SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: Ðnl 18, 15-20
"Ta sẽ gầy dựng một tiên tri và Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó. Nhưng tiên tri nào tự phụ, nhân danh Ta mà nói lời Ta không truyền phải nói, hoặc nhân danh các thần khác mà nói, thì sẽ chết".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 7, 32-35
"Người nữ đồng trinh lo lắng việc Chúa, để nên thánh".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 14 và 12
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 1, 21-28
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Ðến thành Capharnaum) ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy. Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người". Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - THẦN HIỂN
Mới đọc Bài Đọc I cho Chúa Nhật Thứ IV Thường Niên Năm B hôm nay, nếu lưu ý tới tâm thức của dân Do Thái qua giòng lịch sử, sẽ thấy có một sự mâu thuẫn thật là mâu thuẫn ở nơi họ. Đó là, họ tỏ ra sợ hãi Thiên Chúa, nhất là mỗi khi Ngài tỏ mình ra cho họ, nghĩa là qua sự kiện thần hiển của Ngài (theophany), một cuộc thần hiển bao gồm những hiện tượng sấm xét, mây mù, lửa bốc, khói tỏa, động đất v.v. như trong biến cố ở Núi Sinai, được thuật lại trong Sách Xuất Hành (19:16-20) như sau:
"Ðến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Ông Mô-sê đưa dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. Tiếng tù và mỗi lúc một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Ðức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên".
Lý do họ đã không muốn thấy những cuộc thần hiển kinh thiên động địa, đầy tính cách rùng rợn kinh hoàng này là như thế, họ đã ngỏ ý muốn và họ đã nhận được lời hứa đáp ứng thỏa đáng lời yêu cầu có lý của họ, như những gì Moisen nói với dân chúng trong Sách Đệ Nhị Luật ở Bài Đọc I hôm nay:
"Chúa là Thiên Chúa các ngươi, sẽ gầy dựng giữa các ngươi và giữa những anh em các ngươi, một tiên tri như ta: các ngươi sẽ nghe lời người, như các nguơi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa các ngươi ở Horeb khi có cuộc đại hội, và các ngươi nói rằng: Tôi không muốn nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi nữa, tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết. Và Chúa phán cùng tôi: sự họ đã nói, là tốt. Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi; Ta sẽ đặt vào miệng người những lời của Ta, người sẽ nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Ta mà người sẽ nói nhân danh Ta, chính Ta sẽ xét xử nó".
Ở đây, qua lời hứa với dân Do Thái về một "một tiên tri như ta" (tức như Moisen) như thế Thiên Chúa như muốn lập lại lời Ngài đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) về "Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần - Redemptor Hominis" (ĐTC Gioan Phaolô II - nhan đề Thông Điệp đầu tiên ngày 4/3/1979), Đấng thuộc "giòng dõi người nữ". Và lời Ngài hứa ngay từ ban đầu với chung loài người và lời Ngài hứa với dân Do Thái qua Moisen trong Bài Đọc I hôm nay đã trở thành hiện thực "vào lúc thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), tức "vào thời kỳ sau hết, Thiên Chúa đã nói với chúng ta nơi Người Con của Ngài" (Do Thái 1:1), chứ không phải "bằng nhiều thể nhiều cách khác nhau trong những thời gian đã qua" (Do Thái 1:1), và Người Con của Ngài "đã được hạ sinh bởi một người nữ, được sinh hạ dưới lề luật để cứu những ai bị lệ thuộc lề luật, hầu chúng ta được nhận lãnh thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4-5).
Tuy nhiên, cho đến khi Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần này xuất hiện, nơi Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét, đóng vai "một tiên tri như (Moisen)", trong việc "nói cho họ biết tất cả những điều Ta sẽ truyền cho người", như Moisen lập lại lời Thiên Chúa về sứ vụ của vị tiên tri tương lai đầy hứa hẹn ấy với dân Do Thái trong bài Đọc I hôm nay, nhất là khi Vị Đại Tiên Tri Thiên Sai này nói cho họ biết tất cả sự thật về bản thân Người, thì dân Do Thái lại không chịu tin, lại tỏ ra hoàn toàn mâu thuẫn với cha ông của họ là thành phần sợ các cuộc thần hiển đầy rùng rợn đến chết được, như họ bày tỏ trong Bài Đọc I hôm nay; trái lại, họ còn lên án Người, ném đá Người và tìm cách sát hại Người nữa: "Ông chỉ là một con người mà cho mình là Thiên Chúa" (Gioan 10:33), và chính vì thế cuối cùng Người đã bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, sau khi nhân danh Thiên Chúa hỏi Người và được Người xác nhận Người là ai, thì đã vì Người mà vấp phạm: "Hắn lộng ngôn phạm thượng... Hắn đáng chết" (Mathêu 26:65-66).
Dân Do Thái mâu thuẫn và thật là mâu thuẫn ở chỗ đó. Nói đúng ra dân nào cũng vậy, cũng là người, cũng mang nhân tính nhiễm lây nguyên tội đầy mù quáng. Ở chỗ, họ chẳng những không chấp nhận Vị Thiên Chúa vô hình thần hiển đáng sợ, mà cũng chẳng chấp nhận Thiên Chúa hiện thân hữu hình như họ, sống gần gũi với họ. Đó là lý do câu xướng trước Bài Phúc Âm hôm nay mới được Giáo Hội chọn câu Phúc Âm của Thánh ký Gioan, liên quan đến cả mầu nhiệm nhập thể về phía Thiên Chúa lẫn điều kiện cứu độ bất khả thiếu về phía con người (ở những chi tiết được người viết gạch dưới): "Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta; những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con cái Thiên Chúa. - Alleluia" (xem Gioan 1:14 và 12).
Và đó cũng là lý do, về phía con người, Giáo Hội đã chọn những câu trong Thánh Vịnh 94 (1-2. 6-7. 8-9) để khuyên dân Chúa "đừng cứng lòng" khi "các bạn nghe tiếng Người" như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thế nhưng, nếu vị Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay tỏ lòng mong muốn "ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các bạn đừng cứng lòng", thì Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại, trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Corintô ở Bài Đọc II hôm nay nêu lên cho Kitô hữu một lối sống bình an tự tại, không bị chi phối bởi những lo lắng trần gian, nhờ đó mới có thể gắn bó với Chúa, một lối sống có thể nói là trinh khiết, hay của thành phần trinh nữ, như sau (người viết cố ý nhấn mạnh đến những chi tiết được gạch dưới):
"Anh em thân mến, tôi ước mong anh em khỏi phải lo lắng. Người không có vợ thì lo lắng việc Chúa, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhưng người đã có vợ thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng vợ mình, và họ bị chia xẻ. Cũng thế, người phụ nữ không có chồng và đồng trinh thì lo lắng việc Chúa, để nên thánh phần xác và phần hồn. Còn người phụ nữ đã có chồng thì lo lắng việc đời này, và tìm cách làm đẹp lòng chồng mình. Tôi nói thế vì ích lợi cho anh em, chứ không phải để gài bẫy anh em đâu, nhưng là để hướng dẫn anh em đến đời sống đoan chính và hoàn toàn khắng khít với Chúa".
Vấn đề được đặt ra liên quan đến Bài Đọc II hôm nay, một bài đọc được Giáo Hội chọn đọc để ngầm bảo với con cái của mình rằng chỉ có khi nào "hoàn toàn khắng khít với Chúa",
"khỏi phải lo lắng", như thành phần không vợ không chồng, như thành phần tu sĩ nam nữa sau này trong lịch sử Giáo Hội, thì như thế những ai sống theo ơn gọi vợ chồng khó nghe lời Chúa lắm sao, và vì thể sẽ khó nhận thức được những gì Chúa muốn và trọn vẹn đáp trả ý muốn của Thiên Chúa? Khách quan mà nói thì đúng như vậy. Đó là lý do, trong Bài Dọc I tuần trước, Thánh Phaolô đã khuyên Kitô hữu sống đời gia đình hãy sống ở thế gian như không thuộc về thế gian: "có vợ như không có vợ".
Nghĩa là vợ chồng hãy chấp nhận nhau trong Chúa và vì Chúa, nên có xẩy ra những gì khác nhau, nghịch nhau và thậm chí đụng nhau, họ vẫn có thể trung thành với nhau cho đến cùng. Chính khi vợ chồng sống đức ái trọn hảo, bằng đức tin sâu xa như thế, trong đời sống hôn nhân gia đình, là họ đã thực sự sống lời Chúa rồi vậy. Nhất là khi họ nhận biết Thiên Chúa tỏ mình ra qua các biến cố ngoài ý muốn của họ trong đời sống hôn nhân gia đình, những biến cố cũng là những gì Thiên Chúa muốn nói với con người, như việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa Kitô muốn lập lại lời Người đã báo trước trong Bài Phúc Âm tuần trước rằng "Nước Thiên Chúa gần đến rồi" vậy.
Chính vì Chúa Giêsu Kitô chẳng những là "một tiên tri như (Moisen)" mà còn là chính "Lời đã có ngay từ ban đầu, Lời hằng ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa" (Gioan 1:1), "Lời (ấy) đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), nên khi "Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta (mới) kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ".
Cái "uy quyền" xuất phát từ Người qua lời "giảng dạy" của Người là do ba yếu tố bất khả thiếu sau đây: trước hết, xuất phát từ chính bản thân của Người là một Ngôi Vị Thần Linh, một Ngôi Vị đầy Thánh Linh, đầy sự sống, được tỏa ra từng lời nói, cử chỉ, tác hành và phản ứng của Người; sau nữa, xuất phát từ chính lời của Người, một lời chất chứa chính chân lý và là một chân lý có tác dụng "giải phóng" (Gioan 8:32) những tâm hồn nào khao khát chân lý, cởi mở và biết lắng nghe; sau hết, xuất phát từ chính các việc quyền năng Người làm, chẳng hạn như việc Người chữa lành và trừ quĩ, những việc đầy quyền năng có tác dụng tất yếu trong việc làm gia tăng thần lực cho lời giảng dạy của Người.
Phải chăng, chính vì thế mà trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marcô, ngay sau khi nhận định "người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ", liền thuật lại việc Người cứu chữa một người bị thần ô uế ám như sau: "Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai, là Ðấng Thánh của Thiên Chúa'. Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: 'Hãy im đi và ra khỏi người này!' Thần ô uế liền dằn vặt người ấy, thét một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy".
Đúng vậy, nếu Thánh ký không cố ý sử dụng việc trừ thần ô uế ám của Chúa Giêsu để chứng tỏ cái "uy quyền" của Người nói chung và của lời Người nói riêng thì tại sao, ngay sau sự kiện trừ tà này của Chúa Giêsu, Thánh ký Marco cho biết thêm một chi tiết là lạ liên hệ tới lời giảng dạy của Người hơn là tới chính việc Người làm: "Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: 'Cái gì vậy? Ðấy là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người'. Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa".
"Ðấy là một giáo lý mới ư?", dân chúng chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu trừ tà nói như vậy, nói về "giáo lý", tức về những gì liên quan đến lời nói, đến lời giảng dạy hay đến giáo huấn của Người, chứ không phải họ nói rằng: Ðấy là một quyền năng mới ư? Bởi vì thứ "giáo lý" mới này, đối với dân chúng, ở nơi việc trừ tà của Chúa Giêsu, là những gì liên quan đến lệnh truyền của Người: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" đúng như họ đã cảm nhận: "Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả thần ô uế và chúng vâng lệnh Người".
Thật thế, chính nhờ quyền lực vô song của "giáo lý mới" là lời Thiên Chúa mà nạn nhân bất hạnh trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được trừ cho khỏi thần ô uế, ám chỉ các khuynh hướng trần tục đầy tính chất xấu xa hèn hạ nhơ nhớp, nhờ đó, Kitô hữu, như nạn nhân, mới có thể trở nên tinh tuyền, khỏi các đam mê nhục dục và tính mê nết xấu v.v., và mới có được một tấm lòng gắn bó với Chúa, không còn bận bịu lo toan trần tục, theo tinh thần của Bài Đọc II hôm nay, để rồi, nhờ tấm lòng gắn bó với Chúa, theo chiều hướng của câu xướng trước Bài Phúc Âm hôm nay, họ mới dễ "đón nhận Người", nhờ đó, "Người sẽ ban cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa", nghĩa là được hiệp thông thần linh với "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) - Alleluia".
Thánh Don Bosco 31/1
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=873
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 11, 32-40
"Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc. Thiên Chúa dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, tôi còn phải nói gì nữa? Tôi không có đủ thời giờ thuật lại về Gêđêon, Barac, Samson, Giephtê, Ðavít, Samuel và các tiên tri. Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc, thực thi công bình, được hưởng lời hứa, bịt miệng sư tử, dập tắt hoả hào, thoát khỏi lưỡi gươm, chế ngự bệnh tật, hùng dũng trong trận chiến; đánh đuổi các đạo quân ngoại bang, làm cho những người chết sống lại để trao trả cho các phụ nữ của họ. Có những người đành chịu hành hạ, mà không muốn được giải thoát, hy vọng được phục sinh hoàn hảo hơn. Lại có những người đành chịu nhục nhã, đòn vọt, kể cả xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, cưa xẻ, thử thách, bị giết bằng gươm. Họ mặc áo da cừu da dê, lưu lạc khắp nơi, thiếu thốn mọi điều, bị áp bức, ngược đãi. Thế gian chẳng xứng với họ. Họ lang thang trong hoang địa, trên núi non, trong hang đá, dưới hầm đất. Và tất cả họ đều nhờ bằng chứng đức tin mà lãnh nhận lời hứa tốt lành, thế mà họ chưa được lãnh nhận điều đã hứa, là vì Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn, kẻo họ đạt đến hoàn hảo mà không có chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 30, 20. 21. 22. 23. 24.
Ðáp: Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa (c. 25).
Xướng: 1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta. - Ðáp.
2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa, vì Ngài đã tỏ lòng nhân hậu với con, trong nơi thành trì kiên cố. - Ðáp.
4) Phần con, trong lúc gian truân, con đã nói: "Con bị loại ra khỏi long nhan Ngài rồi". Nhưng Chúa đã nghe lời con khẩn nguyện, khi con lên tiếng kêu cầu tới Chúa. - Ðáp.
5) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là đầy đủ cho những ai sử sự kiêu căng. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy
ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 1-20
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa.
Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra
gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù
dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng
xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có
thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la
và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy
Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với
tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ
tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng
tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin
Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu
liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn
chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy
trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc
gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi
đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được
chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người
bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi
Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không
cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết
những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và
bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm
cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Trừ Quỉ
Ngày Thứ Hai trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, quyền uy trừ quỉ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.
Đúng thế, nếu quỉ cả không thể nào đi trừ quỉ con, vì ma quỉ không thể nào tự chia rẽ nhau, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước, và nếu loài người vốn bị ma quỉ thống trị từ sau nguyên tội không ai có thể trừ quỉ, thì ai trừ được quỉ người đó chắc chắn phải từ Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng mà đến, hay là chính Thiên Chúa, như trường hợp của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, trong các người bị quỉ ám được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, chưa có một trường hợp nào đầy kinh hoàng và thật khiếp sợ như trường hợp này, một trường hợp được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, vừa quá dữ tợn, quá mãnh liệt và quá nhiều quỉ, chứng tỏ không một con người thuần túy nào có thể trừ quỉ ngoại trừ một mình Vị Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô:
"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy".
Sự kiện "một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra" và "người đó vẫn ở trong các mồ mả" (câu này bản dịch có thể bị hiểu lầm là người bị quỉ ám ở bên trong các ngôi mộ, đúng hơn là "ẩn nấp ở giữa các ngôi mộ - the man had taken refuge among the tombs") cho thấy ma quỉ đồng nghĩa với chết chóc và gây ra chết chóc (xem Gioan 8:44), mà đã là người thì tự nhiên ai cũng sợ chết và bị chết về thể lý, không ai có thể thoát chết và làm chủ được sự chết, ngoại trừ Đấng từ cõi chết sống lại là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Cho dù vì kiêu ngạo ngay từ ban đầu mà đệ nhất thần trời là minh thần Luxiphe đã cùng với 1/3 thần trời trở thành ma quỉ (xem Khải Huyền 12:4,7-9), chúng sau đó đã tỏ ra biết mình, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của chúng tự động tỏ ra với Đấng quyền năng hơn chúng, dù Người còn ở đằng xa, và van xin với Người là Đấng mà chúng nhận biết là ai và đừng ra tay làm khốn chúng: "Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi'".
Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đến để cứu độ con người được dựng nên theo hình thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) khỏi tội lỗi và sự chết gây nên bởi ma quỉ ngay từ ban đầu, khỏi tình trạng con người đang bị nô lệ ma quỉ và bị ma quỉ thống trị, làm sao có thể làm theo ý muốn gian ác hại người của chúng. Bởi thế Người đã ra tay trừ chúng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
Tuy nhiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, trước khi chúng xuất ra, "Người hỏi nó: 'Tên ngươi là gì?' Nó thưa: 'Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm'. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy". Nếu tên của một con quỉ ám người ấy là "cơ binh" thì có thể suy ra rằng:
1- Ma quỉ là một tập thể hơn là từng cá nhân, (hoàn toàn khác hẳn với con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhờ đó trở thành từng cá nhân được Ngài yêu thương), nên chúng không thể tách lìa nhau, "trừ khử nhau... chia rẽ nhau" (Marco 3:23-24);
2- Ma quỉ là một quyền lực mãnh liệt, quyền lực tối tăm, quyền lực sự dữ, quyền lực chết chóc, không gì có thể thắng nổi, (như ở nơi trường hợp người bị chúng ám được diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay), ngoại trừ quyền năng của một mình Thiên Chúa.
Ma quỉ chẳng những là một quyền năng nhưng tự bản chất chúng vẫn sợ đau khổ, vẫn sợ bị trừng phạt, bởi thế, cho dù tự mình là một quyền lực hủy hoại, chúng cũng đã đề nghị với Đấng trừ chúng, đúng hơn là xin cùng Đấng không thể nào không trừ chúng, cho chúng nhập vào đàn heo ở gần đó để chúng tự dùng quyền năng chết chóc của mình mà thực hiện một hành động "tự tử" qua đàn heo ấy, còn hơn bị một tay cao thủ hơn mình như Chúa Kitô ra tay hạ sát cho đỡ bị nhục nhã:
"Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: 'Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo'. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối".
Sự kiện đám quỉ xin nhập vào đàn heo đây dường như ám chỉ là ở nơi đâu vốn sống theo xu hướng về xác thịt, về đam mê nhục dục, về tham lam hưởng thụ, về những gì xấu ra tồi bại thấp hèn đều là những chỗ của ma quỉ và giành cho ma quỉ, những chỗ hết sức thuận lợi cho ma quỉ hoành hành hơn đâu hết, những chỗ ma quỉ là tác nhân mang lại chết chóc cho những tâm hồn quay cuồng theo cuộc sống buông thả như thế...
Trường hợp của những con người sống băng hoại buông thả ấy có thể nói còn tệ hại và nguy hiểm hơn cả của trường hợp những ai bị quỉ ám nữa, vì người bị quỉ ám hoàn toàn xẩy ra ngoài ý muốn của họ, và họ không thể tự cứu mình cho đến khi được giải cứu bởi một quyền lực thần linh của Thiên Chúa. Họ thật là đáng thương và cần cứu. Một khi được cứu và tỉnh lại, họ trở thành những con người tốt hơn trước, như trường hợp nạn nhân đương sự trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Kẻ trước kia bị quỉ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng... Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỉ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: 'Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con'. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục".
Về phía thành phần dân chúng nói chung và chủ nhân của đàn heo bị thiệt hại nói riêng: "họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng", đến độ, họ chẳng những không tỏ ra cảm phục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như dân làng Samaria của người phụ nữ tội lỗi đã "tuốn ra gặp Người" mà còn "tin vào Người" nữa (xem Gioan 4:30,39), và mừng cho nạn nhân bị quỉ ám vốn là người trong làng của mình, mà họ lại còn có một thái độ hoàn toàn phản ngược, ở chỗ họ đã tỏ ra sợ hãi Chúa Kitô, như thể họ sợ hãi quyền năng trừ quỉ của Chúa, sợ hãi hành động bị trừ quỉ gây thiệt hại cho họ...
Phải chăng đó là lý do ma quỉ đông như "đạo binh" đã thích thú ở vùng lầy bại hoại này, một vùng đầy những ma quỉ đông như cả một "đạo binh", một sào huyệt của ma quỉ nên chúng không muốn rời bỏ một nơi béo bở như vậy, và "nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy"?
Và cũng phải chăng sau khi thoát khỏi cảnh bị ma quỉ khống chế ở miền này, nạn nhân được trừ quỉ không muốn ở lại một miền đất như sào huyệt của ma quỉ ấy nữa, mà chỉ muốn theo Đấng đã trừ qủi cho mình, theo Đấng đã giải thoát mình, một trường hợp duy nhất trong Phúc Âm liên quan đến nạn nhân trừ quỉ muốn theo Chúa Kitô sau khi được trừ quỉ??
Nhất là phải chăng Chúa Giêsu không chấp nhận lời xin rất chân thành và tốt lành hiếm có này của nạn nhân bị quỉ ám được Người giải thoát là vì Người muốn anh ta trở thành tông đồ của Người và cho Người ở ngay vùng đất của ma quỉ này, một vùng đất dân địa phương ở đấy không muốn thấy sự hiện diện cứu độ của Người, sợ hãi quyền năng giải thoát của Người, nhờ đó, nhờ sự hiện diện gián tiếp của Người qua chứng nhân sống động là anh ta mà ma quỉ không dám hoành hành miền đất ấy nữa. Anh ta trở thành như một ấn tín cứu độ của Người ở vùng này và cho vùng đất vốn là của ma quỉ và thuộc về ma quỉ mà chính anh ta đã từng là ngai tòa ngự trụ của chúng giữa vương quốc của chúng ở đấy???
Trong bài giảng cho Lễ Thứ Sáu 29/1/2016 tại Nhà Trọ Thánh Matta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh một lần nữa, trong nhiều lần khác, về tình trạng tội lỗi là những gì khả chấp còn băng hoại là những gì bất khả chấp, như trường hợp của dân làng sống ở "địa hạt Giêrasa" có thái độ sợ Chúa trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, khi ngài kết thúc bài giảng của mình bằng lời cầu nguyện như sau:
"Lạy Chúa, xin cứu chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi bị băng hoại. Ôi Chúa, vâng, chúng con là những tội nhân, thế nhưng không bao giờ trở thành băng hoại. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn này".
Nhờ được trừ quỉ cho, nạn nhân bị quỉ ám đã tin vào Đấng giải thoát mình, đến độ đã xin theo Người, không phải chỉ vì sợ bị quỉ tái ám, mà là vì muốn bày tỏ đức tin thực sự và trọn vẹn của mình, ở chỗ đã tin tưởng thì phải tin theo hay đi theo Đấng mình tin tưởng nữa, như gương sống đức tin của những vị tiến bối trong Cựu Ước được Bài Đọc 1 hôm nay trình thuật như " Gêđêon, Barac, Samson, Giephtê, Ðavít, Samuel và các tiên tri. Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc, thực thi công bình, được hưởng lời hứa, bịt miệng sư tử, dập tắt hoả hào, thoát khỏi lưỡi gươm, chế ngự bệnh tật, hùng dũng trong trận chiến; đánh đuổi các đạo quân ngoại bang, làm cho những người chết sống lại để trao trả cho các phụ nữ của họ. Có những người đành chịu hành hạ, mà không muốn được giải thoát, hy vọng được phục sinh hoàn hảo hơn. Lại có những người đành chịu nhục nhã, đòn vọt, kể cả xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, cưa xẻ, thử thách, bị giết bằng gươm. Họ mặc áo da cừu da dê, lưu lạc khắp nơi, thiếu thốn mọi điều, bị áp bức, ngược đãi".
Niềm tin tưởng cùng ước muốn theo Chúa Kitô
của nạn nhân bị quỉ ám được Người trừ cho trong bài Phúc Âm hôm nay thực
sự phản ảnh cảm nghiệm thần linh được chất chứa trong Thánh Vịnh 30 được
Giáo Hội chọn cho Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta.
2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận.
3) Chúc tụng Chúa, vì Ngài đã tỏ lòng nhân hậu với con, trong nơi thành trì kiên cố.
4) Phần con, trong lúc gian truân, con đã nói: "Con bị loại ra khỏi long nhan Ngài rồi". Nhưng Chúa đã nghe lời con khẩn nguyện, khi con lên tiếng kêu cầu tới Chúa.
5) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là đầy đủ cho những ai sử sự kiêu căng.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 1-4
"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đầu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28 và 30. 31-32
Ðáp: Lạy Chúa, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa (c. 27b).
Xướng: 1) Tôi sẽ làm trọn những lời khấn hứa của tôi, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa, bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn tôi sẽ sống cho chính Chúa. - Ðáp.
3) Miêu duệ tôi sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh
thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 5, 21-43
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng
tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng
hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:
"Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và
được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo
chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực
khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại
bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông
đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới
áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong
mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã
xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo
Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía,
vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem
kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra
nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người
bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi
bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:
"Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã
thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông
đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và
Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy
người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc
lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người.
Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ
đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:
"Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức
thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt
kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho
em bé ăn.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô cứu chữa
Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng.
Thật thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay ở chỗ chữa lành cho một người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và đã hồi sinh một bé gái 12 tuổi.
Trước hết là phép lạ chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm:
"Có
một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm
thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng
tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau
Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì
tôi sẽ được lành'. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được
khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự
mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: 'Ai đã chạm đến áo Ta?' Các môn
đệ thưa Người rằng: 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy
còn hỏi Ai chạm đến Ta?' Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều
đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền
đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: 'Hỡi
con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh'".
Sau nữa là phép lạ hồi sinh một bé gái 12 tuổi:
"Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn".
Theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm thì 2 phép lạ này bao giờ cũng đi liền với nhau, nhưng có cái lạ là con số 12 trùng hợp ở giữa hai nạn nhân nhận được phép lạ của Chúa Giêsu, rồi một điều nữa là phép lạ chữa lành cho nữ nạn nhân loạn huyết 12 năm đã kéo dài thời giờ khiến bé gái 12 tuổi "đang hấp hối" không kịp chữa lành khi còn sống như người đàn bà loạn huyết 12 năm. Ngoài ra, sự kiện "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía" khiến Người không thể đi nhanh hơn cũng là nguyên nhân chậm trễ khiến Chúa Giêsu không đến kịp lúc trước khi bé gái chết.
Tuy nhiên, vì là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Chúa Giêsu vẫn có thể tỏ mình ra một cách hữu hiệu nhất và sáng tỏ nhất vào bất cứ lúc nào, tùy từng trường hợp của mỗi người cũng như của những ai liên hệ, miễn là làm sao để mang lại lợi ích thiêng liêng tối đa chẳng những cho chính nạn nhân đương sự mà còn cho chung cả cộng đồng của họ nữa. Phải chăng đó là lý do có con số trùng hợp 12 với 12: 12 x 12 = 144, hình ảnh vuông trọn của con số đông được tuyển chọn, bao gồm cả cựu ước (12 chi tộc dân Do Thái) lẫn tân ước (12 tông đồ của Giáo Hội), như được Sách Khải Huyền đề cập tới (21:17) về một Tân Thánh Đô Giêrusalem?
Về trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra ở một "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía", nhờ đó, riêng người đàn bà bị bệnh loạn huyết có thể lợi dụng dịp may hiếm quí ấy mà tự động chạm đến gấu áo của Người hầu được chữa lành, bằng không, như những lần khác, Người thường xuống thuyền để tránh đám đông thì bà ấy chẳng bao giờ có thể chạm đến Người.
Và mục đích Người cố ý lên tiếng hỏi "ai đã đụng đến Tôi" một cách công khai giữa đám đông trong Bài Phúc Âm hôm nay, không phải là vì Người không biết kẻ nào đã động đến Người, hay Người muốn kẻ đụng đến Người tự thú; thực sự Người đã biết được rằng chính những gì từ Người xuất ra, (như tác dụng thần linh và ân sủng vẫn từ các Bí Tích Thánh hiện nay), và quyền lực chữa lành từ Người thông ra đó đã chữa lành con người chạm đến Người là ai; vì thế, mục đích Người lên tiếng là để cho mọi người hiện diện bấy giờ hãy lưu ý đến nạn nhân được Người chữa lành, đúng hơn đến yếu tố bà đã được chữa lành là chính "đức tin con đã chữa con" của bà, một đức tin có tác dụng chữa lành dù bề ngoài Người như thể không biết và hoàn toàn do đương sự tự động làm thôi.
Về trường hợp của bé gái 12 tuổi hấp hối và lìa đời, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra vào chính lúc em chết rồi mới rạng ngời hơn lúc em đang hấp hối, và mới đúng lúc hơn, bởi vì, lúc ấy mới là lúc có đông người thương cảm về cái chết mệnh yểu của một "lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây" như em đến chia buồn với tang gia, đông hơn là lúc em mới hấp hối.
Đối với Người, cái chết tự nhiên về phần xác của con người trên trần gian này, như trường hợp của bé gái 12 tuổi này, hay của Lazarô bạn thân của Người (xem Gioan 11:11), chỉ là một giấc ngủ mà thôi: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó", còn có thể thức dậy được, đúng hơn, còn có thể đánh thức dậy bằng quyền năng của Người, vì thân xác chết chóc của con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội, nhờ quyền năng Vượt Qua của Người sau này, hay nhờ Thánh Thần của Người (xem Roma 8:11), "sẽ được sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 11:24).
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, có một chi tiết về Chúa Kitô rất thích hợp cho bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến cả hai phép lạ chữa lành của Người, đó là câu: "Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất".
Thật vậy, người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành cho chính là vì bà "nhìn thẳng vào Đức Giêsu", chứ không nhìn vào thân phận bất xứng của mình, hay vào công lênh xứng đáng của mình, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Người, bằng cách "đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'". Tuy nhiên, đối với người cha có đứa con gái 12 tuổi được báo tin "rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'", tức Người còn là "Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất...", ở chỗ, "Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay".
Chắc chắn cả người đàn bà bị loạn huyết 12 năm được Chúa Giêsu chữa lành cho, và vị trưởng hội đường là cha của đứa con gái 12 tuổi bị chết được Chúa Giêsu hồi sinh cho, đều là "những kẻ tìm kiếm Chúa" như trong câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay, và khi đã thấy Người rồi, qua sự lạ từ Người mà họ được hoan hưởng, thì không thể nào không "ca khen Chúa", với tâm tình của Thánh Vịnh 21 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi sẽ làm trọn những lời khấn hứa của tôi, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời".
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa, bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn tôi sẽ sống cho chính Chúa.
3) Miêu duệ tôi sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng "Ðiều đó Chúa đã làm".
Ngày 2 tháng 2
DÂNG CHÚA GIÊ-SU TRONG ĐỀN THÁNH
lễ kính
Phụng Vụ Giờ Kinh
Hỡi Ánh Sáng ngàn thu,
Gieo nắng hồng mãnh liệt,
Ngày dài không hề tắt,
Đuổi đêm tối sa mù.
Hỡi Ánh Sáng ngàn thu,
Sửa bóng vàng tàn lụi,
Diệt tan tành bóng tối,
Thức tỉnh hồn mộng mơ.
Hỡi Ánh Sáng ngàn thu,
Ngài đến là phấn khởi,
Ngài kêu liền dậy vội,
Ngài thương phúc vô bờ !
Hỡi Ánh Sáng ngàn thu,
Vắng Ngài đời sẽ khổ,
Có Ngài không chết nữa,
Gần Ngài sáng đầy dư.
Hỡi Ánh Sáng ngàn thu,
Nguyện xin Vua hằng hữu
Chiếu hào quang vĩnh cửu
Vào kiếp sống ngục tù.
Hỡi Ánh Sáng Giê-su,
Danh Ngài êm dịu quá,
Xin nhậm lời cảm tạ
Cùng muôn vạn ý thơ !
Dâng Ánh Sáng ngàn thu
Cùng Thánh Thần Thánh Phụ
Ngàn vinh quang rực rỡ,
Muôn kiếp chẳng phai mờ.
Chúng ta hãy đón nhận ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu
Trích bài giảng của thánh Xốp-rô-ni-ô, giám mục.
Tất cả chúng ta là những kẻ đang sốt sắng kính thờ mầu nhiệm Đức Ki-tô, nào ta hãy nhiệt tâm ra đón Người. Đừng ai vắng mặt trong cuộc đón rước này, và mọi người hãy mang theo nến sáng.
