SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 


PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

TUẦN VIII THƯỜNG NIÊN


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


 

Dẫn Nhập:

Phụng niên của Giáo Hội bao gồm, theo thứ tự: Mùa Vọng và Giáng Sinh cùng Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh cùng Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh. Tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, cũng là lễ mở đầu cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh. Tột đỉnh của Mùa Phục Sinh là Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, cũng là lễ mở đầu cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, một thời điểm được kết thúc vào lễ Chúa Kitô Vua liên quan đến mầu nhiệm cánh chung.

Như thế, theo phụng niên Mùa Thường Niên được chia làm hai phần: Mùa Thường Niên sau Giáng Sinh, kéo dài ít là 5 tuần lễ, như Chu Kỳ Năm C 2013, hay nhiều nhất là 9 tuần lễ, như Chu Kỳ Năm A 2011; và Mùa Thường Niên sau Phục Sinh, thường tiếp nối bằng cách bỏ đi một tuần sau Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, chẳng hạn Chu Kỳ Năm B 2014 và 2021, Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kết thúc ở tuần 6 thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được tiếp tục ở tuần 8 ngay sau Chúa Nhật Hiện Xuống.

Nếu phụng niên cho các Chúa Nhật được chia ra làm chu kỳ 3 Năm A-B-C, theo Phúc Âm Thánh Mathêu (A), Phúc Âm Thánh Marco (B) và Phúc Âm Thánh Luca (C), thì phụng niên cho ngày trong tuần được chia ra làm Năm I (năm lẻ, như năm 2015) và Năm II (năm chẵn, như năm 2016)nhưng chỉ áp dụng cho bài đọc 1 mà thôi, còn Phúc Âm thì tiếp tục theo thứ tự như sau: 9 tuần lễ đầu (hậu Giáng Sinh) theo Thánh ký Marco là vị thánh viết cuốn phúc âm có thể nói là đầu tiên và ngắn nhất, 12 tuần lễ tiếp (tức từ tuần 10 đến hết tuần 21) theo Thánh ký Mathêu và 13 tuần lễ cuối (tức từ tuần 22 đến 34) theo Thánh ký Luca

Nếu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là thời điểm kéo dài của Mùa Giáng Sinh và tiếp tục chủ đề "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" của Mùa Giáng Sinh, thì Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh cũng tiếp tục chủ đề "Thày là sự sống" của Mùa Phục Sinh. Đó là lý do, trong mấy tuần lễ đầu của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh có các Chúa Nhật hay ngày trong tuần là những Lễ Trọng liên quan đến sự sống thần linh

Trước hết là Chúa Nhật Lễ Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng ban sự sống; sau Chúa Nhật Hiện Xuống là Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi, nguồn mạch sự sống thần linh; trong chính tuần lễ sau Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi là Thứ Năm Lễ Mình Thánh Máu Thánh Chúa Kitô, bí tích thông ban sự sống thần linh; một tuần sau Thứ Năm Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô là Thứ Sáu Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, động lực thông ban sự sống thần linh; ngay sau Thứ Sáu Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là Thứ Bảy Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, Mẹ của sự sống thần linh. Chính vì một loạt Chúa Nhật từ sau Chúa Nhật Hiện Xuống liên quan đến các Lễ Trọng về Sự Sống như thế mà PVLC cho các Chúa Nhật sau Hiện Xuống là PVLC cho các Lễ Trọng như được liệt kê trên đây, chứ không phải PVLC cho Chúa Nhật Thường Niên.

Ngo
ài ra, nếu tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một biến cố Người chính thức và công khai tỏ mình ra cho riêng Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, để mở màn cho sứ vụ Thiên Sai của Người nơi cộng đồng xã hội Do Thái là thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa đang trông mong Đấng Thiên Sai, nhất là trong thời gian họ đang bị đế quốc Rôma đô hộ, thì chủ đề chung của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh quả thực là "Lời ở giữa chúng ta", tức giữa Dân Do Thái. Đó là lý do chiều hướng của phụng vụ Lời Chúa cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hoàn toàn nhắm đến dân Do Thái, với những bài Phúc Âm của Thánh ký Marco trình thuật về một Chúa Kitô Thiên Sai của dân Do Thái.

 nếu tột đỉnh của Mùa Phục Sinh là Lễ Hiện Xuống, một biến cố Chúa Kitô Phục Sinh, qua thành phần chứng nhân của Người, nhờ được "mặc lấy quyền lực từ trên cao" (Luca 24:49), bắt đầu tỏ mình ra "cho mọi tạo vật" (Marco 16:15) và "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8), thì chủ đề chung cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh đúng là "sự sống" - "Thày là sự sống", một "sự sống đời đời" ở chỗ "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô Cha sai" (Gioan 17:3), mà muốn "nhận biết" là sự sống đời đời thì cần phải được rao giảng bởi "Giáo Hội lữ hành tự bản chất là truyền giáo" (Sắc Lệnh Truyền Giáo Ad Gentes của Công Đồng Chung Vaticanô II - đoạn 2)


Tuy nhiên, Giáo Hội Chúa Kitô chỉ có thể rao giảng và làm chứng về Chúa Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Con Thiên Chúa hằng sống, với Chúa Thánh Thần và bởi Chúa Thánh Thầh mà thôi, một Ngôi Thần Linh đã hiện xuống chẳng những trên chung các tông đồ như luồng gió mạnh tràn vào đầy nhà, nơi các vị đang qui tụ, mà còn trên từng vị bằng hình lưỡi lửa, một Ngôi Thánh Linh được Chúa Kitô Thăng Thiên từ Cha sai đến không phải chỉ cho nội bộ Giáo Hội mà là cho toàn thể nhân loại qua Giáo Hội, bằng chứng từ của Giáo Hội, những chứng từ bao gồm 3 chiều kích của sứ vụ Thánh Linh trong việc tố giác, hay nói cách khác, chứng tỏ cho thế gian biết về tội lỗi, về công chính và về luận phạt (xem Gioan 16:8), tức là làm cho thế gian "tội lỗi", qua chứng từ "công chính" của Giáo Hội, để được cứu rỗi, chứ không bị "luận phạt".

Dầu sao tất cả những gì Thánh Thần thực hiện đều vì Đức Kitô, cho Chúa Kitô và dẫn đến Chúa Kitô, qua Giáo Hội của Người và với Giáo Hội của Người, như chứng nhân và thừa tác của Người, Đấng đã sai các vị "đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Marco 16:15), để các vị "tuyển mộ môn đồ ở mọi dân nước, và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cùng giảng dạy cho họ những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu 28:20), những gì về "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6): "là đường" qua quyền năng của Người, "là sự thật" nơi giáo huấn của Người và "là sự sống" với lòng thương của Người.

Đó là chủ đề chính và là chiều hướng của phụng vụ Lời Chúa cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh nhắm đến chung nhân loại, qua trung gian Giáo Hội, bởi Thánh Linh, Đấng tác động Giáo Hội bằng chính Lời Chúa được Giáo Hội cử hành, rao giảng và hiện thực, nhưng trước hết với những bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (từ tuần 10 đến hết 21), một phúc âm viết cho dân Do Thái để chứng thực Chúa Kitô đúng là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái, và chính vì là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái mà Người mới thực sự chính là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, như Phúc Âm Thánh ký Luca chứng thực (từ tuần 22 đến hết 34), một Phúc Âm được một vị Thánh ký xuất thân từ dân ngoại viết cho dân ngoại. 

Nếu để ý chúng ta sẽ thấy chủ đề suốt phụng niên của Giáo Hội rất ăn khớp với nhau:

1- Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh và Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh: "Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể (Mùa Vọng) và ở giữa chúng ta (Mùa Giáng Sinh). Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người (Từ Lễ Hiển Linh tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa), vình hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý (Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh)" (Gioan 1:14);

2- Mùa Chay (6 tuần rưỡi) và Tuần Thánh: "Người ta sống không nguyên bởi bánh (4 tuần đầu Mùa Chay), mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (2 tuần cuối Mùa Chay)" (Mathêu 4:4); "Con Người đến không phải để được hầu hạ (3 ngày thường đầu Tuần Thánh) mà là hầu hạ (Thứ Năm Tuần Thánh) và hiến mạng sống mình cho nhiều người được cứu độ (Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần Thánh)" (Mathêu 20:28)

3- Mùa Phục Sinh và Mùa Thường Niên sau Mùa Phục Sinh: "Thày là sự sống lại (Tuần Bát Nhật Phục Sinh) và là sự sống (6 tuần còn lại của Mùa Phục Sinh)" (Gioan 11:25); "Thày là đường (qua quyền năng chữa lành và trừ quỉ của Người), là sự thật (nơi giáo huấn mạc khải và trọn lành của Người) và là sự sống (với lòng thương xót nhân ái và phục vụ của Người)" (Gioan 14:6)



Thứ Hai sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 I: (Năm I) Hc 17, 20-28

"Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy nhận biết công minh của Người".

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý.

Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao.

Hãy thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên Chúa. Ðừng ỷ lại vào sự sai lầm của bọn gian ác. Hãy thú nhận tội lỗi trước khi chết, vì chết rồi, thì không còn thú tội được nữa. Ngươi hãy thú nhận tội lỗi khi còn sống, hãy thú nhận tội lỗi khi còn sống và còn khoẻ mạnh.

Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn lao dường nào!

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 6. 7

Ðáp: Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa (c. 11a).

Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi". - Ðáp.

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này. - Ðáp.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 17-27

"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ". Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa".

Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

"Chúa Giêsu trìu mến nhìn người ấy": "Ngươi chỉ còn thiếu một điều"
SUY NIỆM

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (10:27-37) cho Thứ Hai Tuần 8 Thường Niên hôm nay là câu Chúa Giêsu trả lời cho câu hỏi của một người thành khẩn hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy, trước hết, sự sống đời đời được chất chứa ngay trong Thập Giới, nghĩa là ai tuân giữ các giới răn, ít nhất tránh được những gì là tiêu cực thì cũng được rỗi, như Chúa Giêsu đã liệt kê: "đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ".
Ở đây, chúng ta chỉ thấy 7 điều trong Thập Giới mà thôi, từ điều 4 tới điều 10: điều 4 - "thảo kính cha mẹ", điều 5 - "chớ giết người", điều 6 và 9 - "chớ ngoại tình", điều 7 và 10 - "chớ lấy của người" hay "chớ lường gạt" cũng có nghĩa là "chớ tham của người", và điều 8 - "chớ làm chứng dối", hoàn toàn không thấy 3 điều đầu tiên liên quan đến Thiên Chúa đâu. 
Vậy chẳng lẽ không cần 3 điều đầu tiên và chính yếu hết sức quan trọng trong 10 điều răn Chúa thì cuối cùng cũng được cứu rỗi, cũng được sống đời đời hay sao?
Có thể, đối với Chúa Giêsu, 3 điều đầu tiên trong Thập Giới chưa được Người nhắc đến liên quan đến vấn đề thứ hai như Người đặt ra cho kẻ đặt vấn đề "được sống đời đời", đó là: "ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Đúng thế, vấn đề thứ hai được Chúa Giêsu nêu lên sau khi liệt kê 7 điều tối thiểu trong Thập Giới thật sự là liên quan đến 3 điều đầu tiên của Thập Giới. Vì một khi thực hành được vấn đề thứ hai này thì con người ta nói chung và con người giầu có trong bài Phúc Âm nói riêng đúng là "thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự" (điều 1 trong Thập Giới).
Tuy nhiên, trong trường hợp của con người giầu có trong bài Phúc Âm này cũng rất đặc biệt, ở chỗ, cho dù không thể làm theo lời khuyên của Chúa Giêsu trên đây, để có thể sống trọn lành hơn, nhưng người này vẫn không tham lam quá độ, hay vì tham lam mà lường gạt và gian lận sản vật của ai, thậm chí coi tiền bạc hơn mạng người, hay giầu có mà sinh tật trai gái ngoại tình, hoặc khinh thường bất kính với cha mẹ v.v. 
Đó là lý do, như Phúc Âm thuật lại, "Chúa Giêsu trìu mến nhìn người ấy", sau khi nghe người này cho biết là "Lạy Thày, những điều ấy tôi đã giữ từ nhỏ". Và đó cũng là lý do Chúa Giêsu mới nhắc nhở con người đã đủ điều kiện tối thiểu để "được sống đời đời" ấy rằng "Ngươi chỉ còn thiếu một điều", đó là sống trọn lành hơn, một đời sống trước hết mang đến cho chính bản thân của đương sự cái lợi đầu tiên đó là được bình an vui sống, chứ không còn cảm thấy băn khoan khắc khoải và bất an nữa, dù bản thân và đời sống của đương sự "có nhiều của cải", một tâm trạng mà đương sự đã không thể nào che giấu ở ngay vấn đề được đương sự thoạt tiên đặt ra hỏi Chúa Giêsu "tôi phải làm gì để được sống đời đời", nhất là qua thái độ cuối cùng của đương sự "bỏ đi với nét mặt u buồn", sau khi nghe lời khuyên sống trọn lành của Người.

Trong lời khuyên của Chúa Giêsu "ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", chúng ta thấy Người không bảo người giầu có đem bố thí gia tài của anh ta, mà bán trước rồi bố thí sau. "Bán" tr
ước đây có nghĩa là gia tài này có giá trị chứ không phải đồ bỏ, và "bố thí" sau đó "cho người nghèo khó" có nghĩa là trao tặng những gì quí báu của mình cho thành phần có thể hiểu là nghèo khó thật sự về vật chất cần được chia sẻ giúp đỡ, mà cũng có thể nghèo khó về tinh thần bởi lòng tham vô đáy của con người cần ý thức lại trước gương từ bỏ của nghĩa cử "bố thí" rộng lượng của những ai muốn theo Chúa.

Và cũng chỉ sau khi "bán" và "bố thí" "tất cả gia tài" của mình đi, con người mới được "kho báu trên trời", ngay cả trước khi "theo" Chúa, ch
ứ không phải chỉ sau khi theo Chúa mới được. Bởi vì "kho tàng của các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó" (Mathêu 6:21). Như thế, so với "kho báu trên trời" thì "tất cả gia tài" của con người trên trần gian này chẳng có là gì, vậy mà chỉ cần "bán" và "bố thí" đi "tất cả gia tài" chẳng bao nhiêu của mình thì họ như thể đổi 1 xu lấy 1 triệu vậy.

