SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XVIII Thường Niên A - Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Is 55, 1-3

"Hãy đến mua lúa mà ăn".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 15-16. 17-18

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê (x. c. 16).

Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

2) Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê. - Ðáp.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 8, 35. 37-39

"Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Chúa chúng ta".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?

Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: x. Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 13-21

"Mọi người đều ăn no".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn". Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".

Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Ðó là lời Chúa.


 

Suy Nghiệm Lời Chúa


Lòng thương xót Chúa là tất cả no thỏa của những kẻ bần cùng khốn khổ


Nếu theo dõi tiến trình của chiều hướng phụng vụ Lời Chúa cho các Chúa Nhật, chúng ta thấy tính cách liên tục của nó. Nếu sau 3 Chúa Nhật liền, Chúa Nhật XV, XVI và XVII Thường Niên Năm A, các bài Phúc Âm về dụ ngôn Nước Trời nói chung và về Lời Chúa là chính bản thân Đức Giêsu Kitô nói riêng, thì bài Phúc Âm của Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm A hôm nay, cho thấy tác dụng thần linh của Lời Chúa, ở chỗ Lời Chúa trở thành bánh nuôi dưỡng dân chúng đói khổ về phần hồn, được tiêu biểu qua phép lạ bánh hóa ra nhiều để nuôi dân chúng no nê về phần xác lần đầu tiên này.

Đó là lý do Giáo Hội đã không chọn đọc đoạn Phúc Âm của Thánh ký Mathêu ngay sau loạt dụ ngôn về Nước Trời ở đoạn 13, mà bỏ phần cuối của đoạn 13 liên quan đến chuyện Người về quê quán Nazarét của Người (13:54-58), và bỏ phần đầu của đoạn 14 về biến cố qua đời của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quận vương Hêrôđê chặt đầu (1-12), là những đoạn không theo đúng chiều hướng phụng vụ Lời Chúa được Giáo Hội nhắm tới và chọn lọc cho cộng đồng dân Chúa của mình, trái lại, Giáo Hội đã chọn đọc đoạn Phúc Âm hôm nay, 14:13-21, về phép lạ bánh hóa ra nhiều.

Nếu thời điểm 3 Chúa Nhật XV, XVI và XVII là 3 Chúa Nhật có 3 bài Phúc Âm về Mầu Nhiệm Nước Trời liên quan đến Lời Chúa, và nếu thời điểm 3 Chúa Nhật XII, XII và XIV trước đó, là 3 bài Phúc Âm liên quan tới vai trò môn đệ thừa sai của 12 tông đồ trong việc Chúa Giêsu sai các vị đi đến với con chiên lạc Nhà Israel bằng một huấn từ truyền giáo, thì Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVIII tuần này chúng ta thấy hội tụ cả hai yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly: Lời Chúa cũng chính là Chúa Giêsu Kitô và các vị tông đồ thừa sai, trong vụ việc đáp ứng nhu cầu lương thực hằng ngày của dân chúng.

Bởi thế, trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hành động đơn phương, cho dù Người không cần đến các môn đệ tông đồ của Người: "Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn'. Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'".

Chúa Giêsu muốn thành phần tông đồ môn đệ, thành phần sau này sẽ thay Người chăn dắt đoàn chiên của Người, cần phải tích cực hợp tác với Người trong việc chủ động phục vụ dân chúng, chẳng những ở chỗ cung cấp cho Người những gì họ có hay kiếm được: "'Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem lại cho Thầy'", mà còn
chỗ phân phát cho dân chúng những gì Người muốn ban cho họ: "Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no".

Nếu Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Năm A hôm nay về phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi dân chúng no nê hôm nay bao gồm cả Chúa Giêsu Kitô đóng vai chính và thành phần môn đệ thừa sai đóng vai phụ thì hai vai chính lẫn phụ này đã được Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cho thấy ở trong hai Bài Đọc khác cùng ngày hôm nay: vai chính ở trong Bài Đọc 1 và vai phụ ở trong Bài Đọc 2.

Trước hết, về vai chính, Tiên Tri Isaia, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã phát ngôn ý định của Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, mà khi nhập thể nơi Con của mình là Đức Giêsu Kitô sau này, "thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ", vì Ngài chỉ muốn cho chung tạo vật được Ngài dựng nên theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26), và riêng dân Ngài hay thành phần được Ngài tuyển chọn những gì tốt lành nhất, cần thiết nhất  và lợi ích nhất cho họ, một cách nhưng không:

"Hỡi tất cả những ai khát nước, hãy đến uống nước; hỡi kẻ không tiền bạc, hãy đến mua lúa mà ăn; hãy đến mà mua rượu và sữa, không cần trả tiền, không cần đổi chác gì. Tại sao các ngươi không dùng tiền mà mua bánh, sao không dùng tiền lương mà mua đồ nuôi thân? Vậy hãy lắng tai nghe, hãy đến ăn đồ bổ, và các ngươi sẽ được thưởng thức món ăn mỹ vị. Hãy lắng tai và đến cùng Ta, hãy nghe, thì các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ ký kết với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, đó là những hồng ân đã hứa cho Ðavít".

Sau nữa, về vai phụ, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, trong Bài Đọc 2 hôm nay, đã cống hiến cho chúng ta một lối sống hiệp sinh để nhờ đó thành phần môn đệ thừa sai của Chúa Kitô, về mặt tiêu cực, chẳng những không có thái độ và hành động dửng dưng hay phủi tay trước nhu cầu của dân chúng hay của đoàn chiên được ủy thác cho mình: "xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn", trái lại, về mặt tích cực, có được một tấm lòng thương xót như Thày của mình, ở chỗ chẳng những biết xót xa tình trạng khốn khổ của dân chúng mà còn biết gánh chịu phần nhiệm đáp ứng nhu cầu của họ một cách thỏa đáng nữa. Lối sống hiệp sinh bất khả phân ly đến độ tâm tư và ước nguyện của Người là của chính tâm tư và ước nguyện của thành phần môn đệ thừa sai sống gắn bó với Người này là như thế này:

"Anh em thân mến, ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy, vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

Nếu ở câu Alleluia hôm nay "Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta", thì với tư cách là dân của Chúa và là chiên của Người, chúng ta có thể cùng với Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 144 ở Bài Đáp Ca hôm nay kêu lên: "Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho chúng con được no nê" (câu 16), với tất cả ý thức sâu xa về một Vị Thiên Chúa luôn động lòng thương tạo vật của mình, dân của mình, nơi con tim loài người của Người Con là Đức Giêsu Kitô, rằng:

1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.

2) Muôn loài để mắt cậy trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê.

3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm. Chúa gần gũi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm.

 



Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 28, 1-17

"Hỡi Hanania, Chúa không hề sai anh, anh đã làm cho dân tin tưởng sự giả dối".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Năm ấy, vào đầu triều đại Sêđêcia, vua Giuđa, tháng năm, năm thứ tư, có tiên tri Hanania, con của Azur, quê ở Gabaon, nói với Giêrêmia trong Ðền thờ Chúa, trước mặt các tư tế và toàn dân rằng: "Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Israel phán thế này: "Ta đã bỏ ách của vua Babylon. Còn hai năm nữa thì tất cả những đồ dùng trong Ðền thờ Chúa, mà Nabucôđônosor, vua Babylon, đã đoạt đem qua Babylon, Ta sẽ đem về nơi này. Giêcônia, con Gioakim, vua Giuđa, cùng tất cả những người Giuđa bị lưu đày đi Babylon, Ta cũng sẽ đem về nơi này: vì Ta bỏ ách vua Babylon. Chúa phán như thế".

Bấy giờ tiên tri Giêrêmia trả lời tiên tri Hanania trước mặt các tư tế và toàn dân đang đứng trong Ðền thờ Chúa. Tiên tri Giêrêmia nói: "Ðược, Chúa cứ làm như vậy. Chúa cứ thực hiện những lời anh đã nói tiên tri. Ngài cứ đem các đồ dùng trong Ðền thờ Chúa và mọi người lưu đày từ Babylon về nơi này. Nhưng anh hãy nghe lời tôi nói cho anh và toàn dân nghe: Các tiên tri trước anh và tôi, đã nói tiên tri từ lâu, cho nhiều xứ và vương quốc vĩ đại biết có chiến tranh, cơ cực và đói khát. Nhưng tiên tri nào nói tiên tri cho biết có hoà bình, khi ứng nghiệm lời mình nói, thì mới được nhận là tiên tri thật Chúa sai đến".

Bấy giờ tiên tri Hanania giật cái ách nơi cổ của tiên tri Giêrêmia mà bẻ đi. Rồi Hanania nói trước mặt toàn dân rằng: "Chúa phán thế này: Hai năm nữa, Ta sẽ bẻ ách của Nabucôđô-nosor, vua Babylon, nơi cổ mọi dân tộc như thế đó". Và tiên tri Giêrêmia bỏ đi. Nhưng sau khi tiên tri Hanania giật cái ách nơi cổ tiên tri Giêrêmia mà bẻ đi, thì có lời Thiên Chúa phán cùng Giêrêmia rằng: "Hãy đi nói với Hanania rằng: Chúa phán thế này: "Ngươi đã bẻ ách gỗ, thì Ta sẽ lấy ách sắt thay vào". Vì Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Israel phán: "Ta đã đặt ách sắt vào cổ mọi dân tộc này, để chúng làm tôi Nabucô-đônosor, vua Babylon. Chúng sẽ làm tôi vua ấy, và cả đến thú vật ngoài đồng, Ta cũng nạp cho vua ấy".

