹ Maria, luôn ở trong thái độ sẵn sàng làm theo ý Chúa trong mọi sự, thái độ “lưu giữ những sự ấy mà suy nghĩ trong lòng” (Luca 2:19,51), thái độ đáp ứng ngay khi nghe thấy tiếng gió thần linh “muốn thổi đâu thì thổi” (Gioan 3:8), thái độ của những linh hồn đươc “tái sinh bởi trời” (Gioan 3:3), “nghe được tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu tới và sẽ đi đâu” (Gioan 3:8).
Đức tin tuân phục là tác động của một tấm lòng hoàn toàn
tin tưởng (trust) vào Thiên Chúa, chẳng những nơi việc thi hành ý muốn của Thiên
Chúa, mà còn nhất là nơi việc chấp nhận mọi sự theo ý muốn vô cùng huyền diệu và
khắc nghiệt của Thiên Chúa. Đức tin là hạt giống thần linh, chất chứa mạc khải
thần linh, nhưng chỉ phản ảnh trung thực nơi tấm lòng tin tưởng phó thác của
những tâm hồn được cảm nghiệm thần linh.
Thiên Chúa là Cha trên trời dựng nên con người theo hình
ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27) để con
người có thể nhờ đó mà được hiệp thông thần linh với Ngài, và Ngài đã thực hiện
hết mọi sự có thể, kể cả việc tỏ mình ra nơi Con của Ngài và thông mình ra qua
Thánh Thần của Ngài, để con người có thể tin vào Ngài.
Và thời điểm và cách thức Ngài tỏ mình Ngài ra cho từng
linh hồn và các linh hồn, nhất là “những ai được Ngài biết trước thì Ngài
cũng tiền định nên giống hình ảnh Con của Ngài” (Roma 8:29), đó là Ngài gửi
thánh giá đến cho họ, là Ngài thanh tẩy họ, là Ngài cắt tỉa họ để họ “càng
sinh nhiều hoa trái hơn” (Gioan 15:2), giúp cho nhiều linh hồn được cứu độ,
để giá máu vô cùng châu báu của Con Ngài chẳng những không trở thành vô ích nơi
các linh hồn hư vong.
“Những
ai Ngài đã biết trước”
đây là
ai? Phải chăng là một Thánh Phaxicô Assisi, sáng lập dòng anh em hèn mọn
Phanxicô, vị thánh của Kinh Hòa Bình?? Phải chăng là một Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, vị được thế giới Ấn giáo kính
trọng bằng một cuộc quốc táng? Phải chăng là một
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng xuất thân từ một thế giới cộng
sản và đã làm biến đổi lịch sử thế giới, qua biến cố Đông Âu sụp đổ vào hạ bán
năm 1989, và Nước Nga trở lại ngày 25/12/1991???
"Thưa mẹ, tôi đã sống như một con vật ngoài đường, nay tôi chết như một thiên thần được yêu thương"
Dù bị Ali-Agca ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô, những Thánh Gh GPII vẫn đến thăm anh ta trong Năm Thánh 2000,
và khi ra tù ngày 18/1/2010, anh ta đã đến thăm mộ ngài ở Vatican, nhưng chưa bao giờ chính thức và công khai hoặc riêng tư ngỏ lời lỗi ngài.
Đúng thế, thành phần “được Ngài biết trước” quả
là những vị thánh được Ngài gửi đến vào từng thời điểm lịch sử của cung loài
người cũng như của riêng Giáo Hội! Tuy nhiên, thành phần này không phải toàn là
những vị thánh hay đại thánh trong Giáo Hội, được Giáo Hội phong thánh, mà con
cả những tội nhân được Ngài biến đổi, điển hình nhất là một Maria Mai-Đệ Liên,
từ một con điếm thành tông đồ của các tông đồ của Chúa Kitô Phục Sinh! Một Saulê
thành Phaolô tông đồ dân ngoại!! Một Augustino sống đời tuổi trẻ bê bối về thể
xác và lầm lạc về linh hồn, thành một vị Thánh Giáo Phụ Giám Mục Tiến Sĩ lừng
danh trong Giáo Hội!!!
Tuy nhiên, “những ai được Ngài biết trước” không phải chỉ có thế, mà còn bao gồm cả những đại tội nhân vô danh nữa, không được liệt kê trong danh sách thánh nhân của Giáo Hội.
Chẳng hạn như người đàn bà, được Thánh ký Gioan thuật lại ở đầu đoạn 4 (4-26) phúc âm của ngài, sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của mình, nhưng sau khi gặp Chúa Kitô, đã trở thành tong đồ cho Người ngay tức khắc.
Chẳng hạn như người mù từ lúc mới sinh, được Thánh Gioan
ghi lại ở đoạn 9 (1-41) của ngài, dù mới được Chúa Kitô chữa lành cho, và chưa
gặp Người và nhận biết Người, cũng đã trở thành chứng nhân cho Người.
Chẳng hạn người trộm lành, được Thánh ký Luca thuật lại
ở đoạn 23 (39-43) phúc âm của ngài, cả cuộc đời gian dối trộm cắp, những cuối
cùng đã nhận biết Lòng Thương Xót Chúa nơi Đấng Khổ Giá bị đóng danh ngay bên
mình và với mình, đã bênh vực Người và tuyên xưng lòng tin của mình vào Người,
nhờ đó, đã trở thành linh hồn đầu tiên thao Chúa Kitô vào Thiên Đàng.
Thậm chí “những ai được Ngài biết trước” bao
gồm cả một tâm hồn nào đó, không hề làm chứng cho Ngài, nhưng vẫn được Ngài sử
dụng để tỏ Lòng Thương Xót của Ngài, qua bất cứ một phương tiện nào, qua bất cứ
một con người nào. Giống hệt như trường hợp một vị linh mục thừa tác, dù đang
mắc tội trọng, chưa kịp xưng thú hay không muốn xưng thú, thi hành tác động
phụng vụ vẫn hiệu thành, như truyền phép Thánh Thể trên bàn thờ, hay tha tội cho
hối nhân muốn hòa giải với Chúa v.v.
Điển hình nhất cho thành phần bất xứng vẫn được Lòng
Thương Xót Chúa sử dụng và tỏ mình ra, điển hình nhất đó là người phụ nữ bị bắt
quả tang phạm tội ngoại tình, được Phúc âm của Thánh ký Gioan thuật lại ở đoạn
8 (2-11), một con người hoàn toàn không ngờ, cả bản thân tội lỗi và chính tội lỗi của
nàng, thậm chí ngay cả lúc chị ngây ngất hoan hưởng xác thịt trên giường, chị
cũng không thể nào nhờ đó chi lại được gặp Chúa, lại được Lòng Thương Xót Chúa sử dụng, để tỏ mình ra cho chị, cũng như cho
cả thành phần muốn ném đá chị, nghĩa là đã làm cho phạm nhân tội lỗi, lẫn thành
phần cho mình là công chính tội lỗi, đều nhận biết mình mà được hoán cải, ở chỗ
tin vào Ngài.