Chúng ta đem theo nến sáng cho mọi người thấy vẻ huy hoàng thần thiêng của Đấng đang đến. Người đẩy lùi bóng tối xấu xa, làm cho hoàn vũ nên rực rỡ huy hoàng và ngập tràn ánh sáng vĩnh cửu. Hơn thế nữa, đem theo nến sáng còn để cho thấy tâm hồn chúng ta cũng rực sáng. Chúng ta cần phải đi đón Đức Ki-tô với một tâm hồn như thế.
Đức Trinh Nữ vẹn tuyền, Mẹ Thiên Chúa, đã ẵm trong tay ánh sáng chân thật và mang đến cho những ai chìm trong bóng tối. Cũng vậy, được ánh sáng Đức Ki-tô chiếu toả, chúng ta hãy cầm nến trong tay soi sáng cho mọi người và mau mắn ra nghinh đón Đấng thật sự là ánh sáng.
Ánh sáng đã đến thế gian chiếu soi thế gian đang chìm trong bóng tối, và Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối. Vậy đây là ý nghĩa của mầu nhiệm : chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay ; chúng ta hăm hở đi tới, mang theo nến sáng, để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa.
Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng.
Đừng ai trong chúng ta đứng ngoài ánh sáng rực rỡ đó như một kẻ xa lạ, cũng đừng ai đã được ánh sáng ấy tràn ngập mà vẫn ở mãi trong đêm tối. Nhưng một khi đã được nên rạng rỡ, mọi người chúng ta hãy tiến bước ; một khi đã toả sáng, mọi người chúng ta hãy cùng nhau tiến ra, và cùng với cụ Si-mê-on đón nhận ánh sáng huy hoàng vĩnh cửu. Cùng với cụ, chúng ta hãy hớn hở vui mừng hát lên bài thánh thi tạ ơn Chúa Cha, Đấng sinh ra ánh sáng, Người đã gửi ánh sáng thật đến, đã đẩy lui bóng tối, đồng thời làm cho chúng ta nên rực rỡ huy hoàng.
Nhờ Đức Ki-tô, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đã được thấy ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân và đã bày tỏ cho mọi người. Đó là vinh quang của Ít-ra-en mới là chính chúng ta. Lập tức, chúng ta đã được giải thoát khỏi bóng đêm tội lỗi xưa, cũng như cụ Si-mê-on khi nhìn thấy Đức Ki-tô thì được thoát khỏi vòng tục luỵ.
Cả chúng ta nữa, đang là dân ngoại, chúng ta đã được trở thành dân Thiên Chúa khi, nhờ đức tin, chúng ta ẵm lấy Đức Ki-tô từ Bê-lem đến (vì chính Người là ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha). Chính mắt chúng ta được thấy một vì Thiên Chúa đã trở thành phàm nhân. Một khi đã thấy Thiên Chúa hiện diện, đã ẵm lấy Thiên Chúa trong đôi tay tâm hồn, chúng ta được gọi là Ít-ra-en mới, và hằng năm, chúng ta mừng lễ để luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện này.
Hồng ân Chúa Thánh Thần vừa thúc đẩy,
Si-mê-on vội vã tiến lên đền.
Ông cụ già được diễm phúc vô biên
Gặp gỡ Chúa Hài Nhi, liền bồng ẵm !
Lạy Đức Ki-tô, thiều quang xán lạn,
Chúc tụng Ngài là ánh sáng thiên thu,
Đến xua tan màn đêm tối mịt mù,
Khắp thiên hạ bừng lên ngày sáng chói.
Đây Cứu Chúa, Đấng ở cùng nhân loại
Đã bước vào đền thánh tiến dâng Cha
Lễ hy sinh là Thánh Thể chói loà :
Nhân thế rõ lòng Cha yêu trọn vẹn.
Lạy Đức Ki-tô, thiều quang bất biến,
Tán dương Ngài là Ánh Sáng muôn dân,
Vị Cứu Tinh đem lửa xuống cõi trần,
Ngài thắp sáng niềm tin trong vũ trụ.
Một ngày mới bừng soi lòng ngôn sứ :
Chính mắt ông được thấy Đấng cứu đời,
Miệng khấn rằng : xin cho kẻ bề tôi,
Được nhắm mắt lìa đời, lòng thanh thản.
Hỡi Ánh Sáng khởi nguyên từ Ánh Sáng,
Hỡi Mặt Trời công chính toả vinh quang,
Chúng con mong đạt tới cõi thiên đàng
Và chung hưởng thánh nhan Ngài muôn thuở.
Hãy cầm đèn sáng trong tay,
Những người tìm Chúa đêm ngày sớm hôm,
Từ đây các bạn chẳng còn
Phải lo bóng tối phải buồn đêm đen.
Giê-su, nguồn sáng tinh tuyền,
Bừng lên xua đuổi ưu phiền lo âu.
Thời kỳ sau hết khởi đầu,
Một niềm hy vọng tràn vào tâm can.
Mọi người mọi nước mọi dân
Vẳng nghe tiếng gọi thông phần phục sinh.
Giê-su hỡi, ánh bình minh,
Xin dâng hai chữ tôn vinh lên Ngài !
Hôm qua rồi lại hôm nay,
Muôn đời Ngài nắm trong tay chủ quyền
Vô cùng, vô tận, vô biên,
Duy Ngài tồn tại triền miên mọi thời.
Giê-su, ánh sáng rạng ngời,
Đuốc thiêng Nước Chúa, Mặt Trời thánh đô,
Chúng con hoan hỷ tung hô.
Đức Ki-tô là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en, ta hãy tin tưởng thưa với Người :
Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !
Vì muốn tuân giữ luật Mô-sê, Chúa đã để cho Đức Mẹ và thánh Giu-se đem Chúa vào đền thờ dâng lên Chúa Cha, - xin dạy chúng con cũng biết cùng với Chúa dâng xác hồn khi Giáo Hội cử hành thánh lễ.
Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !
Khi ông Si-mê-on bồng ẵm Chúa trên tay, chính là lúc Chúa thân hành tìm đến với dân Chúa, - xin dạy chúng con cũng biết tìm đến với anh em.
Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !
Chúa đã cho nữ ngôn sứ An-na nhận ra Chúa là Đấng muôn dân trông đợi, - xin dạy chúng con biết cách nói về Chúa.
Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !
Chúa đã vui lòng chấp nhận thành dấu hiệu cho người đời chống báng, - xin cho muôn dân nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ.
Lạy Chúa Ki-tô, chúng con chào đón Chúa !
Cùng với ông Si-mê-on, ta hãy nói lên niềm vui được gặp Chúa, và hãy tin tưởng kêu van Người :
Xin mở mắt cho chúng con nhìn thấy
tình thương Chúa kỳ diệu xiết bao !
Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian, - xin khơi dậy niềm tin trong lòng người thế.
Xin mở mắt cho chúng con nhìn thấy
tình thương Chúa kỳ diệu xiết bao !
Chúa là vinh quang của dân Chúa, - xin làm cho Hội Thánh nên dấu chỉ ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho mọi người.
Xin mở mắt cho chúng con nhìn thấy
tình thương Chúa kỳ diệu xiết bao !
Chúa đã soi lòng cho ông Si-mê-on biết khát khao được nhìn thấy Chúa, - xin đi đến với những ai đang mong chờ Chúa mà không biết mình đang mong chờ.
Xin mở mắt cho chúng con nhìn thấy
tình thương Chúa kỳ diệu xiết bao !
Khi Chúa dâng mình cho Thiên Chúa Cha, Chúa đã cho Đức Mẹ được hợp với Chúa trong lễ dâng hiến đó, - xin nhớ đến những anh chị em chúng con đã qua đời, là những người đã cùng chết với Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy.
Xin mở mắt cho chúng con nhìn thấy
tình thương Chúa kỳ diệu xiết bao !
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch, hầu xứng đáng dâng mình trước Thánh Nhan. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4
"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10
Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)
Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.
3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.
4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18
"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2,32
Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]
Ðó là lời Chúa.
Mạc Khải Thánh Mẫu
(trích trong cuốn Thần Đô Huyền Nhiệm)
Dâng Chúa Trong Đền Thờ
Đã tới ngày một bà mẹ sinh con đầu lòng phải lên
Đền Thờ, theo luật Maisen, để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con mình
cho Chúa. Đức Trinh Nữ Rất Thánh hoàn toàn không buộc phải tuân giữ qui luật
đó. Mẹ là Đấng hoàn toàn thanh sạch. Nhưng vì đức khiêm nhượng luôn luôn hạ
htấp Mẹ xuống tới bụi đất, nên Mẹ tình nguyện tùng phục lề luật. Còn Con của
Mẹ lại chẳng vượt cao trên lề luật ư? Nhưng Mẹ nhìn thấy rõ thánh ý chủa Con
Mẹ cũng muốn dâng mình cho Cha hằng hữu làm một lễ vật sống động, nên Đôi
Bạn Thánh định ngày lên Giêrusalem.
Mẹ Maria và Thánh Giuse từ giã phụ nữ đạo hạnh đã cho Thánh Gia trú nhờ, và
tặng cho bà một phần số vàng dành để giúp người nghèo. Bà ta được đầy những
chúc phúc từ trời cao. Trước khi lên đường, Đức Nữ Trinh và Thánh Cả đã ra
thăm lại hang đá một lần cuối cùng. Mẹ đđã sấp mình xuống tậản đất tôn kính
nơi được chúc phúc đó, nơi từng chứng kiến biết bao việc lạ lùng. Mẹ xin
Thánh Giuse ban phép lành và cho phép Mẹ được đi chân không lên Đền Thánh;
nhưng Thánh Cả không cho Mẹ được khổ chế quá mức như vậy. Mẹ rước lấy Chúa
Hài Nhi từ tay Thánh Giuse, cẩn thận quấn khăn ủ ấm cho Chúa và cầu xin Chúa
gìn giữ hang thánh ấy để các giáo hữu sau này đến kính viếng. Đôi Bạn Thánh
xin Chúa ban phép lành. Chúa giơ tay rõ ràng chúc phúc cho cha mẹ Ngài.
Belem cách Giêrusalem hai dặm. Trên con đường đó, bấy giờ diễn ra một cuộc
rước vĩ đại chưa từng có bao giờ. Mười ngàn thiên thần dự vào các mầu nhiệm
ở hang đá cùng với rất đông thiên thần từ trời đem danh hiệu Giêsu xuống
trước đó, hiện ra hình người tháp tùng Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Cả
Giuse. Ánh sáng của họ giãi ra che kín ánh mặt trời. Họ vừa đi vừa hát lên
nhhiều khúc tân ca chúc mừng Chúa Cứu Thế đi dâng mình trong Đền Thờ.
Khí hậu rất giá rét. Chúa Giêsu là người thật, nên run rẩy và khóc trên tay
Mẹ Maria đang như chết đi vì thương cảm. Mẹ ra uy với tiết lạnh mùa đông
đang hành hạ Đấng Cứu Chuộc, truyền cho chúng phải tôn trọng Ngài, nhưng cứ
hắt khí lạnh vào Mẹ. Bỗng dưng, không khí rét mướt đổi lên một bầu khí quang
đãng ấm áp quanh Chúa Giêsu. Nhất là Mẹ ra uy với tội lỗi, vì nó đã tạo ra
hết mọi tai nạn làm thế gian phải đau khổ. Mẹ quở mắng tội lỗi: "Cái quái
vật khủng khiếp kia, lúc nào cũng phải loạn chống Thiên Chúa, lúc nào cũn
glà kẻ thù của loài người! Mày đã làm cho nloài người nên tồi tàn, làm họ
mất hạnh phúc đời đời! Hời loài người hay chết, và yêu thhích sự dối trá và
hư ảo cho đến bao giờ? Thôi, đừng bội bạc với Chúa Tối Cao nữa! Đừng tàn ác
với chính mình nữa! Chớ coi thường những lời đe dọa của Cha và những chỉ bảo
của Mẹ muốn chịu hết mọi đau khổ từ Adong sa ngã, để cứu rỗi các con".
Trong khi Thánh Gia còn trên đường, thượng tế Simeon và nữ tiên tri Anna
được ơn soi sáng cho biết Thánh Gia sắp tới Đền Thờ. Hai vị đó sai viên qủn
lý Đền Thời đi đón và đưa Thánh Gia vào trọ tại nhà ông ta. Chiều hôm ấy,
Thánh Giuse kín đáo mang những lễ vật của Đạo Sĩ vào Đền Thờ. Khi trở về,
Ngài mua mấy con chim gáy dành cho lễ nghi hôm sau. Chính Mẹ Maria đã muốn
như vậy. Đêm hôm đó, Mẹ thức suốt trong cuộc đàm đạo với trời cao: "Lạy Cha
của Chúa con, con sắp sửa dâng Chúa của con cho Cha làm Hy Lễ, để xin Cha
thương đến loài người. Khi Cha ban Người cho con, Người là Thiên Chúa. Lúc
con ra khỏi Đền Thờ, con nghèo nàn, nhưng bây giờ trở lại Đền Thờ, con nên
giầu sang vì có Chúa của con. Con ca tụng Chúa đời đời vì Chúa đã xử đại
lượng với con".
Sáng hôm sau, Thánh Gia lên Đền Thờ, cùng với đoàn tháp tùng theo lên từ
Giêrusalem. Mẹ Maria quỳ xuống nơi các phụ nữ quen đứng khi đến chịu thánh
tẩy và dâng con mình. Chúa Ba Ngôi hiện ra với Mẹ trong trí. Mẹ nghe Chúa
nói những lời này: "Đây là con rất yêu dấu của Ta, Ta chỉ hài lòng nơi
Ngài". Thánh Giuse, một người bạn hạnh phúc nhất trong nam giới, cảm thấy
một ơn thúc bách mới, Chúa Thánh Thần ban xuống những ánh sáng và hân hoan
đầy ngập lòng Ngài.
Đêm trước, thánh Simêon và thánh nữ tiên tri Anna cũng tiếp nhận được những
mặc khải mới và chính sác về những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc dưới ơn
soi sáng của Thiên Chúa, lúc đó, hai vị vào Đền Thờ, kinh ngạc nhìn thấy
Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài tỏa rực ánh vinh quang, nhưng hai ánh sáng ấy không
bằng nhau: Ánh của Con khác hẳn Ánh của Mẹ. Thấm nhuần một an ủi từ trời
ban, hai vị đến gặp Chúa Hài Nhi và Mẹ. Thượng tế Simêon xin Mẹ cho ẵm Chúa.
Ông ngước mắt lên trời, bồng Chúa Hài Nhi cao lên dâng cho Cha Hằng Hữu; ông
nguyện xin: "Giời đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được chết bằng an, vì
mắt con đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc mà Chúa đã hứa ban cho chúng con,
Đấng Cứu Chuộc mà Chúa định tỏ cho mọi dân tộc, để làm ánh sáng soi cho các
dân ngoại và vinh hạnh cho Isael dân riêng Chúa Trọn". Ông chúc lành cho Mẹ
Maria và Thánh Giuse. Đôi bạn Thánh tán tụng Thánh Linh đã ban ơn lạ cho
ông. Ông lại nói với Mẹ: "Đức Nữ nên biết rằng Người con của Đức Nữ đã được
tôn lên để người Isael một số lớn phải điêu đứng, một số lớn được phục hồi,
Ngài sẽ là biểu hiệu gây mâu thuẫn. Và tâm hồn Đức Nữ sẽ bị một lưỡi gươm
đau khổ xuyên qua.
Lúc ông nói những lời ấy, Hài Nhi Giêsu cúi đầu tỏ dấu thuận vâng Thánh Ý
Cha Ngài, và Mẹ Maria cảm thấy trong lòng lưỡi gươm hành hạ Con Chí Thánh
mình. Từ đó, cứ hễ nhìn thấy Con là Lòng Mẹ lại nhức nhối thêm một nỗi cảm
thương không bờ bến, không lúc nào ngừng. Chúa lại ban ơn cho Thánh Cả Giuse
để Ngài biết lời tiên tri ấy, nhưng không rõ ràng bằng Mẹ Maria.Sau cùng, bà
tiên tri Anna cũng được Thánh Linh soi sáng, nên nhận ra Hài Nhi Giêsu là
Ngôi Lời Nhập Thể làm Người. Bà nói lên nhiều mầu nhiệm về ơn Cứu Chuộc. Cho
tất cả những ai đợi chờ Ngài đến được nghe.