Tiên tri Giêrêmia liền nói với tiên tri Hanania rằng: "Hỡi Hanania, hãy nghe đây: Chúa không hề sai anh. Anh đã làm cho dân này tin tưởng sự giả dối. Vì vậy, Chúa phán thế này: 'Ðây Ta sẽ cất ngươi khỏi mặt đất: năm nay ngươi sẽ chết, vì ngươi đã nói chống lại Chúa' ". Và tiên tri Hanania đã chết trong tháng bảy năm ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 29. 43. 79. 80. 95. 102

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa (c. 68b).

Xướng: 1) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con. - Ðáp.

2) Xin Chúa đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài. - Ðáp.

3) Tâm hồn chúng như mỡ đặc, vô cảm giác; phần con biết sướng vui do luật pháp của Ngài. - Ðáp.

4) Nguyện cho lòng con trọn vẹn hướng về thánh chỉ, để con không bị xấu hổ thẹn thùng. - Ðáp.

5) Những tên ác nhân đợi chờ để thủ tiêu con, nhưng con vẫn quan tâm đến lời Ngài nghiêm huấn. - Ðáp.

6) Con không bước trật đường thánh dụ của Ngài, bởi vì chính Ngài dạy bảo con. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 14, 22-36

"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"

Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

Jesus rescues Peter. | Faith, Jesus pictures, Jesus

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, đáng lẽ là chính bài Phúc Âm của Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm A, bài Phúc Âm về phép lạ bánh hóa ra nhiều lần thứ 1. Bởi thế, bất cứ năm nào, như năm 2020 là năm Phụng Niên theo chu kỳ Năm A, thì bài Phúc Âm sẽ là bài tiếp ngay sau Bài Phúc Âm Chúa Nhật XVIII Năm A, nghĩa là về biến cố Chúa Giêsu "đi trên mặt biển mà đến với các ông", và vì thế bài Phúc Âm này mới được mở đầu bằng câu chuyển tiếp từ biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều và phép lạ dẹp yên bão tố như sau: "Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng".

 

Nguyên câu Phúc Âm đầu tiên này thôi, chúng ta đã thấy có một cái gì đó là lạ nơi Chúa Giêsu rồi. Ở chỗ, thứ nhất, tại sao Người không chờ xuống thuyền đi cùng các vị chứ? Thứ hai,l tại sao việc giải tán dân chúng mà lại chỉ có một mình Người, một việc đáng lẽ các môn đệ phải làm thay Người hay với Người cho nhanh, hoặc dân chúng sẽ bỏ đi nếu họ thấy thày trò của Người từ giã họ mà đi?? Thứ ba, nếu các tông đồ sang bên bờ bên kia trước thì Người sang với các vị sau đó bằng cách nào??? Với 3 vấn nạn được đặt ra hợp tình hợp lý này, không biết có môn đệ nào nghĩ đến hoặc thắc mắc hay chăng???? Chắc là không! Vì thế mới có chuyện kể!! Chuyện các vị lại tiếp tục "bị/được" Thày của các vị huấn luyện về đức tin!!!

 

Không phải hay sao, nếu trong biến cố bánh hóa ra nhiều, Chúa Giêsu muốn lợi dụng hoàn cảnh của dân chúng huấn luyện đức tin cho các vị, bằng cách bảo các vị phải lo cho dân ăn, chứ không thể bảo họ ra về bụng đói thế nào, một việc mà Người đã biết được tự mình các vị bất khả, thì trong phép lạ Người dẹp yên bão tố cho các vị trong đêm tối cô đơn lẻ loi một mình trên biển hồ Galilêa ngay sau đó trong bài Phúc Âm hôm nay, mà Người biết trước sẽ xẩy ra cho các vị, cũng thế, để cho các vị càng tin vào Người hơn nữa: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!" khi các vị chứng kiện tận mắt thấy Thày của các vị, Đấng các vị đã mau mắn đáp lại tiếng gọi của Người, bỏ mọi sự mà theo Người, tỏ ra uy quyền toàn năng của Người.

 

Riêng trường hợp môn đệ Simon Phêrô, vì là vị lãnh đạo tông đồ đoàn sau này theo ý của Người, mà Người còn thử thách ông hơn các tông đồ khác. Ở chỗ, bvới bản chất vốn rất chân thành, mau mắn và trực giác, khi vừa được nghe thấy tiếng của Thày "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ", từ cái bóng "ma" đang lướt trên biển hồ tiến đến với con thuyền của các vị "đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió", thì hứng thú quá sức, muốn được nên giống Thày mình hơn ai hết, một sáng kiến chỉ có ở nơi một mình ngài, và chỉ đột xuất ngay lúc bấy giờ, liền xin với Thày rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".

 

Lời yêu cầu đột xuất này của người môn đệ Simon Phêrô bấy giờ, bề ngoài có vẻ thử thách Chúa Giêsu, có vẻ không tin là Người, hay hồ nghi về Người, nhưng lại không phải như thế, khi ngài, sau khi được Thày cho phép, đúng hơn, thử thách lại: "Hãy đến", ngài đã làm thật. Nghĩa là, ngài đã thực sự tin vào cái "con ma" ấy, bằng không, làm sao ngài dám làm thật, khi  "xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu". Để rồi, ngay trong cơn hứng khởi thần linh ban đầu ấy, bản chất yếu đuối loài người của ngài liền xuất hiện, ở chỗ, niềm tin của ngài đã bị lung lay, như bài Phúc Âm thuật lại: "Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'".

 

Tại sao người môn đệ Simon Phêrô này lại thay đổi mau chóng như thế, lúc thì tin tưởng, lúc lại ngờ vực, hay nói đúng hơn, lúc thì mạnh tin, lúc thì yếu tin? Xin thưa, trước hết và trên hết, là vì Thày của ngài chưa Vượt Qua, để ngài được "nhận lấy quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49), như sau biến cố Thánh Thần Hiện Xuống. Sau nữa, ở nơi chính bản thân của ngài: ngài chỉ tin khi mọi sự ngon lành, cho đến khi gặp gian nan khốn khó, và bị chao đảo ngoài ý muốn. Ở chính biến cố "khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi" cho thấy rằng ngài chưa tới độ sống gắn bó liên lỉ mật thiết với Thày, đến độ không gì tách ngài ra khỏi Người: nếu ngài cứ tiếp tục nhắm vào Thày, thay vì nhìn vào gió, thì đâu có bị hậu quả "sắp chìm xuống" như thế!

 

Biến cố hôm nay xẩy ra cho các tông đồ nói chung, cho môn đệ Simon Phêrô nói riêng, còn tiếp tục tiếp diễn nữa. Điển hình là lần "được/bị" Chúa Giêsu bất ngờ trắc nghiệm đức tin của các vị là: "Còn các con, các con bảo Thày là ai?" (Mathêu 16:15), chính môn đệ Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ khác, và với cảm nghiệm riêng của mình, đã mau mắc đáp ngay, một cách rất chính xác rằng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), một âm vang trung thực từ cảm nhận đức tin đầu tiên trong bài Phúc Âm hôm nay: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!" Thế nhưng, ngay sau đó, cũng chính vị trưởng tông đồ đoàn Simon Phêrô, lại bị Thày quở trách thậm tệ vì có ý tưởng phản lại đức tin vừa tuyên xưng (câu 23).

 

Đúng thế, chính vì các vị tông đồ sở dĩ được Chúa Giêsu tuyển chọn từ thành phần các môn đệ là để các vị sau này làm chứng nhân tiên khởi cho Người, và nhờ đó trở thành nền tảng của Giáo Hội được Người thiết lập (xem Epheso 2:20), mà các vị cần phải được Chúa Giêsu huấn luyện kỹ lưỡng, để các vị thật sự nhận biết Người chư chính Người tỏ mình ra cho các vị, bằng không, các vị sẽ trở thành "phản kitô", rất nguy hiểm cho phần rỗi của chung Giáo Hội "tông truyền". Các vị phải thật sự là ngôn sứ của Thiên Chúa, như tiên tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, chứ không phải là và không được là tiên tri Hanania tronbg cùng bài đọc này, một tiên tri giả: "Chúa không hề sai anh. Anh đã làm cho dân này tin tưởng sự giả dối".