Vì cho dù "tất cả gia tài" của con người ở trên đời này có giá trị đến đâu chăng nữa, cũng không quí bằng "kho báu trên trời" vốn l
à những gì vô giá và không gì có thể so sánh được. Nghĩa là chỉ khi nào lòng của con người không còn quyến luyến một sự gì trên thế gian này nữa, dù tự bản chất của chúng là tốt và cần, ngoài một mình Thiên Chúa, họ mới có thể theo Chúa mà thôi: "Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa phụng sự Thiên Chúa và làm tôi tiền của được" (Mathêu 6:24). 

CẢM NGHIỆM

Trong đời sống đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống đức tin, vì còn nguyên mầm mống nguyên tội trong bản thân, được lưu truyền từ nguyên tội và bởi nguyên tội ngay từ ban đầu qua bản tính loài người của mình, mà cuộc đời của Kitô hữu trên trần gian này mới trở thành hay mới được gọi là một cuộc hành trình đức tin, một cuộc sống theo đức tin hướng dẫn và trung thành với đức tin cho đến cùng, một cuộc sống siêu nhiên cao cả, ở ngay trong thế gian mà không thuộc về thế gian, một cuộc sống siêu thoát, hoàn toàn làm chủ thế gian, chẳng khác gì như "muối đất... (và như) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14), bất chấp mọi chước cám dỗ của ma quỉ, mọi quyến rũ của thế gian, nhất là liên quan đến lòng tham lam của cải sản vật thế gian như người thanh niên giầu có đạo hạnh trong bài Phúc Âm hôm nay, thậm chí còn thắng vượt mọi gian nan khốn khó bởi dám bơi ngược giòng đời.

Tuy nhiên, cũng chính vì mầm mống nguyên tội mà tự mình con người chỉ hướng hạ và thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong mà thôi (xem Mathêu 7:13) không thể nào nên trọn lành được, không thể nào, như người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay, tự động và vui vẻ mau mắn bỏ đi những gì mình có, như của cải hay quyền lợi của mình là những gì vừa chính đáng vừa cần thiết, cho một lý tưởng mơ hồ nào đó, nếu họ không có đức tin và không được tác động bởi Trời Cao, không được "tuyển chọn" (Gioan 15:16), như các tông đồ ngày xưa.

Cho dù người thanh niên giầu có đưoọc Chúa Giêsu "trìu mến nhìn" ấy, ngay lúc bấy giờ không thể đáp ứng ngay lời kêu gọi nên trọn lành của Chúa Kitô, và cảm thấy buồn khổ, với một cuộc sống dù sang giầu nhưng vẫn khắc khoải ngôn nguôi ấy, có thể, vào một lúc nào đó trong đời, chẳng hạn bị thua lỗ hay bị trộm cướp v.v., đã nghĩ lại mà theo đuổi bậc trọn lành thì sao. Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy và phấn khích niềm tin nơi những ai thành tâm thiện chí như sau:

"Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý. Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao. Hãy thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng tụng Thiên Chúa.... Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn lao dường nào!"

 

Theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa cảm nghiệm thần linh đầy tin tưởng vào Thiên Chúa như sau:

 

1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi".

3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa, trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới, chúng sẽ không hại nổi những người Này.

4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ; Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.

 


Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa.”

Sắc Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.

Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

* * *

Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.

Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến cao điểm trong giờ hy tế thập giá.

Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu.

Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ, nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh", tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức Bênêđictô XIV và Lêô XIII.

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng dịu ngọt ấy".

Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một số quốc gia, giáo phận và hội dòng.

Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai sau lễ Hiện xuống.

Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.

Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.

Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.

Bất chấp mọi điều trái nghịch.

Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.

 

Hồng y Robert Sarah

Tổng trưởng

Tổng Giám mục Arthur Roche

Thư ký



Phụng Vụ Lời Chúa

Bài đọc I St 3,9-15.20

"Mẹ của toàn thể chúng sinh"

Bài trích sách Sáng thế

Sau khi Ađam ăn trái cấm,

9 Chúa là Thiên Chúa đã gọi ông

và nói cùng ông rằng: "Ngươi ở đâu vậy?"

10 Ông thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,

vì con trần truồng và con ẩn núp".

11 Chúa hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?

Có phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"

12 Ađam thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,

chính bà ấy đã cho con trái cây và con đã ăn".

13 Chúa là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:

"Tại sao ngươi làm điều đó?"

Người phụ nữ thưa: "Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".

14 Chúa là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều đó,

mi là thứ bị chúc dữ giữa mọi súc vật và thú hoang!

Mi sẽ bò bằng bụng và sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.

15 Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,

giữa miêu duệ mi và miêu duệ Bà,

người miêu duệ này sẽ đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".

20 Rồi Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.

Ðó là Lời Chúa.

 

Hoặc: Cv 1,12-14

"Các Tông đồ đồng tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa Giêsu"

Bài trích sách Công vụ Tông đồ

12 Sau khi Chúa Giêsu lên trời,

các Tông đồ rời núi Cây Dầu trở về Giêrusalem,

núi này ở gần Giêrusalem,

chỉ cách một quãng đường được đi trong ngày sabbat.

13 Sau khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.

Hiện diện tại đây có các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,

Philipphê, Tôma, Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,

Simon nhiệt thành, và Giuđa con ông Giacôbê.

14 Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,

cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,

và các anh em Người.

Ðó là Lời Chúa.

 

Thánh vịnh đáp ca Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7

Ðáp: Hỡi thành đô của Thiên Chúa,

mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành.

 

1 Nền móng Sion được đặt trên núi thánh,

2 Chúa yêu chuộng cửa thành

hơn mọi nơi cư ngụ của nhà Giacob.

3 Hỡi thành đô của Thiên Chúa.

Mọi người truyền tụng những điều hiển hách về thành. - Ð.

 

5 Nói đến Sion, thiên hạ bảo:

"Tại đó, người người đã sinh ra,

chính Ðấng Tối Cao củng cố thành". - Ð.

 

6 Thiên Chúa ghi vào sổ bộ các dân:

"Kẻ này người nọ đã sinh ra tại đó",

7 và họ múa nhảy hát ca:

"Mọi nguồn mạch của tôi ở nơi thành". - Ð.

 

Alleluia

Kính chào Ðức Trinh Nữ diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.

Kính chào Mẹ Hội Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con

Thần Khí của Thánh Tử Giêsu Kitô

 

Tin Mừng Ga 19, 25-27

Này là Con Bà. Này là Mẹ con.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan

Khi ấy, 25 đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,

cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.

26 Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,

Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".

27 Rồi Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".

Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.

Ðó là Lời Chúa. 

 

 

Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh

Phụng Vụ Giờ Kinh Sách - Bài đọc 2

 

Trích diễn từ của Đức Phao-lô VI, dịp kết thúc khoá III Công Đồng Va-ti-ca-nô II, ngày 21-11-1964.

Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng : Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn nguyện.

Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác. Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời Nhập thể.

Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.

Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn, cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu độ cho mọi người.

Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.

Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng. Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.

Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin

 

 

 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 35, 1-15

"Chuyên giữ các điều răn là dâng của lễ hy tế cứu độ".

Trích sách Huấn Ca.

Ai tuân giữ lề luật, là dâng nhiều lễ vật. Chuyên giữ các điều răn và xa lánh mọi điều gian ác, là dâng lễ hy tế cứu độ.

Hãy dâng của lễ xin ơn tha thứ cho những bất công, hãy cầu nguyện xin ơn tha tội, và hãy xa lánh những điều gian tà.

Ai thực thi bác ái, là hiến dâng của lễ hoàn hảo; ai làm phúc bố thí, là dâng của lễ hy tế.

Ðiều làm đẹp lòng Chúa là xa lánh gian ác. Lánh xa bất công là dâng của lễ đền tội.

Ngươi đừng đến trước mặt Chúa với bàn tay không; vì tất cả những điều đó là do mệnh lệnh của Thiên Chúa. Của lễ người công chính làm cho bàn thờ nên phong phú, và hương thơm êm dịu của nó bay lên trước dung nhan Ðấng Tối Cao. Lễ vật hiến tế của người công chính đã được chấp nhận, và Chúa sẽ không quên kẻ ấy. Ngươi hãy tôn vinh Thiên Chúa với tâm hồn quảng đại, và đừng rút bớt lại của lễ đầu mùa do công lao tay ngươi làm ra.

Mỗi lần ngươi dâng của lễ, nét mặt ngươi hãy vui tươi, và hãy hân hoan thánh hiến một phần mười của ngươi dâng. Ngươi hãy dâng lên Ðấng Tối Cao tuỳ theo như Người đã ban cho ngươi, và hãy dâng với tâm hồn quảng đại theo sự ngươi đang có trong tay, vì Chúa là Ðấng thưởng công và sẽ trả lại cho ngươi gấp bảy lần. Ngươi chớ dâng những lễ vật hèn kém, vì Người sẽ không nhận của lễ như vậy đâu, ngươi cũng đừng trông gì nơi những của lễ bất chính, vì Chúa là Ðấng xét xử, Người không thiên vị ai đâu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 5-6. 7-8. 14 và 23

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) "Hãy tập họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ". Và trời cao sẽ loan truyền sự công chính của Người, vì chính Thiên Chúa, Người là thẩm phán. - Ðáp.

2) Hỡi dân tộc của Ta, hãy nghe Ta nói, hỡi Israel, Ta sẽ chứng tỏ lời phản đối ngươi: Ta là Thiên Chúa, Ðức Thiên Chúa của ngươi. Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. - Ðáp.

3) Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta, ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 28-31

"Ngay ở đời này, lúc bị bắt bớ, các con lãnh được gấp trăm, còn đời sau các con sẽ được sự sống vĩnh cửu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".

Ðó là lời Chúa.

 



"Bỏ mọi sự mà theo Thầy": "được gấp trăm" bao gồm cả bị "bắt bớ". 

SUY NIỆM

Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (10:28-31) cho Thứ Ba Tuần 8 Thường Niên hôm nay liên quan đến việc "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau" như câu Chúa Giêsu trả lời cho Thánh Phêrô.
Thật thế, bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Nếu bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến vấn đề "tôi phải làm gì để được sống đời đời" của một con người giầu có đã tuân giữ các giới răn từ nhỏ nhưng vẫn cảm thấy bất an bởi "còn thiếu một điều" là sống trọn lành, thì bài Phúc Âm hôm nay (Marcô 10:28-31) liên quan đến đời sống trọn lành hơn nơi thành phần môn đệ theo Chúa Kitô, tiêu biểu là Tông Đồ Phêrô qua câu hỏi của ngài: "Phần chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy thì sao?" 
Tất nhiên, nếu không bỏ mọi sự mà theo Thày, như người giầu có trong bài Phúc Âm hôm qua mà giữ các giới răn đàng hoàng tử tế đối với tha nhân thì cũng hội đủ điều kiện tối thiểu để được cứu rỗi, "để được sống đời đời", thì thành phần bỏ mọi sự theo Chúa Kitô lại càng bảo đảm "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau" hơn nữa. 
Thế nhưng, vấn đề khác nhau ở đây giữa hai trường hợp cũng được rỗi, "được sống đời đời", "được sự sống vĩnh cửu ở đời sau", giữa người không sống trọn lành (như trong bài Phúc Âm hôm qua) và người sống trọn lành hơn (trong bài Phúc Âm hôm nay), đó là ngay "ở đời này", trong khi người không sống trọn lành (như người giầu có trong bài Phúc Âm hôm qua) luôn cảm thấy khắc khoải bất an buồn sầu, thì người sống trọn lành hơn (như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay) "được gấp trăm về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ".
Đúng vậy, thành phần theo Chúa Kitô để sống trọn lành hơn, không phải đã được Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, một bài giảng cho chính các vị tông đồ theo Chúa (xem Mathêu 5:1-2), thành phần được cho là "hiền như ma-sơ" là "ai hiền lành ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) - "Đất" đây phải chăng Chúa muốn ám chỉ "thế gian", ám chỉ "đời này", ngược lại với "Nước Trời" ở Phúc Thứ 1. Mà "thế gian" hay "đời này" đây bao gồm những gì nếu không phải là "nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ". 
Đối với phàm nhân thì "bắt bớ" "ở đời này" là một bất hạnh, là một sự dữ, thế nhưng, đối với thành phần theo Chúa Kitô sống trọn lành hơn thì lại là một vinh phúc: "Phúc cho những ai bị bắt bớ vì sự công chính vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi họ xỉ nhục các con và bách hại các con cùng lăng nhục các con vì danh Thày. Hãy hân hoan vui sướng, vì phần thưởng lớn lao của các con ở trên trời" (Mathêu 5:9,10-11).

Chi tiết trong lời hứa "gấp trăm" theo Thày đây là một yếu tố then chốt và là một điền kiện bất khả thiếu để "được gấp trăm". Bởi vì, người đàn bà chỉ sinh son trong cơn đau đớn (xem Gioan 16:21), cành nho càng sai trái hơn khi bị cắt tỉa đi (xem Gioan 15:2), và hạt lúa miến cần phải mục nát đi mới trổ sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24) thế nào thì muốn "được gấp trăm" thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào chỉ thực hiện việc "bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm", mà còn phải sẵn sàng chấp nhận mọi "bắt bớ" "vì Thầy và vì Phúc Âm" nữa.

Đó là lý do điều kiện theo Chúa và xứng đáng làm môn đệ của Chúa Kitô, như Người đã khẳng định dứt khoát bao gồm 2 điều kiện - bỏ mình và chịu khổ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mathêu 16:24).