Khi mọi nghi lễ đã xong, Đức Trinh Nữ hôn tay thượng tế cũng như Bà Anna là
bà giáo cũ của Mẹ, và xin hai vị chúc lành. Rồi Mẹ trở về nhà trọ cũng với
đoàn tháp tùng là mười bốn ngàn thiên thần trước. Trong những ngày lưu lại
Giêrusalem, Mẹ cũng đã đến đàm đạo với thượng tế Simêon và nữ tiên tri Anna
nhiều lần. Tuy Mẹ nói ít, nhưng lời nào cũng sâu ý nhiệm mầu, khiến hai vị
vừa bỡ ngỡ thán phục, vừa được an ủi rất nhiều. Những cuộc đàm đạo ấy, đã
thêm ủy lại cho hai vị, khi họ từ trần ít lâu sau.
Lời Mẹ Huấn Dụ
Hỡi con, một trong những lỗi khổ thống gây ra tai hoạ hoặc giảm bớt hạnh
phúc cho các linh hồn, đó là thực hành nhân đức một cách trễ nải ươn lười.
Chỉ vì tật nguội lạnh hèn nhát đó mà có ít người tới được chỗ thân ái hoàn
toàn với Chúa, tình thân ái mà người ta chỉ nối kết được nhờ tình yêu nhiệt
liệt. Tình yêu nhiệt liệt là tình yêu tương tự như nước sôi nhờ sức lửa. Nó
nâng cao linh hồn lên trên chính mình và trên tất cả mọi thụ tạo. Lúc đó,
càng yêu mến linh hồn càng cháy lên, càng không no thoả trong việc làm đẹp
lòng Thiên Chúa, và hao tổn thân mình để phụng sự Ngài cho tới khi biến hóa
hẳn vào Ngài.
Nhưng thương thay! Trái tim con người nhu nhược biết bao, không mấy chịu
được những gì ngược với những su hướng trần tục của nó! Nó chống lại đau khổ
và nhận chịu một cách bất nhẫn biết chừng nào! Nó quên mất rằng Thầy Chí
Thánh của nó đã là người đầu tiên chịu khổ, Ngài đã tôn trọng và thánh hoá
đau khổ trong chính mình Ngài! Ngài mà còn chịu đau khổ như vậy con người
coi đau khổ là cái gớm ghét, lại chẳng phải sấu hổ lắm ư?
Hỡi con, con không thể theo Chúa Giêsu được, nếu con không ôm lấy thánh giá
với Ngài và không làm vui lòng Ngài trong thánh giá ấy; cho rằng các thụ tạo
đã bỏ rơi con, cho rằng các chước cám dỗ xông đánh con, cho rằng các đau khổ
chết chóc vây bọc con đi nữa, cũng chẳng có gì làm con phải xao xuyến thất
vọng. Con hãy cứ tin tưởng vào ơn Chúa phù trợ và vào tình Mẹ săn sóc cho
con. Con hãy kêu lên: Chúa nâng đỡ tôi, tôi còn nao núng nỗi gì? Tôi còn có
một người Mẹ bao bọc tôi luôn luôn nữa mà;
Như vậy con sẽ duy trì được sự bằng an tâm hồn, như Mẹ đã duy trì khi lời
tiên tri của thượng tế Simêon xuyên thấu tâm hồn Mẹ.
1- Sau khi nhận ra nơi Chúa Giêsu là “ánh sáng chiếu soi các Dân Ngoại” (Lk 2:32), Simêon liền loan báo cho Mẹ Maria biết về cuộc thử thách lớn lao Đấng Thiên Sai phải chịu và tỏ cho Mẹ thấy việc Mẹ tham dự vào định mệnh buồn thương này.
Lời ông ám chỉ đến việc hy sinh cứu chuộc là những gì đã không được đề cập đến ở biến cố Truyền Tin, những lời của ông cho thấy giống như là “Lời Truyền Tin thứ hai” (Redemptoris Mater, 16), lời sẽ làm Người Trinh Nữ hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm Con của mình.
Simêon, vị đã ngỏ lời với tất cả những ai có mặt lúc ấy, sau khi chúc phúc đặc biệt cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, bấy giờ mới nói tiên tri với riêng Người Trinh Nữ là Người sẽ thông phần vào định mệnh với Con của Người. Được Thánh Linh thần hứng, ông đã loan báo cho Người Trinh Nữ rằng: “Này con trẻ sẽ là mục tiêu cho nhiều người trong Yến Duyên vấp ngã và chỗi dậy, và là dấu hiệu phản trắc (và sẽ có một lưỡi gươm đâm thâu qua lòng bà), làm bộc lộ tâm tưởng của nhiều người” (Lk 2:34-35).
2- Những lời này đã báo trước một tương lai khổ đau sẽ xẩy ra cho Đấng Thiên Sai. Thật vậy, Người là một “dấu hiệu phản trắc” phải đối đầu với việc nghiệt ngã chống đối của người đồng thời. Thế nhưng, cùng với cuộc khổ đau của Chúa Kitô, Simêon còn nêu lên một viễn tượng về tấm lòng của Mẹ Maria sẽ bị gươm sắc đâu thâu, như thế là ông đã liên kết Người Mẹ với định mệnh đau thương của Người Con.
Bởi vậy, trong khi con người lão thành đáng kính
này thấy trước được cảnh thù hận nổi dậy khiến Đấng Thiên Sai phải đối diện,
ông muốn nhấn mạnh đến cái âm dội của sự kiện này tác dụng trên tấm lòng của
Người Mẹ. Cuộc khổ đau của người mẹ này sẽ lên đến tột đỉnh nơi Cuộc Vượt
Qua, lúc mà Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ trong hy tế cứu chuộc của Người.
Những lời của Simêon, được Phúc Âm Thánh Luca ghi nhận ở đoạn 2 câu 32, đoạn
phản ảnh những bài ca về Người Tôi Tớ Chúa (x Is 42:6, 49:6), những lời nhắc
nhở chúng ta lời tiên tri về Người Tôi Tớ Khổ Đau (Is 52:13, 53:12), Đấng,
“bị thương tích bởi những vấp phạm của chúng ta” (Is 53:5), “biến mình thành
một của lễ đền bù tội lỗi” (Is 53:10), bằng việc hy sinh bản thân mình và là
việc hy sinh linh thiêng hoàn toàn vượt hơn các hy tế về lễ nghi xưa kia.
Ở đây chúng ta có thể thấy được lời tiên tri của Simêon giúp cho chúng ta ra
sao trong việc chúng ta thoáng thấy nơi nỗi khổ đau trong tương lai của Đức
Maria cái tính cách tương tự đặc thù giống như nỗi sầu đau sau này của
“Người Tôi Tớ”.
3- Mẹ Maria và Thánh Giuse đã ngỡ ngàng khi nghe thấy Simêon tuyên bố Chúa Giêsu là “ánh sáng chiếu soi các Dân Ngoại” (Lk 2:32). Đối với lời tiên tri về lưỡi gươm thâu qua lòng mình, Mẹ Maria lại không nói một lời nào. Cùng với Thánh Giuse, Mẹ âm thầm chấp nhận những lời bí nhiệm ấy, những lời tiên đoán về một cuộc thử thách hết sức khổ đau và là những lời đặt cuộc Dâng Hiến Chúa Giêsu trong đền thờ vào đúng ý nghĩa đích thực nhất của nó.
Thật vậy, theo dự án thần linh thì của lễ hy sinh được hiến dâng bấy giờ, “theo những gì được qui định trong lề luật Chúa là ‘một đôi chim gáy hay cặp bồ câu non’” (Lk 2:24), những gì cho thấy trước hy tế của Chúa Giêsu, “vì Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29); nơi của lễ hy sinh ấụy “cuộc hiến dâng” đích thực sẽ được thực hiện (x Lk 2:22), một cuộc hiến dâng sẽ có Người Mẹ hiệp với Con mình trong công cuộc Cứu Chuộc.
4- Lời tiên tri của Simêon được công bố trước khi xẩy ra cuộc gặp gỡ bà tiên tri Anna: “Bà dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và nói về Ngài cho tất cả những ai đang trông đợi sự cứu chuộc Giêrusalem” (Lk 2:38). Đức tin và sự khôn ngoan có tính cách tiên tri của vị lão bà này, người đã ôm ấp lòng mong đợi Đấng Thiên Sai ở chỗ “sống tôn thờ trong chay tịnh và ngày đêm nguyện cầu” (Lk 2:37), đã hiến thêm cho Thánh Gia niềm khích lệ để trông cậy vào Thiên Chúa Yến Duyên hơn. Vào giây phút đặc biết ấy, hành vi cử chỉ của Anna như là một dấu chỉ Thiên Chúa muốn tỏ cho Mẹ Maria và Thánh Giuse thấy, như một sứ điệp về niềm tin ngời sáng cũng như về việc trung kiên phục vụ.
Bắt nguồn từ lời tiên tri của Simêon, Mẹ Maria đã liên kết một cách chặt chẽ và huyền nhiệm cuộc đời của mình với sứ vụ đau thương của Chúa Kitô: Mẹ đã trở nên cộng sự viên trung thành của Con Mẹ trong việc cứu độ loài người.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 18/12/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tuần san L’Osservatore Romano,
ngày 1/1/1997)
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 4-7. 11-15
"Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến".
Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.
Anh em thân mến, khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu và anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con".
Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí, Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt.
Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy.
Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời.
Ðường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Anh em hãy sống hòa thuận với hết mọi người, hãy ăn ở thánh thiện, chẳng vậy không ai được nhìn thấy Thiên Chúa.
Anh em hãy coi chừng đừng ai để mất ơn Chúa, đừng để một rễ cay đắng nào mọc chồi gây xáo trộn và làm cho nhiều người bị nhiễm độc.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 102, 1-2, 13-14, 17-18a
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại từ thuở nầy tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài. (17)
Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể trong người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. - Ðáp.
2) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Ngài. Ngài biết chúng tôi được luyện bằng chất gì, Ngài nhớ rằng tro bụi là chính chúng tôi! - Ðáp.
3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại từ thuở nọ tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8,12
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ
được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6,1-6
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.
Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt
về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông
được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông
nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và
Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"
Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê
hương, gia đình họ hàng mình".
Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân,
và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.
Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó là Lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Nazarét
Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.
Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi.
Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sửng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'"
Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần?
Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.
Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.
Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây:
"Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).
Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.
Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân.
Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ:
"Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy".
Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác.
Đối với thành phần dân làng Nazarét "vấp phạm vì Người" trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ vì bỡ ngỡ về Người nhưng vẫn đặt vấn để thế giá liên quan đến xuất xứ tầm thường của Người, thì "Người không làm phép lạ nào được", bởi họ không tin, không hội đủ điều kiện để xứng đáng được thấy những sự lạ lùng từ Chúa, và Người cũng không muốn sử dụng phép lạ để họ tin, để dụ giáo, như là một cách gián tiếp trừng phạt họ, không phải vì ghét bỏ họ, cho bằng vì thương họ, muốn họ nhận ra sự thật về họ để từ đó họ có thể nhận biết Người là Thiên Chúa ở giữa họ và ở với họ, chẳng những vào lúc bấy giờ, trong hội đường và vào ngày hưu lễ, mà ở với họ và ở giữa họ ngay từ khi Người còn niên thiếu.
Nếu dân làng Nazarét sau đó nhận ra thái độ của Chúa Giêsu, một nhân vật đã từng là dân làng của họ, hôm ấy đã đối xử dường như quá bất công với họ, bởi Người tỏ mình ra ở Carphanaum, bằng việc rao giảng, chữa lành và trừ quỉ, khiến cho dân chúng kéo đến với Người chẳng những ở Galilêa mà còn ở khắp nơi nữa, thậm chí cả ở các vùng đất dân ngoại, mà Người lại "không làm phép lạ nào" giúp họ, có thể họ sẽ cảm thấy những gì được Bài Đọc 1 hôm nay nói tới, đó là "hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy".
Tại sao vậy? Nếu không phải bởi vì, như câu họa của bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận: "Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại từ thuở nầy tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài", một cảm nhận phản ảnh một đức tin về vị Thiên Chúa của lòng xót thương, như được Thánh Vịnh 102 ở Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể trong người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài.
2) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Ngài. Ngài biết chúng tôi được luyện bằng chất gì, Ngài nhớ rằng tro bụi là chính chúng tôi!
3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại từ thuở nọ tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Ngài.
Thánh ANSGARIÔ
Giám mục, tông đồ các xứ Bắc Âu (801-865)
Ansgariô (hay là Anskar theo Anh ngữ) đã trở thành biệt danh Oscar ngày nay, có nghĩa là “cây lao của Thiên Chúa”. Ansgario gốc người Đức, sinh tại Picardia. Cha Ngài là một viên chức trong triều đình vua Charlemagne, đã gởi Ngài theo học tại tu viện thánh Phêrô ở Corbia. Cậu thiếu niên đã gặp được ở đó những bậc thầy có thế giá. Các môn học trần tục làm Ngài say mê đến độ nơi tâm trí Ngài ý nghĩa tôn giáo ngày một lạc phai. Nhưng một biến cố đã đánh động Ngài mạnh mẽ, nhà vua mà Ngài biết được là rất nổi danh nơi triều đình đã chết.
Cái chết đó cho Ngài thấy được tính cách hư không của mọi cái gọi là nhân bản và trần tục, Ngài cũng nhớ lại rằng: hồi nhỏ khi mất mẹ, trong một giấc mơ, Ngài thấy Đức Trinh Nữ Maria hứa sẻ bảo vệ Ngài luôn mãi, nếu biết giữ gìn đức tin và lòng mến. Sau cùng Ngài cảm thấy rằng: Chúa muốn mình làm tông đồ. Từ đó Ngài không ngừng tiến tới trong việc học hành cả về đạo lý lẫn việc đời, Ngài nhiệt thành làm tất cả những gì là tốt đẹp. Những tiến bộ và nhiệt tâm ấy lớn lao đến nỗi chẳng mấy chốc tới phiên Ngài phải dạy lại cho các tu sĩ trẻ và trẻ em. Vào tuổi hai mươi mốt, Ngài trở thành một trong những thủ lãnh tu viện Corvey. Ở Saxe hay là Corbia-Nova, được thiết lập ngay giữa trung tâm trí thức. Là giáo sư thần học, Ngài cũng đảm nhận việc giảng dậy cho dân chúng nữa.
Vào thời này, Harold là vua miền Nam Đan mạch, khi bọn phản loạn săn đuổi, đã xin trú ngụ tại triều đình vua Lu-y đặt tại Mayence. Ong đã trở lại đạo và lãnh nhận phép rửa. Khi trở về quê hương, ông đã xin các nhà truyền giáo tới rao giảng Phúc âm cho xứ sở mình. Ebbon, giám mục Reims đã dấn thân trước hết, rồi một khi gần trở lại nước Pháp, Ngài đã chỉ định Ansgario. Ansgario lên đường với một tu sĩ khác nữa. Họ làm liều đi vào miền còn hoàn toàn ngoại giáo. Những người trẻ bị bắt làm nô lệ đã trở thành các Kitô hữu đầu tiên của xứ sở. Công việc tông đồ thật vất vả nhọc mệt. Các Ngài bị trục xuất. Các tu sĩ trở lại lãnh trách nhiệm.
Một tòa đại sứ Thụy Điển xin các thừa sai. Lần này Ansgariora đi với một tu sĩ người Corbia. Vì người bạn đường cũ đã chết. Khi đi nagng qua biển Baltique, họ bị bọn cướp tấn công bóc lột hết và bị người Nang lấy trọn quà tặng họ mang dâng nhà vua ở Upsala. Các nhà truyền giáo tới biệt thự của Birca, hoàn toàn trơ trụi. Tại đây các Ngài đã thiết lập một cộng đoàn Kitô hữu. Sau một năm rưỡi mệt nhọc làm việc tông đồ, các Ngài trở về Pháp. Nhà vua đã đặt Ansgario làm tổng giám mục Hambourg bao gồm miền Scandinavia (Bắc Âu) Ansgario đi Roma để được Đức Thánh Cha bổ nhiệm và Đức Gregôriô IV đã đặt Ngài làm đại diện tại cả Na-uy và Thụy Điển. Ngài xây cất một nhà thờ chính tòa ở Hambourg, thiết lập một tu viện cho các tu sĩ Corbia.