 

Tuy nhiên, với bản chất yếu đuối của mình, các vị tông đồ vẫn có thể, cho dù sau biến cố Hiện Xuống, bất ngờ lộ ra tính chất trần gian của mình, phản lại tinh thần Phúc Âm, phản lại Đấng các vị làm chứng. Chẳng hạn như trường hợp của vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi, đại diện Chúa Kitô trên trần gian, vị đã "bị/được" Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô công khai sửa lưng vì đã có hành động giả hình, chiều theo dân Do Thái, bởi sợ họ, như trong trường hợp được chính Thánh Phaolô cho biết trong thư gửi giáo đoàn Galata sau đây:

 

"Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách. Thật vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì. Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ. Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái?" (11-14)

 

Do đó, với Thánh Vịnh 118 ở Bài Đáp Ca hôm nay, những ai muốn theo chân Chúa Kitô, muốn trung thực làm môn đệ của Người và trở thành chứng nhân cho Người, hãy van xin: "Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa" (Câu Đáp), kèm theo những tâm nguyện như sau:

 

1) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con.

2) Xin Chúa đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài.

3) Tâm hồn chúng như mỡ đặc, vô cảm giác; phần con biết sướng vui do luật pháp của Ngài.

4) Nguyện cho lòng con trọn vẹn hướng về thánh chỉ, để con không bị xấu hổ thẹn thùng.

5) Những tên ác nhân đợi chờ để thủ tiêu con, nhưng con vẫn quan tâm đến lời Ngài nghiêm huấn.

6) Con không bước trật đường thánh dụ của Ngài, bởi vì chính Ngài dạy bảo con.

 


 

Chúa thích chơi trò ma quái

B
ài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên hôm nay thu
ật lại một biến cố xẩy ra sau phép lạ bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy ra thứ tự 4 phần như sau:
Phần nhất: "Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".
Ở đây chúng ta thấy chính Chúa Giêsu giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ của Người. Người đích thân làm việc này có thể là vì "Người lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó Người đã "giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con thuyền mà Thày trò đã sử dụng để tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì một mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió".

Phần hai: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ'". 
Phải, ở đây chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ không xuất hiện với các vị khi trời còn sáng và vào lúc không có sóng gió gì, khiến các ông bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào Ngài: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". 
Phần ba: "Phêrô thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày của mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm thấy hết sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúng ta thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày mà là xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến" ngài liền "xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".
Về sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng thế, người ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì gọi là phép lạ của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy giờ là mùa đông nên nước bị đông cứng nên Chúa Giêsu đã bước đi trên tảng băng chứ không phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con, chỉ đánh lừa được những ai không cẩn thận đọc Thánh Kinh. Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất không bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị đóng băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à? Thật là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.

Ch
úng ta không biết được từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến với thuyền của các tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng không còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn thấy được Người và còn có thể nghe được tiếng của Người giữa sóng gió ào ào. Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể suy đoán rằng Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút thì đã cảm thấy chới với: "Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'". 
Tất nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết chìm: "Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?'". Đúng thế, chỉ vì "nghi ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái lại, nếu sóng gió càng mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thày, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là chính mục tiêu tiến đến của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được Người trong chính sóng gió và giữa đêm tối. 
Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được mục đích của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan khốn khó đầy hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người: "Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'". 
"Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp xếp xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào trong thuyền của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận biết Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'"

Điều tích cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ Phêrô, vị tông đồ một khi hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi cuồng phong nên bị chìm xuống thế nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt đức tin của chúng ta vào Chúa, mà chỉ vào những sự kiện hay con người gây khốn cho mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể nào không tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm xuống dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không vượt trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con với".

Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị quáng gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao? Tại vì hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho mắt con người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị sóng sánh, bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không còn làm chủ được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để bị tình trạng quáng gà đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ nhìn thẳng vào đối tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu.



Thứ Ba

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 30, 1-2. 12-15. 18-22

"Vì tội lỗi ngươi quá nặng, nên Ta đã làm cho ngươi những sự ấy. Nhưng Ta sẽ đem Giacóp về nhà xếp".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Có lời Chúa phán cùng Giêrêmia rằng: "Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này: Ngươi hãy chép vào sách mọi lời Ta đã phán với ngươi".

Vì Thiên Chúa phán rằng: "Nơi giập gãy của ngươi đã bất trị, thương tích ngươi làm độc quá đỗi. Không ai đoái thương băng bó cho ngươi: không có thuốc hay chữa ngươi bình phục. Mọi kẻ yêu ngươi đã bỏ quên ngươi, không tìm kiếm ngươi nữa, vì Ta đã đánh ngươi bị thương như kẻ thù sửa phạt ngươi nặng nề, vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, tội lỗi của ngươi quá nặng, nên Ta đã làm cho ngươi những sự ấy".

Chúa phán thế này: "Ðây Ta đem những kẻ trong nhà xếp Giacóp bị bắt trở về gia cư họ, Ta sẽ xót thương. Thành sẽ được xây lại trên nơi cao của nó, đền thờ sẽ được trùng tu theo trật tự của nó. Thế là sẽ vang lên lời ca tụng và tiếng reo mừng. Ta sẽ làm cho nó thêm nhiều, và nó sẽ không bị hạ nhục. Con cái nó sẽ được như xưa; trước mặt Ta, cộng đồng nó sẽ đứng vững. Ta sẽ hỏi thăm mọi người áp bức nó. Thủ lãnh nó sẽ bởi nó mà ra; vua chúa nó sẽ từ trong nó mà lên. Ta sẽ cho nó triều yết và nó sẽ đến gần Ta, vì thật ra có ai dám liều mạng đến gần Ta? - Chúa phán như thế -. Bấy giờ các ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 16-18. 19-21. 29 và 22-23

Ðáp: Chúa tái lập Sion, và xuất hiện trong vinh quang xán lạn (c. 17).

Xướng: 1) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài, khi Chúa sẽ tái lập Sion, Chúa xuất hiện trong vinh quang xán lạn. Chúa sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. - Ðáp.

2) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã nhìn xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

3) Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ được an cư, và miêu duệ chúng sẽ tồn tại trước thiên nhan, để người ta truyền bá danh Chúa tại Sion, và lời khen ngợi Chúa ở Giêrusalem, khi chư dân cùng nhau quy tụ, và các vua nhóm họp để phụng thờ Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 15, 1-2. 10-14

"Cây nào Cha Ta không trồng thì sẽ bị nhổ đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy có những luật sĩ và biệt phái từ Giêrusalem đến gặp Chúa Giêsu mà nói: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân? Vì họ không rửa tay khi dùng bữa".

Và Người gọi dân chúng lại mà bảo: "Các ngươi hãy nghe và hãy hiểu lấy: Không phải cái gì vào trong miệng mà làm cho người ta ra dơ nhớp đâu, nhưng cái từ miệng phát xuất ra cái đó mới làm cho người ta ra dơ nhớp".

Bấy giờ các môn đệ của Người tiến lại thưa với Người rằng: "Thầy có biết các người biệt phái lấy làm chướng tai khi nghe Thầy nói lời đó không?" Người đáp lại rằng: "Tất cả cây nào Cha Ta trên trời đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Các con hãy để mặc chúng: chúng là những người mù dẫn dắt những người mù. Mù mà dẫn mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố".

Ðó là lời Chúa.

 

Evangelio de San Mateo 15,1-2.10-14 - YouTube


Suy Niệm Cảm Nghiệm:


Phụng vụ chu kỳ năm A, năm nào cũng thế, vào Thứ Hai và Thứ Ba Tuần XVIII, dù năm chẵn hay lẻ, cũng có bài Phúc Âm khác với chu kỳ phụng vụ Năm B và C. Bởi vì, Bài Phúc Âm cho chu kỳ phụng vụ năm B và C vào Thứ Hai lại chính là Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm trước, và Bài Phúc Âm Thứ Ba lại là Bài Phúc Âm của Thứ Hai hôm qua. Đó là lý do thay đổi, tránh trùng hợp, nhưng vẫn hợp ý nghĩa và liên hệ với phụng vụ lời Chúa của từng ngày, dù Bài Đọc 1 và Đáp Ca vẫn được giữ nguyên, không thay đổi như chính Bài Phúc Âm.

Bài Phúc Âm thay đổi hôm nay, Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên cho Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A, về câu chuyện Chúa Giêsu muốn dạy cho dân chúng biết sự thật, để họ khỏi bị lầm lạc bởi những bậc thày dạy của họ, thành phần được Người vạch mặt họ ra cho riêng các môn đệ của Người rằng: "Chúng là những người mù dẫn dắt những người mù. Mù mà dẫn mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố", sau khi các vị nói nhỏ với Thày của mình, vì tưởng Người không biết rằng: "Thầy có biết các người biệt phái lấy làm chướng tai khi nghe Thầy nói lời đó không?"