CẢM NGHIỆM

Đời sống trên trần gian này của Kitô hữu là thành phần môn đệ của Chúa Kitô không phải chỉ ở chỗ làm sao để sống đạo cho ngoan, hằng ngày đi thờ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện, hằng tuần ăn chay kiêng thịt, hằng tháng xưng tội hòa giải, hằng năm tĩnh tâm hành hương v.v., nhờ đó mà được rỗi, được lên thiên đàng, khỏi sa hỏa ngục, trái lại, họ còn phải có tinh thần tông đồ truyền giáo nữa, qua những việc làm trong tầm tay của mình, làm sao để mang lại phần rỗi cho anh chị em đồng loại, đồng hương và đồng đạo của mình, nhờ đó họ mới thực sự là sống trọn ơn gọi và sứ vụ của mình là thành phần môn đệ của Chúa Kitô, Đấng đã phục sinh và trước khi thăng thiên về trời đã truyền cho các môn đệ của Người hãy loan truyền tin mừng sự sống cho muôn dân cho tới tận cùng trái đất (xem Mathêu 28:19; Marco 16:15; Tông Vụ 1:8), và cũng nhờ đó họ mới "được gấp trăm ngay ở đời này và hạnh phúc đời sau", như Chúa Kitô khẳng định với riêng Tông Đồ Phêrô và chung các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay.

Cuộc đời theo Chúa Kitô của các tông đồ, cũng như của tất cả thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung, tự nó, nhờ trở thành chứng nhân đích thực và sống động của Chúa Kitô ở chỗ hoàn toàn phản ảnh Người, chắc chắn sẽ sinh hoa kết trái "được gấp trăm ngay ở đời này và hạnh phúc đời sau". Vì cuộc đời của các vị chẳng khác gì như một hy tế như Chúa Kitô, Đấng đã "đến để hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người" (Mathêu 20:28). Cuộc đời hy hiến dấn thân phục vụ Chúa Kitô, như Chúa Kitô và với Chúa Kitô như thế của thành phần môn đệ Chúa Kitô, ở một ý nghĩa nào đó rất thích hợp với những gì được Sách Huấn Ca trong bài Đọc 1 hôm nay:

"Của lễ người công chính làm cho bàn thờ nên phong phú, và hương thơm êm dịu của nó bay lên trước dung nhan Ðấng Tối Cao. Lễ vật hiến tế của người công chính đã được chấp nhận, và Chúa sẽ không quên kẻ ấy... Ngươi hãy dâng lên Ðấng Tối Cao tuỳ theo như Người đã ban cho ngươi, và hãy dâng với tâm hồn quảng đại theo sự ngươi đang có trong tay, vì Chúa là Ðấng thưởng công và sẽ trả lại cho ngươi gấp bảy lần".

Bài Đáp Ca hôm nay, Thánh Vịnh gia cũng phấn khích những ai hiến thân theo Chúa rằng: "Hãy hiến dâng Thiên Chúa lời khen ngợi, và hãy làm trọn điều khấn hứa cùng Ðấng Tối Cao. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta, ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ". Bởi vậy, muốn trung thành hiến thân phụng sự Chúa cho tới cùng, theo đúng những gì Chúa muốn, thành phần theo Chúa cần phải tâm nguyện đúng như câu Alleluia hôm nay gợi ý: "Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia".
 

 

3 Vị Thánh cùng Ngày 25/5

Thánh BÊ-ĐA Đáng Kính
Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (673 - 735)

 

Venerable Bede High Resolution Stock Photography and Images - Alamy

 

Thánh Bede với Một Âu Châu Kitô Giáo

Chính thánh Beđa kể cho chúng ta biết mọi điều về cuộc đời thơ ấu của Ngài. Trong vài câu thêm vào cuốn lịch sử Giáo hội, thánh nhân sinh năm 673 hay là 674. Tên Bêđa theo từ ngữ Saxon có nghĩa là cầu nguyện. Cuộc sống của Ngài rất gương mẫu nên người ta thêm cho Ngài biệt danh Vênêrabilê có nghĩa là khả kính. Lên bảy tuổi Ngài bị mồ côi cha mẹ và được giao phó cho tu viện trưởng Bênêdictô Biscop săn sóc giáo dục. Lúc 18 tuổi Ngài được thụ phong chức phó tế và năm 702 hay 703 tức là lúc 29 tuổi Ngài được thụ phong linh mục.

Cuộc sống của Ngài trong tu viện rất cực nhọc. Chúng ta có thể tóm lược cuộc sống ấy bằng chính lời Ngài: - "Tôi đã sống trọn đời nỗ lực học hỏi kinh thánh và trong khi tuân thủ luật dòng cũng như bổn phận hàng ngày và hát thánh ca tại nhà thờ, tôi sung sứơng được học hành, dạy dỗ và viết lách".

Đây quả là tổng hợp chính xác trọn cuộc sống của thánh Bêđa, Ngài rất ít rời bỏ nhà dòng. Chúng ta chỉ nghe biết có hai chuyện du hành của Ngài. Một lần Ngài đi thu tập tài liệu về đời thánh Cuthbert, Ngài ở lại Lindisfanne và từ đó đến viếng Farne Islanol để khảo sát những di tích trong căn phòng của vị thánh. Một lần khác, Ngài đến York để thăm Đức tổng giám mục Egbert, và để quan sát các trường học nổi tiếng ở đó.

Dạy học, thánh Bêna tỏ ra là một bậc thầy lỗi lac. Ngài không quan tâm suy tư và ao ước được nổi bật. Tài năng của Ngài là cố gắng không cùng để tự đào luyện mình rồi truyền thông không phải chỉ có những gì mình đã học mà còn cả cảm thức về giá trị của điều đã được hiểu biết, đặt tầm quan trọng của việc giảng dạy. Tuy nhiên chúng ta không thể nói nhiều về điểm này. Nhưng các sách đủ loại Ngài viết đều là kiểu mẫu trong việc trưng dẫn các tài liệu. Chính cách trình bày cẩn thận và điều độ và gắng để được chính xác và đúng đắn làm cho các sách ấy có thế giá. Các tác phẩm của thánh Bêda có thể xếp thành ba loại. Các bút tích về thần học của Ngài chính yếu gồm những phần dẫn giải thánh kinh của một thầy dạy phần lớn dựa trên các sách giáo phụ Tây phương. Dầu thiếu sự độc sáng trong cách trình bày, nhưng những dẫn giải của thánh Bêda ngày nay còn là phương tiện tốt đẹp nhất để hiểu về các giáo phụ.

Các tác phẩm về khoa học của Ngài một phần là những giải thích cổ truyền về các hiện tượng tự nhiên, một phần bàn về niên lịch và cách tính của Đông phương. Cách tính niên lịch của Ngài kể từ thời Chúa Giêsu Giáng sinh đã được Kitô giáo Tây phương chấp nhận rộng rãi hơn cả.

Các tác phẩm về lịch sử của thánh nhân có lẽ ngày nay được nhớ tới nhiều hơn hết. Cuốn "Lịch sử Giáo hội của dân Anh" là một trong những tác phẩm quan trọng nhất về lịch sử về thời đầu Trung cổ. Ngài đã viết cách khách quan và phê phán cách quân bình, dựa trên những tài liệu và nhân chứng đáng tin cậy, Ngài cũng viết một tiểu sữ về các tu viện ở Wearmonth và thơ văn về cuộc đời thánh Cuthbert.

Kể từ năm 679, Ngài ở hai tu viện Wearmonth và Jarrow, chăm chú thi hành bổn phận thuộc đời sống tu trì và vẫn không ngừng viết lách và dạy học. Lời kinh ở cuối cuốn "Lịch sử Giáo hội" trình bày lý tưởng của Ngài: - "Lạy Chúa Giêsu nhân từ, con khẩn cầu Chúa, khi đã cho con được vui hưởng những lời khôn ngoan của Chúa thì xin Chúa cho con một ngày kia được đến gần bên thánh nhan Chúa".

Đương thời, không ai nghi ngờ sự thánh thiện của thánh nhân, nhưng Ngài đã không làm một phép lạ, không được một thị kiến và không mở ra một đường lối tu đức mới mẻ nào. Mùa hè năm 735 vào tuổi 63, sức khỏe suy giảm, Ngài còn bị đau khổ bị bệnh suyễn. Dầu vậy, Ngài vẫn làm việc đến giây phút cuối cùng, đọc cho thầy thơ ký hoàn tất cuốn sách Chú giải Phúc âm thánh Gioan và 48 giờ cuối cùng trên giường bệnh. Đúng ngày lễ Thăng thiên 27 tháng 5 năm 735, thánh Beda từ trần.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm

Thánh GRÊGORIÔ VII
 Giáo Hoàng (1028 - 1085)

 

Thánh GRÊGORIÔ VII Giáo Hoàng (1028-1085)

Thánh Gregoriô hay là Hildebrand theo tên rửa tội, sinh khoảng năm 1028. Gia đình Ngài không thuộc dòng tộc quí phái và có thuộc gốc Do thái. Thấy con mình thông minh lại hiếu học, thân phụ thánh nhân gởi Ngài tới thụ huấn với người chú là Tu viện trưởng Đức Bà Maria ở Aventin, Hildebrand đã trở thành một tu sĩ dòng Bênêdictô.

Tuy nhiên khả năng đặc biệt của Ngài đã sớm kéo Ngài ra khỏi hàng rào tu viện để phục vụ tại giáo triều. Khi đắc cử giáo hoàng, trên đường về nhận chức, Đức Leo IX ghé qua Cluny và dẫn theo thày dòng trẻ tuổi Hildebrand để làm cố vấn cho mình. Đức giáo hoàng đã trao cho Ngài điều khiển tu viện thánh Phaolô và đặt làm hồng y. Đức giáo hoàng Leo IX là vị tiên khởi trong cuộc cải cách Grêgoriô, danh hiệu dựa vào khuôn mặt sáng giá nhất cuộc cải cách này, nhưng chính đức Leo là người khởi xướng.

Kể từ việc đề cử của Đức Leo IX Hildebrand đã có ảnh hưởng lớn lao trong nhiều triều đại liên tiếp. Khi được cử làm đặc sứ tại Pháp Đức Hồng y Hildebrand, đã chống lại nhiều tập tục xấu. Trong hội đồng họp ở Tour, Ngài đã buộc Berenger từ bỏ những lầm lạc của mình. Thế là chính Ngài đã giữ phần quyết định trong cuộc tranh luận về bí tích Thánh Thể giữa Lanfranc và Berenger. Ngài ủng hộ giáo thuyết về sự biến thể của Lanfranc nhưng cũng giảm bớt sức đối kháng để trình bày cách mầu nhiệm hơn.

Dưới ảnh hưởng của Đức hồng y Hildebrand, chức giáo hoàng ngày càng nghịch với hoàng đế hơn. Một liên minh hình thành với nhiều nhà cai trị ở miền nam nước Ý chống lại các Hoàng đế nhà Hohenstanen. Đức giáo hoàng nâng đỡ phong trào quần chúng chống lại hoàng đế ở Milanô nhưng tâm điểm đường lối chính trị của tòa thánh được diễn tả trong việc chọn lựa Đức Giáo hoàng, dành riêng cho hồng y đoàn. Nói cách khác, ảnh hưởng của hoàng để bị rút lại, nếu không nói là bị hủy bỏ. Năm 1073 dưới ảnh hưởng đã trở nên lớn mạnh, Đức Hồng y Hildebrand đắc cử giáo hoàng với hiệu Gregoriô VII.

Tình hình Giáo hội lúc này thật đáng buồn với nhiều thảm trạng đang diễn ra. Đích thân giáo hoàng thấy rõ những điều đó, sống khắc khổ như một thày dòng, Ngài đã sáng ngời như mặt trời chiếu dãi vào ngôi nhà Giáo hội. Đầy uy quyền trong lời nói và việc làm, Ngài đã nỗ lực tái lập kỷ lục truyền bá đức tin, diệt trừ các lỗi lầm. Nhất là Ngài được chống lại hoàng đế Henri IV nước Đức. Ông hoàng này ham mê khoái lạc và tham lam, đã dám bán quyền giám mục và các chức vụ trong Giáo hội cho những người bất xứng.

Năm 1075, Đức Gregoriô VII đã tuyên bố phạt mọi người ở bất cứ địa vị nào dám dùng tiền để mua bán chức thánh. Với tình phụ tử, Ngài cảnh cáo hoàng đế Henri IV và các lạm quyền của ông. Tức giận ông bắt cóc Đức Giáo hoàng đang khi Ngài làm lễ và giam ngục. Nhưng rồi dưới áp lực của dân Roma, ông phải thả Ngài ra. Đức giáo hoàng đã tha thứ cho ông. Tuy nhiên nhà vua vẫn ngoan cố. Năm 1076, ông triệu tập một số giám mục rồi đặt Gnibert de Ravenna làm giáo hoàng. Đức Gregoriô VII liền ra vạ tuyệt thông Henri IV. Hối hận và sợ các quan bất phục, Henri IV lo giữ ngôi bằng cách đến Canossa làm việc đền tội.

Ngày 28 tháng giêng năm 1077, Đức giáo hoàng giải vạ cho ông.

Một thời gian sau Henri IV lại trở mặt, ông cầm quân sang Roma để bắt Đức Giáo hoàng. Nhưng Đức Gregoriô đã kịp thời rút lui về Sôlerna và qua đời tại đây năm 1085. Trước khi qua đời Ngài đã nói: - Ta yêu mến điều công chính và chê ghét sự gian tà nên mới phải chết ở chốn lưu đày này.

Người ta đã nói tới cuộc cải cách thời Gregoriô. Phải nhận đinh rằng ý tưởng của Ngài rất cao thượng, Ngài quan niệm hàng giáo sĩ được đặt ra ngoài mọi người khác bởi phép truyền chức thánh làm thành một cộng đoàn siêu nhiên ấn định bởi quyền ban bí tích và được cai quản bởi đấng kế vị thánh Phêrô. Họ phải sống xứng đáng với phận vụ thiêng liêng, Ngài nhiệt hành ủng hộ luật độc thân của giáo sĩ và chống lại mọi thứ buôn thần bán thánh.

Ngài cũng nỗ lực diệt trừ mọi can thiệp vào việc chọn giám mục, nhất là sự can thiệp của hoàng đế. Dầu không thành công trong việc này, nhưng chắc chắn đã làm thay đổi thái độ của mọi người đối với Giáo hội.