Người ta thấy Ngài quỳ lạy dưới chân người nghèo và khiêm tốn phục vụ họ. Ngài cũng rao giảng trong các miền lân cận bất kể những thủ địch hung ác. Khi ấy như một đám mây người Normandie đặt Hambourg vào vòng máu lửa, Ansgario chỉ còn là một kẻ lang thang sống vất vưởng. Vharles de Chauve đã chiếm một tu viện miền Flandre là nơi Ngài đã thiết lập một trường truyền giáo. Giữa cao điểm của cuộc sống khốn cực âu lo, Ngài đã không hề đánh mất lòng trông cậy vào Chúa. Cuối cùng những kẻ bách hại bị xua đuổi. Xứ truyền giáo Thụy Điển lại vùng lên.
Một cộng đồng ở Constane đã đặt Ansgario làm giám mục Brême. Ngài trở lại truyền giáo ở Đan mạch, thiết lập một trung tâm tôn gíao mới, cải hóa nhà vua.
Ansgario muốn hiến trọn đời mình cho Thiên Chúa bằng việc tử đạo nhưng Ngài đã qua đời êm ái tại Brême năm 865. Cuộc tử đạo của Ngài chính là cuộc chiến kiên trì suốt đời với nhiều những thất bại, lại ít có những thành công rực rỡ. Nhưng sự nhẫn nại của vị anh hùng giám mục lang thang này đã chuẩn bị cho cuộc trở lại các xứ vùng Bắc Âu.
Thánh BLASIÔ
Giám mục Tử đạo (…. – 316)
Có nhiều câu chuyện vây quanh thánh Blasiô. Ngài là giám mục Sêbasta, miền
Armênia; Ngài hiến cả xác hồn cho dân chúng... nhất là dân nghèo, Ngài đã
học nghề thuốc, nhưng không bao giờ chữa bệnh cho ai mà không xin Chúa giúp
trước đã, dường như vị y sĩ vĩ đại này muốn nói rằng: "Tôi băng bó cho họ
nhưng Thiên Chúa chữa lành cho họ". Ngài rao giảng, dạy dỗ, nhưng không có
bài học nào hay hơn chính gương mẫu đời Ngài.
Năm 315, một cuộc bách hại bùng ra dưới triều đại vua Luciniô. Đức giám mục
giúp đỡ các vị tử đạo. Rồi để trốn thoát các kẻ thù địch, Ngài ẩn mình ở
hang núi Agêa, là nơi Ngài sống bằng rễ cây và nước lã. Thú rừng thân tình
bao quanh Ngài và Ngài chữa lành cho những con bệnh tật. Mỗi ngày một đông
dân chúng tuốn đến với với Ngài. Nếu thấy Ngài đang cầu nguyện chúng lặng lẽ
không ngăn trở và đợi cho đến khi Ngài cầu nguyện xong. Khi đó Thánh nhân
quay lại với đoàn vật và chúc lành cho chúng và đoàn vật mãn nguyện trở lại
sa mạc.
Agricôla, quan cai trị Cappadecia tìm thú rừng sống trong các khu rừng gần
Sêbasta, để xé các Kitô hữu. Đoàn người đi săn ngạc nhiên khi thấy cả bầy
sói, gấu, sư tử trong một cái hang vây quanh một người, đang cầu nguyện. Họ
vội về báo tin cho Agricôla và ông này đã truyền bắt vị tu rừng này.
Thấy binh sĩ của nhà vua. Blasiô bình thản nói :- Tôi đã sẵn sàng. Đêm qua
Chúa hiện ra và nói với tôi, là Ngài ưng nhận lễ hy sinh của tôi.
Trên đường Ngài đi qua, dân chúng tuốn đến, trong số ấy có cả các lương dân.
Họ khóc lóc xin người chúc lành. Một người mẹ đặt đứa trẻ đang hấp hối dưới
chân Blasiô và nhìn trời bà la : - Lạy Chúa nhân từ, xin đừng bỏ qua lời cầu
của tôi tớ Ngài. Xin hãy trả lại sức khỏe cho tạo vật bé bỏng của Ngài.
Blasiô cúi xuống đứa trẻ hấp hối, cầu nguyện. Trời cao đã nghe Ngài, và
người mẹ hân hoan đón nhận lại đứa con tràn đầy sức sống.
Khi đức Giám mục xuất hiện, Agricôla đưa nhiều hứa hẹn lẫn lời đe dọa. Nhưng
điều này đã luống công. Thánh nhân nói : - Tôi không sợ các cực hình Ngài đe
dọa vì thân xác tôi nằm trong tay Ngài, nhưng linh hồn tôi thì không.
Ngài đã bị đánh đập tàn nhẫn và bị tống ngục. Các Kitô hữu tới thăm, Ngài an
ủi khích lệ và chữa lành cho họ. Ngài đã giải cứu cho một đứa trẻ gần ngộp
thở vì mắc xương cá. Vì kỷ niệm này và cũng vì lời cầu nguyện sau cùng khi
đưa cổ cho lý hình, thánh Blasiô được kêu cầu cách đặc biệt để xin Ngài chữa
lành các bệnh nhân đau cổ họng.
Những tường thuật về các phép lạ đi kèm với cái chết của Ngài thành gia sản truyền tụng rất được các giáo phụ ưa thích. Sau mỗi cuộc tra xét với một cực hình mới lại có một phép lạ đánh dấu cuộc trở lại ngay trong phòng giam của Ngài. Phép lạ lừng danh nhất là phép lạ về ngẫu tượng. Các Kitô hữu đến săn sóc những vết thương cho Ngài, đã ném xuống hồ các thần tượng của nhà cầm quyền. Họ bị tố giác và chịu tử dạo. Blasiô cũng bị kết án dìm vào hồ này, nhưng Ngài làm dấu thánh giá và đi trên mặt nước, rồi Ngài mời các quan tòa đi theo để minh chứng uy quyền các thần linh họ thờ. Những người nhận lời bị chết chìm ngay. Vị tử đạo vừa mới cho thấy vinh quang Thiên Chúa, liền được một thiên thần mời trở lại bờ hồ để chịu cực hình, Ngài vâng lời ngay. Agricôla bối rối liền truyền chém đầu Ngài. Blasiô trước khi chết, đã nài xin Chúa tỏ lòng nhân từ với những ai nhờ lời Ngài bầu cử mà xin cứu giúp.
Nguồn: daminhvn.net
http://conggiao.info/thanh-blasio-giam-muc-tu-dao--316-d-13551
Thánh Blasiô
Lễ thánh Blasiô gắn liền với việc ban phép lành và chữa bệnh đau cổ họng.
Chúng ta biết nhiều về sự sùng kính của Kitô hữu đối với thánh Blasiô hơn là tiểu sử của ngài. Trong Giáo Hội Ðông phương, ngày lễ kính ngài được coi là một ngày lễ lớn. Công đồng Oxford, vào năm 1222 đã cấm làm việc xác trong ngày lễ thánh Blasiô. Người Ðức và người Ðông Âu rất kính trọng thánh nhân, và trong nhiều thập niên, người Công giáo Hoa Kỳ thường chạy đến với thánh nhân để xin chữa bệnh đau cổ họng.
Rất ít dữ kiện được biết vê thánh Blasiô. Chúng ta tin rằng ngài là Giám mục Sebastea, chịu tử đạo dưới triều hoàng đế Liciniô ở Sebastea, Armenia, năm 316. Mãi cho đến 400 năm sau mới có huyền thoại viết về ngài. Theo đó, Thánh Blasiô là một Giám mục tốt lành, làm việc vất vả để khuyến khích giáo dân sống lành mạnh về tinh thần cũng như thể xác.
Mặc dầu chỉ dụ ”Khoan dung” do hoàng đế Liciniô ban hành, năm 311, đã cho phép tự do tôn giáo ở đế quốc Rôma hơn năm năm, nhưng ở Armenia, việc bách hại vẫn còn dữ dội. Hiển nhiên là thánh Blasiô buộc phải rời bỏ giáo phận và sống trong rừng núi. Ở đó ngài sống trong cô độc và cầu nguyện, làm bạn với thú rừng.
Một ngày kia, có nhóm thợ săn đi tìm thú dữ để sử dụng trong đấu trường và tình cờ họ đã thấy hang động của thánh Blasiô. Từ kinh ngạc cho đến sợ hãi, họ thấy vị Giám mục đi lại giữa đám thú dữ một cách điềm tĩnh để chữa bệnh cho chúng. Nhận ra ngài là Giám mục, họ bắt ngài về để xét xử. Trên đường đi, ngài ra lệnh cho một con sói phải thả con heo nó đang cắn giữ vì đó là của người đàn bà nghèo. Khi thánh Blasiô bị giam trong tù và bị bỏ đói, người đàn bà này đã đền ơn ngài bằng cách lẻn vào tù cung cấp thức ăn cho thánh nhân.
Ngoài ra, truyền
thuyết còn kể rằng, một bà mẹ có đứa con trai bị hóc xương đã chạy đến ngài
xin cứu giúp. Và sau lời truyền của thánh Blasiô, đứa bé đã khạc được chiếc
xương ra khỏi cổ.
Agricolaus, Thủ
hiến xứ Cappadocia, tìm mọi cách để dụ dỗ thánh Blasiô bỏ đạo mà thờ tà
thần. Lần đầu tiên từ chối, ngài bị đánh đập. Lần kế tiếp, ngài bị treo trên
cây và bị tra tấn bằng chiếc lược sắt cào vào thân thể. Sau cùng ngài bị
chém đầu.
Lời bàn
Bốn thế kỷ đủ để những điều tưởng tượng xen lẫn với những dữ kiện có thật. Ai dám đoan chắc tiểu sử thánh Blasiô là có thật? Nhưng chi tiết của một đời người thì không cần thiết. Thánh Blasiô được coi là một thí dụ điển hình về quyền năng của những ai tận hiến cho Ðức Kitô. Như Ðức Kitô đã nói với các môn đệ trong bữa Tiệc ly, “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, hãy xin bất cứ gì anh em muốn thì sẽ được ban cho” (Gioan 15:7). Với đức tin, chúng ta có thể vâng theo sự dẫn dắt của Giáo hội để được sự che chở của thánh Blasiô.
Nhiều người công giáo nhớ lại vào ngày lễ thánh Blasiô vì việc ban phép lành các cổ họng được làm vào ngày hôm đó. Hai cây nến được làm phép được cầm mở rộng ra, và áp sát vào cổ họng khi lời phép lành được đọc lên: “Qua lời cầu bàu của thánh Blasiô, là Giám mục và là vị tử đạo, xin Thiên Chúa chữa con khỏi bệnh tật của cổ họng và khỏi mọi sự dữ. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Việc che chở của thánh Blasiô cho những người bị đau cổ họng hiển nhiên đến từ truyền thuyết kể lại rằng một em bé được thánh nhân chữa khỏi đau cổ họng kể ở trên.
Lời cầu nguyện
Lạy thánh Blasiô, xin cầu cho chúng con khỏi bị bệnh đau cổ họng và cho chúng con được chịu mọi đau đớn vì tình yêu Chúa. Amen.
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-3-thang-2-thanh-blasio-vathanh-ansgario-tu-dao/
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 18-19. 21-24
"Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, Không phải anh em tiến tới một ngọn núi có thể sờ được, hay là lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp, hoặc tiếng kèn và tiếng gầm thét, khiến cho người nghe xin tha đừng nói với họ lời nào nữa. Cảnh tượng thật hãi hùng, đến nỗi Môsê thốt lên: "Tôi đã kinh khiếp và run sợ". Trái lại, anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến cùng Ðấng trung gian của giao ước mới là Ðức Giêsu, và đến cùng máu đã rảy khi giao ước lên tiếng còn mạnh thế hơn máu Abel.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 9. 10-11.
Ðáp: Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài (c. 10).
Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.
2) Núi Sion là cùng kiệt phương bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Ngài, tự chứng tỏ Ngài là an toàn chiến luỹ. - Ðáp.
3) Chúng tôi đã nhìn thấy, như đã nghe kể lại, trong thành trì của Chúa thiên binh, trong thành trì của Thiên Chúa chúng tôi: Thiên Chúa kiên thủ thành đó tới muôn đời. - Ðáp.
4) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. - Ðáp.
Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa
có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 7-13
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban
cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường
đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong
túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con
vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng
không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố
cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức
dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô sai đi
Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài đọc chính yếu cho phần phụng vụ Lời Chúa mỗi ngày.
Ở chỗ, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", trong sự kiện Người "gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi", "Người (đã) ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", và quả thực cái "quyền trên các thần ô uế" này nơi các tông đồ được Người sai đi như thế đã thực sự có tác dụng: "Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".
Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ được tỏ hiện ở thành quả gặt hái được bởi các tông đồ, mà nhất là ở những gì các tông đồ thực hiện theo lời Người căn dặn các vị nữa, bằng không, cho dù các vị có quyền năng trừ quỉ đấy, quyền năng ấy cũng không có tác dụng gì hay chẳng tác dụng là bao nhiêu từ các vị, như sau này đã có lần các vị đã không trừ được quỉ (xem Marco 9:18,28-29), nếu các vị không sống theo tinh thần được Người chỉ bảo cặn kẽ kỹ càng trong Bài Phúc Âm hôm nay trước khi các vị lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo của các vị:
"Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: 'Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ'".
Trong lời hướng dẫn sai đi này, các tông đồ thừa sai truyền giáo của Người cần phải tối thiểu có một tinh thần tin tưởng vào Đấng đã sai các vị, ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục và phó mặc hơn là cân đo.
Trước hết là tinh thần tin tưởng ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục: "đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo".
Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết, thậm chí cả những gì cần thiết mà có thiếu cũng vẫn có thể truyền giáo, vẫn càng đạt hiệu năng hơn, bởi tác nhân chính yếu của công cuộc và sứ vụ truyền giáo là Thánh Thần, Đấng hoàn thành mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha, và theo mẫu gương của Chúa Kitô là Đấng "cáo có hang, chim có tổ Con Người không có chỗ dựa đầu" (Mathêu 8:20; Luca 9:58).
Truyền giáo thực sự là việc rao giảng và loan truyền tin mừng cứu độ cho nhân loại, cụ thể nhất ở nơi các vị thừa sai dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới, từ thời các tông đồ trở đi, dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, theo lệnh truyền khẩn trương bất khả châm chước của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Mathêu 28:19-20; Marco 16:16); và cũng chính vì sứ mệnh truyền giáo gắn liền với bản chất của Giáo Hội này (xem Sắc Lệnh Truyền Giáo, 2), Giáo Hội mới đã được lãnh nhận "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" từ Cha do Chúa Kitô sai xuống với Giáo Hội từ Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 1:8).
Bởi thế, kinh nghiệm hoạt động tông đồ cho thấy có thời chúng ta làm được những gì chúng ta yêu thích, những gì mong muốn, những gì chúng ta có thừa khả năng, những gì chúng ta đã mang lại dồi dào thành quả thiêng liêng cho nhiều người, và chính bản thân chúng ta cũng đã từng được nhiều người biết đến cùng cảm phục, khi chúng ta dấn thân phục vụ hăng say, với tư cách tham gia hay đóng vai trò thực hiện những việc tông đồ giáo dân của mình, trong các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, phong trào v.v.
Thế nhưng, kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy không phải là không có trường hợp người tông đồ ấy lại bị người phối ngẫu của mình ngăn cản, hay bị lòng ganh tị cạnh tranh của những ai đồng hành tông đồ với mình và của mình tẩy chay loại trừ, hoặc bị liệt giường không thể làm gì được nữa v.v., chúng ta hãy yên tâm vui lòng tuân theo Thánh ý Chúa, vì chính lúc chúng ta không làm được những gì chỉ là phương tiện hơn là cùng đích truyền giáo ấy nữa lại chính là lúc chúng ta trở thành đắc lực nhất, bởi bấy giờ Thiên Chúa làm trong chúng ta qua niềm tin và sức chịu đựng của chúng ta.
Chúa Kitô cũng chỉ hoàn tất mọi sự của Người như Đấng đã sai Người mong muốn trên trần gian này một cách trọn vẹn và tối hậu không phải trong thời gian Người còn có thể đi đây đi đó rao giảng tin mừng, làm phép lạ, chữa lành và trừ quỉ, mà vào chính lúc Người kể như không còn nhúc nhích gì được nữa, trên thập tự giá ở Sọ Trường Canvê.