Người biết chứ, và chính vì Người biết mà Người cố ý làm như vậy cho họ được dịp nghĩ lại, bằng không, họ sẽ càng lầm lạc thêm nếu họ cứng lòng và chủ quan cố chấp. Họ là thành phần "những luật sĩ và biệt phái từ Giêrusalem đến", nghĩa là thành phần từ chính gốc Giáo Đô Giêrusalem, như các vị được du học từ các nước lấy bằng từ Giáo Đô Vatican bây giờ vậy - oai lắm, thông giỏi lắm, nhưng vẫn là đồ dỏm trước mặt Đại Thượng Sư Giêsu. Hành động Chúa Giêsu không âm thầm trả lời riêng cho họ về vấn nạn của họ đặt ra cho Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân? Vì họ không rửa tay khi dùng bữa?", mà lại "gọi dân chúng lại mà bảo" để công khai dạy cho dân chúng biết tất cả sự thật của vấn đề Người muốn cho cả dân chúng biết nữa, để đề phòng những giảng dạy sai lạc của họ, như gián tiếp sửa sai cho họ một cách công khai vậy!

Câu trả lời của Người chẳng những đụng đến giáo huấn và chủ trương hết sức sai lạc vô cùng tai hại của họ, mà cả đến con người thích hào nhoáng tiếng tăm danh giá bề ngoài, cùng với đời sống toàn là giả hình của họ nữa: "Các ngươi hãy nghe và hãy hiểu lấy: Không phải cái gì vào trong miệng mà làm cho người ta ra dơ nhớp đâu, nhưng cái từ miệng phát xuất ra cái đó mới làm cho người ta ra dơ nhớp". Qua câu này, Người đồng thời cũng gián tiếp bênh vực các môn đệ đơn sơ bình dân của Người, thành phần mà cũng chính vì bản chất quê mùa chân thật kém hiểu biết ấy mới được Người tuyển chọn làm môn đệ của Người, để 12 vị trong họ trở thành thày dạy muôn dân, qua mặt cả thành phần luật sĩ và biệt phái ấy.

Ở đây, Chúa Giêsu muốn cho cả thành phần bình dân lẫn thành phần trí thức Do Thái giáo biết được đâu là nguồn gốc cái xấu, tức cái xấu từ đâu mà ra, hay tội lỗi là ở chỗ nào? - Ở lòng người và từ lòng người, chứ không phải ở ngoài con người và từ ngoài! Đúng thế, nếu con người nói chung và Kitô hữu nói riêng có 3 thù, đó là ma quỉ, thế gian và xác thịt, thì ma quỉ chỉ liên quan đến cám dỗ, và thế gian chỉ liên quan đến gương mù gương xấu gây ra bởi xã hội loài người, nhưng chính bản thân con người nếu không biết làm chủ và khổ chế xác thịt của mình thì mới sa ngã phạm tội. Đó là lý do Chúa Giêsu đã phán:

"Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục" (Mathêu 5:29-30).

Chúa Giêsu cũng biết rằng câu trả lời lập lững và bao quát của Người, theo lý thuyết hơn là cụ thể thực hành ấy, Người mới rào đón ngay từ đầu: "Các ngươi hãy nghe và hãy hiểu lấy". Đồng thời Người cũng biết rằng thành phần đặt vấn đề với Người thế nào cũng hiểu, vì họ là thành phần trí thức, và đã xẩy ra đúng như vậy, nên họ mới tỏ thái độ khó chịu "lấy làm chướng tai". Thế nhưng dù muốn hay chăng, đó vẫn là một sự thật bất khả chối cãi. Người còn biết rằng thành phần bình dân là đám đông nghe Người bấy giờ sẽ thắc mắc, không biết Người muốn nói gì, tuy nhiên, đối với Người, thà họ dốt nát mà sống chân thật ở tầm mức của họ cũng đẹp lòng Người rồi - Người chỉ cần họ như thế thôi.

Riêng với các tông đồ thì khác, cho dù các vị cũng thuộc loại bình dân, nhưng Người phải giải thích cho các vị nghe, để các vị còn có đủ kiến thức mà truyền đạt chân lý của Người nữa, như Người truyền dạy các vị và muốn các vị phải linh hướng đàn chiên của các vị sau này nơi Giáo Hội Người thiết lập. Đó là lý do, được chính các tông đồ thành thực hỏi về những gì các vị còn thắc mắc chưa hiểu, Người đã dẫn giải thêm cho các vị, như sự kiện xẩy ra ngay sau đó, những không được bao gồm trong Bài Phúc Âm hôm nay:


"Ông
"Ông Phê-rô thưa với Người: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cho chúng con.'
 Đức Giê-su đáp: 'Cả anh em nữa, bây giờ mà anh em vẫn còn ngu tối sao? Anh em không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải ra ngoài sao? Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế.
 Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.'"

Việc Chúa Giêsu dằn mặt thành phần trí thức Do Thái giáo trong Bài Phúc Âm hôm nay, không bao giờ ngụ ý xấu, muốn hạ nhục họ, mà là muốn họ nhận biết bản thân mình mà sống xứng đáng với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ và ơn gọi giảng dạy của họ. Tuy nhiên, hành động của Người, khách quan, tự nó là những gì, trước mắt thế gian nói chung và nhất là người Việt Nam nói riêng, là một hành động hạ nhục đối phương. Tuy nhiên, theo nguyên tắc, thì Thiên Chúa có quyền làm bất cứ điều gì, dù bất lợi cho đương sự, nhưng bao giờ Ngài cũng nhắm đến lợi ích thiêng liêng bất diệt của họ mà thôi, còn con người là tạo vật không có quyền sử dụng chiêu bài hay chiến thuật "phương tiện biện minh mục đích" như Ngài.

Bài Đọc Thứ 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, đã cho thấy đường lối của Thiên Chúa là như thế, biến dữ của con người, do con người gây ra, thành lành cho con người: "Thiên Chúa phán rằng: 'Nơi giập gãy của ngươi đã bất trị, thương tích ngươi làm độc quá đỗi. Không ai đoái thương băng bó cho ngươi: không có thuốc hay chữa ngươi bình phục. Mọi kẻ yêu ngươi đã bỏ quên ngươi, không tìm kiếm ngươi nữa, vì Ta đã đánh ngươi bị thương như kẻ thù sửa phạt ngươi nặng nề, vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, tội lỗi của ngươi quá nặng, nên Ta đã làm cho ngươi những sự ấy". - Để làm gì? Xin đọc tiếp cho thấy rõ ý định vô cùng toàn thiện đầy lòng thương xót của vị Thiên Chúa công minh:

 

"Chúa phán thế này: 'Ðây Ta đem những kẻ trong nhà xếp Giacóp bị bắt trở về gia cư họ, Ta sẽ xót thương. Thành sẽ được xây lại trên nơi cao của nó, đền thờ sẽ được trùng tu theo trật tự của nó. Thế là sẽ vang lên lời ca tụng và tiếng reo mừng. Ta sẽ làm cho nó thêm nhiều, và nó sẽ không bị hạ nhục. Con cái nó sẽ được như xưa; trước mặt Ta, cộng đồng nó sẽ đứng vững. Ta sẽ hỏi thăm mọi người áp bức nó. Thủ lãnh nó sẽ bởi nó mà ra; vua chúa nó sẽ từ trong nó mà lên. Ta sẽ cho nó triều yết và nó sẽ đến gần Ta, vì thật ra có ai dám liều mạng đến gần Ta? - Chúa phán như thế -. Bấy giờ các ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi'".

 

Những việc Thiên Chúa đã làm cho dân Do Thái trong suốt dòng lịch sử của họ, cũng như qua Chúa Giêsu Kitô, Người Con Nhập Thể của Ngài trong "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4)đều chỉ có một mục đích lưỡng diện, đó là tỏ mình ra "để những ai tin vào Ngài thì khỏi phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16). Và đó là tất cả những gì chất chứa trong Bài Đáp Ca có tính chất "công giáo" hôm nay, bao gồm tất cả mọi dân nước ngoài Do Thái giáo, được bộc lộ bằng tất cả ý thức thần linh và tâm tình cảm mến chục tụng danh Chúa:

 

1) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài, khi Chúa sẽ tái lập Sion, Chúa xuất hiện trong vinh quang xán lạn. Chúa sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.

2) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã nhìn xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử.

3) Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ được an cư, và miêu duệ chúng sẽ tồn tại trước thiên nhan, để người ta truyền bá danh Chúa tại Sion, và lời khen ngợi Chúa ở Giêrusalem, khi chư dân cùng nhau quy tụ, và các vua nhóm họp để phụng thờ Chúa.

 


Ngày 04/08
Thánh Gioan Maria Vianney
linh mục, bổn mạng các cha sở
(1786 - 1859)

Jean Marie Vianney on Prayer

Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786, tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.

Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798, Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799, Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Môi Côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.

Năm 1800, thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ, Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, ở họ đạo Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau, Ngài may mắn được trở về nhà.

Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy, Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng, một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.

Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : - “Đây là một họ đạo nhỏ bé, nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ.”

Ngày 9 tháng 2 năm 1818, cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.

Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ đã coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần Ngài rơi nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện: - “Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con... Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.”

Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo... Vui cười, Ngài nói: - “Tôi không hề mất áo choàng bao giờ.” Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.

Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là “để cho vui miệng”. Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.

Hơn nữa, thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.

Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa Nhật và tật ham khiêu vũ.

Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động, Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn, cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng. Đêm thứ bảy, cha học và tập giảng cho hôm sau. Lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.

Chẳng hạn Ngài nói: - “Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.”