Sau khi đã từ trần, lý tưởng canh tân Giáo hội của Ngài mới rõ rệt hơn, sắc bén hơn và tiến gần tới hiện thực hơn.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm

Thánh MARIA MADALENA ĐỆ PAZZI
(1566 - 1607)

 

S. Maria Maddalena de' Pazzi - S. Maria Maddalena de' Pazzi

Thánh Maria Madalena Pazzi sinh năm 1566 tại Florence. Khi rửa tội Ngài được đặt tên là Catarina. Ngay từ nhỏ, Ngài đã ham thích cầu nguyện và làm việc lành. Muốn cho Ngài vui thích, cứ việc đọc cho Ngài nghe truyện các thánh hay là dẫn Ngài tới nhà thờ.

Lên 7 tuổi lòng thương người của Ngài đã tiến xa tới độ nhịn ăn để giúp đỡ người nghèo. Có dịp về miền quê, niềm vui chính của Ngài là tập họp trẻ em lại để dạy giáo lý cho chúng. Một lần kia, khi mới bắt dầu dạy đạo cho một em bé con một nông dân, thì Ngài phải báo cho biết là phải trở về Florence. Ngài đã buồn rầu đến độ không cầm được nước mắt, Cha Ngài chỉ có thể an ủi Ngài bằng cách dẫn em bé ấy về để dạy cho xong.

Thánh nữ có lòng sùng kính phép Thánh thể một cách đặc biệt. Lên 10 tuổi, tức là năm 1576, Ngài được rước lễ lầ đầu. Dịp này, Ngài đã khấn dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Năm 13 tuổi Ngài còn tự ý làm một mão gai để đội đầu mỗi khi đi ngủ để cảm thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.

Đến 16 tuổi, Catarina đã ao ước được gia nhập dòng Carmêlô. Sau một thời gian luỡng lự, cuối cùng cha mẹ Ngài đã chấp nhận, Catarina vào dòng ngày 14 tháng 8 năm 1582 và ngay 30 tháng giêng năm 1583, được mặc áo dòng với danh hiệu Maria Madalena. Cuộc đời Ngài là một phép lạ liên tục. Một cơn bệnh xâu xé Ngài. Có nữ tu hỏi thánh nữ xem bí mật nào đã giúp Ngài nhẫn nại chịu đựng như vậy, chỉ vào cây thánh giá Ngài trả lời: - Hãy xem điều Chúa Giêsu đã làm để cứu chuộc tôi. Những ai nhớ tới những đau khổ của Chúa Giêsu và dâng những đau khổ của mình lên Thiên Chúa, họ chỉ còn thấy êm ái đối với những gì mình phải chịu mà thôi.

Đau đớn vì bệnh hoạn, thánh nữ lại hay xuất thần. Những yếu tố ấy đều góp phần xây dựng đời sống thánh thiện của Ngài. Dù suốt năm năm liền kể từ tháng 6 năm 1585, Ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách dữ dằn, Thiên Chúa cho Ngài thấy sự dữ đang diễn ra trong Giáo hội, những xúc phạm do hàng giáo sĩ và do các giám mục gây nên. Các tu sĩ trong cộng đoàn vấp phạm vì những khuyến cáo Ngài trình lên Đức gíao hoàng và các đức giám mục để thực hiện cuộc canh tân. Sự nghi ngờ của họ trở thành sự khinh bỉ, khi thánh nữ chịu cơn thử thách khủng khiếp này, là thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi. Thêm vào đó, Ngài còn bị cám dỗ trở nên kiêu căng thất vọng.

Dầu vậy, ý chí của Ngài bám chặt vào Chúa không ngơi, Ngài chỉ còn biết rên rỉ: - Tôi không hiểu mình có còn trí khôn nữa không. Tôi không thấy mình còn có gì đáng kể ngoài một chút thiện chí là không bao giờ dám xúc phạm đến Thiên Chúa.

Nhưng nhìn lên thánh giá Ngài thêm phấn khởi: - Đừng chết, nhưng chớ gì được chịu đau khổ mãi.

Bị cám dỗ quá, Ngài gieo mình vào bụi gai, bình thường Ngài hãm mình kinh khủng và thường mặc áo nhặm.

Năm năm bão tố trôi qua nhằm lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trong khi hát kinh tạ ơn, Maria Madalena đã bỗng xuất thần và thưa với bề trên trong niềm vui mừng: - Bão tố qua rồi, xin hãy giúp con cảm tạ Chúa tạo thành khả ái.

Từ đây Ngài chỉ còn ước muốn vô cùng là được làm việc để tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Ngài luôn tìm kết hiệp với thánh ý Chúa. Thánh Thần đọc cho Ngài những ý tưởng thâm sâu và hai chị thơ ký đã ghi thành một pho sách được các người nhân đức và thông thái ở Ý chuẩn nhận.

Với nhiệt tình, Ngài đã nguyện hy sinh không muốn biết đến một sự dịu ngọt nào nữa. Khi làm phó bề trên, Ngài bị tật bệnh dày vò lại còn mất ơn an ủi, cha linh hướng tìm cách an ủi, nhưng Ngài nói: - Không, đó không phải là thứ an ủi con tìm kiếm. Con chỉ ước mong được đau khổ đến lúc cuối đời. Khi sắp từ trần thánh nữ nói:

- Tôi sắp từ giã mà không hiểu tại sao một thụ tạo lại quyết tâm phạm tội chống lại Chúa tạo thành được.

Với các nữ tu vây quanh, Ngài nói những lời sau cùng: - Tôi sắp từ giã các chị để đi vào vĩnh cửu, tôi xin các chị như là một ân huệ cuối cùng là chỉ yêu mến một mình Chúa, đăt trọn niềm hy vọng nơi Ngài và chịu đựng tất cả vì tình yêu Ngài.

Thánh nữ từ trần ngày 25 tháng 5 năm 1607. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn cho tới ngày nay.


https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm



Thứ Tư sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 36, 1-2a. 5-6. 13-19

"Các dân tộc nhận biết rằng không có chúa nào khác ngoài Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Lạy Chúa muôn loài, xin thương xót chúng con, và xin đoái nhìn chúng con, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa. Xin cho các dân tộc nhận biết Chúa như chính chúng con đã nhận biết Chúa, vì lạy Chúa, ngoài Chúa ra, không có Chúa nào khác.

Xin Chúa tái diễn các điềm lạ và làm các việc kỳ diệu khác. Xin Chúa quy tụ mọi người vào các chi họ Giacóp, để họ nhìn biết rằng không có Chúa nào khác ngoài Chúa, để họ cao rao các việc lạ lùng Chúa đã làm, và để Chúa cho họ được hưởng phần gia nghiệp như lúc ban đầu. Xin Chúa đoái thương đến dân Chúa, một dân được mang danh thánh Chúa, và xin thương đến Israel mà Chúa đã đặt làm con đầu lòng của Chúa. Xin cũng thương đến thành thánh Giêrusalem, nơi Chúa an ngự. Xin làm cho Sion vang dậy lời chúc tụng Chúa, và cho dân Chúa được đầy vinh quang của Ngài.

Xin Chúa hãy minh chứng cho dân tộc, tạo vật đầu tiên của Chúa và xin thực hiện những điều các tiên tri đầu tiên đã nhân danh Chúa mà tiên báo. Xin thưởng công cho những người đã trông cậy nơi Ngài, và xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực.

Xin nhậm lời cầu nguyện của các tôi tớ Chúa, theo như lời Aaron chúc phúc cho dân Ngài, xin hướng dẫn chúng con đi trên đường công chính, và xin cho mọi người sống trên trần gian biết rằng Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thống trị muôn đời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 78, 8. 9. 11. 13

Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa (Hc 36, 1b).

Xướng: 1) Xin đừng nhớ lỗi tiền nhân để trị chúng con, xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.

2) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa, xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

3) Xin cho tiếng tù binh rên siết vọng tới thiên nhan; xin ra tay thần lực giải thoát người mang án tử.

4) Phần chúng con là thần dân Chúa, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi, chúng con sẽ ca tụng Chúa tới muôn đời, đời nọ sang đời kia, chúng con loan truyền lời ca khen Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 32-45

"Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: "Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, đến gần Người và thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy". Người đáp: "Các con muốn Thầy làm gì cho các con?" Các ông thưa: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy". Chúa Giêsu bảo: "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" Các ông đáp: "Thưa được". Chúa Giêsu bảo: "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định". Mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: "Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".

Ðó là lời Chúa.




"Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ... những người theo sau thì sợ hãi".

SUY NIỆM

Ý chính của Bài Phúc Âm của ngày Thứ Tư trong Tuần VIII Thường Niên hậu Phục Sinh hôm nay, qua câu nói của Chúa Kirtô kết thúc bài Phúc Âm, đó là: "Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người".
Đúng thế, chính vì để cho con người được sự sống thần linh, sự sống đời đời, mà Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, đã phải "hiến mạng sống mình làm giá chuộc". Sở dĩ mạng sống của Người chỉ là một sự sống tự nhiên về thể lý mà có thể cứu được các linh hồn thiêng liêng bất tử, tức có thể mang lại sự sống thần linh siêu nhiên bất diệt cho họ là vì sự sống thể lý của thân xác Người, một thân xác đã cùng với linh hồn của Người, ngôi hiệp với Thần Tính vô cùng cao trọng của Người, bởi thế sự sống thể lý ấy vô cùng cao quí vì thuộc về chính Con Thiên Chúa.
"Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụđã được chứng thực ngay ở đầu bài Phúc Âm. Ở chỗ, như Thánh ký Marco thuật lại: "Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem, Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước họ, và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi".

Qua lời tường thuật này chúng ta thấy hình ảnh của một Vị Mục Tử đích thực bao giờ cũng "đi trước chiên" (Gioan 10:4), nhất là khi đàn chiên "theo sau thì sợ hãi" được nói đến trong bài Phúc Âm, 
"đi trước chiênđể sẵn sàng đối đầu với bất cứ nguy hiểm nào xẩy đến cho chiên của mình và để bảo vệ chiên của mình cho đến cùng, nhất là với đám sói dữ, cho dù có phải "hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan 10:11). 
Vấn đề ở đây là không phải vị mục tử nhân lành sống chết cho chiên này không biết trước được số phận của mình, mà là cho dù có thực sự biết trước nhưng vẫn cứ "đi trước chiên", sẵn sàng bảo vệ sự sống của chiên, bằng cách "tự ý bỏ mạng sống mình đi" (Gioan 10:17;17:19), mà còn tỏ cho đàn chiên của mình biết như thế nữa: 

"Người gọi mười hai ông lại gần và nói cho các ông biết những gì sẽ xẩy đến cho Người: 'Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại'".
Việc vị chủ chiên ở trong bài Phúc Âm hôm nay tỏ cho đàn chiên "theo sau thì sợ hãi" này biết số phận vượt qua của mình như thế, không phải là vị chủ chiên chỉ cố ý để cho chiên biết được rằng mình yêu thương chiên biết là chừng nào, một tình yêu cao cả dám hiến mình vì bạn hữu (xem Gioan 15:13), mà còn muốn cho họ thấy rằng Người sẽ đi dọn chỗ cho họ để Người ở đâu thì họ cũng ở đó với Người nữa (xem Gioan 14:3), vì sau này chính họ cũng tiếp tục sứ vụ là chủ chiên thay Người và như Người, cũng phải "đến để phục vụ" theo gương mẫu của Người đối với họ.
Trong số các tông đồ được nghe Người tiết lộ bí mật về số phận vượt qua của Người bấy giờ đã có hai vị, đó là "Giacôbê và Gioan", dường như cảm thấu được những gì Người nói, nên đã tự động muốn theo đuổi bắt chước Người một cách triệt để, và đã mạnh dạn lên tiếng xin cho được có cùng một số phận như Người: "Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy".
Thoạt nghe, "mười môn đệ khác nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan", vì cứ tưởng là hai anh em này tham quyền cố vị. Thế nhưng, nếu xét cho kỹ thì không phải thế, hoàn toàn ngược lại, hai vị chỉ muốn được nên giống Thày của mình nhất trong số phần hy sinh cứu độ mà thôi
Đó là lý do khi nghe Chúa Giêsu đặt thẳng vấn đề với nhị vị "Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?" thì cả hai đều mau mắn đồng thanh thưa lại rằng: "Thưa được". Và hai vị đã được Thày chấp nhận cho "thông phần với Thày" (Gioan 13:8): "Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu". 
Thực tế cho thấy, những gì hai ông xin với Chúa Giêsu bấy giờ trước mặt các tông đồ khác đều đã được ứng nghiệm, ở chỗ, Tông Đồ Gioan được ngồi bên phải của Người, khi người tông đồ này là vị tông đồ duy nhất "đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu" với Mẹ Maria (Gioan 19:25), một vị thế tử đạo khi tận mắt chứng kiến thấy tất cả khổ nhục tận cùng Thày mình phải chịu, và ở chỗ, Tông Đồ Giacôbê được ngồi bên tả của Người, vì ngài là vị tông đồ tử đạo đầu tiên trong các tông đồ (xem Tông Vụ 12:2), ở Giêrusalem, giáo đô của dân Do Thái, đích điểm nhắm tới mà cuộc hành trình Thiên Sai của Chúa Giêsu cần phải tiến về, như đầu bài Phúc Âm hôm nay đề cập tới: "Các môn đệ và Chúa Giêsu lên đường đi Giêrusalem".

"Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định", nghĩa là, do Cha chỉ định và xếp đặt tùy theo ý định của Ngài và ơn gọi của Ngài nơi từng người. Đó là lý do trong Bữa Tiệc Ly Chúa Kitô mới nói với các tông đồ rằng: "Trong nhà Cha của Thày có nhiều chỗ ở" (Gioan 14:2).