Sau nữa là tinh thần tin tưởng ở chỗ phó mặc hơn là cân đo: "Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Bởi vì, theo tự nhiên, con người, bao gồm cả thành phần thừa sai truyền giáo, thường lưu ý đến thành quả gặt hái được từ những gì mình làm và căn cứ vào đó để định lượng mức độ thành công hay thất bại của mình, của công việc mình làm, chứ không hay ít khi hoàn toàn chú trọng đến yếu tố chính yếu là ý muốn tối hậu của Thiên Chúa.
Điển hình nhất là chính Chúa Giêsu Kitô, Người chỉ làm sao chu toàn ý của Đấng đã sai Người mà thôi, nghĩa là việc thành công hay thất bại của Người là ở chỗ Người có hoàn thành đúng như ý muốn của Đấng đã sai Người hay chăng, chứ không phải ở chỗ cứu được tất cả mọi linh hồn hay chăng, hay có bao nhiêu kẻ đã tin vào Người, bằng không thì Người đã hoàn toàn thảm bại trong công cuộc cứu chuộc loài người khi Người bị chết trên thập tự giá ở Đồi Canvê.
Thành phần không tin Người, "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11) thì Người không cần phải bận tâm phán xét họ, cho bằng chính họ đã tự luận tội họ rồi: "Ai không tin đã bị phán xử rồi, vì họ không tin vào danh Người Con duy nhất của Thiên Chúa" (Gioan 3:18). Bởi vậy, hãy cứ để Thiên Chúa xét xử những ai chúng ta thấy gian ác, tội lỗi, cứng lòng, băng hoại v.v., kể cả những ai phạm đến chúng ta, đừng xét đoán họ, đừng nguyền rủa họ, đừng khinh thường họ, nhất là đừng trả đũa những ai phạm đến chúng ta, chúng ta mới thật sự là giống Chúa Kitô và mới có thể làm chứng nhân truyền đạt Người cho tha nhân một cách hiệu năng.
Chúa Giêsu đã sai các tông đồ đi rao giảng ở một tư thế hoàn toàn bần cùng và tin tưởng vào Đấng sai các vị đi thôi, ở chỗ "đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo". Nếu các ngài thực hiện đúng như Chúa Kitô căn dặn các vị thì các vị chẳng khác gì như những gì được bài Đọc 1 hôm nay cho biết, đó là các vị như thể đang: "tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến cùng Ðấng trung gian của giao ước mới là Ðức Giêsu".
Bởi vì vai trò rao giảng của các vị chỉ là vai trò thừa sai, từ Đấng đã sai các vị, thay Đấng sai các vị và cho Đấng sai các vị là Chúa Giêsu Kitô, Thày của các vị, nên công cuộc rao giảng của các vị cũng là của chính Người, "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý", "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), nhờ đó nhân loại nói chung và dân Do Thái nói riêng có thể nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha của Người ở trên trời, đến độ, những ai cảm nghiệm được lòng thương xót ấy sẽ không thể nào không vang lên tâm tình của Thánh Vịnh 47 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu.
2) Núi Sion là cùng kiệt phương bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Ngài, tự chứng tỏ Ngài là an toàn chiến luỹ.
3) Chúng tôi đã nhìn thấy, như đã nghe kể lại, trong thành trì của Chúa thiên binh, trong thành trì của Thiên Chúa chúng tôi: Thiên Chúa kiên thủ thành đó tới muôn đời.
4) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh.
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 1-8
"Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: "Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu", đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: "Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi". Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. - Ðáp.
3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. - Ðáp.
4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 14-29
"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng,
kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những
việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên
tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm
đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông
trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới
lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh
mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì
được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện,
và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp
thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại
thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái
nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì
vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và
vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra
hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội
vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy
Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách,
nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi
lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan,
và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các
môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô Đầu Não
Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã
chứng thực chủ đề "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm
phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi
ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".
Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh
tiếng" như
thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ
thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc
lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri
như những tiên tri khác'". Còn
riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói:
'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".
Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng
vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến
lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua
Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự
kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người
quả thực là "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".
Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân
ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong
muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ
cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy
thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này
của ông thành một: "Ðó
chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu
hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật
vốn được vua "kính nể, (vì
vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên
ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã
bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình",
như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục
của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý
của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý
muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một
người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không
thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong
tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Khi
con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan
khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ
cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng
cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô
liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu
Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các
quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một
thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt
đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".
Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt
mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài
chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem
Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối
không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô
cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài,
như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy
cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu
2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát
hại khi sau biến cố tam vị chiêm
vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại
cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).
Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực
chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành
một dấu chỉ đầy bí nhiệm ám chỉ đến cuộc tử nạn của một nhân vật sau này
sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở
Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu
27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân
lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan
18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái bấy
giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước
kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biệt được là vô tội
và tìm cách thả ra (xem Gioan 19:4,6,10-12).
Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên
quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo
trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm
trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa
tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của
ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36).
Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại"
của một nhà vua bất luân gian ác ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như
trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính
chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu
Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự
kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là
nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật
sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho
Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng
"các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người
chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan
11:50).
Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại"
của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không
hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải
chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là
thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những
gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên
Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi
Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc
tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm
chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người
cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng
cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm
tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin.
3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên.
4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa
Ngày 5 tháng 2
Thánh A-ga-ta, trinh nữ, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
A-ga-ta là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Ca-ta-na, vào thời hoàng đế Đê-xi-ô bách hại đạo (năm 251).
Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Ét-na hoạt động.
Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Tay trinh nữ cầm đèn sáng chói,
Nàng bước vào tiệc cưới thiên thu,
Chính là hôn lễ Đức Vua,
Nước Trời hoan hỷ tung hô chúc mừng.
Nàng dự yến trong cung danh dự,
Sánh duyên cùng Thiên Tử quang vinh,
Chữ trinh xe kết chữ tình,
Nết na đức hạnh công trình bao năm.
Xin chỉ dạy cách ăn thói ở,
Lấy hồng ân che chở phù trì,
Mưu thù cho dẫu tinh vi,
Quyết tâm chống lại, gian nguy chẳng sờn.
Xin Đức Mẹ là gương trinh thục
Hằng cầu thay nguyện giúp chúng nhân,
Ơn thiêng Thánh Tử tuôn tràn,
Tha hương lãnh nhận muôn vàn đỡ nâng.
Lời vinh tụng, quỳ dâng lên Chúa
Đã ban cho trinh nữ thành công,
Triều thần thiên quốc một lòng,
Nghìn thu ca ngợi hát mừng Thánh Danh.
Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành,
đã trao ban thánh A-ga-ta làm quà tặng
Bài đọc 2 Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 5/2
Trích bài giảng của thánh Mê-tô-đi-ô Xi-cu-li, giám mục, về thánh nữ A-ga-ta.
Thưa anh chị em, những người đang nghe tôi nói, như anh chị em biết, hằng năm lễ kính nhớ thánh nữ A-ga-ta tử đạo quy tụ tất cả chúng ta về nơi đây. Thánh nữ là vị tử đạo thời xưa và đứng hàng đầu nhờ cuộc chiến đấu lừng lẫy của người. Nhưng người cũng là vị tử đạo thời nay, bởi vì giờ đây người như vẫn còn chiến thắng nhờ những phép lạ khác thường làm thành vòng hoa mỗi ngày kết trên đầu người và tô điểm cho người nên xinh đẹp.
Thánh nhân thật là trinh nữ, vì đã được sinh ra nhờ Lời của Thiên Chúa bất tử (Lời cũng vì tôi đã trải qua cái chết nơi thân xác của mình), và nhờ người Con hằng gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, như thánh Gio-an, nhà thần học nói : Những ai đón nhận Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
Vậy người phụ nữ đồng trinh, người đã mời anh chị em đến tham dự tiệc thánh của chúng ta, người phụ nữ ấy đã đính hôn với một người duy nhất là Đức Ki-tô, nói theo kiểu thánh Phao-lô tông đồ về mối liên hệ vợ chồng.
Nhờ những hiểu biết đem lại ánh sáng, và nhờ máu thắm của Con Chiên đích thực của Thiên Chúa, người trinh nữ ấy đã làm cho cặp môi, đôi má và miệng lưỡi mình nên đỏ, nên tươi ; và nhờ tâm trí luôn tìm hiểu, người năng suy đi nghĩ lại và mang trong lòng cái chết của Đấng đã hết tình yêu mến mình, như thể Đấng ấy vừa mới đổ máu ra. Như thế, tấm áo người được mặc nhờ việc tuyên xưng đức tin, chẳng những mang dấu vết thắm đượm máu hồng không thể phai mờ của Đức Ki-tô, mà còn lưu truyền cho hậu thế kho tàng của đức đồng trinh đầy sức thuyết phục, với những màu sắc tươi đẹp, kèm theo các lời lẽ trào dâng như dòng suối không bao giờ cạn.
Vậy, thánh nữ thật là “tốt lành” vì thuộc về Thiên Chúa. Người được chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự tốt lành trao ban làm quà tặng cho Đấng Hôn Phu, rồi cho chúng ta nhờ việc thông ban ơn lành ; nhờ đó, thánh nữ đem lại giá trị và ý nghĩa cho danh xưng A-ga-ta của mình.
Thật vậy, còn gì tốt lành hơn là sự thiện tuyệt đối ? Ai tìm được điều gì đáng ca ngợi hơn A-ga-ta ?
A-ga-ta tốt cả về danh, tốt cả về người. A-ga-ta nổi tiếng vì những việc lẫy lừng của mình, ngay danh xưng cũng cho thấy những việc lẫy lừng người đã thực hiện ; A-ga-ta lấy danh xưng mà lôi cuốn mọi người nô nức đến với mình ; người dùng gương sáng mà dạy dỗ cho mọi người cùng với mình tiến về sự thiện đích thực là một mình Thiên Chúa.
Đức Ki-tô là phần thưởng các trinh nữ. Nào ta hoan hỷ chúc tụng Người :
Chúa là hạnh phúc các trinh nữ, xin nhậm lời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô là Đấng các thánh trinh nữ luôn hết tình yêu mến, - xin đừng để chúng con phải xa lìa tình yêu Chúa bao giờ.
Chúa là hạnh phúc các trinh nữ, xin nhậm lời chúng con.
Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương các thánh trinh nữ, - vì lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin thanh tẩy lòng trí chúng con.
Chúa là hạnh phúc các trinh nữ, xin nhậm lời chúng con.
Các thánh trinh nữ đã trọn tình vẹn nghĩa với Chúa và hết lòng phục vụ Nước Trời, - vì lời các ngài nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con sống giữa cuộc đời chóng qua này mà vẫn giữ được lòng siêu thoát.
Chúa là hạnh phúc các trinh nữ, xin nhậm lời chúng con.
Các trinh nữ khôn ngoan những kiên tâm chờ đợi Chúa, - xin cho chúng con cũng tỉnh thức đợi chờ với tất cả niềm hy vọng thiết tha.
Chúa là hạnh phúc các trinh nữ, xin nhậm lời chúng con.
Lạy Chúa, thánh nữ A-ga-ta đã luôn luôn làm đẹp lòng Chúa, vì vừa sống cuộc đời kiên trinh, vừa can trường hy sinh tử đạo, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu mà ban cho chúng con được ơn tha thứ. Chúng con cầu xin
Thánh Cecilia tử đạo vào năm 230 lúc mới 20 tuổi và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 22/11, hoặc
Thánh Catarina thành Alexandria Ai Cập, một triết gia, tử đạo năm 305 lúc mới 18 tuổi, và được Giáo Hội cử hành phụng vụ tưởng nhớ hằng năm vào ngày 25/11, hay
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, dẫn nhập
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Agata, theo nghĩa tiếng Hy Lạp “người tốt”, là một thiếu nữ Sicilien, sinh tại Catane, dưới chân núi Etna. Được tử đạo vào năm 251 trong thời bách hại của Dèce; việc tôn kính nữ thánh từ Sicile lan tràn cả Phương Đông (Constantinople) lẫn Phương Tây (Rôma, Milan, Ravenne) từ thế kỷ thứ V, được mừng vào ngày 05.02. Tại Rôma, có một thánh đường được dâng kính thánh nữ vào thế kỷ thứ V, được gọi là Saint-Agathe-des-Goths. Vào đầu thế kỷ thứ VI, Đức Giáo Hoàng Symmaque đã đưa việc tôn kính thánh nữ vào thành thánh và cung hiến một đại thánh đường trên đường Via Aurelia cho thánh nữ. Người ta cho rằng Đức Giáo Hoàng Grégoire Cả đã đưa tên thánh nữ vào Kinh Nguyện Thánh Thể Rôma; tên thánh nữ có trong các hạnh tử đạo Hy Lạp lẫn La Tinh.
Thánh nữ Agata được tôn kính cách đặc biệt tại Catane; dân thành phố này tin rằng thánh nữ đã làm nhiều phép lạ trong thời đất nước gặp khó khăn ; họ tin rằng nhờ lời cầu bầu của thánh nữ đã cứu được thành khỏi bị núi lửa Etna bùng nổ. Agata được xem như thánh quan thầy của các cô bảo mẫu, người làm chuông, làm đồ nữ trang...Ngài được kể vào các thánh Bảo Trợ, được kêu cầu khi người ta bị bệnh đau thận. Mỹ thuật trình bày thánh nữ cầm một cái dĩa trong tay, trên có đôi vú bị cắt.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh nữ Agata biết làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng việc thánh hiến sự đồng trinh và sự can đảm trong cuộc tử đạo.
a. Theo truyền thuyết, ngay từ bé, Agata đã chọn con đường tận hiến trinh khiết, hoàn toàn tự do dâng hiến cho tình yêu Chúa Kitô. Để chống lại các đòi hỏi của tổng trấn ngoại giáo Quitinien mà thánh nữ bị bắt, bị hành hình đau khổ và bị giết chết.
Thánh Méthode, giáo chủ Constantinople (+ 487), trong bài giảng ngày lễ tử đạo của thánh nữ, đã nhấn mạnh đến sự thánh hiến của thánh Agata, “đính hôn với hôn phu duy nhất là Đức Kitô... thánh nữ suy niệm và luôn chiêm ngắm cái chết của hôn phu một cách say mê”. Tình yêu nồng cháy đã làm cho thánh nữ hạnh phúc, như tên của thánh nữ, chỉ vì Thiên Chúa là nguồn mọi điều tốt lành.
b. Trong thời bách hại của Dèce, rất nhiều người được tử đạo, nhưng cũng có nhiều người chối đạo. Sự can đảm của các chứng nhân đức tin trước các lý hình nhấn mạnh đến tính chất anh hùng của hy tế và gương mẫu của họ, đã giúp đỡ rất nhiều người Kitô hữu thêm vững vàng trong đức tin, như thánh nữ Agata, theo như Hạnh tử đạo của bà, “vui tươi và chiếu sáng, bước vào tù ngục như vào một bàn tiệc.”
Thánh Méthode khuyến khích các tín hữu của ngài chạy đến với nữ thánh tử đạo, “như đang chiến thắng trận chiến hiện tại, thánh nữ Agata mời gọi mọi người đến với Bà, dạy dỗ bằng mẫu gương của mình: mọi người hãy đến với bà, đến với sự tốt lành chân thật, không gì khác hơn là chính Thiên Chúa.”
Enzo Lodi (nguồn:tgpHaNoi)
https://www.kath-vietnamesen.de/05-02-thanh-agata-trinh-nu-tu-dao-le-nho/
ÐÓA SEN TẮM MÁU ĐÀO
Mặc dầu đảo
Sicilia là sào huyệt của Mafia và là trung tâm chuyển vận bạch phiến vào Mỹ,
nhưng đó là quê hương của thánh Agata, một trinh nữ tử đạo năm 251 để bảo
toàn tiết hạnh và chứng tỏ lòng trung kiên với Ðức Tin Kitô Giáo.