- “Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.”

Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bệnh: - “Con đau đớn lắm không ?”

Cậu bé trả lời: - “Hôm qua, con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ”.

Cha hỏi lại: - “Vậy con muốn được lành bệnh không ?”

Cậu bé trả lời: - “Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.”

Chống lại tật làm việc xác, cha nói: - “Ngày Chúa Nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa Nhật và lấy của kẻ khác.”

Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.

Hơn nữa, trong họ đạo có bảy quán rượu, cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.

Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi Tòa Giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái... đến độ đốt cháy cả giường nằm.

Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói: - “Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.”

Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.

Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này, khi qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện Thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.

Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói: - “Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào.” Cúi mặt, người du khách liền vào toà xưng tội.

Một người đàn bà khác nghe cha nói: - “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...” Thế là cha đã biết nỗi lo âu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: - “Nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.”

Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: - “Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn.”

Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859, cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện. – “Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.”

Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tuyên hiển thánh. Và năm 1925, Ngài được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.


(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Gioan Maria Vianney. Đây là một vị đại thánh của Giáo Hội.

Thánh Gioan Maria Vianney, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1786 tại Lyon nước Pháp và sau bao nhiêu khó khăn gian khổ, Gioan Maria Vianney được chịu chức linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars, một giáo xứ vừa nghèo vừa khô khan nguội lạnh. Cha Gioan Maria Vianney đã lãnh nhận giáo xứ này với tinh thần vâng phục cao độ. Ngài quả là vị mục tử gương mẫu. Cuộc đời của ngài là cuộc đời chỉ biết lo cho việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt ngài rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà ngài đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng.

Khi mới 8 tuổi ngài mới học đọc và biết viết. Vì nhà nghèo nên được cha sở nuôi dạy, và sau đó đã đưa ngài vào chủng viện. Vào trong chủng viện ngài không học được gì cả.

Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức Linh mục không. Nhưng Vianney không thể trả lời câu nào.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn, nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì!”

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, chẳng lẽ Thiên Chúa không làm được việc gì sao ?”

Cuộc cách mạng 1789 bùng nổ khiến thầy Vianney phải bỏ dở việc học. Nhưng sau đó thầy tìm hết cách để tự học dưới sự dìu dắt của cha xứ. Nhưng khổ thay, học mấy cũng chẳng nhớ. May lúc ấy địa phận gặp phải cảnh khan hiếm linh mục nên Vianney được bề trên gọi về để khảo hạch. Và lẽ dĩ nhiên là lần nào Vianney cũng trượt.

Vianney không nản lòng, cứ tiếp tục học. Cuối cùng, bề trên thấy thầy bền chí quá bèn gọi cha xứ đến để hỏi về thầy:

- Thầy có lòng đạo đức không ?

- Thưa có.

- Thầy có kính mến phép Thánh Thể ?

- Thưa có.

- Thầy có siêng năng lần hạt không ?

- Thưa có.

Cha chính quyết định: “Thôi, cho thầy chịu chức vì thầy bền chí, chứ nếu cứ khảo hạch mãi thì không bao giờ đỗ được”.

Như vậy thầy Gioan Maria Vianney được làm Linh mục là nhờ “phép chuẩn”. Vì tuy học hành kém cỏi, đầu óc mù tịt, nhưng nhờ có lòng đạo đức và sự bền chí mà ngài đã được thụ phong Linh mục. Nhưng khi ngài làm Linh mục rồi, Chúa đã ban cho ngài rất nhiều ơn đặc biệt đề cứu các linh hồn, đến nỗi một lần kia, quỷ Satan đã phải nói với ngài: “Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao đành phải thất nghiệp mất”.

Nhìn vào “cuốn tự điển cuộc sống” của thánh Vianney, người ta đọc thấy toàn là những chữ: ăn chay, hãm mình, đền tội, khổ hạnh... Nhìn vào gương mặt của ngài, người ta cũng gặp thấy toàn là những nét: gian truân, khắc khổ, lao nhọc, đau thương... Thế nhưng, trong con người ấy lại chói ngời một quả tim luôn tươi vui, từ ái và yêu thương đối với hết mọi người.

Hằng ngày, vào khoảng 12 giờ, cha Vianney rời nhà thờ và trở về nhà xứ để ăn trưa. Đến một giờ, ngài lại vào toà giải tội và ngồi ở đó mãi cho đến tối. Trong khoảng thời gian nghỉ ngơi vắn vòi ấy, cha Vianney phải tranh thủ để làm nhiều bao công việc. Thường khi ăn cơm bao giờ ngài cũng đứng, vì ngồi thì sợ sẽ kéo dài giờ ra. Vừa ăn xong, ngài vội đi thăm các trẻ mồ côi, các em mẫu giáo... Ai cũng thấy ngài vui tươi âu yếm và sung sướng giữa những tâm hồn đơn sơ ấy. Từ giã các em, ngài rảo bước đến nhà các kẻ ốm liệt; gặp ai dọc đàng, ngài cũng ủi an thăm hỏi. Các gia đình đều mong cha sở đến thăm, vì đối với họ, dường như nơi ngài tàng ẩn một niềm vui không bao giờ cạn. Lúc trở lại nhà thờ ngài thường trao đổi một vài lời vắn tắt, có lúc rất dí dỏm, hài hước với các khách hành hương đang đứng trước sân nhà thờ chờ đến lượt vào toà xưng tội.

Lần nọ, cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài. Biết rõ bà là người thật lắm mồm lắm mép, ăn nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:

- Trong suốt năm, có tháng nào con nói ít hơn mọi tháng không ?

Bà ta bỡ ngỡ, ấp úng thưa:

- Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào cũng nói như nhau cả.

- Không, có một tháng con nói ít hơn, con biết tháng nào không ?

Bà ấy ngẩn ngơ:

- Tháng nào thưa cha ?

- Tháng Hai dương lịch, vì tháng đó chỉ có 28, 29 ngày thôi.

Ai nấy cười phá lên. Ngài vội vã bước vào toà giải tội.

Lần khác, cha Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quầy hàng bán chuỗi, tượng ảnh và có cả hình của ngài nữa. Ngài bèn dừng lại, cầm lấy tấm hình của mình đưa lên cao cho mọi ngài xung quanh coi và nói:

- Thiên hạ dại dột thật. Cái hình nhăn nheo như con khỉ khô thế này mà cũng phải mua mất một đồng quan!

Các người chung quanh được dịp cười bể bụng vui vẻ. Cha Vianney cũng cười theo, trả tấm ảnh lại rồi bước vào nhà thờ.

Về sau, Vianney đã trở thành một vị thánh thời danh, thu hút nhiều tâm hồn trở về với Chúa.

Đời sống thánh Gioan Maria Vianney quả là một tấm gương hy sinh vì Chúa và các linh hồn, đúng như lời thánh nhân thường nói: “Hạnh phúc cho một vị linh mục được chết kiệt sức vì phục vụ Chúa và các linh hồn.” Hạnh phúc ấy đã đến với thánh Gioan Maria Vianney vào ngày 2 tháng 8 năm 1859. Thánh nhân lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh nhân và Bí tích Thánh Thể, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa quảng đại quá khi con không đến với Chúa được, thì Chúa đến với con”. Ngày 4 tháng 8 năm 1859, khi vị linh mục đọc kinh cầu nguyện cho người hấp hối đến câu: “Xin các thiên thần Chúa đến rước linh hồn Gioan vào thành thánh Giêrusalem”, thánh nhân trút hơi thở cuối cùng một cách êm ái. Ngài hưởng thọ 73 tuổi; làm cha sở họ Arc được 41 năm.

Tin thánh Gioan Maria Vianney qua đời đã lôi kéo cả một biển người đổ xô về giáo xứ Arc. Đoàn người đông đảo đã đi qua trước xác thánh nhân suốt 48 tiếng đồng hồ.

Đức Giám mục giáo phận đã đến chủ sự Thánh lễ an táng và giảng thuyết: ngài nhấn mạnh rằng bao thế kỷ mới được thấy một cuộc đời linh mục như Thánh Gioan Maria Vianney. Thánh nhân được an táng trong nhà nguyện thánh Gioan Tẩy Giả, bên cạnh toà giải tội mà người ta đã gọi là “phép lạ lớn nhất ở Arc”.

Từ ngày ấy, biết bao nhiêu Hồng Y, Giám mục, linh mục đã đến quỳ cầu nguyện và đặt những cái hôn thành kính lên viên đá mộ thánh nhân. Ngày 31 tháng 5 năm 1925, thánh Gioan Maria Vianney được tuyên Hiển Thánh; và năm 1929, thánh nhân được đặt làm thánh bổn mạng các linh mục chính xứ trên toàn thế giới.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gioan Maria nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của một người mục tử. Vì lời thánh nhân chuyển cầu, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của ngài mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc.


Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa... Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc lộc thiên đàng tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên êm ái ngọt ngào. Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu nguyện sốt sắng, tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời.

Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú, khiến ta không cảm thấy lâu. Đúng vậy : hồi các cha sở vùng Bơ-rét-xơ bị bệnh hầu hết, cha phải đi khắp vùng. Cha vừa đi vừa cầu nguyện với Thiên Chúa nhân lành. Nói thật với các con là cha chẳng thấy lâu gì cả.

Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá trong nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không bị chia trí. Ôi, cha mến những tâm hồn quảng đại này quá ! Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Co-lê-ta trông thấy Chúa và chuyện vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với nhau. Còn chúng ta, biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà chẳng biết mình đến để làm gì, cũng chẳng biết mình muốn xin gì ! Thế mà khi đến nhà ai thì ta lại biết rõ mình đến để làm gì... Có những người như muốn nói với Thiên Chúa nhân lành rằng : “Con đến nói mấy câu cho xong chuyện với Chúa đây...” Cha thường nghĩ rằng : Khi đến tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện là lời cầu xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và một tấm lòng thật trong trắng. (Kinh Sách)




Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 31, 1-7

"Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Khi ấy, Chúa phán rằng: "Ta sẽ là Thiên Chúa của mọi chi tộc Israel, và chúng sẽ là dân Ta".

Chúa phán thế này: "Dân thoát khỏi tay gươm, đã được nghĩa trong rừng vắng: Israel sẽ đi vào nơi an nghỉ của mình. Từ xa Chúa đã hiện ra với ta mà phán rằng: "Ta yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, bởi đó Ta đã xót thương dắt ngươi đến. Rồi Ta lại kiến thiết ngươi, hỡi trinh nữ Israel, ngươi sẽ được tái thiết. Ngươi lại mang những trống cơm, sẽ bước đi với hội hát vui mừng. Ngươi lại trồng nho trên các núi đồi Samaria; kẻ vun trồng cứ vun trồng và sẽ không hái trái nho khi chưa đến mùa. Vì sẽ đến ngày những người canh gác trên núi Ephraim sẽ kêu lên: "Hãy chỗi dậy, chúng ta đi lên Sion, đến cùng Chúa là Thiên Chúa chúng ta".

Vì Chúa phán thế này: "Hỡi Giacóp, hãy nhảy mừng, hãy hét to vào đầu dân ngoại; hãy nói cho người ta nghe; hãy ca hát và nói lên rằng: 'Lạy Chúa, xin cứu dân Chúa; những kẻ còn sót lại trong Israel'".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13

Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).

Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. - Ðáp.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.

3) Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế. Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan; sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 15, 21-28

"Này bà, bà có lòng mạnh tin".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".

Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".

Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".

Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.

Ðó là lời Chúa. 

The Faith of the Canaanite Woman – Bible Story

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì đưc nấy". 


Th
ế nhưng, để có một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "
Các môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu trả lời cho các môn đệ này, Chúa Giêsu như muốn nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ là đồ thứ yếu, không đáng chú trọng cho bằng dân Do Thái. 


Cuộc thử thách đức tin liên quan đến phẩm giá làm 
người của người đàn bà Canaan"Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây, bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc cần ông".  


Th
ế nhưng, cho dù người đàn bà Canaan bị một độc chưởng vô cùng lợi hại chỉ từ chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu vô cùng ngoạn mục: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống", một tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà lập tức"Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy"


Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị quỷ ám khốn cực lắm", đến độ, bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ không phải là đứa con gái của bà: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để rồi, nhờ đức tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay lúc đó, con gái bà đã được lành".

 

Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm qua thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm qua.

 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nói một câu, bề ngoài, có vẻ chỉ cần biết có dân Do Thái là dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn mà thôi, không cần biết đến dân ngoại là thứ dân xa lạ tầm thường, không bằng dân của Chúa: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Quả thật, ở Bài Đọc 1 hôm nay, qua Tiên Tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã tỏ ra ưu ái dân Do Thái một cách hết sức lạ lùng và ưu đãi họ hơn ai hết:

 

"Khi ấy, Chúa phán rằng: 'Ta sẽ là Thiên Chúa của mọi chi tộc Israel, và chúng sẽ là dân Ta... Dân thoát khỏi tay gươm, đã được nghĩa trong rừng vắng: Israel sẽ đi vào nơi an nghỉ của mình. Từ xa Chúa đã hiện ra với ta mà phán rằng: Ta yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, bởi đó Ta đã xót thương dắt ngươi đến. Rồi Ta lại kiến thiết ngươi, hỡi trinh nữ Israel, ngươi sẽ được tái thiết. Ngươi lại mang những trống cơm, sẽ bước đi với hội hát vui mừng. Ngươi lại trồng nho trên các núi đồi Samaria; kẻ vun trồng cứ vun trồng và sẽ không hái trái nho khi chưa đến mùa...'".

 

Tuy nhiên, theo dự án cứu độ thần linh, Thiên Chúa chọn dân Do Thái là để tỏ mình ra cho họ, trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, để qua họ, Ngài tỏ mình ra cho toàn thể nhân loại nữa, nên ngay trong giáo ước với tổ phụ Abraham của họ, đã có các dân nước được chung hưởng ơn phúc với dân Do Thái rồi (xem Khởi Nguyên 12:1-3; 22:17-18). Nhất là "khi thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), Thiên Chúa đã tỏ mình ra trực tiếp nơi chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, tột đỉnh và là tất cả mạc khải thần linh của Ngài, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, nhưng đồng thời cũng là Vị Cứu Thế của toàn thể nhân loại, như ngay trong lời báo tin của Thiên Thần cho các mục đồng Belem trong Đêm Lời Nhập Thể Giáng Sinh: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đức Kitô và là Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." (Luca 2:10-12).

 

"Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), mặc lấy bản tính của chung loài người, chứ không phải của riêng dân Do Thái, nên Người là "Đấng Cứu Thế" của toàn thể nhân loại, để ứng nghiệm lời hứa cứu độ của Thiên Chúa nơi bản án nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Tuy nhiên, dầu sao, bản tính loài người ấy lại mang giòng máu Do Thái, có gia phả đàng hoàng, tính từ Tổ Phụ Abraham, bao gồm cả Vua Đavít là giòng tộc của Người, theo Phúc Âm Thánh Mathêu (1:1-17) là Phúc Âm viết cho dân Do Thái, nên Người là "Đức Kitô / Dấng Thiên Sai" của dân Do Thái, nhưng cũng gia phả về Người, theo Phúc Âm của Thánh Luca (3:23-38), một Phúc Âm được viết cho dân ngoại, lại tính từ Người trở về tận nguồn gốc nguyên tổ loài người là Adong Evà.

 

Do đó, ở ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, một bài đọc vừa cho thấy Thiên Chúa tỏ ra ưu ái và ưu đãi dân Do Thái xong, thì dân ngoại được nhắc tới như sau: "Vì Chúa phán thế này: 'Hỡi Giacóp, hãy nhảy mừng, hãy hét to vào đầu dân ngoại; hãy nói cho người ta nghe; hãy ca hát và nói lên rằng: Lạy Chúa, xin cứu dân Chúa; những kẻ còn sót lại trong Israel'". Để rồi, cũng từ Sách Tiên Tri Giêrêmia này, như Bài Đọc 1 hôm nay cũng lấy từ đó, Bài Đáp Ca đã bao gồm cả dân ngoại, như thể họ cần phải là chứng nhân cho những gì Thiên Chúa thực hiện cho dân của Ngài, để tỏ mình ra, nơi dân Do Thái, cho cả họ nữa, nhờ đó họ cũng có thể nhận biết Ngài mà được thông phần lời hứa và giáo ước của Ngài với họ:

 

1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người.

3) Bấy giờ người trinh nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế. Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan; sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.

 

 


Ngày 05: Cung hiến đền thờ Ðức Bà cả


 


Thứ Năm

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 31, 31-34

"Ta sẽ ký kết giao ước mới và Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi nữa".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Chúa phán: "Ðây tới ngày Ta ký kết giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa, giao ước này không giống như giao ước Ta ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta cầm tay chúng dắt ra khỏi đất Ai-cập, giao ước ấy chính chúng đã phản bội, mặc dầu Ta thống trị chúng". Chúa phán: "Ðây là giao ước Ta sẽ ký kết với nhà Israel sau những ngày đó. Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19

Ðáp: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ; nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-23

"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.

Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".

Ðó là lời Chúa.

PETER'S CONFESSION ABOUT JESUS | A CHRISTIAN PILGRIMAGE

Suy Niệm Cảm Nghiệm

Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu Nazarét


B
ài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật quân sự tối quan hệ về Người. 
Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô: 
"Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: 'Người ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại hỏi: 'Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô thưa: 'Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'". 
Chúa Kitô đã thiết lập Giáo Hội của Người trên nền tảng đức tin của vị tông đồ này:
"Đức Giêsu nói với ông: 'Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy". 
Chúa Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật quân sự tối quan hệ về Người:

"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: 'Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người'".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi các tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các tông đồ nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu căn tính của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô"?