Lời thỉnh cầu của hai người môn đệ trong bài Phúc Âm hôm nay xin Thày cho được ngồi bên phải và bên trái của Chúa Kitô đây có thể hiểu là các vị, dù ý thức hay không ý thức, dù chủ quan hay khách quan, tự nó cũng là một ước muốn được thông phần vào công cuộc cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cho chung nhân loại chứ không phải cho riêng gì dân Do Thái. Thế nhưng, dù sao, "việc cứu độ xuất phát từ dân Do Thái" (Gioan 4:22), một dự án cứu độ đã được Thiên Chúa mạc khải cho thấy trong lịch sử cứu độ của dân này, như Sách Huấn Ca đã cảm nhận và bày tỏ trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Xin Chúa quy tụ mọi người vào các chi họ Giacóp, để họ nhìn biết rằng không có Chúa nào khác ngoài Chúa, để họ cao rao các việc lạ lùng Chúa đã làm, và để Chúa cho họ được hưởng phần gia nghiệp như lúc ban đầu... Xin Chúa hãy minh chứng cho dân tộc, tạo vật đầu tiên của Chúa và xin thực hiện những điều các tiên tri đầu tiên đã nhân danh Chúa mà tiên báo. Xin thưởng công cho những người đã trông cậy nơi Ngài, và xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực".

Như thế, cho dù công cuộc cứu độ (ecomony of salvation) "được xuất phát từ dân Do Thái", dự án cứu độ (plan of salvation) ngay từ ban đầu và hằng có tính cách phổ quát, đại đồng, "công giáo" (catholic), nghĩa là bao gồm toàn thể nhân loại nói chung, một dự án đầy từ bi nhân ái, được hiện thực nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng "không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người", đó là "những ai chấp Người" (Gioan 1:12), chấp nhận ơn cứu độ của Ngài, nghĩa là tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài, thành phần mang tâm nguyện như câu xướng trong Bài Đáp Ca hôm nay: "Lạy Chúa, xin hãy tỏ cho chúng con ánh sáng lòng từ bi của Chúa" (Huấn Ca 36: 1b), cũng như câu Alleluia hôm nay: "Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia".

 

Ngày 26 tháng 5

Thánh Phi-líp-phê Nê-ri, linh mục

lễ nhớ bắt buộc


Sinh năm 1515 tại Phi-ren-xê, thánh nhân đến Rô-ma và dấn thân lo cho thanh thiếu niên. Người đi vào con đường trọn lành và lập một hội chuyên phục vụ người nghèo. Lãnh chức linh mục năm 1551, người lập dòng Ô-ra-toa, chuyên lo cầu nguyện và làm việc bác ái trong giới thanh thiếu niên, các bệnh nhân, các tù nhân. Nét nổi bật trong đời của thánh nhân là người yêu thương tha nhân cách thiết thực, đơn sơ và vui vẻ. Người qua đời năm 1595.

 

THÁNH PHILIPPHÊ NÊRÔ
Linh Mục (1515 - 1595)

Thánh Philipphê Nêrô sinh năm 1515 tạo Florence. Bị mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, nhưng Philipphê có một bà Dì nhất mực yêu thương. Ngược lại Philipphê cũng rất vui tươi và ngoan ngùy đang cho mọi người yêu thích. Ngài hấp thụ được đức tin sâu xa nôi cha mẹ và các cha dòng Daminh ở tu viện thánh Marcô.

Năm 1533 Ngài đến sống với người cậu ở gần Naples để tập nghề kinh doanh. Ong cậu không có con thừa tự nên muốn dành gia tài cho Philipphê, nhưng thánh nhân thấy mình không có ơn gọi để sống cuộc đời như vậy. Và Ngài đi bộ về Roma, không tính toán cũng không có đồ dùng chi, Philipphê sẽ sống và chết tại Roma.

Một người đồng hương ở Roma cho Philipphê một căn phòng với điều kiện là dành ít thời gian dạy dỗ cho con cái họ. Thánh nhân đã sống đời cầu nguyện và học hành trong cô tịch, ngày ăn một bữa với bánh mì, nước và trái ôliu, ngủ trên sàn nhà. Trong khi theo môn triết học và thần học, Ngài vẫn tìm cách lôi kéo bạn bè vào nếp sống đạo đức, lo cải hoá người khác. Như vậy chính thánh nhân cũng bị cám dỗ và phải cố gắng để tự chủ, Ngài tăng thêm lời cầu nguyện và các việc hy sinh hãm mình.

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1544, trong khi cầu nguyện, Ngài thấy một vật gì như trái banh bằng lửa xoáy vào trong tim gây nên một cơn bệnh và một vết thương xưng lên dầu không đau đớn gì. Trong cuộc khám nghịệm sau khi chết người ta thấy hai xương sườn phía trên bị gãy và tạo ra một khoảng rộng lớn hơn.

Sau nhiều năm, Ngài bán hết sách vở và bắt đầu lo cho linh hồn người khác hơn là cho mình. Ngài hòa mình với các bạn trẻ ở các ngã tư , các cửa tiệm và các bờ sông, dùng đến sức thu hút tự nhiên lẫn siêu nhiên để dẫn họ về đường ngay.

Hòa mình vào nhóm các nhà giảng thuyết, Philipphê đã gây được nhiều ảnh hưởng nơi các giáo dân lẫn lương dân. Người ta cho rằng: Ngài làm nhiều phép lạ. Tuy nhiên, thánh nhân rất khiêm tốn và không dám nhận chức linh mục. Cuối cùng theo lời khuyên của cha giải tội, Ngài thụ phong linh mục năm 1551. Nhiệt tâm của Ngài thật mãnh liệt khi Ngài cử hành thánh lễ đầu tiên đến nỗi như có một luồng ánh sáng từ Ngài phát ra. Phần lớn thời gian trong ngày và cả ban đêm Ngài dành vào việc ngồi tòa giải tội. Nhận thấy có nhiều thanh niên và trẻ em biếng nhác, Ngài mở cửa không cho chúng vui tươi trò chuyện ca hát. Căn phòng ấy được mệnh danh là "Ngôi nhà của nịềm vui Kitô giáo". Mỗi chiều Ngài tổ chức buổi cầu nguyện chung cho các tín hữu. Muốn cho lời cầu nguyện khởi sắc, Ngài nhờ người bạn danh tiếng là nhạc sĩ Palestrina phổ nhạc các thánh thi. Nhà nghệ sĩ này coi Ngài như một người cha và đã qua đời trong cánh tay Ngài. các linh mục muốn dấn thân phù giúp Ngài đã họp thành một hội ái hữu và đó là tiền thân của dòng giảng thuyết.

Thánh Philipphê làm việc với một tính khí vui tươi đặc biệt. Ngày kia cộng đoàn một bạn trẻ đến báo tin cho Ngài biết hạnh phúc của mình đã được thân phụ cho theo học luật. Sau khi phác họa niềm vui hạnh phúc của mình như thế nào rồi, anh nghe hỏi:

- Học xong anh sẽ làm gì ?
- Con sẽ đậu bằng tiến sĩ luật .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ cãi những vụ kiện quan trọng, khó khăn để thành danh tiếng.
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ nên danh giá và giàu có thỏa lòng mong ước .
- Rồi sao nữa ?
- Con sẽ sống sung sướng và hạnh phúc.
- Rồi sao nữa ?
- Rồi sao nữa ? sao nữa ? rồi con chết.
- Thánh nhân cao giọng hỏi tiếp: Rồi sao nữa ?

Và bạn trẻ không biết trả lời ra sao nữa, nhưng câu hỏi đã lọt vào trong tâm hồn cho đến khi hiến mình trong tu viện và chết lành thánh.

Cũng với tính khôi hài này. Thánh Philipphê đã sửa dạy được nhiều nết xấu của người ta. Chẳng hạn một phụ nữ quen tật nói xấu người khác được nghe thánh nhân dạy hãy mua một con gà giết chết, rồi vừa đi vừa nhổ lông trên đường tới gặp Ngài. Chị ta ngạc nhiên làm và như vậy. Tới nơi thánh nhân dạy : - Chị hãy trở về đường cũ và lượm hết các lông đó lại.

Người phụ nữ la lối không thể được vì gió thổi bay khắp chốn rồi. Thánh nhân mới nói: - Những lời nói xấu vu oan cho người ta một khi ra khỏi miệng sẽ truyền từ tai này qua tai nọ. Chị có thể lấy lại được không ?

Và thánh Nhân khuyên nhủ : - Khi muốn nói về một người nào làm khổ mình, hãy nói với Chúa mà thôi để cầu nguyện và giúp họ sửa sai.

Với những bức thư của thánh Phanxicô Xavier từ phương Đông gởi về, thánh Philipphê đã tìm cách theo Ngài để gieo vãi chính máu mình cho Chúa Kitô. Nhưng một thày dòng khổ tu đã nói với thánh nhân : - Dân An độ của Ngài ở tại Roma này.

Thế là thánh nhân ở lại Rôma trở thành "Tông đồ thành Rôma".

Năm 1622 khi được phong thánh, thì Phanxicô Xavie vị "Tông đồ của dân An độ" cũng được tuyên phong với Ngài.

Năm 1575, Đức giáo hoàng Gregoriô XIII đã cho Ngài và anh em linh mục thuộc nhóm Ngài một nhà thờ. Họ tái thiết thành một nhà thờ mới và ngày nay cũng chính là nhà mẹ ở Roma của dòng giảng thuyết. Philipphê được đặt làm bề trên của hội dòng mới, dòng giảng thuyết. Ngài hướng dẫn anh em trong dòng sống như như các linh mục triều, không có lời khấn nào đặc biệt, nhưng liên kết với nhau trong tình yêu thương nhau, trong một mục đích là phục vụ các linh hồn bằng việc cầu nguyện, giảng dạy và ban các phép bí tích. Ngài không đặt ra nhiều lề luật và ngày nay có tới 40 nhà dòng giảng thuyết gồm các phần tử sống theo đường lối của thánh Philipphê Nêrô.

Năm 1595, thánh Philipphê ngã bệnh. Ngày 25 tháng 5 Ngài dâng lễ và ngồi tòa như thường lệ. Nhưng sáng hôm sau Ngài bị thổ huyết, trong khi giơ tay chúc lành cho cộng đoàn và miệng lẩm bẩm : - Đây là tình yêu của con, hạnh phúc của lòng con và thánh nhân đã phó mình cho tình yêu.

 

https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm#25

https://giaophanlangson.org/news/cac-thanh-theo-lich-phung-vu/ngay-26-5-thanh-philipphe-nero-linh-muc-1515-1595-4360.html

https://giaohovinhloc.com/2020/05/26/thanh-philipphe-nero-linh-muc-1515-1595-ngay-26-5/

 

Lạy Chúa, Chúa nâng lên hàng chư thánh hiển vinh tất cả những ai trung thành phụng sự Chúa. Xin cử Thánh Thần đến đốt lửa yêu mến trong lòng chúng con, như xưa Người đã hun đúc tâm hồn thánh Phi-líp-phê Nê-ri một cách lạ lùng. Chúng con cầu xin

 

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 42, 15-26

"Các công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người".

Trích sách Huấn Ca.

Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy. Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.

Nào Chúa đã không ban cho các thánh được cao rao các việc kỳ diệu của Người, những việc mà Chúa toàn năng đã củng cố trong vinh quang của Người sao?

Người dò xét vực thẳm và lòng con người, thấu biết những mưu chước của họ, vì Chúa thấu suốt mọi sự và theo dõi những dấu thời đại, tuyên bố những gì thuộc về dĩ vãng và hậu lai, tỏ bày những dấu vết các việc ẩn kín. Không một tư tưởng nào mà Người không biết, không một lời nào có thể giấu được Người.

Người sắp đặt những kỳ công sự khôn ngoan của Người. Người có trước muôn đời và tồn tại muôn thuở, không thêm không bớt, không cần đến vị cố vấn nào. Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn. Mọi vật ấy đều sống động và tồn tại muôn đời, và vâng phục Người trong mọi hoàn cảnh. Tất cả đều có từng đôi và cái này đối diện với cái nọ, và Người không làm chi khuyết điểm. Vật này làm nổi bật vẻ đẹp cho vật kia. Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành (c. 6a).

Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.- Ðáp.

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.

3) Do lời Chúa mà trời xanh được tạo thành, và mọi cơ binh chúng đều do hơi thở miệng Người. Chúa thu nước biển lại như để trong bầu, Người đặt những ngọn sóng trong kho chứa đựng. - Ðáp.

4) Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể Người. Vì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 46-52

"Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ, và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: "Hỡi ông Giêsu con vua Ðavít, xin thương xót tôi". Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít , xin thương xót tôi".

Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: "Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh". Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: "Anh muốn Ta làm gì cho anh"? Người mù thưa: "Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy". Chúa Giêsu đáp: "Ðược, đức tin của anh đã chữa anh". Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Ðó là lời Chúa.

 





"Liệng áo choàng, đứng dạy, đến cùng Chúa Giêsu"... "đi theo Người"

SUY NIỆM

Nếu sự sống thần linh, sự sống đời đời liên quan đến việc "nhận biết" (Gioan 17:3) thì bài Phúc Âm hôm nay cũng gián tiếp liên quan đến sự sống. Bởi vì, "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối, nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12).
Chúa Giêsu, trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem, đã băng qua xứ Samaria và ghé vào thủ phủ của xứ này là Jericho, và như Thánh ký Marco thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay (10:46-52), thì khi "Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì có con ông Timê tên là Bartimê, một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường".
Tuy bị mù lòa về thể lý, nhưng tâm linh của con người này rất tinh anh bén nhậyđến độ, cho dù chưa hề được tận mắt thấy Chúa Giêsu và chứng kiến việc Người làm phép lạ, mà mới chỉ nghe về Người thôi, đã tỏ ra tin tưởng Người lắm rồi, thậm chí có thể tận thâm tâm của mình, con người mù này đã hết sức mong chờ được gặp Người nữa. 
Bởi thế, không lạ gì, như Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: 'Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi'. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: 'Hỡi con vua Đavít , xin thương xót tôi'".
Là Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) làm sao Chúa Kitô có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước con người đáng thương về phần xác nhưng đáng đáp ứng về phần hồn như "một người mù ăn xin đang ngồi ở vệ đường" ấy chứ! Thế nên, Thánh ký Marco đã tiếp tục cho thấy phản ứng của Chúa Kitô và việc Người đáp ứng đối với người mù này như sau:
"Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: 'Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh'. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: 'Anh muốn Ta làm gì cho anh?' Người mù thưa: 'Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy'. Chúa Giêsu đáp: 'Được, đức tin của anh đã chữa anh'. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người".
Hành động "liệng áo choàng, đứng dạy, đến cùng Chúa Giêsu" của người mù ăn xin này không phải chỉ cho thấy nỗi vui mừng khôn tả của anh ta vì được chính Đấng anh ta chưa bao giờ thấy nhưng hết sức tin tưởng đáp ứng, mà còn nhất là cho thấy anh ta hoàn toàn tin tưởng rằng anh ta chắc chắn sẽ được chữa lành nữa theo như lòng anh ta mong ước "được thấy"
Theo bình thường chúng ta hiểu là con người ăn xin mù lòa này muốn "được thấy" ánh sáng mặt trời, muốn "được thấy" những người thân yêu của anh ta, muốn trở nên bình thường như mọi người với cặp mắt để "được thấy" tất cả mọi thực tại quanh mình v.v., Thế nhưng, nơi trường hợp của riêng người ăn xin mù lòa này thì anh ta muốn "được thấy" chính Đấng anh ta hằng tin tưởng và đã chữa lành anh ta. Đó là lý do sau khi anh ta "thấy được" thì "đi theo Người", cùng Người và các môn đệ của Người cũng như đám đông theo Người lên Giêrusalem, và chính vì anh ta "đi theo Người" "là ánh sáng thế gian" mà anh ta "có ánh sáng sự sống", "không (còn) đi trong tăm tối" nữa (Gioan 8:12). 

CẢM NGHIỆM

Thân phận mù lòa ngồi ăn xin của nhân vật Batimê trong bài Phúc Âm hôm nay là tiêu biểu cho thân phận của chung nhân loại sau nguyên tội, một thân phận bởi nguyên tội và từ nguyên tội đã trở nên bần cùng về sự sống thần linh, ở chỗ mất ơn nghĩa với Chúa, và mù lòa về đời sống tâm linh, ở chỗ lầm lạc không biết việc mình làm.

Thế nhưng, nhờ Phép Rửa, tức nhờ quyền linh của Chúa Kitô Vượt Qua, như người mù ăn xin Batimê, họ đã "được thấy và đi theo Người", bởi được Người thương, như lời Thánh Phêrô nhắc nhủ họ trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Anh em xưa kia không phải là dân của Thiên Chúa, nhưng nay là dân của Người; xưa kia anh em không được xót thương, nhưng nay được thương xót".

Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù trong bài Phúc Âm hôm nay là một kỳ công, bao gồm cả quyền năng và lòng thương xót Người muốn tỏ ra chẳng những cho chính nạn nhân mù lòa mà còn cho các các môn đệ cùng đám đông đang theo Người bấy giờ, lẫn quyết định theo Chúa của nạn nhân mù lòa sau khi được chữa lành, "được thấy" không phải chỉ muốn thấy thiên nhiên tạo vật cùng nhân sinh của mình mà là "thấy được" Đấng "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), "ánh sáng đã chiếu trong tăm tối" (Gioan 1:5), điển hình là đã làm cho bóng tối hằng bao trùm con mắt thể lý của anh hoàn toàn tan biến.

Chính vì thế, chính vì cảm nghiệm thần linh sâu xa của nạn nhân bị mù được chữa lành trong bài Phúc Âm hôm nay, mà khi mở mắt ra anh ta mới có thể nói như Sách Huấn Ca viết trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Tôi sẽ ghi nhớ công trình của Chúa, và sẽ thuật lại những điều tôi đã thấy". Ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ, như Bài Đọc 1 ngay sau đó viết: "Nhờ lời Chúa mà Chúa đã thực hiện những kỳ công. Mặt trời chiếu soi vạn vật, và công trình của Chúa đầy ánh vinh quang của Người.... Mọi công trình của Người thực đáng quý chuộng, và như những ánh lửa người ta có thể ngắm nhìn... Và ai có thể nhàm chán nhìn xem vinh quang của Người?"

Một khi chiêm ngưỡng thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi thiên nhiên tạo vật, nhất là nơi chính bản thân của mình là một người mù lòa được nhìn thấy, người mù trong Bài Phúc Âm hôm nay không thể nào không kêu gọi tất cả mọi tạo vật cùng nhau và cùng với mình chúc tụng ngợi khen Chúa như câu cuối cùng của Bài Đáp Ca hôm nay: "Toàn thể địa cầu hãy tôn sợ Chúa, mọi người sống trong vũ trụ hãy kính nể Người. Vì chính Người phán dạy mà chúng được tạo thành, chính Người ra lệnh mà chúng trở nên thực hữu".
 

 

 

Thánh AUGUSTINÔ CANTURBERY
Giám mục (+605)

 

Thánh Augustinô là tác nhân của một con người vĩ đại hơn chính Ngài, đức giáo hoàng Grêgôriô Cả, trừ các tu sĩ Ai Nhĩ Lan, hoạt động truyền giáo không hề được biết đến tại Giáo hội Tây Pbương và chính Đức giáo hoàng Grêgôriô Cả làm sống lại phong trào này.

Khi làm bề trên tu viện thánh ANRÊ, Ngài đã muốn sang truyền giáo tại Anh, nhưng vì được đắc cử giáo hoàng, nên phải từ bỏ ý định. Nước Anh đã được đón nhận đức tin từ thế kỷ đầu, nhưng rồi cuộc xâm chiếm của dân Saxon vào thế kỷ V và VI đã làm cho đức tin công giáo bị phai mờ.

Dịp may đưa tới khi Ethebert, tiểu vương miền Kent phía nam nước Anh thành hôn với người vợ công giáo là công chúa Berthe và còn tiếp nhận một giám mục xứ Gaule vào triều đình. Năm 596 Đức giáo hoàng Grêgoriô sai tới Anh quốc một tu sĩ, Augustinô lên đường với 40 tu sĩ. Khi tới miền nam xứ Gaule họ bị khủng hoảng và sai Augstinô trở về Rôma xin Đức giáo hoàng gọi họ trở về. Đáp lại, Đức giáo hoàng đã đặt Augustinô làm Đan viện phụ và bắt mọi người trong nhóm phải vâng phục Ngài.

Với quyền hạn này, Augustinô vẫn còn truyền giáo tới đảo Thanet. Thoạt đầu, Ethebert được rửa tội và bàn định với Đức Giáo hoàng một dự án chuẩn bị tái lập toà Giám mục tự Canterbury (Cantuariô) tới Lôn - Đôn (Luân Đôn) và thiết lập một giáo tỉnh khác ở York.

Theo chỉ thị của Đức Giáo hoàng, Augustinô đi Arles để thụ phong giám mục do tay Đức Tổng giám mục Vigile, đại diện tòa thánh ở xứ Gaule, nhiều biến cố dù ngăn trở những dự tính trên. Nhưng diễn tiến trong cuộc truyên giáo vẫn tiếp tục cho tới khi thánh Augustinô qua đời khoảng năm 605.

Thất bại duy nhất của thánh Augustinô khi Ngài tới nước Anh vì nỗ lực giải hoà với các Kitô hữu miền Welsh nhằm thuyết phục họ nhận cách tính ngày lễ phục sinh của Roma, sửa lại vài điều bất thường trong nghi lễ và phục quyền Ngài. Thánh Augustinô mời các vị lãnh đạo Giáo hội Welsh tới họp, nhưng lại gây cảm giác bất lợi vì Ngài đã ngồi yên khi họ tới gặp Ngài. Hình như việc này cũng làm cho thánh Bêđa mất thiện cảm nữa.

Thánh Augustinô không phải là một nhà truyền giáo anh hùng nhất, khéo léo nhất. Nhưng Ngài đã thực hiện một công cuộc vĩ đại, là một trong số rất ít người ở Gaule và ở Ý thời đó sẵn sàng tử bỏ mọi sự để ra đi rao giảng : Tin Mừng cho những miền xa xăm.

 

https://www.giaophanbaria.org/hanhcacthanh/theovetchannguoi05.htm#25

https://yeuthuongphucvu.com/2019/05/26/thanh-augustino-canterbury-giam-muc-605-ngay-27-5/

 

Vào năm 597, một nhóm đan sĩ  40 người khởi hành từ Rôma đi truyền giáo cho người Anglo-Saxon ở Anh. Dẫn đầu là Augustinô, bề trên đan viện Thánh Anrê ở Rôma. Nhưng khi đến Gaul (Pháp) họ nghe những câu chuyện dã man về người Anglo-Saxon cũng như sự nguy hiểm của các luồng nước ở eo biển, họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi – Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô Cả – và đức giáo hoàng cho biết sự lo sợ của họ thì vô căn cứ. Trong một lá thư gửi cho Thánh Augustinô, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả viết: “Ai muốn trèo ngọn núi cao thì phải đi từng bước, chứ đừng có nhảy.

Augustinô lại ra đi một lần nữa, và lần này cả nhóm đã vượt qua eo biển và cập bến đất Kent thuộc Vua Ethelbert, là người ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp. Vua Ethelbert tiếp đón họ nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở Cantơbery và trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà vua đã được rửa tội.

Sau khi được tấn phong làm giám mục ở Gaul, Pháp bởi Đức Cha xứ Arles – Tổng Giám Mục tiên khởi của Cantơbery, nước Anh. Augustinô trở lại Cantơbery, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng vương cung thánh đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, các giáo phận khác được ngài mở thêm ở Luân Ðôn và Rochester.

Cuộc đời Augustinô cũng gặp nhiều thất bại. Những cố gắng hòa giải giữa người Kitô Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã chấm dứt trong thất bại đau buồn. Augustinô cũng không thuyết phục được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm lăng đã dồn người Briton về miền tây.

Sau những thất bại, Augustinô đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo – đối với thời bấy giờ thật sáng suốt mà Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đề nghị: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.

Sau tám năm đến Anh, sự thành công của ngài tuy hạn hẹp nhưng sau này đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng giáo. Quả thật, Thánh Augustinô đáng được gọi là “Tông Ðồ của Anh Quốc”.

Ngài qua đời ngày 26 tháng 5 năm 604 tại Cantơbery, Anh Quốc. Ngài được mai táng trong nhà thờ chính tòa Thánh Phêrô và Phaolô ở Cantơbery, ngôi thánh đường ngài đã xây dựng.

 

https://dongten.net/2019/05/26/hanh-cac-thanh-27-05-thanh-augustine-o-canterbury/

http://giaoxutanviet.com/ngay-275-thanh-augustino-canterbury-giam-muc-qua-doi-nam-605/

 

Thánh Augustinô là tu sĩ dòng thánh Anrê ở Rôma, Giám mục tiên khởi của giáo phận Canterbury, Anh Quốc. Sau 8 năm coi sóc giáo phận, ngài đã đưa nhiều người trở thành tín hữu Công giáo bằng cách duy trì, thăng hoa nhiều phong tục tập quán và các lễ hội của người dân địa phương cho phù hợp với niềm tin tôn giáo. Vì lẽ đó, ngài được gọi là Tông đồ của Anh Quốc.

Năm 596, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả sai ngài cùng với ba mươi nhà truyền giáo đến rao giảng Tin Mừng ở Anh Quốc. Khi các ngài đặt chân đến Kent, vua Ethebert nghĩ rằng các ngài có thần chú và ma lực, mà những phép thuật này sẽ vô hiệu lực khi ở ngoài trời. Vì thế, vua đã tiếp các nhà truyền giáo dưới gốc cây sồi ở ngoài trời. Sau đó, vua nhận thấy thiện chí của các ngài nên cấp cho một phần đất ở địa hạt Canterbury và cho phép họ tự do đi lại khắp nơi để rao giảng. Sau một thời gian ngắn hoạt động, có hàng ngàn người dân đón nhận Tin Mừng và chính nhà vua cũng xin được rửa tội vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 597.

Sau khi được tấn phong Giám mục ở Pháp, Ðức Giám mục Augustinô trở lại Canterbury, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng Vương Cung Thánh Đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, ngài mở thêm các giáo phận khác ở Luân Ðôn và Rochester.

Các nhà truyền giáo này luôn liên lạc với Đức Giáo Hoàng và làm theo chỉ dẫn của ngài là “Muốn trèo lên tới đỉnh cao thì phải leo từng bước chứ không được nhảy”. Thánh Augustinô và các nhà truyền giáo không dẹp bỏ các đền thờ của dân ngoại nhưng tìm cách biến nó thành nơi thờ phượng Thiên Chúa. Các ngài cũng giữ những phong tục tập quán của địa phương khi có thể và các lễ hội của dân ngoại cũng được thay thế bằng lễ kính các thánh.

Thánh Augustinô qua đời vào ngày 26.5.605, kể từ đó thánh nhân được tôn kính như là vị Tông đồ của Anh Quốc.

 

http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-augustino-thanh-canterbury_a5112

 

 

 

 


Thứ Sáu sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 44, 1. 9-13

"Cha ông chúng ta là những người biết xót thương người, danh tiếng tồn tại từ đời nọ sang đời kia".

Trích sách Huấn Ca.

Chúng ta hãy ca tụng những vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại. Có những người không ai nhớ đến nữa: Họ qua đi như không bao giờ có họ, họ sinh ra như thể không có họ sinh ra, và con cháu của họ cũng thế. Nhưng có những người nhân hậu mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Dt 4, 12

Alleluia, alleluia! - Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phơi bày tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 11, 11-26

"Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc. Các ngươi hãy tin vào Thiên Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

(Khi nghe dân chúng hoan hô), Chúa Giêsu vào thành Giê-rusalem, lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai. Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa". Và các môn đệ đã nghe Người nói.

Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: "Nào chẳng có lời chép rằng: "Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dận tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp". Ðiều đó đến tai các trưởng tế và luật sĩ, họ liền tìm cách giết Người, vì họ sợ Người, bởi tất cả dân chúng say mê giáo lý của Người. Chiều đến, Người ra khỏi thành.

Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ. Phêrô nhớ lại và thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi". Chúa Giêsu đáp: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: "Hãy dời đi và gieo mình xuống biển", mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý. Vì vậy Thầy bảo các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được điều đó. Và khi các con đang đứng cầu nguyện, nếu các con có điều gì bất thuận với ai, hãy tha thứ để Cha các con trên trời cũng tha cho các con. Nếu các con không tha thứ, thì Cha các con trên trời cũng không tha tội cho các con".

Ðó là lời Chúa.

 




Đền Thờ ... hang trộm cướp!

SUY NIỆM

Cuộc hành trình tiến về Giêrusalem của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người, nh
ư bài Phúc Âm c
ủa Thánh ký Marco (11:11-26) cho Thứ Sáu Tuần VIII Mùa Thường Niên hôm nay cho thấy, đã tới nơi. Sau khi Người công khai "vào thành Giêrusalemtrước sự long trọng và linh đình nghênh đón của dân chúng, thì Người "lên đền thờ và sau khi đã đưa mắt quan sát mọi sự, và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai". 
Đúng thế, nếu tiến "vào thành Giêrusalem" mà không "lên đền thờ" là tâm điểm của thành này, là Nơi Thánh, Nơi Thiên Chúa ngự, thì Chúa Kitô kể như chưa đạt đến đích điểm Người nhắm tới. Thế nhưng, ngay lúc bấy giờ, Người chưa vào bên trong Đền Thờ, mà chỉ mới "đưa mắt quan sát mọi sự" ở bên ngoài mà thôi. Bởi đó mới chưa có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra như ngày hôm sau khi Người trở lại, một ngày có hai biến cố liên hệ với nhau, như được Phúc Âm thuật lại như sau:
"Hôm sau, khi thầy trò rời bỏ Bêtania, Người thấy đói. Và khi thấy ở đàng xa có một cây vả nhiều lá, Người đến xem coi có trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người chỉ thấy có lá thôi, vì không phải là mùa có trái. Người phán bảo cây vả rằng: 'Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa'. Và các môn đệ đã nghe Người nói".
Đây là biến cố thứ nhất, biến cố xẩy ra trên đường Chúa Kitô cùng với các tông đồ lên Đền thờ Giêrusalem. Không biết lúc ấy là lúc nào, có thể là giữa trưa hay chăng. Vì bấy giờ Chúa Giêsu đã cảm thấy "đói". Có thể Thày trò của Người đêm hôm trước đâ về ở trọ nhà của 3 chị em Matta, Maria và Lazarô là những người bạn thân của Người ở Bêtania (xem Gioan 11:1-2,5), và đã được cả 3 chị em phục vụ hết mình về cả của ăn lẫn chỗ ngủ, kể cả bữa ăn sáng hôm sau trước khi Thày trò rời nhà của họ trở lại Đền Thờ
Vấn đề ở đây là tại sao Chúa Kitô lại nguyền rủa một cây vả không có trái như Người mong muốn, nhất là lúc Người cảm "thấy đói": "Cho đến muôn đời sẽ không còn ai ăn trái của mi nữa", trong khi đó lại "không phải là mùa có trái" của nó, cho dù nó vẫn còn "có láxanh tươi? Và lời nguyền rủa của Người đã hoàn toàn ứng nghiệm với cây vả tội nghiệp này, như phần dưới của cùng bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận: "Sáng hôm sau, khi đi ngang qua, các ngài trông thấy cây vả đã chết khô tận rễ".
Có thể cây vả bị Chúa Kitô nguyền rủa ấy chỉ um tùm những lá xanh tươi như vậy thôi, mà chẳng bao giờ có trái, dù đến mùa sinh hoa kết trái của nó như những cây vả khác, nên nó mới bị nguyền rủa như vậy, bởi nó không đạt được ý nghĩa là thứ cây ăn trái của mình, và vì thế chỉ chiếm đất chứ chẳng có lợi gì, đáng bị đốn đi cho xong, như ý nghĩa của dụ ngôn về cây vả không sinh trái trong vườn nho được Chúa Giêsu nói đến (xem Luca 13:7).
Biến cố cây vả bên đường không sinh trái bị Chúa Giêsu nguyền rủa và đã bị héo khô này phải chăng ám chỉ đến biến cố Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái giáo của dân Chúa chọn, chỉ là một nơi nguy ga đồ sộ về kiến trúc và là một nơi đô hội vui nhộn theo trần thế hơn là nơi của tôn giáo và đức tin, nơi để dân Chúa "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24), nên nó đã được chính Người báo trước cho biết về số phận bất hạnh của nó là "tất cả sẽ bị hủy hoại" (xem Marco 13:2). 
Đúng thế, biến cố thứ hai trong cùng một ngày, tiếp theo sau biến cố cây vả bên đường bị Chúa Giêsu nguyền rủa (hôm sau thấy chết khô), đó là biến cố có liên quan đến biến cố thứ nhất, một biến cố gián tiếp ám chỉ đến biến cố thứ hai, và biến cố thứ hai này đã được Thánh ký Marco thuật lại trong cùng bài Phúc Âm hôm nay như sau:
"Các ngài đến Giêrusalem. Và khi vào đền thờ, Chúa liền đuổi những người mua bán ở đó. Người xô đổ bàn của những người đổi tiền và ghế của những người bán chim câu. Người không để cho ai mang đồ vật đi ngang qua đền thờ. Người dạy bảo họ: 'Nào chẳng có lời chép rằng: 'Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc ư? Thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp'".
Ở đây chúng ta thấy, hôm trước, Chúa Giêsu khi công khai tiến vào Thành Giêrusalem mới chỉ "đưa mắt quan sát mọi sự" ở bên ngoài đền thờ, hôm nay, "khi vào đền thờ", thì ở bên trong Người mới thấy diễn ra một cảnh tượng không thể nào chấp nhận được, không thể nào không thẳng tay thanh tẩy đền thờ cho đúng với ý nghĩa "là nhà cầu nguyệncủa đền thờ, một nơi linh thiêng thánh hảo đã bị con người trần tục hóa, một nơi con người "đã biến thành hang trộm cướp", trở thành sào huyệt của lợi lộc thấp hèn trần tục.

Cấu trúc của đền thờ, theo lời chỉ dẫn của chính Thiên Chúa, được Sách Xuất Hành thuật lại về Lều Tạm (The Dwelling / Tabanacle) ở đoạn 26 (31-37) và được Thư Do Thái nhắc lại ở đoạn 9 (1-7), bao gồm 2 phần: phần thánh (holy place) ở bên ngoài (outside one) và phần cực thánh (the holy of holies) bên trong tấm màn thứ hai (behind the second veil): Phần Thánh gồm có cái bàn (table) ở phía bắc và chân đèn (lampstand) ở phía nam Lều Tạm, nơi các vị tư tế (priests) có thể vào thường xuyên. Còn Phần Cực Thánh là nơi có Bàn Thờ Hương bằng vàng và Hòm Bia đựng hai tấm bia giao ước (the tablets of covenant), một hũ bằng vàng đựng manna (the golden jar containing the manna) và cây gậy nở hoa của Aaron (the rod of Aaron which had blossomed), và là nơi chỉ có vị thượng tế (high priest) mới được vào mỗi năm 1 lần mà thôi. 

Tuy nhiên, Sách Xuất Hành ở đoạn 27 (9-19) sau đó còn thuật lại một phần nữa của Lều Tạm theo lời chỉ dẫn của Thiên Chúa hết sức tỉ mỉ bao gồm cả 4 phía đông, tây, nam, bắc, kèm theo kích thước đàng hoàng, gọi là Court of the Dwelling, có thể coi là tiền đường của Lều Tạm, một tiền đường có cửa vào được treo một tấm màn (curtain) nữa, tức tấm màn thứ nhất so với tấm màn thứ hai phân nơi thánh và nơi chí thánh ở nội cung Lều Tạm. Đền thờ Giêrusalem đầu tiên, theo Sách Chư Vương quyển 1 (6:15-38), được Vua Solomon xây 7 năm (27:38) và cũng được cấu trúc theo đúng như cấu trúc của Lều Tạm, cũng có nơi thánh và nơi cực thánh ở nội cung, và tiền đường bên ngoài (27:36), một cấu trúc có thể ám chỉ về con người có thân xác như tiền đường, linh hồn như nơi thánh và lương tâm như nơi cực thánh.  

Như thế, theo suy đoán thì Chúa Giêsu vào đền thờ bấy giờ là vào tiền đường của đền thờ mà thôi, nơi dân chúng tụ họp, chứ ngài không vào bên trong nơi thánh như một vị tư tế hay vào nơi cực thánh như một vị thượng tế. Và chính ở tiền đường cũng là một phần trong cấu trúc làm nên nguyên vẹn đền thờ là nơi cầu nguyện đầy tính cách linh thiêng này đã bị con người ta biến thành hang trộm cướp bằng những thứ buôn bán trần tục, bất xứng với một nơi gọi là đền thờ mà Người đã phải thẳng tay thanh tẩy như Phúc Âm hôm nay thuật lại. 

Hai biến cố trong cùng một ngày có liên hệ với nhau trên đây cho thấy, trước hết, về phương diện tự nhên, một sinh vật (điển hình như cây vả là một thứ cây ăn trái) không thể nào không sinh hoa trái là những gì biểu hiệu cho sự sống đích thực và dồi dào của nó, sau nữa, về phương diện siêu nhiên, một con người có hồn thiêng bất tử không thể nào chỉ "sống nguyên bởi bánh" mà chính là "sống bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (xem Mathêu 4:4), nghĩa là sống bởi đức tin nữa. 
Đó là lý do, sau khi nghe thấy Tông Đồ Phêrô báo cho biết rằng "Lạy Thầy, hãy coi, cây vả Thầy nguyền rủa đã chết khô rồi", Chúa Giêsu mới lợi dụng cơ hội ấy để dạy cho vị tông đồ này nói riêng và các tông đồ nói chung về đức tin, như bài Phúc Âm hôm nay trình thuật tiếp như sau: "Hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật các con, nếu ai bảo núi kia: 'Hãy dời đi và gieo mình xuống biển', mà trong lòng không hồ nghi, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì người ấy sẽ được như ý".

Căn cứ vào câu trả lời trên đây của Chúa Giêsu liên quan đến đức tin và quyền lực siêu việt của đức tin, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao, theo lý lẽ tự nhiên thì thật là vô lý và quái ác, chưa đến mùa của nó mà vì đói Chúa Giêsu đã nguyền rủa cây vả chỉ xum xuê lá mà chẳng có quả nào, đến đô nó chết khô tận gốc rễ. Đúng thế, theo tự nhiên và định luật của trời đất này thì cây cối chỉ sinh hoa kết quả vào đúng thời điểm hay đúng mùa của nó.

Ý nghĩa "theo mùa" ở đây thuần túy là theo tự nhiên, do đó có thể hiểu như về mục vụ "theo mùa" là ở chỗ giải tội theo đúng lịch trình giờ giấc đã ấn định, không khi nào chịu giải tội ngoài giờ; hay là liên hệ "theo mùa", ở chỗ chỉ yêu thương và chào hỏi những người thân yêu, chẳng khác gì thái độ của dân ngoại hay thành phần thu thuế (xem Mathêu 5:46-47), chứ không với những con người nào mình không có cảm tình, nhất là có ác cảm; hoặc bác ái "theo mùa" là ở chỗ chỉ khi nào thấy Chúa hiện ra đói khát mới giúp đỡ những người anh chị em hèn mọn nhất của Người đói ăn, khát uống v.v.

Chính vì thế nên những thành phần "theo mùa" của đời sống thuần tự nhiên, chứ không bằng "đức tin thể hiện qua bác ái" (Galata 5:6), nên không thể sinh hoa trái ngoài mùa, vượt trên khả năng tự nhiên của mình, mà chỉ theo khuynh hướng chiều theo con đường rộng hưởng thụ, theo lòng vị kỷ hiện sinh, đã bị Vị Thẩm Phán tối cao nguyền tủa trong cuộc chung thẩm:
"Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mathêu 25:41), có nghĩa là như cây vả bị Chúa nguyền rủa đã "chết tận gốc" thế nào thì "ai không yêu thương thì ở trong sự chết" (1Gioan 3:14) đến mất linh hồn cũng thế!

Thế nhưng, về lãnh vực siêu nhiên là lãnh vực vượt trên tự nhiên vốn tự mình tốt lành, thậm chí còn nghịch với tự nhiên nếu tự nhiên xu hướng về điều xấu, trái lại, nhờ vượt trên tự nhiên mà siêu nhiên, đức tin mới làm cho tự nhiên nên trọn vẹn, nên trọn hảo hơn, theo đúng ý muốn của Thiên Chúa là Đấng "đói" phần rỗi và sự thiện hảo nơi tạo vật nói chung và loài người nói riêng, nhất là thành phần Kitô hữu là con cái của mình, đã "vẫn làm việc cho tới nay" (xem Gioan 5:17), nghĩa là vào cả Thứ Bảy là Ngày Hưu Lễ, vì ngày hưu lễ nghỉ việc này, việc tự nhiên sau 6 ngày tạo dựng của Ngài, để Ngài chỉ tập trung vào việc thánh hóa tạo vật vào Thứ Bảy là Ngày Thánh, thành phần tạo vật được Ngài dựng nên vốn tự chúng tốt đẹp, nhưng càng phải trở nên hoàn hảo hơn, nhất là sau nguyên tội, bởi và trong Chúa Giêsu Kitô, cũng như bởi Giáo Hội của Người, thành phần tin vào Người để, cùng với Thánh Thần hiện xuống, canh tân bộ mặt trái đất.

CẢM NGHIỆM

Biến cố Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ Giêrusalem trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng trước đó Người nguyền rủa cây vả không sinh hoa trái và sau đó cây vả bị Người nguyền rủa chết khô, có thể hiểu về bản thân là Đền Thờ Thánh Linh của Kitô hữu (1Corinto 3:16-17; 6:19-20), thành phần nhờ Phép Rửa đã được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa, nhờ đó được sống sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Thiên Chúa, một sự sống thần linh vô cùng viên mãn không thể nào không sinh hoa trái, liên lỉ sinh hoa trái, chứ không theo thời hay tùy thời.

Tuy nhiên, nếu Kitô hữu sống lơ là theo bản tính tự nhiên vốn xu hướng về trần tục, về những sự dưới thế hơn là những sự trên trời, đến độ biến tâm hồn là nơi Thiên Chúa ngự trị bởi Thánh Linh của Ngài như là một "nhà cầu nguyện", một Đền Thờ linh thiêng "thành hang trộm cướp", thì chắc chắn sẽ "được" Người thương thanh tẩy để khỏi bị chết đi như cây vả không sinh hoa trái cho Người bất cứ lúc nào Người mong muốn và đòi hỏi.

Thân phận của cây vả
"nhiều lá... chỉ thấy có lá thôi" đã bị Chúa nguyền rủa mà chết đứng ám chỉ thành phần trong Sách Huấn Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay: "Có những người không ai nhớ đến nữa: Họ qua đi như không bao giờ có họ, họ sinh ra như thể không có họ sinh ra, và con cháu của họ cũng thế".

Tại sao vậy? Tại vì không sinh hoa trái, thế thôi. Đúng thế, vì Chúa Kitô "là mục tử nhân lành đã đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), mà thành phần môn đệ chiên của Người không thể chỉ duy ở chỗ có "sự sống", mà còn phải "sự sống viên mãn" nữa, vì "Thày đã chọn các con và sai các con đi để sinh hoa trái" (Gioan 15:16). Nghĩa là "sự sống" khi họ lãnh nhận Phép Rửa phải trổ sinh hoa trái là phần rỗi các linh hồn, nghĩa là họ phải làm sao có thể sống "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), chứ không thể nào chỉ sống ở mức độ đạo đức cho mình được rỗi là đủ, ngoài ra "ai có linh hồn người ấy lo", có bị xuống hỏa ngục thì ráng chịu, đáng đời, ai bảo tội lỗi không chịu sống đạo như mình v.v.

Những Kitô hữu đạo đức mà không sinh hoa trái bác ái yêu thương, thì chẳng khác gì như cây vả còn sự sống đấy, với um tùm lá đạo đức, cuối cùng cũng bị nguyền rủa mà chết thôi. Trong cuộc chung thẩm, chúng ta được rỗi hay chăng là không phải ở chỗ chỉ có sự sống, mà là ở chỗ có sự sống viên mãn, nên Chúa Kitô không hỏi chúng ta về vấn đề sống đạo, có đi lễ hay cầu nguyện và đọc Lời Chúa hay chăng, mà là về đức ái trọn hảo, có sống đức tin bằng lòng yêu thương những người anh chị em hèn mọn nhất của Người (xem Mathêu 25:40,44).

Ngược lại, nếu họ sống "đức tin thể hiện qua đức ái" thì họ là thành phần được Sách Huấn Ca trong Bài Đọc 1 hôm nay nói đến:
"Những người nhân hậu mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ".

Tại sao vậy? Tại vì họ đã cảm nghiệm được rằng họ đã được Chúa thương xót thế nào thì họ cũng thương xót tha nhân như vậy, và tất cả ơn Chúa ban cho họ, kể cả ơn sống đạo đức tốt lành hơn người, là để chia sẻ chứ không phải để hưởng thụ, để khinh người, để tẩy chay nhau, loại trừ nhau. Và đó là lý do họ không thể không mang tâm tình của Thánh Vịnh 149 trong Bài Đáp Ca hôm nay để hoan ca rằng:

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 8 Quanh Năm

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 51, 17-27

"Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan".

Trích sách Huấn Ca.

Tôi tuyên xưng, ca ngợi và chúc tụng danh Chúa.

Khi tôi còn trẻ, trước khi tôi đi đó đây, tôi đã công khai tìm kiếm sự khôn ngoan trong khi cầu nguyện. Trước đền thờ, tôi đã xin sự khôn ngoan, và tôi sẽ còn tìm nó cho đến ngày cuối đời tôi. Trước tinh hoa của sự khôn ngoan, như chùm nho hồng, tâm hồn tôi vui sướng: chân tôi bước đi trên đường ngay chính. Từ buổi thanh xuân, tôi đã tìm kiếm nó. Tôi đã lắng tai và nghe tiếng nó. Tôi đã tìm thấy trong tôi sự khôn ngoan cao cả, và nhờ nó tôi đã được tiến triển nhiều. Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan, vì tôi đã suy niệm để đem nó ra thực hành, tôi đã hăng say làm điều lành và tôi không hổ thẹn. Cùng với sự khôn ngoan, linh hồn tôi đã chiến đấu, và khi hành động, tôi được thêm vững chắc. Tôi đã giơ hai tay lên cao, và đã than khóc, vì đã không biết đến nó. Tôi đã hướng tâm hồn tôi về nó, và tôi đã tìm được nó với tâm hồn trong sạch.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9. 10. 11

Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c. 9a).

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy. - Ðáp.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong. - Ðáp.

 

Alleluia: Gc 1, 18

Alleluia, alleluia! - Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 11, 27-33

"Ông lấy quyền nào làm sự đó?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ lại đến Giêrusalem. Và trong khi Chúa Giêsu đi lại trong đền thờ, thì những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão đến hỏi Người: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?" Chúa Giêsu đáp: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi". Họ liền bàn riêng với nhau rằng: "Nếu chúng ta trả lời "Bởi trời", ông ấy sẽ nói: "Vậy sao các ông không tin Người?" Nhưng nếu chúng ta nói "Bởi người ta", chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri. Vậy họ thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Chúng tôi không biết". Và Chúa Giêsu bảo họ: "Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó".

Ðó là lời Chúa.

 

 



"Ngồi trong tối tăm và trong bóng tối chết chóc"

SUY NIỆM

Ý nghĩa phụng vụ Lời Chúa cho Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên hôm nay vẫn bao gồm bài Phúc Âm theo Thánh Marco (11:27-33) và Sách Huấn Ca (51:17-27), như từ ngày đầu tuần lễ này cho tới ngày cuối tuần hôm nay. 

B
ài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua, bài Phúc Âm Chúa Kitô thẳng tay thanh tẩy đền thờ, một nơi linh thiêng thánh hảo "là nhà cầu nguyện" nhưng đã bị dân chúng "biến thành hang trộm cướp" với đầy những thứ buôn bán kiếm lợi, cho dù là những thứ cần thiết như "các con chim câu" (Marco 11:15), liên quan đến việc tuân giữ lề luật của những cha mẹ dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa trong đền thờ, như trường hợp của Thánh Gia (xem Luca 2:24). 
Chứng kiến thấy hành động dữ dội của Chúa Giêsu như một nhân vật đầy uy quyền như thế, thành phần có thẩm quyền của dân Do Thái là "những trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão"thành phần có thể đã cho phép buôn bán như thế trong đền thờ từ trước đến nay, và vì thế hành động của Người đã đụng đến họ, nên Người đã bị họ đặt vấn đề như hạch hỏi Người như sau: "Ông lấy quyền nào mà làm sự đó? Và ai đã ban quyền cho ông để làm như vậy?". Đại khái là họ không ủy quyền cho Người mà tại sao Người dám lộng quyền qua mặt họ như thế! 
Chúa Giêsu đã sử dụng cái chiêu để cho họ tự trả lời lấy. Bởi thế, thay vì Người nói thẳng ra là Người lấy quyền nào hay ai trao quyền cho Người để Người thẳng tay thanh tẩy đền thờ như vậy, Người đã đặt vấn đề ngược lại với họ để họ tự nhận thức lấy và trả lời thay cho Người: "Tôi sẽ hỏi các ông một câu thôi, hãy trả lời cho Tôi thì Tôi sẽ bảo cho các ông hay Tôi lấy quyền nào mà làm việc đó: Phép rửa của Gioan bởi trời hay bởi người ta? Hãy trả lời Tôi đi".
Thật ra, thành phần lãnh đạo dân chúng này đã thừa biết Người lấy quyền nào hay ai ban quyền cho Người để Người thẳng tay thanh tẩy đền thờ rồi. Nhưng họ muốn chính miệng Người nói ra để nại cớ bắt Người hay tố cáo Người, vì "Người chỉ là loài người mà dám coi mình ngang hàng với Thiên Chúa" (Gioan 10:33), và vì chính họ, qua thành phần được họ sai đến với Tiền Hô Gioan để điều tra xuất xứ của ngài đã biết rằng ngài không phải là Đấng Thiên Sai (xem Gioan 1:19-27).
Đó là lý do họ đã bàn với nhau như Phúc Âm thuật lại như thế này: "Nếu chúng ta trả lời 'Bởi trời', ông ấy sẽ nói: 'Vậy sao các ông không tin Người?' Nhưng nếu chúng ta nói 'Bởi người ta', chúng ta sợ dân chúng, vì mọi người đều coi Gioan thật là một tiên tri". Rồi Phúc Âm cho biết tiếp về câu trả lời dứt khoát của họ như sau: "Chúng tôi không biết". Và vì thế bài Phúc Âm được kết thúc: "Chúa Giêsu bảo họ: 'Vậy thì tôi cũng không nói cho các ông biết bởi quyền phép nào Tôi làm sự đó'". 

Thật ra, “phép rửa của Gioan” chỉ là phép rửa thống hối chứ không phải là phép rửa tha tội như của Chúa Giêsu. Bởi thế, “phép rửa của Gioan” chỉ là phép rửa “bởi người ta” còn phép rửa của Chúa Giêsu mới “bởi trời”, và vì thế, Người có quyền thanh tẩy đền thờ, một hành động tiêu biểu cho việc Người thanh tẩy tội lỗi nơi tâm hồn của con người ta bằng Phép Rửa của Người vậy.

Tâm trạng của thành phần hạch hỏi và bắt bẻ Chúa Giêsu về hành động Người thanh tẩy đền thờ trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy rằng họ quả thực là sợ sự thật, không dám chấp nhận sự thật, bởi thế họ không gặp được sự thật, tức là họ không được sự thật giải phóng (xem Gioan 8:32), và vì thế họ vẫn tiếp tục "ngồi trong tối tăm và trong bóng tối chết chóc" hết sức là tội nghiệp, vì họ đã có cơ hội được trực diện với "ánh sáng thế gian... ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) là Chúa Giêsu Kitô, nhưng họ không nhận ra Người, vì "họ yêu tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), "họ ghét ánh sáng không dám đến gần ánh sáng vì sợ các công việc họ làm bị lộ tẩy" (Gioan 3:20).

CẢM NGHIỆM

Câu trả lời mập mờ đầy nhút nhát không dám chân nhận sự thật của thành phần trong Hội Đồng Đầu Mục lãnh đạo Do Thái giáo cũng chẳng khác nào tâm trạng của Kitô hữu mỗi khi gặp khó khăn trong đời sống đức tin, cần phải bỏ mình và vác thập giá theo Chúa thì tìm cách trốn tránh cho bằng được, với những lý lẽ trần tục, cố gắng trấn an lương tâm, thậm chí kể cả những lúc họ cầu nguyện để tìm biết rõ ý Chúa muốn mà tuân theo, họ cũng không dám làm khi biết rõ ý Chúa, giả vờ như không biết hay cho đó vẫn chưa phải là ý Chúa, bởi ý Chúa ấy không hợp với ý của họ, hóa ra ý họ mới là ý Chúa.

Bề ngoài thì thành phần lãnh đạo Do Thái giáo ở Jerusalem có vẻ tìm kiếm câu trả lời mà họ thắc mắc, và vì thế, họ là hình ảnh được Sách Huấn Ca trong Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như
"Khi tôi còn trẻ, trước khi tôi đi đó đây, tôi đã công khai tìm kiếm sự khôn ngoan trong khi cầu nguyện. Trước đền thờ, tôi đã xin sự khôn ngoan, và tôi sẽ còn tìm nó cho đến ngày cuối đời tôi". "Khi tôi còn trẻ" đây ám chỉ tầm kiến thức còn yếu kém, cần phải học hỏi và tìm hiểu để được trở nên khôn ngoan hơn. Nhưng con người chỉ có thể  "tìm kiếm sự khôn ngoan trong khi cầu nguyện" mà thôi.

Bằng không, dù "tôi đã xin sự khôn ngoan, và tôi sẽ còn tìm nó cho đến ngày cuối đời tôi" ngay "trước đền thờ", như trường hợp của thành phần lãnh đạo Do Thái giáo chất vấn Chúa Giêsu "trong khi Người đang đi lại ở trong đền thờ", cũng sẽ chẳng bao giờ trở nên khôn ngoan, mà chỉ khôn ranh theo kiểu của họ đã không dám trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, luôn tìm cách lách né và lẩn tránh sự thật, hay nói đúng hơn, họ sợ sự thật, không dám đối diện với sự thật là thực tại duy nhất nhờ đó họ được "giải thoát" (Gioan 8:32), một tình trạng thanh thoát cũng đã được Sách Huấn ca trong Bài Đọc 1 hôm nay diễn tả như sau:


"Trước tinh hoa của sự khôn ngoan, như chùm nho hồng, tâm hồn tôi vui sướng: chân tôi bước đi trên đường ngay chính. Từ buổi thanh xuân, tôi đã tìm kiếm nó. Tôi đã lắng tai và nghe tiếng nó. Tôi đã tìm thấy trong tôi sự khôn ngoan cao cả, và nhờ nó tôi đã được tiến triển nhiều. Tôi sẽ tôn vinh Ðấng ban cho tôi sự khôn ngoan, vì tôi đã suy niệm để đem nó ra thực hành, tôi đã hăng say làm điều lành và tôi không hổ thẹn. Cùng với sự khôn ngoan, linh hồn tôi đã chiến đấu, và khi hành động, tôi được thêm vững chắc. Tôi đã giơ hai tay lên cao, và đã than khóc, vì đã không biết đến nó. Tôi đã hướng tâm hồn tôi về nó, và tôi đã tìm được nó với tâm hồn trong sạch".

Thật vậy, một khi thành tâm tìm kiếm sự khôn ngoan chân thật, một thứ khôn ngoan chất chứa sự thật thắng vượt tất cả mọi sự, người Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô mới càng thấm thía hơn những cảm thức của Thánh Vịnh 18 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật chảy tự tàng ong.