Agata thuộc dòng dõi giầu sang. Con
nhà quý phái, được giáo dục sống đời đạo hạnh theo Ðức Tin
chân chính. Chúa lại ban cho nàng một nhan sắc tuyệt vời, dễ
làm xiêu lòng người. Ðang thời bách hại Kitô Giáo, bạo vương
Ðêciô ra lệnh cho Quintianô, nơi quan trấn Sicilia, phải triệt hạ tận gốc rễ
tàn tích Kitô Giáo tại đây. Vừa đến Catania, nơi sinh trưởng
của Agata, Quintianô liền nghe danh nàng. Quan trấn hạ lệnh
bắt Agata và điệu nàng vào đối chất với mình. Vừa giáp mặt
Agata, nhan sắc của nàng đã làm "phiêu hồn, lạc phách" vị
quan trấn mang nhiều dục vọng đê hèn, đến nỗi thay vì chất vấn về đạo giáo,
Quintianô đã đường mật dụ dỗ nàng phạm tội không chút thẹn thuồng! Nhưng ẩn
sau vẻ đẹp của thân xác, Agata còn trang điểm đức trinh trong thiên thần,
nàng thà chết còn hơn phạm tội mất lòng Chúa. Thấy chiêu bài
dụ dỗ không kết quả, Quintianô liền đổi giọng đe loi hăm dọa. Nhưng
Agata vẫn chai lì gan dạ, nhất định không chiều ý kẻ cuồng si. Ðổi
yêu thành ghét, Quintianô ra lệnh quẳng nàng vào "lầu xanh", nơi đây mụ tú
bà Aphrôdisia cùng với mấy người con gái của bà chuyên nghề mãi dâm, ngày
đêm thuyết phục nàng bằng lời nói cũng như hành động để đi theo con đường
tội lỗi của họ.
Suốt 30 ngày dài, Agata phải miễn cưỡng sống giữa căn nhà tội
lỗi. Ðây là một thử thách lớn lao đối với nàng! Manh tâm của
Quintianô là lợi dụng môi trường lầu xanh để phá hủy đức Khiết Trinh của
Agata và dẫn nàng tới chỗ chối bỏ Ðức tin. Nhưng ông lầm! Người trinh nữ
được trang bị bằng sự Chúa hiện diện ở mọi nơi, bằng lời cầu
nguyện và bằng chay tịnh đã anh dũng chống lại mọi mưu chước kẻ dữ. Chúa
đã ban cho nàng sức mạnh chiến thắng kể thù.
Sau 30 ngày kiên
quyết không lay chuyển, Agata bị điệu tới trước mặt quan trấn, ông nói với
nàng:
-Cô
là dòng dõi sang trọng mà không xấu hổ khi hạ mình sống đời đê hèn của Kitô
hữu ư?
Agata nhanh nhẹn
trả lời:
-Sự
khiêm hèn và đê tiện của người Kitô hữu còn đáng giá hơn sự giầu sang, niềm
kiêu hãnh và tính tự phụ của các bậc quân vương!
Những lời đanh thép đó đã khêu cơn giận của Quintianô, ông hạ
lệnh vả mặt nàng. Những cái tát, những cú đấm "thôi sơn" của
bọn lính khiến máu hồng trào ra nơi miệng và lỗ mũi. Dòng máu
trinh trong của người trinh nữ khởi sự làm chứng nhân cho bạn Tình Giêsu. Sau
đó Agata bị tống giam trong ngục với lời đe dọa nếu không chối bỏ Ðức Tin,
nàng sẽ phãi đương đầu với mọi tra tấn cực hình.
Lời đe loi đó ứng nghiệm ngay ngày hôm sau. Quintianô
ra lệnh căng thây nàng. Toàn thân bị hành hình bằng những
thanh sắt nung đỏ. Ngực nàng bị những móc sắt xé rách tan tành. Trước
cực hình dã man đó, Agata can đảm nói với Quintianô:
-Hỡi
quan độc ác, ông đã bú sữa từ ngực thân mẫu , ông không xấu hổ khi xé rách
cặp ngực của người trinh nữ không một chút xót thương ư?
Nhưng Quitianô chẳng thẹn thuồng mà cũng chẳng xót thương. Ông
ra lệnh đưa nàng về ngục rồi bỏ nàng chềt đói tại đó.
Ðêm ấy, thánh Phêrô Tông Ðồ hiện ra trong ngục và chữa lành các
vết thương trên thân xác liễu yếu của Agata. Thánh Tông Ðồ
khen nàng đã can đảm chịu khó vì Chúa Kitô. Nhưng cực hình
khác đang chờ đón nàng. Agata cảm thấy niềm an ủi vô bờ tràn
ngập tâm can, nàng lớn tiếng chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa, nàng hiến thân
chịu mọi cực hình vì yêu Ngài.
Bốn hôm sau, Agata bị điệu ra trước mặt quan trấn, ông này vô
cùng bỡ ngỡ khi thấy mọi vết thương trên thân xác nàng đã được chửa lành. Agata
nói với ông:
-Ông
hãy xem và hãy nhìn nhận sự toàn năng của Thiên Chúa, Ðấng tôi thờ kính!
Ngài hồi phục bộ ngực tôi! Tại sao ông lại muốn tôi chối bỏ
ngài? Cho dù sự tra tấn dữ tợn nhất, cho dù cái chết cay cực nhất cũng không
thể phân lìa tôi ra khỏi ngài.
Nhưng lòng dạ Quintianô đã ra chai đá, những lời của Agata càng
khiêu khích cơn giận của ông, ông liền ra lệnh rắc đổ than hồng và mảnh sành
nhọn trên mặt đất, rồi quân lính lăn tròn thân xác trần trụi của nàng trên
đó. Toàn thân Agata bị cháy xém và rách nát, nhưng tâm hồn
nàng can đảm lạ thường! Các người hiện diện mủi lòng trước gương can trường
của người trinh nữ liễu yếu đào tơ.
Trước tội ác và sự cứng lòng của Quintianô, Chúa để xẩy ra một
cơn động đất rung chuyển cả thành phố. Hai người bạn thân nhất
của quan tổng trấn bị đè bẹp dưới đống gạch đổ nát. Dân cư
trong thành hoang mang sợ hãi, họ cho rằng đây chính là hình phạt nhãn tiền
do sự độc ác của Quintianô kéo xuống trên họ. Vì sợ dân chúng
nổi loạn, quan tổng trấn truyền đem Agata về ngục. Vừa
tới ngục, nàng qùy gối rồi giang tay, ngước mắt lên trời cầu nguyện:
-Lạy
Chúa, Ngài bảo vệ con từ tuổi ấu thơ, Ngài cất khỏi con tình yêu thế tục và
ban ân sủng để con chịu đựng mọi cực hình, xin lắng nghe lời van xin của tớ
nữ trung kiên Ngài, và xin hãy đón nhận linh hồn con.
Với những lời
nguyện cầu đó, thân xác người trinh nữ ngã gục và linh hồn nàng bay về trời.
Sau khi chết, thánh Agata đã làm nhiều phép lạ. Phép lạ vĩ đại nhất là che chở thành Catania khỏi hiểm họa núi lửa Etna. Dân thành tôn nhận Người làm thánh Bổn Mạng. Mỗi lần núi lửa, dân thành Catania lại cầu khẩn và cậy trông vào sự cầu bầu của thánh nữ. Ðang khi giòng phún thạch chảy nóng tiến dần về phía thành, người ta long trọng cung nghinh tấm khăn đã che phủ xác thánh người, rồi giơ cao hướng về giòng phún thạch... Lạ thay, chẳng những nó không tiến gần thêm, mà trái lại từ từ chẩy ngược về phía núi trước con mắt ngỡ ngàng của mọi người. Chúa đã làm những phép lạ như thế để tôn vinh tớ nữ của ngài. Tên của thánh nữ được nhắc đến trong Kinh Nguyện Thánh Thể I. Hàng năm Giáo Hội mừng kính Người vào ngày mồng 5 tháng 2.
Lm Nguyễn Mạnh Thư, CRM
http://www.dongcong.net/CacThanh/TruyenCacThanh/Thang2/Agata.htm
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 15-17, 20-21
"Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước, làm cho anh em xứng đáng thi hành việc thiện".
Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, nhờ Ðức Giêsu mà trong mọi lúc, chúng ta luôn luôn hiến dâng cho Thiên Chúa của lễ ngợi khen, tức là hoa quả của miệng lưỡi ta tuyên xưng danh Người. Anh em đừng quên công việc từ thiện và sự tương tế, vì Chúa hài lòng về những của lễ như thế. Anh em hãy vâng lời và tùng phục các vị lãnh đạo anh em, vì chính các ngài canh giữ linh hồn anh em, như những người sẽ phải trả lẽ, để các ngài hân hoan thi hành việc đó, chớ không phàn nàn, vì điều đó không có lợi gì cho anh em. Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước vĩnh cửu, trở nên vị Mục tử cao cả, tức là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xin Người làm cho anh em trong các việc thiện, xứng đáng thi hành thánh ý Người, khi Người thực hiện trong anh em điều Người hài lòng, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng được vinh quang đến muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sỡ dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết
chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 30-34
"Họ như đàn chiên không người chăn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc
các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào
nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi
các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới
một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các
thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra
khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì
họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đức Kitô động lòng
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh,
chủ đề "Người
Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm
phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa
hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng, ở câu "Lúc
ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương,
vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều"
Cũng có thể vì thế, vì ảnh hưởng thành công của cuộc truyền giáo tiên khởi
này của các tông đồ cho "các con chiên lạc nhà Yến Duyên / Israel"
H
Đối với Chúa Giêsu, vì "người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (Matheu 4:4), và vì chỉ có "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) mà trước khi Người làm phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi họ lần thứ nhất, như đoạn Phúc Âm tiếp theo sau bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, "Người (đã) dạy dỗ họ nhiều điều".
"Nhiều điều" mà Chúa Giêsu đã muốn "dạy dỗ" cho dân chúng bấy giờ là những gì? Phải chăng về Nước Trời, bằng các dụ ngôn khác với những dụ ngôn Người đã được Người sử dụng trước đó?? Phải chăng là các mối Phúc Đức Trọn Lành như Người đã giảng dạy và được Thánh ký Mathêu ghi lại trong Phúc Âm của mình kéo dài đến 3 đoạn, từ đoạn 5 đến hết đoạn 7, hay cũng đã được Thánh ký Luca ghi lại trong Phúc Âm của ngài ở đoạn 6, những gì được cả 2 vị thánh ký này ghi lại hoàn toàn chưa hề có trong Phúc Âm của Thánh ký Marco???
Căn cứ vào đoạn Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm liên quan đến phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, chúng ta chẳng những biết được con số dân chúng "tấp nập kéo đến" là bao nhiêu mà còn biết cả nội dung của những gì Chúa Giêsu muốn dạy dỗ cho dân chúng bấy giờ nữa.
Trước hết, căn cứ vào phần ăn được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều mà còn thu lại được 12 thúng đầy thì con số dân chúng hiện diện bấy giờ là 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít, mà đàn bà con nít bao giờ cũng đông hơn gấp hai hay gấp ba đàn ông, thì con số dân chúng bấy giờ phải lên tới cả 15 - 20 ngàn người.
Sau nữa, về nội dung bài giảng của Chúa Giêsu, căn cứ vào Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, đoạn 6, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê còn dư 12 thúng đầy, và sau khi trốn lên núi để tránh cảnh dân chúng tôn vương mình, cuối cùng dân chúng cũng tìm thấy thày trò của Người thì Chúa Giêsu đã giảng dạy họ về Bánh Sự Sống là chính bản thân Người nói chung và thân xác của Người nói riêng cho những ai tin vào Người là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý": "Tôi chính là bánh sự sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Tôi ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống" (Gioan 6:51).
Phải, chỉ có "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống", và những ai khao khát lời Người, theo đuổi Người cho đến cùng như đám đông dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được "Người dạy dỗ họ nhiều điều", về chính bản thân của Người, nhờ đó họ mới có thể khôn ngoan và sống trọn hảo theo đúng thân phận làm người phổ quát của họ cũng như ơn gọi riêng biệt trên đời của mỗi người trong họ.
Hai chi tiết được bài Phúc Âm hôm nay ghi lại cho chúng ta thấy các tông đồ trở về sau chuyến đi rao giảng và thái độ động lòng thương của Chúa Kitô khi thấy dân chúng tuôn đến với Người như đàn chiên bơ vơ không có người chăn, là 2 chi tiết hợp với câu cuối cùng của Bài Đọc 1 hôm nay, cũng là câu kết thúc của Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái, một bức thư được Giáo Hội chọn đọc cho 4 tuần lễ đầu tiên ngày thường trong tuần của Mùa Thường Niên, đó là câu: "Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước vĩnh cửu, trở nên vị Mục tử cao cả, tức là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xin Người làm cho anh em trong các việc thiện, xứng đáng thi hành thánh ý Người, khi Người thực hiện trong anh em điều Người hài lòng, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng được vinh quang đến muôn đời. Amen".
Chúa Kitô thực sự là một vị "Mục tử cao cả" được Thiên Chúa sai đến để chăn dắt đàn chiên dân Do Thái bấy giờ, nhưng cũng chăn dắt cả đàn chiên Giáo Hội qua các vị tông đồ thay Người trong giòng thời gian lịch sử của loài người nữa, một đàn chiên bao gồm cả nhân loại cuối cùng sẽ qui tụ lại thành "một đàn chiên và một chủ chiên" (Gioan 10:16); và các tông đồ nói riêng, cũng như các vị thừa kế các ngài hay các thừa sai truyền giáo sau này, có làm được gì cũng là do và nhờ "Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" thôi, Đấng "thực hiện trong anh em điều Người hài lòng". Bởi thế, những ai nhận biết mình được Thiên Chúa xót thương nơi Con Một của Ngài, sẽ không thể nào không cảm nghiệm thấy và không thể nào không âm vang tâm tình chan chứa tin tưởng của Thánh Vịnh 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sỡ dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Ngày 6 tháng 2
Thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
Bài đọc 2 giờ kinh sách 6/2
Trích truyện tử đạo của thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn do một tác giả cùng thời thuật lại.
Thật là kỳ diệu khi thấy các vị tử đạo bị treo trên khổ giá mà tất cả đều một niềm kiên trung theo lời cha Pa-xi-ô và cha Rót-ri-ghê lần lượt khuyên bảo. Cha đặc uỷ vẫn ở yên dường như bất động, mắt đăm đăm nhìn trời. Để cảm tạ lòng nhân từ của Chúa, thầy Mác-ti-nô hát mấy thánh vịnh kèm theo câu : Trong tay Ngài, lạy Chúa. Thầy Phan-xi-cô cũng lên tiếng dõng dạc tạ ơn Thiên Chúa. Thầy Gun-xan-vô thì cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng.
Phao-lô Mi-ki, người anh em của chúng tôi, khi thấy mình ở nơi cao trọng hơn hết mà trước kia chưa bao giờ được ở, trước tiên đã nói cho những người đứng chung quanh biết mình là người Nhật và thuộc dòng Tên, mình chết vì loan báo Tin Mừng và tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân cao cả đó, rồi thêm những lời sau đây : “Đã đến lúc này, tôi thiết tưởng không ai trong quý vị lại tin rằng tôi muốn che giấu sự thật. Vậy tôi xin tuyên bố cùng quý vị là không có con đường nào đưa tới ơn cứu độ, ngoài con đường các Ki-tô hữu đang đi. Vì con đường đó dạy tôi tha thứ cho kẻ thù và mọi người đã xúc phạm đến tôi, nên tôi vui lòng tha thứ cho nhà vua và mọi người đã gây ra cái chết cho tôi, và tôi xin họ hãy ao ước đón nhận bí tích Thánh Tẩy của người Ki-tô hữu.”
Rồi đưa mắt nhìn các bạn, người khuyến khích họ trong cuộc chiến đấu cuối cùng này. Trên nét mặt mọi người thấy rạng rỡ một niềm vui, nhất là niềm vui trên gương mặt Lu-y.
Khi một Ki-tô hữu nói lớn với người rằng chẳng bao lâu nữa người sẽ ở trên thiên đàng, thì các ngón tay và toàn thân người biểu lộ niềm vui chan chứa, khiến ai nấy đều đưa mắt nhìn người.
An-tôn, ở bên cạnh Lu-y mắt đăm đăm nhìn trời, sau khi kêu tên cực trọng Giê-su, Ma-ri-a, thì xướng thánh vịnh đã học được trong lớp giáo lý ở Na-ga-xa-ki : Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi. Quả vậy, trong lớp đó, để dạy giáo lý, người ta cho các trẻ em học thuộc lòng một số thánh vịnh.
Sau hết, người thì lặp lại nhiều lần “Giê-su, Ma-ri-a” với nét mặt bình thản, người thì khuyên bảo những kẻ đứng chung quanh sống sao cho xứng danh Ki-tô hữu. Với những hành vi tương tự, các ngài tỏ ra sẵn sàng chịu chết.