Phải chăng Người chỉ có ý muốn trắc nghiệm xem kiến thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị như thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần chúng? Căn cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì Chúa Kitô không phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức tin của các tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao rồi, chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật hết sức phũ phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các tông đồ không thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên xưng hết sức chính xác về Người đi chăng nữa. 
Thật thế, điều tối mật về Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đức Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (qua mầu nhiệm phục sinh), chứ không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua tông đồ Phêrô, hiểu theo kiểu trần gian, ở chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì Người không thể nào lại chết được. 
Nếu chung các tông đồ và riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người, như một tông đồ Giuđa Íchca, hay đã trắng trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ hãi trong căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi. 
Đó còn là lý do khi nhận biết tất cả sự thật về một Chúa Kitô Phục Sinh, tông đồ Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã chết nhưng đã sống lại". Bởi vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có chết cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người chết, để chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt. Lời tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể, chẳng những lập lại lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" theo nguyên tắc và thực tại thần linh của nó, mà còn tiến thêm một bước nữa, liên quan đến chính cảm nghiệm thần linh nơi bản thân chính kẻ tuyên xưng: "Thày là Đức Kitô - là Chúa của con"; "Thày là Con Thiên Chúa hằng sống là Thiên Chúa của con", chứ không phải chỉ ở nơi Thày thôi, vì Thày muốn tỏ cho con biết Thày là như thế - Vâng con tin như vậy!

Vâng, tự chính lời tuyên xưng của Thánh Phêrô, vị được Chúa Kitô đích thân ngỏ ý muốn một đàng vừa thiết lập Giáo Hội của Người, một đàng vừa chính thức bổ nhiệm vị lãnh đạo tông đồ đoàn và toàn thể đàn chiên của Người, thay Người phục vụ Giáo Hội này, cũng cho thấy ứng nghiệm những gì được tiên báo trong Sách Tiên Tri Giêrêmia về Giáo Ước mới với chung dân Israel, ở chỗ: "Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta". Chúa phán: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em rằng: 'Ngươi hãy nhìn biết Chúa', vì mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".

Đúng thế, trong trường hợp của Thánh Phêrô, lời tuyên xưng chính xác của ngài, đúng như thực tại về Chúa Kitô, không thể xẩy ra bởi chính ngài mà là bởi Thiên Chúa: "anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời". Thánh Phêrô, như dân Do Thái, nhờ "Ta sẽ đặt lề luật của Ta trong đáy lòng chúng, và sẽ ghi trong tâm hồn chúng; Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta", mà đã nhận biết Thày của mình, như dân Do Thái "mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta".

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngay sau khi tuyên xứng chính xác thực tại thần linh về Thày của mình, một sự thật mà dân thường không thể đạt tới, thậm chí cả các vị tông đồ cũng thế, nếu không được soi sáng đặc biệt, nên chẳng lạ gì sau đó, chính đương sự tuyên xưng đã bày tỏ những gì hoàn toàn phản lại những gì mình tuyên xưng. Do đó, đức tin chân thật ấy không phải chỉ ở mức độ niềm tin (belief) nơi trí khôn, mà cần phải được biến thành lòng tin (trust) nơi bản thân kẻ có đức tin nữa, để trong đời sống của mình, họ có thể tỏ ra những tác động tín thác (entrust) xứng hợp với đức tin chân chính ấy, như trường hợp của tông đồ Toma sau khi Chúa Kitô sống lại hiện ra với các tông đồ lần thứ hai, cách riêng cho ngài (xem Gioan 20:24-28). Đó là lý do Thánh Vịnh 50 trong Bài Đáp Ca hôm nay đã cần phải than lên rằng: "Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch" (câu đáp), kèm theo tâm nguyện sau đây:

 1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ; nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

 

 



LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH

 

(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong loạt 33 bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)

 

1-         Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).

 

Vào ngày lễ Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại của chúng. Người Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn, đã sống lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương xướng lên, “được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một tấm lòng tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.

 

2-         Chúa Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước (x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).

 

Vào Buổi Sáng ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.

3-         Bản văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình trên núi của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi tiếng nói phát ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi biến cố biến hình song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng, lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10). Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là “thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).

Bởi vậy, chúng ta có thể leo lên ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa. Tabo tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình ảnh so sánh này. Một bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các dân, hãy đến mà theo tôi! Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của chúng ta hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the conclusion of the Canon of St John Damascene).

4-         Nơi Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa, đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta còn được mời gọi để lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đã nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đã phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’; chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).

Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.

5-         Bởi vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh quang của Chúa Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556). 

Như linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến Hình cho thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công, ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).

Giớ đây chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những lời của Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng lòng khao khát Chúa, và đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa hãy thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái thương làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở, con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)



Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Nk 1, 15; 2, 2; 3, 1-3. 6-7

"Khốn cho thành khát máu".

Trích sách Tiên tri Nakhum.

Kìa xem, trên núi có người đưa tin mừng chạy đến. Hỡi Giuđa, hãy mừng các ngày lễ trọng của ngươi, hãy thi hành lời ngươi khấn nguyện. Vì Bêlial từ nay sẽ không còn đi qua đất ngươi: nó đã bị hoàn toàn tận diệt.

Vì Chúa sẽ trồng lại cây nho Giacóp, cũng như cây nho Israel, bởi quân phá phách đã tàn phá chúng và đã bẻ cành chúng.

Khốn cho thành khát máu, tràn đầy gian dối, hung bạo, người ta không ngừng cướp phá ngươi. Hãy nghe tiếng roi quất, tiếng bánh xe lăn, ngựa hí, xe phóng nhanh, quân kỵ binh xông đến, gươm lấp lánh, giáo sáng ngời, nhiều người bị giết, tàn phá nặng nề, xác chết vô vàn, ngã quỵ trên nhau.

Ta sẽ vứt đồ ô uế trên mình ngươi, làm nhục ngươi, bêu xấu ngươi. Lúc bấy giờ, hễ ai thấy ngươi cũng ngoảnh mặt mà nói: "Ninivê thật tiêu điều! Ai thương được ngươi? Tìm đâu ra người an ủi ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðnl 32, 35cd-36ab. 39. 41

Ðáp: Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại (c. 39c).

Xướng: 1) Ngày huỷ diệt đã gần rồi, và kỳ hẹn lại chóng đến. Chúa sẽ phán xét dân Người, và xót thương kẻ làm tôi Chúa. - Ðáp.

2) Các ngươi hãy xem có một mình Ta, và ngoài Ta, không có Chúa nào khác: Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại; Ta sẽ đánh đập và sẽ chữa lành. - Ðáp.

3) Nếu Ta mài sáng gươm Ta như chớp, và nắm giữ phán quyết trong tay Ta, Ta sẽ trả oán những kẻ thù nghịch, sẽ trả thù những kẻ ghen ghét Ta. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 24-28

"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?

"Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".

Ðó là lời Chúa.

MATEO 16 24-28 |

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Cộng = Trừ và Trừ = Cộng

Daily Meditation: "If you want to follow me, deny yourself..."


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", thì Người đồng thời cũng phải là một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới chứng thực Người quả là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", Chúa Kitô, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy".

 

Sau đó, Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy, hay đúng hơn cần phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh ký Luca: "Ai không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27). Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:

 

"Vì chưng, ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?"

Câu tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì còn mạng. 

 

Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các môn đệ của Người rằng nếu mắt của các con hay tay của các con mà nên cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn nguyên toàn thân lại bị quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).

 

"Sự sống mình" mà Chúa bảo cần phải mất đi để "được sự sốngđây là gì, nếu không phải nếu "sự sống" họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan 11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ chính bản thân mình đi - must deny his very self". 


Vi
ệc "phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này không phải là việc họ tự hủy diệt bản thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là Chúa Kitô trong thửa ruộng thế gian thì đã bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để mua lấy thửa ruộng có kho tàng được chôn giấu ấy vậy (xem Mathêu 13:44).

 

Chúa Kitô là "sự sống" của thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?". 

 

Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết thật tầm thường này, để theo Người cho tới cùng, thì sau này sẽ được phần thưởng xứng đáng bất diệt đời sau nữa, như Người hứa với các vị ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm". 

 

Thế nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ, và chính là Đấng họ theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ, mà nhất là bằng đau khổ thử thách, để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó, họ có thể hiệp nhất nên một với Người, là "sự sống" của họ mỗi ngày một hơn.

Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Nakhum, Vị "Chúa là Thiên Chúa ghen tương và báo oán" (câu 2), theo chiều hướng "ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống" của Bài Phúc Âm hôm nay đã phán với 2 thành phần, thành phần đã biết từ bỏ tà thần mà quay về với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình là "Giuđa", và thành phần chỉ sống theo đam mê thế gian là "Ninive", như thế này:

"Ai đành mất 
sự sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống":

"Kìa xem, trên núi có người đưa tin mừng chạy đến. Hỡi Giuđa, hãy mừng các ngày lễ trọng của ngươi, hãy thi hành lời ngươi khấn nguyện. Vì Bêlial từ nay sẽ không còn đi qua đất ngươi: nó đã bị hoàn toàn tận diệt. Vì Chúa sẽ trồng lại cây nho Giacóp, cũng như cây nho Israel, bởi quân phá phách đã tàn phá chúng và đã bẻ cành chúng".


"Ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất":

"Khốn cho thành khát máu, tràn đầy gian dối, hung bạo, người ta không ngừng cướp phá ngươi. Hãy nghe tiếng roi quất, tiếng bánh xe lăn, ngựa hí, xe phóng nhanh, quân kỵ binh xông đến, gươm lấp lánh, giáo sáng ngời, nhiều người bị giết, tàn phá nặng nề, xác chết vô vàn, ngã quỵ trên nhau. Ta sẽ vứt đồ ô uế trên mình ngươi, làm nhục ngươi, bêu xấu ngươi. Lúc bấy giờ, hễ ai thấy ngươi cũng ngoảnh mặt mà nói: 'Ninivê thật tiêu điều! Ai thương được ngươi? Tìm đâu ra người an ủi ngươi'".

 

Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên, Thiên Chúa tỏ ra Ngài mới là chủ tể mọi sự: "Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại" (Câu Đáp), do đó, ai trung thành với Ngài thì sống, mà ai bỏ Ngài hay chống lại với Ngài thì chết, dù tự Ngài không ra tay, vì đó là định luật sống chết bẩm sinh nơi loài tạo vật "linh ư vạn vật" là con người, nhất là khi họ được Ngài thực sự tỏ mình ra cho họ, qua giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thành phần dân tộc được Ngài tuyển chọn, để sửa soạn cho công cuộc cứu độ vào "lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4), nhờ đó Ngài hiện thực hóa tất cả dự án cứu độ đầy thương xót của Ngài:

1) Ngày huỷ diệt đã gần rồi, và kỳ hẹn lại chóng đến. Chúa sẽ phán xét dân Người, và xót thương kẻ làm tôi Chúa.

2) Các ngươi hãy xem có một mình Ta, và ngoài Ta, không có Chúa nào khác: Ta sẽ giết chết và sẽ làm cho sống lại; Ta sẽ đánh đập và sẽ chữa lành.

3) Nếu Ta mài sáng gươm Ta như chớp, và nắm giữ phán quyết trong tay Ta, Ta sẽ trả oán những kẻ thù nghịch, sẽ trả thù những kẻ ghen ghét Ta.




Thứ Bảy

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Kb 1, 12 - 2, 4

"Người công chính sống được nhờ trung tín".

Trích sách Tiên tri Khabacúc.

Chớ thì ngàn xưa Chúa chẳng phải là Thiên Chúa, Chúa của tôi, là Ðấng Thánh của tôi? Vậy là chúng tôi không sao chết được. Lạy Chúa, Chúa đã đặt nó lên để xét xử, làm cho nó vững mạnh để trừng phạt. Mắt Chúa tinh sạch, không thể nhìn sự dữ, không thể xem sự gian ác. Tại sao Chúa lại nhìn những kẻ gian ác, và kẻ bất lương nuốt người công chính hơn nó, sao Chúa vẫn làm thinh?

Chúa để loài người như cá biển, như sâu bọ không có vua quan. Nó lấy lưỡi câu mà bắt hết, lấy chài mà kéo mọi sự, lấy lưới mà thu lượm: bởi thế nó hớn hở vui mừng. Vì vậy, nó cúng tế cho chài, nó dâng lễ vật cho lưới, vì bởi đấy nó được phần béo tốt và món ăn ngon. Lẽ nào nó cứ thả lưới không ngừng và luôn luôn tàn nhẫn sát hại các dân?

Tôi sẽ đứng ở vọng canh của tôi, đứng yên nơi thành lũy của tôi, tôi chờ xem Chúa dạy tôi thế nào, và trả lời ra sao cho điều tôi biện bạch? Chúa đáp lại tôi rằng: "Hãy chép điều ngươi thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 9, 8-9. 10-11. 12-13

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Chúa (c. 11b).

Xướng: 1) Chúa ngự trị tới muôn đời, Người dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Người công minh thống trị địa cầu, Người chính trực xét xử chư dân. - Ðáp.

2) Chúa là chỗ dung thân cho người bị ức, chỗ dung thân dành cho những lúc gian truân, để những ai nhìn biết uy danh, cậy trông vào Chúa, vì lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Ngài. - Ðáp.

3) Hãy đàn ca Chúa, Người ngự ở Sion; hãy loan truyền công cuộc Chúa khắp chư dân: vì Ðấng đòi nợ máu, Người nhớ họ, Người không quên tiếng kêu của những kẻ cơ bần. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 17, 14-19

"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

Ðó là lời Chúa.

 

Christ Healing Deaf ManMatthew 17:14-20 | Bloor Lansdowne Christian Fellowship BLCF Church

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu 1 đến 13 mở đầu đoạn 17 là bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử hành hôm Thứ Năm vừa rồi (là ngày 6/8 trong tháng như năm 2015).

 

Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến xin Người, vì môn đệ của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:

 

"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: 'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được'". 

Chính các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các vị không trừ được quỉ, và đã được Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng tin!'"


Đó là lý do sau khi nghe ông bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không trừ được quỉ ra khỏi con ông ta, Chúa Giêsu đã không than trách chung dân chúng và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho bằng chính các môn đệ của Người, thành phần đã được Người ban cho quyền trừ quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước kia (xem Mathêu 10:1) mà quyền trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"

 

Như thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu, nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền năng chiến thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội. 

 

Nếu "Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8) thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan" (Mathêu 16:23), vì ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!

 

Trái lại, nếu các tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa Giêsu khẳng định kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".

 

"Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải" đây nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải (xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám chỉ Chúa Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ nhất) và phục sinh thăng thiên (cây lớn nhất), thì "lòng tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng tincủa các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ và qua họ. 

 

Nếu "đức tin tỏ hiện qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào Chúa Kitô cũng được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình yêu là thế, như trên vừa cảm nhận. Và đó là lý do Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Habacúc, nhờ lòng tin tưởng vững vàng và bất khuất sự dữ, đúng hơn bất chấp sự dữ xẩy ra cho mình, gây ra bởi kẻ ác, theo quan phòng thần linh của Thiên Chúa, Đấng đã phán: "Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín", mà thành phần sống công chính, bằng lòng tin tưởng của mình vào Ngài, mới có thể nói rằng: "Chớ thì ngàn xưa Chúa chẳng phải là Thiên Chúa, Chúa của tôi, là Ðấng Thánh của tôi? Vậy là chúng tôi không sao chết được".

 

Đúng thế, lòng tin của thành phần sống công chính bao giờ cũng tâm nguyện rằng "Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Chúa", như được tỏ bày trong câu đáp của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 9, một tâm nguyện chất chứa tất cả lòng tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, Đấng làm chủ tể muôn loài và mọi sự, chỉ thực hiện những gì tốt nhất cho những ai tin vào Ngài (xem Roma 8:28):

1) Chúa ngự trị tới muôn đời, Người dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Người công minh thống trị địa cầu, Người chính trực xét xử chư dân.

2) Chúa là chỗ dung thân cho người bị ức, chỗ dung thân dành cho những lúc gian truân, để những ai nhìn biết uy danh, cậy trông vào Chúa, vì lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Ngài.

3) Hãy đàn ca Chúa, Người ngự ở Sion; hãy loan truyền công cuộc Chúa khắp chư dân: vì Ðấng đòi nợ máu, Người nhớ họ, Người không quên tiếng kêu của những kẻ cơ bần.

 

 

 

THÁNH DAMINH (8/8)
LẬP DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO

 

1. Vài dòng lịch sử

Thánh Đaminh sinh tại Castile nước Tây ban nha, năm 1170.

Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:

- Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.

Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.

Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến thụ giáo với một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia nhập Đại chủng viện tại Palencia. Sau khi hoàn tất việc học, Ngài được Đức Cha Diégo de Azsvedo truyền chức Linh Mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám Mục Martin de Bazan đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.

Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo. Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè rối Albigeois gây ra cho Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa: muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy một mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá mạnh của họ nên ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác. Đó là những người sau này sẽ trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.

Một cộng tác viên của ngài kể lại:

“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của Ngài.

“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin Mừng, cả trong lời nói lẫn hành động”

“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta. Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”

Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi khôi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ơn Đức Mẹ.

Năm 1215, thánh nhân đến Roma, xin Đức Honoriô III châu phê luật dòng vào ngày 22/10/1216. Từ đó dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới .

Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh Cha Gregoriô thứ IX đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.

2. Lời trăn trối cuối cùng

“Anh em thân mến. Đây là những gì Cha thánh để lại cho anh em để anh em giữ lấy như là con có quyền thừa kế:

Anh em hãy sống bác ái

Hãy giữ lòng khiêm tốn

Hãy tự nguyện giữ đức thanh bần – khó nghèo.”

Đây không phải là những gì rút ra từ sách vở, mà là kết tinh của cả một cuộc sống mà chính Ngài đã nỗ lực thực hiện trong suốt một cuộc đời 51 năm – hơn một nửa thế kỷ.

 

3/2/2010 - Bài 104 về Thánh Đaminh