Bấy giờ, theo thói quen của người Nhật, bốn đao phủ rút kiếm ra khỏi bao : thấy cảnh tượng khủng khiếp đó, mọi tín hữu kêu lên : “Giê-su, Ma-ri-a”, tiếng khóc than thảm thiết tiếp theo sau vang lên thấu tận trời. Trong khoảnh khắc, các đao phủ đã kết liễu cuộc đời mỗi vị bằng một hay hai nhát kiếm.
Ngày 05/02/1597, trên một chuyến tàu, Miki và 25 bạn đồng đội bị bắt và bị treo lên những cây thập tự đối diện với bờ biển. Tuy bị treo nhưng Miki và các bạn vẫn luôn vui tươi và không ngừng giảng đạo và khuyên răn những người đến xem. Ngài kêu gọi họ ăn năn trở lại. Ngài tha thứ cho những kẻ sỉ vả và kết án ngài. Quá tức giận, họ đã đâm ngài cùng các bạn. Phaolô Miki và các bạn được diễm phúc tử đạo. Các ngài đã bị đóng đinh, vì thế các ngài cũng được tôn vinh cùng với Ðức Kitô.
PHAOLÔ MIKI VÀ NHỮNG VỊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI CỦA NHẬT BẢN
Những ngày đầu tháng 2 năm 1597, một đoàn phạm
nhân bị dẫn đi rảo qua các thành phố của Nhật Bản, ở những nơi có đông người
công giáo sinh sống. Đoàn phạm nhân này là những người bất tuân lệnh truyền
của Hoàng đế trong chiếu chỉ cấm đạo. Nhà cầm quyền dùng những người này
trong kế hoạch hăm dọa và răn đe những người công giáo cứng đầu, là những
người không
Nổi lên ở trung tâm của đoàn người ấy là một chàng trai trẻ có tên là Phaolo
Miki. Dù bị kệt sức, thân thể loang lổ và xấu xí, không ai nhìn vào nhóm cái
vị tử đạo mà không nhận ra dáng vẻ thanh cao của chàng trai. Phaolo mang tấm
áo dòng đen đơn giản một tu sĩ Dòng Tên trong chuyến hành trình đi đến cái
chết, nhưng mọi người Nhật đều nhận ra rằng, nếu muốn Phaolo hoàn toàn có
thể mang bộ Kimono giàu sang và mang theo bên hông mình hai thanh gươm vốn
thường được đeo bởi các Samurai quý tộc.
Phaolo Miki sinh năm 1564 tại Tokushima, thuộc đảo Shikoku. Năm tròn 4 tuổi,
cả gia đình Miki mình theo đạo công giáo. Cha của Phaolo Miki là Miki
Handayu một thành viên danh dự của vương triều Oda Nobunaga. Tháng 8 năm
1586, khi được 22 tuổi, Phaolo Miki vào nhà Tập Dòng Tên và bắt đầu chương
trình học để chuẩn bị làm linh mục. Đúng ra, Phaolo Miki hoàn tất chương
trình ngay đúng vào thời điểm mà mình bị bắt. Cái chết tước đi khỏi Phaolo
vinh dự được làm vị linh mục người Nhật Bản đầu tiên, và trao tặng cho Ngài
triều thiên tử đạo đầu tiên trên đất nước Nhật Bản.
Năm mươi năm trước, khi Thánh Phanxicô Xavier gặp được một số người Nhật Bản
đã được rửa tội đã quyết định khởi hành đến quần đảo Nhật Bản để truyền
giáo. Sau gần hai năm, thánh Phanxicô lập được một nhóm các thừa sai cho xứ
này, trước khi Ngài tiếp tục chuyến hành trình đến với đất Trung Hoa. Nhóm
các thừa sai này đã gia tăng vững vàng và đẩy mạnh công cuộc truyền giáo
trên đất Nhật. Chưa tới 40 năm sau, đã có hơn 200.000 người công giáo trong
toàn nước Nhật. Nhiều lãnh chúa và tướng lĩnh từ nhiều tôn giáo khác nhau
bước vào đạo công giáo, và những kẻ thuộc quyền cũng bước theo gương của
họ.
Tuy nhiên, việc phát triển và lan rộng của đạo công giáo cũng gặp nhiều
chống đối ở nhiều nơi khác nhau. Vào thế kỷ thứ 16, Nhật là một đế quốc được
cai trị bởi hai thế lực tối cao là Hoàng đế, người nắm quyền về tinh thần,
và các tướng quân (Shogun) là những người nắm quyền trên những lãnh địa khác
nhau của đất nước. Dưới hai thế lực này, nước Nhật bị chia thành hơn 60
vương quốc và lãnh địa lớn nhỏ khác nhau. Trong nhiều vùng, đạo công giáo
hoàn toàn bị cấm cách, các nhà truyền giáo luôn bị đe dọa và không được phép
thực hiện bất cứ loại hình mục vụ tôn giáo nào. Trong những vùng khác của đế
quốc, tiến trình truyền giáo diễn ra hết sức chậm do những chống đối từ phía
các lãnh chúa, các nhà sư và những người lãnh đạo phật giáo luôn đặt những
người theo đạo công giáo dưới sự đe dọa nghiêm trọng.
Năm 1582, tướng Hideyoshi lên cầm quyền thống trị toàn nước Nhật và bắt đầu
cuộc bách hại hung bạo dành cho đạo công giáo. Cuộc bách hại của ông đạt đến
đỉnh điểm vào năm 1587 với sắc lệnh bắt đạo nghiệt ngã.
Cuối tháng 12 năm 1596, một đạo quân của hoàng đế bao vây những căn nhà bị
tình nghi ở Miyako và Osaka. Sáu vị thừa sai dòng Phanxicô, một nhóm 18 giáo
dân và 2 vị thừa sai Dòng Tên bị bắt. Theo điều khoản đã được hoàng đế ban
ra, những người này bị kết án xẻo tai như dấu hiệu của một sự tủi nhục, và
sẽ bị đóng đinh vào thập giá ở Nagasaki.
Ngày 5.2. 1597, trên một ngọn đồi bên ngoài thành phố Nagasaki, hai mươi sáu
cây thập giá được dựng lên cho các bị tử đạo. Đó là cuộc tử đạo đầy tiếng
hát và kinh nguyện.
Khi những thánh giá của các vị tử đạo được dựng lên, Cha Peter Baptist, bề
trên của dòng Phanxicô, cao giọng bắt hát bài Benedictus, trong khi ấy cả
nhóm lý hình đứng lặng yên kính cẩn, cả nhóm tử đạo đồng thanh hát trọn bài
ca: “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của Israel, đã viếng thăm cứu chuộc
dân Người… Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn cho Vầng Đông tự chốn cao vời đến
viếng thăm ta. Soi sáng những ai ngồi nơi tối tăm và trong bóng tử thần, dẫn
ta bước vào đường nẻo bình an.” Dõi mắt nhìn quanh những người bạn đồng hành
của mình đang sẵn sàng cho hy lễ, Phaolo Miki thầm thĩ dâng lời nguyện cuối
cùng của cuộc đời mình: “Giống Thầy mình, tôi sẽ chết trên Thập Giá. Giống
như Người, con tim tôi sẽ bị xé nát bởi một lưỡi giáo. Nhờ đó, dòng máu của
tôi và tình yêu của tôi sẽ tuôn chảy trên mảnh đất này và thánh hóa nó nhân
danh Người.”
Trong số các vị tử đạo có ba trẻ còn ở tuổi thiếu niên. Nhóm trẻ cũng cao
giọng với bài hát Laudate Pueri, tiếng hát lịm tắt khi lưỡi giáo xuyên qua
con tim của họ.
Các vị tử đạo tiên khởi trên đất Nhật được Đức Thánh Cha Urbano VIII phong
chân phướng ngày 15.9.1627 và được Đức Thánh Cha Pio IX phong hiển thánh
ngày 8.7.1862.
26 cây thập giá trên một ngọn đồi ở thành phố Nagasaki đầu năm 1597 là lễ dâng hoa trái đầu mùa của Hội Thánh Nhật Bản. Dòng Tên góp phần vào hiến tế ấy ba anh em người bản xứ: thánh Phaolô Miki, 33 tuổi, lúc ấy đang chuẩn bị chịu chức linh mục; thánh Giacôbê Kisai, 64 tuổi, tu huynh; thánh Gioan Soan, 19 tuổi, giáo lý viên đang tìm hiểu Dòng Tên. Các vị còn lại gồm 6 thừa sai dòng thánh Phanxicô và 17 giáo dân mà người trẻ nhất mới 11 tuổi.
Người đầu tiên loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho Nhật Bản là thánh Phanxicô Xavier. Khu vực truyền giáo này thu hút nhiều thừa sai và lớn mạnh nhanh chóng. Chỉ trong vòng 50 năm, số tín hữu đã lên đến 200 ngàn. Dòng Tên cũng thành lập một tỉnh Dòng riêng với hơn 120 anh em mà đa số là người Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ XVI, chế độ quân phiệt ở trung ương đang cố gắng buộc các sứ quân ở các địa phương phải phục tùng để thống nhất quyền lãnh đạo đất nước trong tay một vị tướng, nhờ đó có thể phản ứng hữu hiệu khi các đế quốc Châu Âu có ý đồ xâm lăng. Người Nhật Bản vốn thích cái gì mới, lại thấy người Châu Âu chế tạo được tàu vượt đại dương, súng bắn xa hàng loạt, nên kính nể và dễ dàng đón nhận tôn giáo do các thừa sai Châu Âu đem tới. Điều này làm cho giới cầm quyền quân phiệt lo ngại. Họ sợ người Công Giáo sẽ nghe theo các sứ quân địa phương, hoặc sẽ ủng hộ các nước Châu Âu mà chống lại họ. Để cảnh cáo và ngăn chặn, họ cho bắt mấy thừa sai cùng với một số tu sĩ và giáo dân bản xứ đem đi xử tử.
Thánh Phaolô Miki được rửa tội cùng với cả gia đình lúc ngài mới 5 tuổi, và gia nhập Dòng Tên lúc ngài 22 tuổi. Trong thời gian học hành, ngài đã cho thấy tài năng của một nhà giảng thuyết đầy triển vọng. Vào những tháng nghỉ học, ngài đã từng đi giảng ở những tỉnh miền nam cũng như tại kinh đô Myako. Cuối năm 1596, ngài đang học tại nhà Dòng ở thành phố Osaka thì bị bắt cùng với tu huynh Kisai và ứng sinh Gioan Soan. Ngày nay nhiều sử gia vẫn thắc mắc tại sao nhà cầm quyền lại bắt 3 tu sĩ Dòng Tên này. Riêng thánh Phaolô Miki, ngài không hề thắc mắc, trái lại cảm thấy hết sức hân hoan: “Tôi sung sướng được giống Chúa phần nào”. Cùng với cả nhóm 26 chứng nhân, ngài được dẫn lên kinh thành Myako, và cùng bị cắt tai, cắt mũi, rồi bị đem đi diễu hành cho mọi người đều thấy.
Nhà cầm quyền chọn Nagasaki làm pháp trường hẳn là có ý đe dọa người Công Giáo và người nước ngoài, vì đó là thành phố cảng đông người Công Giáo và người nước ngoài nhất. Trên một đỉnh đồi, người ta dọn sẵn 26 cây thánh giá. Đoàn người bị kết án tử hình chẳng những không hề tỏ ra sợ hãi mà còn luôn miệng ca hát. Người ta buộc chân tay và bụng mỗi người vào một cây thánh giá, rồi dựng lên. Hôm ấy, dân chúng đến dự rất đông. Từ trên thánh giá, 26 chứng nhân đồng thanh hát vang: “Chúng con ca ngợi Chúa là thượng đế, chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể…” Rồi thánh Phaolô Miki hùng hồn nói về Đức Kitô, kêu gọi tín hữu vững tin và mời gọi lương dân tìm hiểu đạo. Khi được lệnh, lý hình lấy giáo đâm mỗi vị hai nhát chéo xuyên qua ngực. Thánh Phaolô Miki và các bạn đã chết trên thập giá, giống Chúa Kitô, như ngài mong ước.
Chế độ quân phiệt Nhật Bản qua đi mà không ai thương tiếc. Trái lại, 26 cây thánh giá trên ngọn đồi thành phố Nagasaki đã vượt mọi thử thách của thời gian, nhắc nhở mọi người về tình yêu của Con Thiên Chúa xuống trần để cứu đời.
Lạy Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các Thánh, ngang qua thập giá Chúa đã thương gọi thánh Phaolô Miki và các bạn vào cõi sống. Nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp, xin Chúa ban cho chúng con được can trường giữ vững đức tin mà chúng con tuyên xưng cho đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, là Thiên Chúa và là Chúa chúng con. Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Phaolô Miki là một trong 3 Giêsu-hữu thuộc nhóm 26 thánh tử đạo đổ máu ngày 05.02.1597 trên đồi Tateyama, gần Nagasaki (Nhật Bản), trong đó có: 6 nhà truyền giáo Tây Ban Nha thuộc Dòng Phanxicô ; 3 giáo lý viên thuộc Dòng Tên Nhật Bản, trong số đó có Phaolô Miki, còn có 17 giáo dân người Nhật cùng tử đạo.
Phaolô Miki được nêu danh đặc biệt vì thái độ anh hùng khi ngài bị đóng đinh cùng với các bạn. Các vị này là những người tử đạo đầu tiên của miền Viễn Đông được ghi vào sách các thánh tử đạo (Martyrologium). Trong số này, cũng có các em dưới 14 tuổi: Louis, André, Antoine. Chứng nhân cuộc tử đạo này đã nói về Antoine: “Đôi mắt hướng về trời, sau khi gọi danh thánh Giêsu và Maria, em bắt đầu cất tiếng hát Thánh Vịnh: “Các em hãy ca ngợi Thiên Chúa” mà em đã học tại Nagasaki, trong trường giáo lý”.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện nhập lễ nói: Thiên Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh ; lời kinh này đã gọi Miki và các bạn “đã vượt qua Thánh giá để đi vào sự sống”.
Em Antoine, khi bị một vị quan dụ bỏ đạo, đã nói: “Thập giá không làm tôi sợ ; tôi lại khao khát nó vì tình thương Chúa Kitô”.
Từ trên Thánh giá, Phaolô Miki đã nói với đám đông tụ họp: ”Tôi muốn nói với anh em điều này: không có con đường cứu độ nào ngoài con đường người Kitô hữu đi. Tôn giáo này dạy tôi tha thứ, tôi xin tha thứ cho nhà vua cách thật lòng và tất cả những người tạo ra cái chết của tôi, và tôi cầu nguyện để họ có thể lãnh nhận phép rửa của người Kitô hữu”.
Bài đọc một (Gl 2,19-20) nhắc lại những lời của Phaolô Miki: Tôi chịu đóng đinh vào cây Thánh giá cùng với Đức Kitô : tôi sống, nhưng không phải là tôi, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi. Từ trên cao của 26 cây Thánh giá, các thánh tử đạo ở Nagasaki đã trở thành hình ảnh sống động của Đức Kitô, Đấng kêu gọi các môn đệ đi theo Người: Nếu ai muốn theo tôi, phải bỏ mình, vác thập giá của mình và theo tôi (Mt 16,25).
b. Phaolô Miki và các bạn đã gìn giữ và tuyên xưng đức tin cho đến lúc chết. Trình thuật về cuộc tử đạo của họ, do một chứng nhân ghi lại, cho thấy hiến tế của họ như một Phụng Vụ : người ta hát Thánh Vịnh “Các em, hãy ca ngợi Chúa”; người ta kêu đến thánh danh Giêsu và Maria ; người ta đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng và người nào đó đã lập lại lời van xin của người trộm lành : Lạy Chúa, xin nhớ đến con. Cuối cùng, 4 lý hình đã chấm dứt chứng cứ anh hùng của đức tin bằng việc lấy giáo đâm vào tim, trong khi các Kitô hữu vẫn kêu lên: ”Giêsu, Maria !” Như thế đối với họ, cũng như đối với Chúa Giêsu trên đồi Calvariô: ”Tất cả đã hoàn tất” (Ga 19,30).
Lạy Chúa là nguồn sức mạnh của các thánh, Chúa đã gọi thánh Phao-lô Mi-ki và các bạn bước lên thập giá mà vào cõi trường sinh. Xin Chúa thương nhậm lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con hằng can đảm tuyên xưng đức tin, và trung thành giữ vững đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin