SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8
"Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Lạy Chúa, Chúa là Cha và là Ðấng Cứu Chuộc chúng con: danh Chúa đã có từ muôn đời. Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa? Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại.
Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống: các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Chúa đã ngự xuống và các núi đồi rung chuyển trước tôn nhan Chúa. Ðó là việc từ xưa đến nay chưa từng có ai nghe thấy; lạy Chúa, không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Chúa đã đón tiếp kẻ hân hoan thi hành công lý, và nhớ đến Chúa khi đi trong đường lối Chúa.
Này Chúa thịnh nộ, vì chúng con đã phạm tội. Chúng con đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi? Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng con đều như chiếc áo dơ bẩn.
Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do tay Chúa làm nên.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4).
Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình. - Ðáp.
3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 3-9
"Chúng ta mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, chúc cho anh em đầy ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô.
Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Tv 84, 8
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 13, 33-37
"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức. Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Hôm nay là Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, phụng vụ Lời Chúa dẫn chúng ta vào Mầu Nhiệm "LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ VÀ Ở GIỮA CHÚNG TA" (Gioan 1:14). Tuy nhiên, ở ngay tuần đầu trong 4 tuần lễ của Mùa Vọng này, Giáo Hội chọn đọc các bài đọc và Phúc Âm theo chiều hướng dọn lòng cho con cái hướng về Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Mầu Nhiệm Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại, hiện thực lời hứa của Thiên Chúa hóa công ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), ở chỗ "tỉnh thức". Vì nếu không "tỉnh thức", như chính lời Chúa Giêsu kêu gọi và cảnh báo cho các môn đệ trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật I Mùa Vọng hôm nay, con người sẽ không thể nào nhận ra Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người. Thế nhưng, "tỉnh thức" ở chỗ nào và như thế nào?
Theo Bài Đọc 1, được trích từ Sách Tiên Tri Isaia, thì "tỉnh thức" là ở chỗ tâm linh nhận biết mình với tất cả lòng trông đợi để được giải cứu, như trường hợp của dân Do Thái ngày xưa: "Lạy Chúa, tại sao Chúa để chúng con đi lạc xa đường Chúa, và làm cho tâm hồn chúng con trở nên chai đá, không còn biết kính sợ Chúa nữa? Vì các tôi tớ Chúa, các chi tộc thừa hưởng gia nghiệp Chúa, xin hãy đoái nhìn lại... Chúng con đã luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi, thì làm sao sẽ được cứu rỗi? Tất cả chúng con đều đầy vết nhơ, và công nghiệp chúng con đều như chiếc áo dơ bẩn. Và không còn ai kêu cầu thánh danh Chúa, không còn ai tỉnh thức để bám lấy Chúa. Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy nữa, và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Tuy nhiên, lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, chúng con là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do tay Chúa làm nên".
Tâm trạng thật sự biết mình bằng tất cả lòng trông mong được cứu độ này của dân Chúa, Đấng đã ẩn khuất trước tội lỗi của họ, thành phần bởi nhờ biết mình như thế nên đã tỏ ra tin tưởng nguyện cầu cùng Chúa thiết tha hơn bao giờ hết rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cho chúng con được phục hồi, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống", như trong câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy, một câu họa sau mỗi một lời nguyện cầu đầy xác tín vào vị Thiên Chúa chân thật duy nhất quyền năng rất từ bi nhân ái của họ, những lời nguyện cầu trong Thánh Vịnh 79 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con.
2) Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình.
3) Xin Chúa ra tay bang trợ người ở bên tay hữu Chúa, con người mà Chúa đã củng cố cho mình. Chúng con sẽ không còn rời xa Chúa nữa, Chúa cho chúng con được sống, và chúng con ca tụng danh Ngài.
Dân Do Thái trông mong Chúa là Đấng đến để giải cứu họ, Đấng "đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa", như Bài Đọc 1 cho thấy, bằng cách, họ "xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống", nghĩa là họ xin Chúa đừng chấp tội lỗi của họ, là thương xót đến họ, là thương cảm thân phận thấp hèn yếu đuối của họ, một hình ảnh ám chỉ Mầu Nhiệm Nhập Thể Giáng Sinh, mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng uy nghi cao cả, toàn thiện chí tôn trên các tầng trời, đã "băng qua các tầng trời mà ngự xuống", không còn ngăn cách giữa Thiên Chúa tối cao và loài người tội lỗi thấp hèn khốn nạn nữa, tức là đã từ trời cao mà hạ giáng xuống trần gian, ở chỗ: "Tuy vị thế là Thiên Chúa, nhưng Người đã không coi mình cứ phải ngang hàng với Thiên Chúa mới được, trái lại, Người đã tự hủy ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi, giống như loài người" (Philiphê 2:6-7).
Thế nhưng việc nhập thể của Thiên Chúa lại hoàn toàn gây ra một thứ phản tác dụng khủng khiếp. Ở chỗ chính dân của Ngài là thành phần hằng trông mong Đấng Thiên Sai, trông "xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống" đã không thể nào nhận ra Ngài, nhận ra Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ nơi Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét là Con của Ngài, Đấng được Ngài sai đến với họ, nên qua thẩm quyền của đế quốc Roma, họ đã cố tình ra tay sát hại "tên" lộng ngôn đáng chết ấy vì "hắn" "chỉ là con người mà tự cho mình là Thiên Chúa" (Gioan 10:33). Và cho đến nay, sau cả 2 ngàn năm Thiên Chúa Giáng Sinh, dân Do Thái vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai như lòng họ mong muốn, theo ý nghĩ thiển cận trần gian chủ quan của họ, chứ không phải Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
Trong khi đó, dân ngoại làm nên thành phần dân Tân Ước lại tin vào Đấng Thiên Sai của dân Do Thái cũng là Đấng Cứu Thế của toàn thể nhân loại. Bởi thế nên Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, qua Thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Corintô, ở Bài Đọc 2 hôm nay mới viết cho họ rằng: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì ơn đã ban cho anh em trong Chúa Giêsu Kitô. Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra".
Thật vậy, trong khi dân Do Thái trông đợi Đấng Thiên Sai của họ đến (lần thứ nhất đối với Kitô hữu) thì Kitô giáo trông đợi Người đến lần thứ hai. Thế nhưng, cũng như dân Do Thái, nếu không có đức tin do Thiên Chúa ban, Kitô hữu vẫn không thể nhận ra Người khi Người đến lần thứ hai, và vì thế cuối cùng không được hiệp nhất nên một với Ngài. Đó là lý do Thánh Phaolô cũng đã nhắn nhủ Kitô hữu Corinto trong cùng bức thư ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau: "Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến. Thiên Chúa là Ðấng Trung Tín, đã kêu mời anh em hiệp nhất với Con của Người, là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Nghĩa là loài người nói chung và Kitô hữu chúng ta nói riêng được cứu độ là do bởi Lòng Thương Xót Chúa. Bởi thế, "tỉnh thức" ở đây có nghĩa là, chính yếu có nghĩa là tin tưởng, một tác động đức tin, vì chỉ có đức tin mới nhận ra Chúa, chẳng những như Ngài là Vị Thiên Chúa vô cùng uy linh cao cả theo thiên tính của Ngài, mà còn như Ngài là một con người nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy nhân tính của con người và giống như con người, thậm chí còn thấp hèn hơn con người bình thường, ở chỗ Người được sinh ra quá nghèo hèn và chết đi vô cùng đớn đau nhục nhã, hoàn toàn cho phần rỗi vô cùng quan trọng của họ.
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm Chúa nói với thành phần "các môn đệ" của Người, thành phần được Người khuyên rằng "hãy tỉnh thức", lý do là "vì các con không biết lúc đó là lúc nào". Nghĩa là không biết lúc Người trở lại thế gian lần thứ hai. Ở Bài Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Vọng Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô hôm nay, chính Người đã tiết lộ việc Người đến lần thứ hai và thời điểm có thể vào lúc nào, qua câu Người nói: "Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức".
Căn cứ vào nguyên trọn câu Chúa nói này và kết cấu của câu ấy thì có thể hiểu "người đi phương xa" đây là Chúa Kitô, "để nhà cửa lại" nghĩa là để Giáo Hội lại, "trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc", nghĩa là ban cho các tông đồ cùng với thành phần thừa kế các vị quyền hành thay người phục vụ dân Chúa trong việc quản trị Giáo Hội, giảng dạy và thánh hóa con cái của Giáo Hội, "căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức" đây có thể hiểu là chính những vị giám mục ở các Giáo Hội địa phương, nhất là vị Giáo Hoàng, thừa kế thánh Phêrô đại diện Chúa Kitô trên trần gian.
Đúng thế, thành phần lãnh đạo dân Chúa của Giáo Hội là thành phần phải "tỉnh thức" trước hết và trên hết, vì các vị là thành phần những "người giữ cửa", chẳng những cho chính bản thân mình mà còn cho cả đoàn chiên được ủy thác cho các vị nữa. Bởi vì chính các vị cũng "không biết lúc nào chủ nhà trở về", một cuộc trở về bất cứ giờ nào trong ngày: "hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng". Thời điểm Chúa Kitô tái giáng vào bất cứ lúc nào trong một ngày 24 tiếng, dù vào lúc trời tối ("chiều tối, hoặc là nửa đêm") hay trời sáng ("hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng"). Tuy nhiên, đối với con người thì hầu như chỉ xẩy ra vào "nửa đêm" (xem Mathêu 25:6), như trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ phù dâu cho thấy, tức là lúc con người không ngờ, lúc con người say mê thế gian, quên mất Vị "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) của mình, hoàn toàn sống như vô thần duy vật, sống trong tội lỗi chết chóc, bị quyền lực tối tăm bao phủ.
Thế nhưng, chính vì thế, chính vì con người không thể tự cứu mình, trái lại, còn cứ lao đầu vào chỗ tự diệt, về cả thể lý lẫn tâm linh bất khả cứu vãn như thế, mà chỉ vào lúc ấy, lúc con người chết đến "xông mùi" băng hoại ghê tởm như vậy (xem Gioan 11:39), Thiên Chúa mới ra tay vô cùng quyền năng của Ngài cứu độ con người theo Lòng Thương Xót vô biên toàn thiện toàn ái của Ngài, để nhờ đó Ngài có thể tỏ hết bản tính là tình yêu nhân hậu của Ngài ra, khiến con người tội lỗi vô cùng bất xứng, bất lực, bất hạnh, nhận biết Lòng Thương Xót của Ngài mà được cứu độ, mà được hiệp thông thần linh với Ngài. Đó là lý do Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay mới có câu tiền Phúc Âm: "Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - Alleluia".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Is 4, 2-6
"Những kẻ được giải phóng sẽ nhảy mừng".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, dòng dõi Chúa sẽ trở nên huy hoàng vinh quang, hoa màu trên đất sẽ dồi dào, và số người trong dân Isarel được giải phóng sẽ nhảy mừng. Những ai còn sót lại ở Sion và còn sống sót ở Giêrusalem sẽ được gọi là thánh, tất cả những ai sẽ được ghi tên để sống trọn đời ở Giêrusalem. Khi Chúa đã dùng thần trí thẩm xét và thiêu đốt mà tẩy bỏ những tồi bại của các thiếu nữ Sion, và đã tẩy rửa Giêrusalem cho sạch những vết máu, thì lúc đó Chúa sẽ đến trên khắp miền núi Sion và những nơi kêu cầu Người, như đám mây ban ngày và như cột khói hoặc như ánh lửa sáng rực ban đêm, vì trên tất cả, vinh quang Thiên Chúa sẽ là một phương du và là một lều vải để che khỏi sức nóng ban ngày, để làm nơi an toàn trú ẩn khỏi giông tố và mưa sa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa" (c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. - Ðáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. - Ðáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít. - Ðáp.
4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn. - Ðáp.
5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo. - Ðáp.
Alleluia: x. Tv 79, 4
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin đoái nhìn chúng con, xin tỏ nhan thánh Chúa, thì chúng con sẽ được rỗi. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 5-11
"Nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Đức Tin Dân Ngoại - Nhập Thể Đại Đồng
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần I Mùa Chay, tuần đầu trong 4 tuần lễ tượng trưng cho 4 ngàn năm trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô, Đấng "đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã được sai đến không phải chỉ cho riêng dân Do Thái mà cho chung toàn thể nhân loại, vì Người mặc lấy bản tính chung của nhân loại và chỉ được sinh ra theo giòng tộc Do Thái mà thôi.
Phải chăng đó là lý do, ngay trong bài Phúc Âm của ngày Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng, Giáo Hội đã chọn đọc câu chuyện về viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma, nhân vật đã đến với Chúa Giêsu chỉ vì lo lắng cho một thằng nhỏ đầy tớ của ông ta, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một viên đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: 'Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt và đau đớn lắm!'"
Theo Phúc Âm Thánh Luca (7:2) thì "thằng nhỏ nhà tôi" trong Bài Phúc Âm của Thánh Mathêu hôm nay đây không phải là "thằng nhỏ" con trai của viên đại đội trưởng này, mà là một "thằng nhỏ" đầy tớ của viên đại đội trưởng, được viên đại đội trưởng này cảm thương quí mến (xem Luca 7:2), ở chỗ ông đã tỏ ra lo lắng cho sức khỏe cùng mạng sống của nó, đến độ thậm chí ông còn đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho nó, chứ không sai phái một ai, như chính ông ta cũng thú nhận hành động tự nguyện này của ông:
"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi; tôi bảo người kia đến thì anh đến; tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Thái độ vừa yêu thương vừa khiêm nhượng của viên đại đội trưởng (yêu thương) đối với thằng nhỏ đầy tớ của ông cũng như (khiêm nhượng) đối với Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa Giêsu đáp ứng ngay tại chỗ: "Tôi sẽ đến chữa nó". Và qua lời thân thưa của viên đại đội trưởng khi nghe thấy Chúa Giêsu hồi âm một cách mau mắn theo ý xin của ông ta, ông còn tỏ ra tin tưởng Chúa Giêsu đến độ, ông xin Người chẳng cần phải đi đến tận nơi mới chữa được "thằng nhỏ nhà tôi" mà Người chỉ cần "phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh".
Đó là lý do, Chúa Giêsu đã không thể không lên tiếng để hết lời khen ngợi viên đại đội trưởng dân ngoại ấy "với những kẻ theo Người" như thế này: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài', ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Đúng là vấn đề then chốt ở ngay chỗ ấy, vì trong Bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề chính yếu không phải là vấn đề chữa lành của Chúa Giêsu cho bằng vấn đề tin tưởng của viên đại đội trưởng. Bởi thế, câu cuối cùng (Mathêu 8:13) về câu chuyện của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến chính việc chữa lành thật sự cho thằng con trai đầy tớ của viên đại đội trưởng, xẩy ra vào ngay lúc Chúa phán "Hãy về đi. Nó sẽ được thực hiện vì lòng tin tưởng của ông. Vào chính lúc ấy thằng nhỏ đầy tới cảm thấy khỏe hơn" (Mathêu 8:13) hoàn toàn không được Giáo Hội bao gồm trong bài Phúc Âm hôm nay tí nào.
Phải chăng, những ai tin vào "Lời đã hóa thành nhục thể" là Chúa Giêsu Kitô như thế, thì dù không phải là chính gốc dân Do Thái đi nữa, họ vẫn có thể được gọi và xứng đáng thuộc về, như trong Bài Đọc 1 hôm nay đề cập đến "dòng dõi Chúa", một dòng dõi, như viên đại đội trưởng Rôma dân ngoại trong Bài Phúc Âm hôm nay, được chính Chúa khen tặng, theo kiểu diễn tả của Bài Đọc 1 hôm nay là "trở nên huy hoàng vinh quang"?
Đúng thế, Bài Đọc 1 hôm nay đã cho biết tính cách phổ thông và đại đồng của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đối với tất cả mọi người và cho mỗi một con người, nhất là những ai thuộc "dòng dõi Chúa":
"Chúa sẽ đến (có thể ám chỉ "Lời đã hóa thành nhục thể" của Ngài sau này "vào thời điểm viên trọn" - Galata 4:4) trên khắp miền núi Sion (có thể hiểu là ám chỉ là toàn dân Do Thái) và những nơi kêu cầu Người (có thể hiểu là bao gồm cả dân ngoại, như viên đại đội trưởng Rôma trong bài Phúc Âm hôm nay), như đám mây ban ngày (ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa luôn bao phủ chở che "dòng dõi Chúa") và như cột khói hoặc như ánh lửa sáng rực ban đêm (ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa luôn soi đường dẫn lỗi cho "dòng dõi Chúa" trong tất cả mọi cơn gian nguy khốn khó), vì trên tất cả, vinh quang Thiên Chúa sẽ là một phương du và là một lều vải để che khỏi sức nóng ban ngày, để làm nơi an toàn trú ẩn khỏi giông tố và mưa sa".
Đó là lý do, trước tình yêu thương của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất luôn ở với con người và hằng tỏ mình ra cho con người như thế, nhất là nơi mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của chính Con Một của Ngài trên trần gian này, bằng tất cả cảm nghiệm thần linh đầy đức tin, không một ai, dù là dân Do Thái hay dân ngoại, không được thúc đẩy hân hoan đáp ứng, không tiến đến với Ngài ở nơi Ngài ngự là Thành Giêrusalem, tiêu biểu cho chung dân Chúa, cho "dòng dõi Chúa", vì Ngài chính là "Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14), hiện thực nhất và sống động nhất nơi "Lời đã hóa thành nhục thể":
1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít.
4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn.
5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 11: 1-10
"Chúa lấy đức công bình mà xét xử người nghèo khó".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, từ gốc Giê-sê sẽ đâm ra một bông hoa.
Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.
Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở.
Ngài sẽ dùng lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác.
Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng.
Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy.
Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc.
Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.
Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương.
Ngày ấy gốc Giê-sê đứng lên như cờ hiệu cho muôn dân.
Các dân sẽ khẩn cầu Ngài và mộ Ngài sẽ được vinh quang.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71,2, 7-8,12-13,17
Ðáp: Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người.
Xướng 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 84,8
Alleluia, alleluia - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi, và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10: 21-24
"Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.
Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế.
Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự.
Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
Ðó là Lời Chúa.
Ngôi Lời nhập thể - Mạc khải Thần Linh
Trong các mùa phụng vụ đặc biệt không phải là Mùa Thường Niên, chẳng hạn như Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hay Mùa Chay và Mùa Phục Sinh, thường các Bài Phúc Âm không liên tục với nhau như Mùa Thường Niên, dù là Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh hay Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh.
Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần I Mùa Vọng, Giáo Hội lại chọn một bài Phúc Âm không phải bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu như hôm qua và tiếp hôm qua, mà là bài Phúc Âm của Thánh ký Luca, có một nội dung hoàn toàn khác hẳn với bài Phúc Âm hôm qua, nhưng vẫn theo đúng chủ đề chung của cả Mùa Vọng là "Lời hóa thành nhục thể".
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta biết về thái độ và hành động của Chúa Kitô trong một lúc đột xuất đầy thần hứng của Người theo tác động của Thánh Thần, để thốt lên những lời hân hoan chúc tụng Cha của Người cùng những lời phấn khích các môn đệ của Người:
Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng Cha của Người: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Chúa Giêsu phấn khích các môn đệ của Người: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao trong Mùa Vọng là thời điểm trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Giáo Hội lại cho đọc những bài Phúc Âm hầu như chẳng liên hệ và dính dáng gì với chiều kích trông đợi và ngưỡng vọng Chúa Kitô đến lần thứ nhất?
Nếu bài Phúc Âm hôm qua về viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma được Giáo Hội cho đọc ngay đầu Mùa Vọng, như suy diễn, đã rất am hợp với tinh thần và chủ đề chung của Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" thế nào, thì bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, ý nghĩa sâu xa của lời Chúa vẫn liên hệ với Mùa Vọng như bài Phúc Âm hôm qua, nếu vẫn tiếp tục căn cứ vào chủ đề chính của cả Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể".
Đúng thế, con người là loài tạo vật được Thiên Chúa dựng nên là để muôn đời hiệp thông thần linh với Ngài. Thế nhưng, muốn hiệp thông thần linh với "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), con người cần phải nhận biết Ngài, một điều kiện duy nhất bất khả thiếu và bất khả châm chước. Tuy nhiên, theo bản tính hữu hình và hữu hạn, con người không thể nào có thể nào tự mình nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, nếu không được chính Ngài tỏ ra cho biết.
Đó chính là lý do Chúa Giêsu đã dứt khoát khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!" Định luật này thực sự là một điều rất hợp với chẳng những lý lẽ tự nhiên của con người mà còn chính đáng với ý muốn của Thiên Chúa nữa, như Chúa Giêsu cũng đã cho biết: "đó là ý Cha đã muốn thế".
Có nghĩa là, mạc khải thần linh là một đặc ân, một tác động chính Thiên Chúa tự làm, chứ không phải do con người van xin mà có, do công lênh của con người mà được, và thậm chí cho dù Ngài đã tỏ mình ra cho con người, nhưng con người vẫn tự mình không thể hay khó có thể nhận biết Ngài nếu không được chính Ngài soi động cho biết, hay nếu không có chính Thần Linh của Ngài, như Chúa Giêsu cũng đã xác nhận trong cùng bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ".
Vì mạc khải thần linh là một đặc ân như thế mà những ai được Thiên Chúa tỏ ra cho biết đều là những người diễm phúc, điển hình là thành phần môn đệ của Người, được Người nhắc nhở và phấn khích như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe".
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay có nghĩa là gì: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy" đây là gì? Và những gì mà các môn đệ của Người được diễm phúc xem thấy đó, nhìn thấy đó, nghe thấy đó đã từng là đối tượng của những gì hết sức khát khao mong muốn mà không được của "nhiều tiên tri và vua chúa" trong Cựu Ước. Nếu không phải là chính Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh và là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết.
Chúa Giêsu Kitô là tột đỉnh của mạc khải thần linh vì tất cả những gì Thiên Chúa tỏ mình ra trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái thời Cựu Ước đều được ứng nghiệm và nên trọn nơi Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đúng như cảm nhận chí lý của Thư Do Thái ở ngay 2 câu đầu tiên của bức thư này: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử... Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa" (Do Thái 1:1-2).
Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa mà còn là và nhất là tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nữa, bởi chỉ ở nơi duy một mình Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), là Đấng "hằng ở nơi Thiên Chúa" (Gioan 1:1,18) mới có thể biết Thiên Chúa mà "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) thôi, nhờ đó, "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).
Mầu nhiệm và biến cố nhập thể thần linh trong lịch sử dân Do Thái và của nhân loại này của "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), như Tông Đồ Phêrô thay tông đồ đoàn tuyên xưng, của "Đức Kitô Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27), như Matta thay gia đình của chị và dân chúng bấy giờ tuyên xưng, đã được tiên báo từ ngay trong Cựu Ước, rõ ràng nhất là qua Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngày ấy, từ gốc Giê-sê (ám chỉ thân phụ của Vua Đavít) sẽ đâm ra một bông hoa. Trên bông hoa ấy (ám chỉ Chúa Giêsu Kitô, thuộc giòng dõi Đavít), thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa".
Và chính vì là Đấng Thiên Sai mà Chúa Giêsu Kitô mới tràn đầy "thần linh của Thiên Chúa", chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, được Thần Linh Chúa thánh hiến và tác động để sống trọn vẹn cho đến cùng tất cả những gì Thiên Chúa mun nơi Người cho phần rỗi muôn dân, như được Bài Đọc 1 tiếp tục cho biết về tinh thần và sứ vụ trần thế của Người:
"Ngài không xét đoán theo như mắt thấy, cũng không lên án theo điều tai
nghe, nhưng Ngài sẽ lấy đức công bình mà xét xử những người nghèo khó, và
lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng lời
như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài
lấy đức công bình làm dây thắt lưng và lấy sự trung tín làm đai lưng".
Nhờ thế, tức nhờ Người mà trần gian và nhân thế mới "đầy dẫy sự hiểu biết Chúa như nước tràn đại dương", đến độ, như Bài Đọc 1 diễn tả một thế giới tuyệt diệu tràn đầy thái hóa và bình an, hòa giải được hết mọi khác biệt và xung khắc:
"Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, một Đấng Thiên Sai Cứu Thế là niềm hy vọng và là nguồn cứu độ của muôn dân và cho muôn dân, nhất là của và cho những ai yếu thế bất hạnh cần được giải thoát:
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh và phân xử người nghèo khó cách chính trực.
2) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn, sẽ triển nở trong triều đại người, cho tới khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu sống người cùng khổ.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 25, 6-10a
"Chúa mời đến dự tiệc của Người và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người, và Người sẽ cứu chúng ta. Ðây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. (c. 6cd).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Alleluia: Is 33, 32
Alleluia, alleluia! - Chúa là Ðấng xét xử, là Ðấng ban luật và là Vua chúng ta: Chính Người sẽ cứu độ chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 15, 29-37
"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.
Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
Ðó là lời Chúa.
nhập thể truyền sinh
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng, cũng có vẻ rất xa lạ như lạc đề với ý hướng của Mùa Vọng là mùa đợi trông Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Vì bài Phúc Âm hôm nay là bài Phúc Âm về sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai.
Thật vậy, Thánh ký Mathêu đã thuật lại rằng: "Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel. Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: 'Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng'".
Thế rồi, trong chính hoàn cảnh thiếu thốn bấy giờ như thể bất khả đáp ứng nhu cầu của dân chúng, lòng cảm thương dân chúng của Chúa Giêsu đã tỏ mình ra bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều, như cùng bài Phúc Âm cho biết:
"Các môn đệ thưa Người: 'Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?' Chúa Giêsu nói với họ: 'Các con có bao nhiêu chiếc bánh?' Họ thưa: 'Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ'. Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít".
Như hôm qua và hôm kia, vấn đề được đặt ra ở đây là sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để đáp ứng nhu cầu thể chất của "bốn ngàn người, không kể đàn bà con nít" là thành phần "đã ba ngày, họ ở lại với" Người trong "hoang địa" có liên quan gì tới Mùa Vọng là thời điểm đợi trông Đấng Cứu Thế Thiên Sai hay chăng? Câu trả lời rất dễ dàng đó là nếu không có liên hệ gì với nhau thì Giáo Hội đã không chọn đọc cho phụng vụ Lời Chúa của từng ngày thường trong Mùa Vọng như hôm nay, Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng.
Thế nhưng, mối liên hệ giữa sự kiện phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Bài Phúc Âm hôm nay và Mùa Vọng như thế nào và ở chỗ nào? Nếu không phải, như vẫn được nhấn mạnh trong 3 ngày đầu Mùa Vọng vừa rồi, ở chủ đề chung cho Mùa Vọng: "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14).
Phải, ý nghĩa về Mùa Vọng của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều hoàn toàn được sáng tỏ nơi chủ đề chung cho Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể". Tại sao "Lời đã hóa thành nhục thể" và "Lời đã hóa thành nhục thể" để làm gì, nếu không phải, về lý do, vì Người yêu thương con người là loài tự bản chất hướng về vĩnh hằng bất tử vốn khao khát thần linh, như đám đông dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay, nhưng không thể thỏa đáng chính bản thân mình, cho đến khi chính Thiên Chúa đáp ứng nhu cầu và khát vọng của họ, như Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ được no thỏa trong Bài Phúc Âm hôm nay!
Và đó cũng chính là mục đích "Lời đã hóa thành nhục thể", ở chỗ để ban cho con người đã bị chết vì nguyên tội được tái sinh "bởi nước và Thần Linh" (Gioan 3:5), nhờ đó họ "được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), được tiêu biểu nơi sự kiện Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dưỡng phần xác của họ trong lúc họ đang đói, một sự kiện ám chỉ đến việc Người sẽ thiết lập Bí Tích Thánh Thể là chính bản thân Người: "Tôi chính là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời và bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi ban sự sống cho thế gian" (Gioan 6:51).
Sự việc Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng theo Người bấy giờ ám chỉ đến biến cố Người sẽ lập Bí Tích Thánh Thể là việc Người thông ban sự sống thần linh của Người cho Kitô hữu nói riêng và cho toàn thể nhân loại nói chung qua phụng vụ Thánh Thể được Giáo Hội cử hành mà nhớ đến Người, mà Thánh Thể như Bánh Sự Sống của Người đây là hoa trái của việc "Lời đã hóa thành nhục thể", và cả hai mầu nhiệm nhập thể và Thánh Thể đã được Tiên Tri Isaia loan báo trong Bài Đọc 1 hôm nay như thế này:
"Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán".
"Ngày ấy" ở đây phải chăng là "thời điểm viên trọn", thời điểm "Thiên Chúa sai Con của Ngài sinh hạ bởi một người nữ" (Galata 4:4), như thể, nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" mà "Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon".
"Trên núi này" ở đây phải chăng là nơi nhân tính của Lời nhập thể và nhờ nhân tính của Lời nhập thể đã gánh tội trần gian và xóa tội trần gian bằng cuộc khổ nạn, tử giá và phục sinh của mình mà "Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời".
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 26, 1-6
"Dân công chính biết giữ sự trung tín, hãy tiến vào".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, trong đất Giuđa, người ta hát khúc ca này: Sion là thành trì kiên cố của chúng ta, có tường thành và hào luỹ che chở, hãy mở cửa, và dân công chính biết giữ sự trung tín, hãy tiến vào. Sự sai lầm cũ đã qua đi, Chúa sẽ bảo tồn sự hoà bình. Sự hoà bình, vì chúng ta trông cậy nơi Chúa.
Hãy trông cậy Chúa đến muôn đời, trông cậy Chúa, Ðấng quyền năng mãi mãi. Vì Người triệt hạ dân ở nơi cao, và hạ thấp những thành trì danh tiếng, Người hạ nó sát đất, chà đạp nó thấu bụi tro. Bàn chân người nghèo khó bước đi, và kẻ bần cùng sẽ đạp trên nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1 và 8-9. 19-21. 25-27a
Ðáp: Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! (c. 26a)
Hoặc đọc: Alleluia!
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa thì tốt hơn nương tựa ở loài người; tìm đến nương tựa Chúa thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương. - Ðáp.
2) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe tôi,và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi. - Ðáp.
3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia: Is 40, 9-10
Alleluia, alleluia! - Hỡi người giảng tin mừng, hãy mạnh dạn cất lớn tiếng: Này Chúa là Thiên Chúa sẽ đến trong sức mạnh. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
7:21,24-27
"Ai thực hiện ý Chúa Cha, sẽ được vào nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, "Lạy Chúa, lạy Chúa!", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời.
"Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá. Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Ðó là lời Chúa.
nhập thể tỏ hiện
Hôm nay, Thứ Năm Tuần I Mùa Vọng, Bài Phúc Âm, như ba ngày đầu tuần này, cũng có vẻ như xa lạ và không hợp với Mùa Vọng làm sao ấy.
Không phải hay sao, trong khi ý nghĩa của Mùa Vọng là thời điểm đợi trông Đấng Cứu Độ và Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa thì nội dung của bài Phúc Âm hôm nay lại là những gì liên quan đến việc tuân giữ lời Chúa, như Thánh ký Mathêu ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay lời Chúa Giêsu nói về vấn đề này: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời'".
Tại sao thế? Tại sao lời Chúa là yếu tố tối hậu quyết định số phận đời đời của con người, nếu không phải tại vì lời Chúa là nền đá vững chắc cho những ai sống lời Chúa, nghĩa là cho những ai lưu tâm áp dụng thực hành lời Chúa, như một con người khôn ngoan xây dựng ngôi nhà bản thân của mình trên chính lời Chúa là những gì chân thật, bất biến và hoàn thiện, nhờ đó họ không còn sợ bị cám dỗ lôi cuốn hay bị thử thách bỏ cuộc, như Chúa Giêsu đã vừa bảo đảm vừa cảnh báo trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Vậy ai nghe những lời Ta nói đây và đem ra thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên nền đá. Và hễ ai nghe những lời Ta nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Đến đây chúng ta có thể đã thấy được mối liên hệ giữa Bài Phúc Âm hôm nay với Mùa Vọng là thời điểm hướng về và tưởng niệm mầu nhiệm "Lời đã hóa thành nhục thể". Ở chỗ, con người muốn vào Nước Trời, tức muốn được muôn đời hiệp thông thần linh với Thiên Chúa họ cần phải tuân phục Thánh Ý của Thiên Chúa: "Không phải tất cả những ai nói với Ta, 'Lạy Chúa, lạy Chúa!', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời'".
Tuy nhiên, làm sao con người có thể biết được đâu là Thánh Ý Chúa để mà tuân phục, trong khi con người, với bản tính đã bị nhiễm lây nguyên tội, đã trở thành mù tối và yếu nhược, lại càng khó nhận ra ý muốn của Ngài; thậm chí có nhận ra ý muốn của Thiên Chúa con người, như thực tế phũ phàng cho thấy, lại càng cảm thấy sợ hãi và tìm hết cách trốn tránh, như khi con người chối bỏ hoặc áp đảo tiếng lương tâm chân chính để thỏa mãn dục vọng nhất thời của mình, hay để làm theo ý riêng của mình, điển hình là trường hợp của Tiên tri Giona chạy trốn Thiên Chúa trong việc thi hành sứ mệnh rao giảng thống hối cho Thành Ninivê mà vị tiên tri này dị ứng (xem Giona 1:1-3).
Đó là lý do "Lời đã hóa thành nhục thể" để chẳng những tỏ cho con người biết Cha (xem Gioan 1:18), biết Ngài thực sự là ai và chắc chắn muốn gì, mà còn làm gương tuân phục ý muốn của Cha là Đấng đã sai Người nữa: "Cho dù là Con, Người cũng đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu, để khi thành toàn, Người trở nên căn nguyên cứu độ cho tất cả những ai tin phục Người" (Do Thái 5:8-9).
Nhờ đó, qua Phép Rửa tái sinh, Kitô hữu chúng ta chẳng những được cứu độ nơi việc tuân phục của Người, mà còn được sống bởi tác dụng của Thánh Giá biểu hiện cho việc tuân phục của Người nữa, một khi họ biết tin tưởng vào Người là Đấng Cứu Độ của họ và tích cực đáp ứng việc cứu độ của Người, bằng cách nỗ lực bỏ mình và vác thập giá của mình mà theo Người (xem Mathêu 16:24).
Thế nên, trong Bài Đọc 1 hôm nay, Tiên Tri Isaia đã nói đến lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa là Đấng không thể nào chấp nhận thái độ cao ngạo bất cần của những ai tự phụ tự đắc như sau: "Hãy trông cậy Chúa đến muôn đời, trông cậy Chúa, Ðấng quyền năng mãi mãi. Vì Người triệt hạ dân ở nơi cao, và hạ thấp những thành trì danh tiếng, Người hạ nó sát đất, chà đạp nó thấu bụi tro. Bàn chân người nghèo khó bước đi, và kẻ bần cùng sẽ đạp trên nó".
Đúng thế, Tiên Tri Isaia đã tiên báo một viễn tượng tươi sáng cho thành phần chỉ biết tin tưởng cậy trông vào Vị Thiên Chúa cứu độ, và nhờ đó được sống an vui hạnh phúc nhất là khi "Lời đã hóa thành nhục thể", như thế này: "Ngày ấy, trong đất Giuđa, người ta hát khúc ca này: Sion (ở đây có thể ám chỉ hay biểu hiệu nhân tính Chúa Kitô) là thành trì kiên cố của chúng ta, có tường thành và hào lũy che chở, hãy mở cửa, và dân công chính biết giữ sự trung tín, hãy tiến vào. Sự sai lầm cũ đã qua đi, Chúa sẽ bảo tồn sự hoà bình. Sự hoà bình, vì chúng ta trông cậy nơi Chúa".
Bài Đáp Ca hôm nay âm vang tinh thần của Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến tình thương của Thiên Chúa là tất cả những gì con người tin tưởng cây trông và mong chờ, như đời sống con người thực sự là một Mùa Vọng đợi trông "Thiên Chúa là Đấng cứu độ của tôi" (Luca 1:47).
1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Tìm đến nương tựa Chúa thì tốt hơn nương tựa ở loài người; tìm đến nương tựa Chúa thì tốt hơn nương tựa những bậc quân vương.
2) Xin mở cho tôi các cửa công minh, để tôi vào và cảm tạ ơn Chúa. Ðây là ngọ môn của Chúa, những người hiền đức qua đó tiến vào. Tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã nghe tôi,và đã trở nên Ðấng cứu độ tôi.
3) Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi.
Ngày 03 tháng 12
THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê, LINH MỤC
lễ kính
Các Xứ Truyền Giáo như Việt Nam
Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 3/12 - Bài đọc 2
Trích thư của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, linh mục, gửi thánh I-nha-xi-ô.
Chúng tôi đã tới nhiều làng tân tòng mới được chịu phép rửa cách đây ít năm. Người Bồ Đào Nha không ở các làng này vì đất đai xác xơ cằn cỗi. Vì không có linh mục nên các Ki-tô hữu bản xứ chẳng biết gì khác ngoài việc mình là Ki-tô hữu. Chẳng có ai cử hành bí tích cho họ, chẳng có ai dạy họ kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, chẳng có ai dạy họ biết các điều răn của Chúa.
Từ khi đến đây, tôi chẳng ngưng lúc nào : tôi rảo khắp làng mạc, làm phép rửa cho nhiều trẻ em chưa được lãnh bí tích này. Tôi đã làm phép rửa cho một số rất đông các trẻ em chưa biết phân biệt bên phải với bên trái. Khi tôi đến các làng ấy, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho chúng một kinh. Vì thế, tôi bắt đầu hiểu tại sao Nước Trời lại là của những người giống như chúng.
Cũng vì không đang tâm từ khước một lời xin thánh thiện như vậy, tôi đã bắt đầu dạy chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng niềm tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rồi dạy chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng. Tôi nhận thấy chúng rất thông minh. Và nếu có ai huấn luyện cho chúng về đạo lý Ki-tô giáo, tôi dám chắc chúng sẽ trở nên những Ki-tô hữu rất tốt lành.
Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Ki-tô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Ki-tô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học ở châu Âu, trước hết là đại học Pa-ri, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng : Tiếc thay, chỉ vì lỗi các ông mà biết bao linh hồn thay vì lên thiên đàng lại phải xuống hoả ngục.
Ước chi họ miệt mài với văn chương chữ nghĩa thế nào thì họ cũng miệt mài với công việc tông đồ này như vậy, để có thể trả lẽ với Thiên Chúa về học thuyết của họ cũng như các nén bạc đã được trao phó cho họ. Nhiều người trong họ được đánh động vì ý tưởng này. Nhờ suy gẫm những sự việc về Chúa, họ nghe được tiếng Chúa trong tâm hồn và từ bỏ các tham vọng cũng như công việc trần thế mà hoàn toàn vâng theo ý Chúa và lệnh truyền của Người. Họ thốt lên tự đáy lòng : Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì ? Xin sai con đi bất cứ nơi nào tuỳ ý Chúa, cả Ấn-độ cũng được !
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Phan-xi-cô đi rao giảng để kêu mời các dân tộc Á châu đón nhận Tin Mừng, xin cho các tín hữu được nhiệt thành truyền giáo như thánh nhân, và cho Giáo Hội được hân hoan đón nhận nhiều con cái. Chúng con cầu xin
Để chuẩn bị mừng Kính thánh Phanxicô Xavier (03 tháng 12), Trang thông tin điện tử Dòng Tên xin giới thiệu bài: “Phóng vấn Thánh Phanxicô Xavier” của Cha Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J. (Nay là Giám mục Giáo phận Bắc Ninh).
Ngày 01.12.1552, trên đảo Thượng Xuyên, gần tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa, thánh Phanxicô Xavier, 46 tuổi, đang chờ một nhà buôn đến đưa ngài vào đất liền. Chỉ hai ngày nữa, ngài sẽ qua đời. Chúng ta đến chòi lá của ngài, để phỏng vấn ngài. Các câu hỏi do chúng ta đặt ra, các câu trả lời thực sự là của ngài.
***
1) Thưa cha, cha nhất định phải vào Trung Hoa?
Hết ngày này sang ngày khác, tôi đang chờ đợi một người Trung Hoa từ Quảng Đông đến đón (Bút Tích 131). Trung Hoa là một nước rộng mênh mông bát ngát, thanh bình, và được cai trị bằng những luật lệ khôn ngoan. Chỉ có một vua mà ai nấy đều hết sức tùng phục. Đó là một vương quốc rất giàu có, tài nguyên đủ loại, không thiếu gì… Người Trung Hoa rất khéo léo và rất hiếu học, nhất là về luật lệ liên hệ đến việc trị nước. Họ rất ham hiểu biết… Họ đại lượng và nhất là rất hiếu hòa. Trong nước không có chiến tranh… Tôi đi Trung Hoa để thực hiện những việc lớn lao nhằm phục vụ Thiên Chúa (Bt 97,19). Trong Thiên Chúa, tôi rất hi vọng là một con đường sắp được mở ra, không chỉ cho anh em trong Dòng Tên, mà còn cho tất cả các dòng khác… (Bt 96,52).
2) Cha biết đó là điều nguy hiểm chứ?
Hai nguy cơ có thể xảy ra, theo như dân địa phương nói. Thứ nhất, người dẫn chúng tôi có thể bỏ chúng tôi trên một đảo hoang, hay ném xuống biển, sau khi đã nhận 200 cruzadoz [giá 1200 kg hạt tiêu], để tổng đốc Quảng Đông khỏi biết; thứ hai, nếu họ đưa chúng tôi đến Quảng Đông, và nếu chúng tôi đến gặp tổng đốc, chúng tôi sẽ bị đánh đập hoặc tống giam… Lệnh cấm ở Trung Hoa ngặt đến nỗi không ai được vào nếu không có phép của nhà vua, mà vua đã cấm ngặt người nước ngoài không ai được vào… Chúng tôi cho rằng những nguy hiểm phần hồn lớn hơn những nguy hiểm phần xác nhiều, nên chúng tôi thấy là thà đương đầu với những nguy hiểm phần xác còn yên tâm hơn là để mình bị nguy hiểm phần hồn trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, chúng tôi nhất quyết đến Trung Hoa, bất cứ bằng cách nào. Tôi hy vọng trong Thiên Chúa là chuyến đi Trung Hoa của chúng tôi sẽ thành công và sẽ góp phần vào việc truyền bá đức tin, mặc dầu Kẻ Thù và tay sai chúng có thể tung ra những cuộc bách hại. Thực vậy, “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta”(Rm 8,31; Bt 131,3.6).
3) Có vẻ cha thích phiêu lưu mạo hiểm!
Có những người thật là ngược đời: cố lôi kéo Thiên Chúa đến nơi họ thích, chứ không chịu đến nơi Thiên Chúa mời gọi họ tới. Có những người đang theo một con đường gập ghềnh và nguy hiểm để leo lên một ngọn đồi dựng đứng, mà sau bao nhiêu cực nhọc, chỉ chuốc lấy một kết thúc khốn khổ (Bt 6,4). Chúng tôi hoàn toàn không đi tìm những ưu đãi của người đời, và chúng tôi có làm gì cũng chỉ vì Chúa. Thực vậy, nếu phải chịu những gian truân chúng tôi đã trải qua chỉ một ngày thôi để được cả thế giới này, chúng tôi cũng từ chối (Bt 13,3).
4) Thời gian ở Ấn Độ của cha thế nào?
Chúng tôi rời Lisbõa đi Ấn Độ ngày 7.4.1541, và đến Ấn Độ ngày 6.5.1542 (Bt 15,2). Khu vực chúng tôi đến gọi là mũi Comorin (Bt 15,14). Tôi đưa theo 3 người bản xứ. Họ rất thông thạo tiếng Bồ Đào Nha, và thông thạo tiếng mẹ đẻ hơn nữa…Chúng tôi đi qua những làng Kitô giáo, nơi dân chúng đã theo đạo khoảng tám năm trước. Không có người Bồ Đào Nha nào sống trong các làng này, vì đất đai cằn cỗi và người ta hết sức nghèo khổ. Vì các Kitô hữu trong các làng này không được ai dạy dỗ về đức tin, nên về đạo, họ không nói được gì hơn là họ có đạo. Không có ai để dâng lễ cho họ, cũng không có ai dạy họ kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng và kinh Mười Điều Răn. Khi đến các làng này, tôi đã rửa tội cho tất cả trẻ em chưa được rửa tội; và như vậy, tôi đã rửa tội cho rất nhiều hài nhi “chưa biết phân biệt tay phải với tay trái”(Gn 4,11). Hễ tôi đến làng nào, trẻ em chưa cho tôi đọc kinh, hoặc ăn hay ngủ, nếu chưa dạy các em vài ba kinh. Tôi bắt đầu hiểu rằng “Nước Trời thuộc về những ai giống như trẻ em”(Mt 19,4; Bt 19,2). Xong một làng, tôi để lại một người tiếp tục công việc đã khởi sự, rồi đến các làng khác cũng làm y như vậy… Ở những nơi tôi đi qua, tôi để lại những bản viết các kinh, và cho người biết chữ viết lại, cho học thuộc lòng, rồi cho đọc hằng ngày. Tôi cũng cho mọi người họp vào Chúa Nhật để đọc kinh. Tại các làng, tôi đặt người phụ trách công việc này (Bt 20,7).
5) Cha có kêu gọi các bạn ở Châu Âu qua tiếp tay không?
Vì thiếu người lo những việc đạo đức và thánh thiện như vậy, nên nhiều người ngoại đáng lẽ có thể theo đạo mà không theo được. Rất nhiều khi tôi có ý định về bên nhà, đến các nơi người ta học hành, để gào thét như một người mất trí, đặc biệt là ở Đại học Paris. Tôi muốn đến Học viện Sorbonne nói với những người hiểu biết nhiều, nhưng ít muốn làm cho kiến thức của mình sinh hoa kết quả: “Biết bao linh hồn không được hưởng phúc vinh quang, nhưng phải sa địa ngục, vì quí vị lơ là”… Gần như tôi bị thúc bách viết thư cho Đại học Paris… để cho biết là hàng ngàn hàng vạn người ngoại sẽ theo đạo, nếu có được những người không bám lấy lợi lộc riêng tư, nhưng cố gắng sinh lợi cho Chúa Giêsu Kitô, nên tìm kiếm và giúp đỡ các linh hồn”(Bt 20,8)… Ôi! Nếu thay vì chỉ thỏa lòng nhờ hiểu những điều mình học, người sinh viên tìm trong việc giúp đỡ tha nhân biết họ cần gì để cảm nhận được Chúa, người ấy sẽ được an ủi hơn và sẵn sàng tính sổ linh hồn với Chúa hơn, vào ngày Đức Kitô sẽ hỏi: “Hãy tính sổ cho Ta biết ngươi đã quản lý tài sản thế nào”(Lc 16,2; Bt 20,13).
6) Rồi chuyện ở đảo Môrô?
Đối diện với Maluco [Quần đảo Maluku, đông bắc Inđônêxia. Môrô, hay Omôrô, hoặc Các Đảo Môrô, là tên gọi chung khu vực bờ biển tây bắc đảo Hamahera và hai đảo Môrôtai và Rau. Dân địa phương gọi bờ biển tây bắc đảo Hamahera là Môrôtia (Môrô đất) và hai đảo kia là Môrôtai (Môrô biển).], có một xứ gọi là Môrô… Trên đảo này, một số đông người theo đạo từ nhiều năm trước, nhưng vì các giáo sĩ đã rửa tội cho họ sau đó qua đời, nên họ bị bỏ rơi, không ai dạy dỗ. Vì khu vực Môrô ấy rất nguy hiểm…, dân chúng thường trộn thuốc độc vào đồ ăn thức uống đem cho người khác, nên những người có thể lo cho các tín hữu tại Môrô đã từ chối, không chịu đến đó. Vì các tín hữu tại các đảo Môrô cần được dạy dỗ về đức tin, và cần có người rửa tội cho họ để họ được rỗi linh hồn, và cũng vì tôi có bổn phận liều mất sự sống trần gian để giúp đỡ tha nhân về đời sống thiêng liêng, nên tôi đã quyết định đến Môrô để giúp các tín hữu trong những điều thiêng liêng, liều mình vào nơi nguy tử, đặt trọn hy vọng và tin tưởng nơi Thiên Chúa… Nhiều bạn hữu và những người quí mến tôi tìm cách ngăn cản tôi lên đường đến một khu vực nguy hiểm như vậy. khi thấy không thuyết phục được tôi bỏ dự tính, họ cho tôi nhiều thuốc giải độc. Tôi rất biết ơn họ đã yêu mến và quan tâm đến tôi, nhưng để đừng chất vào mình nỗi sợ hãi mình vốn không có, và hơn nữa, vì tôi đã đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nên để khỏi đánh mất lòng tin tưởng, tôi đã từ chối, không nhận các thứ thuốc mà vì yêu mến, họ khóc lóc để cố ép tôi nhận. Tôi chỉ xin họ luôn luôn nhớ đến tôi khi cầu nguyện, vì đây là thuốc công hiệu nhất để chống lại việc có thể bị đầu độc (Bt 55,4).
7) Vì sao cha lại đi Nhật Bản?
Vì nhận được thông tin rộng rãi về những thuận lợi cho việc truyền bá đức tin tại các đảo của Nhật Bản, và sau khi đã tìm hiểu nơi những người đáng tin vì đã lưu trú trên các đảo của Nhật Bản, tôi đã quyết định xin Thiên Chúa ban cho tôi ơn trọng đại này là nếu tôi đến những khu vực ấy mà phục vụ được Thiên Chúa hơn, thì cho tôi cảm nhận được ý muốn rất thánh của Người trong tâm hồn, và cho tôi sức mạnh cần thiết để thi hành trọn vẹn. Thiên Chúa uy linh đã thương cho tôi cảm nhận được trong tâm hồn là chính vì việc phục vụ Người mà tôi đi Nhật Bản, và vì vậy tôi rời Ấn Độ để thi hành điều Thiên Chúa cho tôi cảm nhận nhiều lần về việc lên đường đi Nhật Bản, với dự tính phục vụ Người (Bt 83,1).
8) Xin cha cho biết đôi chút về thời gian cha ở Nhật Bản.
Trước hết, chúng tôi đến Kagoshima. Chúng tôi ở lại đó hơn một năm (Bt 96,13). Trong năm ấy, chúng tôi dạy giáo lý cho các tín hữu, học tiếng và dịch nhiều điều trong Luật Thiên Chúa ra tiếng Nhật Bản… Các tín hữu cũng như những người chưa theo đạo rất thích nghe những điều ấy, vì họ thấy là đúng… Sau một năm, và vì lãnh chúa địa phương không hài lòng về Luật Thiên Chúa lan tràn tại đó, chúng tôi đến một xứ khác… Nhờ đọc cuốn sách chúng tôi đã dịch sang tiếng Nhật Bản, và nhờ nhiều buổi nói chuyện của chúng tôi, nhiều người đã theo đạo… Sau đó, chúng tôi đến Yamaguchi. Trong thành phố ấy có nhiều hiệp sĩ và những người khác rất ước mong biết Luật chúng tôi rao giảng thế nào. Chúng tôi ở lại trong thành phố ấy nhiều ngày để rao giảng trên đường phố cũng như trong nhà. Dân chúng rất thích nghe kể chuyện đời sống Đức Kitô, và họ khóc khi chúng tôi tường thuật cuộc Thuơng Khó. Nhưng ở đó có ít người theo đạo. Vì thấy ít có kết quả, chúng tôi quyết định đến một thành phố khác, thành phố quan trọng nhất trong toàn bộ Nhật Bản, gọi là Myako[4][4]. Chúng tôi mất hai tháng trên đường, phải đương đầu với nhiều nguy hiểm, vì có nhiều trận chiến trong các địa phương, mà trời thì rất lạnh, lại có nhiều kẻ cướp nữa. Chúng tôi tìm cách gặp nhà vua để xin phép rao giảng Luật Thiên Chúa trong vương quốc, nhưng không gặp được. Vì sau đó chúng tôi được biết là người ta không phục tùng nhà vua, nên chúng tôi quay trở lại Yamaguchi… Thường chúng tôi giảng mỗi ngày hai lần. Sau bài giảng là một buổi thảo luận kéo dài khá lâu. Nhà chúng tôi gần như lúc nào cũng đầy người, và thường người ta không vào trong nhà hết được. Họ đặt ra cho chúng tôi biết bao nhiêu câu hỏi, và chúng tôi giải thích cho họ bao nhiêu điều, đến nỗi họ nhìn nhận rằng Luật của các vị thánh hiền họ từng tin là sai, và Luật Thiên Chúa là đúng. Nhiều ngày sau, họ bắt đầu theo đạo, và những người đầu tiên theo đạo lại chính là những người từng tỏ ra thù nghịch nhất cả khi chúng tôi giảng cũng như trong khi thảo luận… Trong khi chúng tôi đang ở thành phố Yamaguchi, thì một lãnh chúa rất quan trọng là công tước xứ Bungo viết thư mời đã đến chỗ ông, vì có một tàu Bồ Đào Nha đã vào cảng của ông, và ông muốn trao đổi với tôi một số điều quan trọng. Hiểu là ông muốn theo đạo, và tôi cũng mong được gặp những người Bồ Đào Nha, tôi đã đi Bungo… Từ Bungo, tôi không trở lại Yamaguchi, nhưng quyết định đi Ấn Độ, trên một chiếc tàu Bồ Đào Nha, để gặp lại anh em ở Ấn Độ, và được vui mừng vì gặp lại nhau, vừa để đưa đến Nhật Bản các cha trong Dòng Tên, vì xứ ấy cần các cha, và cũng để từ Ấn Độ đem theo một số điều cần thiết mà ở Nhật Bản không có (Bt 96,13.14.16.36.40).
9) Xem ra mọi sự có vẻ nhẹ nhàng, nhưng chắc là cha đã gặp nhiều khó khăn!
Tất cả các thân hữu và bạn hữu tôi đều sợ lắm, vì tôi thực hiện một cuộc hành trình lâu dài và nguy hiểm như vậy. Phần mình, tôi sợ hơn họ, vì thấy họ tỏ ra thiếu đức tin. Thiên Chúa chỉ huy và có quyền trên bão tố ở biển Trung Hoa và Nhật Bản, mặc dầu chúng mạnh hơn tất cả bão tố người ta đã gặp từ trước đến nay. Ngoài gió, còn có đá ngầm, nhiều lắm, theo người ta nói, và nhiều con tàu đã tiêu tan ở đó. Nhưng Thiên Chúa là Đấng hùng mạnh. Thiên Chúa chỉ huy và có quyền trên tất cả những tên hải tặc trên biển, dù số này đông đến mức đáng sợ. Những tên hải tặc này rất tàn ác, chúng làm đủ thứ để tra tấn và hành hạ những người bị chúng bắt, nhất là người Bồ Đào Nha. Vì Thiên Chúa có quyền trên chúng hết thảy, nên tôi không sợ ai, ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người. Còn những nỗi sợ khác, những nguy hiểm khác, những đau khổ khác, mà bạn bè nói tới, đã kể là số không. Tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa, vì nỗi sợ đối với các thụ tạo chỉ lớn tới mức Đấng Sáng Tạo ra chúng cho phép là cùng (Bt 78,2). Vì ma quỉ không làm hại con người hơn mức được Thiên Chúa cho phép, nên vào những giờ phút ấy, phải sợ mình thiếu tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là sợ chính Kẻ Thù… Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng ơn Thiên Chúa ban cho mình (Bt 90,8.9).
10) Nghe nói khi gặp nguy hiểm, cha xin Chúa đừng để mình thoát khỏi!
Trong chuyến đi từ Malacca đến Ấn Độ, tôi đã trải qua nhiều nguy hiểm, vì bão suốt ba ngày ba đêm, bão lớn tôi chưa từng gặp bao giờ. Nhiều người còn sống đã than khóc như sắp chết, và thề sống thề chết là nếu Chúa cho thoát được thì sẽ không bao giờ đi biển nữa. Chúng tôi đã liệng hết đồ đạc xuống biển, bỏ của chạy lấy người. Khi trận bão lên đến cực điểm, tôi đặt mình trong tay Chúa… Mỗi lần gặp nguy hiểm, tôi cầu xin các thiên thần, cũng như các thánh tổ phụ, ngôn sứ, tông đồ, thánh sử, tử đạo, tuyên đạo, đồng trinh và tất cả các thánh trên trời. Và để chắc được Thiên Chúa tha thứ muôn vàn tội lỗi, tôi xin Đức Mẹ vinh hiển cầu khẩn cho mình, vì ở trên trời, Mẹ xin gì với Thiên Chúa cũng được nhậm lời. Cuối cùng, tôi đặt hết hy vọng nơi Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Chuộc và là Chúa chúng ta, Đấng đã chịu nạn chịu chết mà lập công đền tội chúng ta. Trong cơn bão tố, nhờ được giúp đỡ và phù hộ như trên, tôi thấy mình được an ủi có thể nhiều khi còn hơn cả lúc tôi thoát khỏi cảnh ngặt nghèo… Vì thế, lần gặp bão này, tôi đã xin Thiên Chúa chỉ cho tôi thoát trận bão ấy nếu Người cho tôi chịu những trận khác lớn bằng hay lớn hơn nữa, để phục vụ Thiên Chúa hơn (Bt 59,20-21).
11) Có khi nào cha bị cám dỗ bỏ cuộc không?
Có lần ở Ấn Độ, tôi đã phải thốt lên: Bảo đảm và chắc chắn là hôm nay mà có tàu đi, tôi sẽ đi ngay lập tức… Tôi không biết còn làm gì được nữa, nếu không phải là chẳng nên mất thêm thời giờ để sống giữa những người không biết tôn trọng chi hết…Thực là tôi buồn không bút nào tả xiết (Bt 41,1.4). Tôi chán sống đến nỗi thà được chết trong khi truyền bá luật Chúa và đức tin của chúng ta còn hơn cứ phải thấy người ta xúc phạm đến Chúa mà mình không làm gì được (Bt 44,3)… Sống ở nơi người ta thờ tượng thần, nơi khó chịu vì khí hậu rất oi bức; tất cả những trở ngại ấy, nếu biết chấp nhận nhân danh Chúa, chúng sẽ trở nên nguồn phúc đức và dịp lãnh những an ủi lớn lao. Tôi tin rằng ai thực lòng yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an nghỉ khi đương đầu với những thử thách, và họ sẽ chết khi trốn hoặc thiếu thử thách. Còn cái chết nào tệ hơn đời sống của người, sau khi đã biết Chúa Kitô, lại bỏ Chúa để chạy theo sở thích và quyến luyến riêng! Thật không gì buồn hơn. Trái lại, ai chết đi mỗi ngày, đi ngược lại ý riêng, không tìm những điều thuộc về mình, nhưng là những điều thuộc về Chúa Giêsu Kitô, sẽ được bình an biết bao! (Bt 15,15). Những cám dỗ thường ngăn cản những người yếu đuối đạt đến điều trọng đại này là hiểu biết Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thế nào, vì sống trên đời mà không cảm nếm được Thiên Chúa thì đó không phải là sống, mà là chết dần chết mòn (Bt 90,26).
12) Dòng Tên là “hậu phương” lớn của cha?
Tôi nghĩ rằng Dòng Tên là “Dòng yêu mến và hiệp nhất tâm hồn” (Bt 70,5)… Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỷ trong tâm trí tôi (Bt 48,1)… Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi được biết anh em và sống với anh em. Tôi tự biết và cảm thấy trong lòng là, do lỗi mình, tôi đã để thời gian ấy qua đi mà không rút được ích lợi từ bao nhiêu điều chính Chúa cho anh em hiểu biết. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại (Bt 20,14)… Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cắt tên của anh em trong các thư tử chính tay anh em viết cho tôi, để có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi… Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình (Bt 55,10)… Chúa biết cho là gặp anh em thì tâm hồn tôi được an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Rôma xa quá… Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa, bớt yêu mến và nghĩ đến nhau (Bt 48,1)… Nếu ở đời này, người ta thấy được trái tim của những người yêu mến nhau trong Đức Kitô, thì anh em Dòng Tên sẽ thấy rõ chính anh em trong trái tim tôi (Bt 90,60)… Khi nói về Dòng Tên, tôi không biết làm sao chuyển sang đề tài khác được, và không sao dừng bút được… Nếu khi nào tôi quên Dòng Tên Chúa Giêsu, thì xin cho tôi quên cả tay phải mình đi[6][6], vì nói sao thì nói, tôi biết là mình mắc nợ rất lớn đối với tất cả anh em trong Dòng (Bt 59,22).
13) Đặc biệt với cha I-nhã?
Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha I-nhã. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài (Bt 1,6)…Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “Hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau.” Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát được bao gian nan, bao nguy hiểm (Bt 97,1)… Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được (Bt 1,7).
14) Nếu lần này Cha không vào Trung Hoa được?
Xin Chúa thương cho ông ấy đến, như tôi vẫn ước mong; vì nếu làm sao đó mà Thiên Chúa không muốn như vậy, tôi không biết sẽ phải làm gì, hoặc là phải đi Ấn Độ hay Thái Lan, để từ Thái Lan theo phái đoàn sứ thần vua Thái Lan cử sang Trung Hoa (Bt 131,10).
15) Có người nghĩ là cha có đầu óc chinh phục!
Muốn sống tốt ở đời này, chúng ta phải làm khách hành hương để đi bất cứ đâu, đến nơi chúng ta có thể phục vụ Chúa (Bt 50,2).
Đặt câu hỏi: Hoàng Sóc Sơn.
[1] Thánh Phanxicô Xavier , Bút Tích 131, số 10.
[2] Xem Bt 132,1: giá 1200 kg hạt tiêu.
[3] Quần đảo Maluku, đông bắc Inđônêxia. Môrô, hay Omôrô, hoặc Các Đảo Môrô, là tên gọi chung khu vực bờ biển tây bắc đảo Hamahera và hai đảo Môrôtai và Rau. Dân địa phương gọi bờ biển tây bắc đảo Hamahera là Môrôtia (Môrô đất) và hai đảo kia là Môrôtai (Môrô biển).
[4] Kyoto hiện nay, lúc ấy là Kinh đô Nhật Bản.
[5] “Có lần ở Ấn Độ, tôi đã phải thốt lên”: câu này do người soạn thêm vào.
[6] X. Tv 136,5.
https://dongten.net/2011/04/06/phong-van-thanh-phanxico-xavie/
Ở Việt Nam, trong số các thánh Dòng Tên, thánh Phanxicô Xavier được các tín hữu yêu mến và tôn kính nhất. Ngài có đặt chân lên đất nước Con Rồng Cháu Tiên không? Chúng ta không dám chắc. Dầu sao, ngài cũng được Hội Thánh đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo,trong đó có Việt Nam.
Cũng như thánh I-nhã, thánh Phanxicô Xavier thuộc dân tộc ít người Basco sinh sống ở Tây Ban Nha. Ngài sinh năm 1506 trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài đến Paris học, với ý định tiến thân. Năm 23 tuổi, ngài gặp thánh I-nhã. Sau mấy năm, ngài được thụ phục và gia nhập nhóm bạn của thánh I-nhã. Năm 28 tuổi, ngài cùng với thánh I-nhã và các bạn khấn sống thanh bần và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài thụ phong linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á, theo lệnh của Đức Thánh Cha Phaolô III. Từ Ấn Độ, ngài mở rộng hoạt động truyền giáo đếnMalaysia, Inđônêxia và Nhật Bản.
Với thánh Phanxicô Xavier, Dòng Tên vươn mình đến Châu Á, vừa đạt đến đỉnh cao của sứ mạng loan báo Tin mừng. Trong 10 năm truyền giáo, ngài vượt chừng 100 ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ, Malaysia, Inđônêxia, Nhật Bản, và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước vào Trung Hoa.
Tại Ấn Độ, ngài tập trung nỗ lực quanh mũi Comorin, hồi sinh cả một giáo đoàn 20 ngàn tín hữu, và chỉ trong một tháng rửa tội đến 10 ngàn tân tòng. Tại Malaysia, ngài kiên nhẫn giải tội cho từng hối nhân, rửa tội cho từng tân tòng, nay một người, mai một người. Như một mục tử đi tìm chiên lạc, ngài đến các đảo xa lắc xa lơ của Inđônêxia để củng cố đức tin những người thổ dân sống rải rác trên rừng núi, đã được rửa tội nhưng không ai giúp đỡ. Tại Nhật Bản, ngài khởi đầu một cách khó khăn công cuộc rao giảng và gây dựng Hội Thánh. Nghĩ rằng nếu Trung Hoa gia nhập Hội Thánh, cả vùng Đông Á sẽ noi gương, ngài tìm đủ mọi cách để vào vùng đất này.
Thánh Phanxicô Xavier được xem là một vị tông đồ táo bạo, nếu không muốn nói là liều lĩnh. Thật vậy, đường biển thời ấy luôn bị đe dọa vì bệnh dịch, bão tố và hải tặc, nhưng ngài tin tưởng nếu Chúa không cho phép, không có gì làm hại được ngài. Ở Ấn Độ, ngài phải đương đầu với thời tiết nóng như nung và những đoàn quân Badaga hung dữ; ở Malaysia, ngài phải ê chề với thái độ ngoan cố và trịch thượng của người đại diện chính quyền thực dân Bồ Đào Nha; ở Nhật Bản, ngài phải chịu đựng bão tuyết và con mắt nghi ngờ của các sứ quân. Đặc biệt lúc ấy hoàng đế Trung Hoa ra lệnh xử tử bất cứ người châu Âu nào đặt chân đến, nhưng bất chấp mọi sự, ngài khao khát làm sao để gặp được hoàng đế Trung Hoa. Lòng nhiệt thành với các linh hồn và lòng phó thác tuyệt đối nới Chúa đã giúp ngài làm được những điều không ai dám nghĩ tới.
Chỗ dựa hữu hình của ngài là Dòng Tên. Ngài luôn cảm tạ Chúa vì đã cho ngài có những người anh em cùng chung lí tưởng, luôn xin anh em cầu nguyện và gửi thêm nhân sự đến tăng cường và tiếp tục công việc ngài đã khởi sự. Ngài gọi Dòng Tên là “Dòng yêu thương”, và luôn mong ước được gặp lại anh em, hoặc ở dưới đất hoặc ở trên trời.
Mặc dầu rửa tội được chừng 100 ngàn người, củng cố được hàng trăm cộng đoàn tín hữu, ngài vẫn cảm thấy bị thiêu đốt vì đòi hỏi gay gắt của nhu cầu truyền giáo. Ngài qua đời trên đảo Thượng Xuyên, ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ngài được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV tuyên thánh, cùng với thánh I-nhã, năm 1622, và được Hội Thánh đặt làm bổn mạng các xử truyền giáo.
***
Sau đây là một đoạn văn nổi tiếng: Mời gọi các đại học được trích trong lá thư của Phanxicô Xavier gửi từ Nam Ấn cho các bạn đường ở Rôma, ngày 15.01.1544
“Biết bao lâu tôi đã muốn đi đến các đại học ở Châu Âu, và nhất là đến Đại học Paris[1] để lớn tiếng kêu to, như một người đã mất trí, với những người vốn giàu kiến thức hơn là có lòng ước ao rút tỉa ích lợi từ kho kiến thức ấy; và nếu họ đem cũng chừng ấy lòng nhiệt thành dành cho việc nghiên cứu để suy nghĩ về khoản nợ mà Thiên Chúa sẽ đòi họ phải trả về việc nghiên cứu này, cũng như những nén vàng nén bạc đã ban cho họ, thì ắt sẽ có khá đông người xúc động về điếu ấy, họ ắt sẽ sử dụng những phương tiện và những việc thiêng liêng thích hợp để làm cho mình nhận biết và đi sâu vào thánh Ý Chúa, bày tỏ trong tâm hồn họ và ắt họ sẽ quy phục ý Chúa hơn là sở thích riêng mình mà nói rằng: Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con làm gì?
Nhưng tôi e rằng có nhiều người đang sôi kinh nẩu sử trong các đại học, cốt chỉ là để dành cho được một chỗ đứng thuận lợi, có lương bổng cao và chức tước. Họ đã chọn bậc sống mình như thế đấy, buông thả theo những tình cảm lệch lạc của mình.
Tôi đã súy viết cho đại học Paris để nói cho họ biết rằng có hàng ngàn và hàng triệu người ngoại lẽ ra đã trở thành Ki-tô hữu nếu đã có thêm thợ gặt. Có cả một đám đông như thế trở lại với đức tin của Chúa Ki-tô trong xứ mà tôi đang sống đây, biết bao lần tay tôi mỏi mệt vì ban phép Rửa, và không còn hơi sức để nói vì đã đọc đi đọc lại quá nhiều lần kinh Tin Kính và Mười điều răn bằng thổ ngữ của họ, cũng như những kinh nguyện khác và một huấn dụ trong đó tôi cắt nghĩa cho họ hiểu thế nào là một Ki-tô hữu.”
***
AMDG
ĐỂ TÔN VINH THIÊN CHÚA HƠN
https://dongten.net/2011/12/02/thanh-phanxico-xavie-03-12/
Đây là bức thư đầu tiên thánh Phanxicô Xavier viết ở ngoài Châu Ầu. Cuối tháng 8 năm 1541, thánh Phanxicô Xavier cùng với cả đoàn tàu ghé lại đảo Mozambique, ngoài khơi đông nam châu Phi. Vì đã khởi hành trễ tại Lisbõa, đoàn tàu phải dừng lại để chờ gió mới có thể tiếp tục hành trình. Ngày đầu năm mới 1542, ngài viết thư cho anh em ở Roma biết những công việc, những kinh nghiệm ban đầu, cũng như những triển vọng tông đồ ở Ấn Độ. Trên tàu của ngài, ngoài các quan chức và thủy thủ, còn có những thanh niên nghèo phải ‘tha phương cầu thực’. Ngài sông gần gũi với họ, giúp đỡ họ về đời sống thiêng liêng, chăm sóc những người đau yếu. Thật là ngài không chỉ khoanh tay ngồi chờ. Trong chuyến đi này, ngài có những kinh nghiệm đầu tiên về biển cả và cái nóng nhiệt đới. Trong thực tế ấy, ngài ‘thấy rõ mình thiếu những gì cần phải có để giúp người ta tin kính Chúa Giêsu’, nhưng vẫn ‘ngày càng thêm tin tưởng… Chúa sẽ luôn luôn ban cho chúng tôi dư dật mọi sự cần thiết để phục vụ và tôn vinh Chúa’. Đang ‘trên đường’, thánh Phanxicô Xavier đã thực sự là ‘người bạn đường’ của Chúa Giêsu cũng như cửa những người cùng đi.
Xin Chúa Giêsu Kitô hằng ban ân sủng và tình yêu để giúp đỡ và phù hộ chúng ta.
Xin tất cả bạn bè và người quen cầu nguyện cho tôi.
Mozambique ngày 1 tháng 1 nãm 1542.
Phanxicô Xaviêr
Bản dịch: Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt, S.J.
[1] Đúng kỷ niệm thứ 35 ngày sinh thánh Phanxicô Xavier. Đoàn tàu hôm ấy gồm năm chiếc, chở theo chừng 700 người. Thánh Phanxicô Xavier và hai bạn đõng hành ở trên tàu Santiago của vị Tổng Trân tân cử, Theo chính sách của cha đẻ đế quốc Bồ Đào Nha ở phương đông, hằng năm Bồ Đào Nha gửi những thanh niên độc thân đến Ân Độ, để họ cưới vợ sinh con tại chỗ, vừa để họ bám chặt thuộc điạ, vừa nhờ họ nắm chắc thuộc địa hơn. Hầu hết các thanh niên này là hạng nhà nghèo, liều mạng, đi xa kiếm ăn và lập nghiệp. Họ được miễn tiền tàu, và được nuôi ăn trên tàu.
[2] Ghinê ở ngay xích đạo. Đoàn tàu chở thánh Phanxicô đến đó vào đúng mùa hè, nên đứng gió, tàu không tiến lên được, cứ dừng lại cho hành khách chịu nóng. Nhiều đồ ăn dự trữ bị hư. Cá và thịt hư hết, dù đã được ướp rất mặn. Cả đến nhựa chai trên tàu phần nổi trên mặt nước cũng chảy ra. Hành khách không tài nào ở trong phòng được vì nóng quá. Khi đoàn tàu đến được mũi Hảo Vọng ở cực nam châu Phi thì lại nhằm ngay mùa đông ở gần nam cực, nên hành khách phải chịu cái lạnh thấu xương.
Hòn đảo tên là Mozambique, ở ngoài khơi nước Mozambique, đông nam Châu Phi hiện nay. Xưa kia Mozambique là tên hòn đảo, ngày nay trở thành tên cả nưđc Mozambique.
Đoàn tàu trong chuyến đi ây gồm 5 chiếc. Thánh Phanxciô Xavier, cùng đi có cha Paolo và chú Francisco Mansilhas, có mặt trên tàu Santiago. Đây là tàu chỉ huy, đưa viên Tổng Trấn tân cử là Martim Affonso đe Sousa đến nhậm chức ở Ân Độ. Cũng như trên các tàu khác, đa sô’ những người này từ Bồ Đào Nha sang Ấn Độ buôn bán hoặc lập nghiệp. Bác sĩ Cosma Saraiva cho biết: “Tôi rời Lisbõa trên cùng một tàu với Cha Phanxicô. Tôi thường quan sát ngài làm việc từ thiện cũng như giảng dạy. Ngài thường xin hành khách bố thí để phân phát cho người nghèo và người bệnh. Ngài đích thân lo cho mọi người bệnh: lể cho họ, giải tội cho họ. Ngài chẳng nghỉ ngơi chi hết, và làm mọi việc rất vui vẻ. Ai cũng coi ngài như vị thánh. ”
[5] Bác sĩ Cosma Saraiva, cùng đi trên tàu với thánh Phanxicô Xavier, cho biết nhờ ngài mà chỉ có 40 hay 41 người chết trên đảo Mozambique. Thánh Phanxicô Xavier lại nói cổ 80 người chết, có lẽ tính chung cho cả hành trình.
[6] Martim Affonso de Sousa, sinh năm 1500, qua đời năm 1571, làm Tổng Trấn Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha từ năm 1541 đến năm 1545.
[7] Sau này, bác sĩ Saraiva cho biết trên đảo Mozambique: “Vì quên mình, ngài ngã bệnh nặng, tôi đưa về phòng tôi để chăm sóc tốt hơn. Ngài bệnh nặng đến nỗi tôi phải lể chín lần, và ngài bị hôn mê ba ngày…Vừa bớt, ngài lại lao vào việc như cũ, lại hăng say như trước. ”
Ngày 03 tháng 12, Mừng kính thánh Phanxicô Xavier – Bổn mạng các miền truyền giáo. Trong 10 năm truyền giáo, ngài vượt chừng 100 ngàn cây số đường biển, trên những con tàu buồm mong manh, để đến Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia, Nhật Bản, và qua đời trên đảo Thượng Xuyên, đang khi mơ ước vào Trung Hoa. Để chuẩn bị mừng kính lễ thánh Phanxicô Xavier, trang thông tin điện tử Dòng Tên xin giới thiệu bài viết của Linh mục Giuse Hoàng Sỹ Quý, S.J. : ” 500 năm Sinh nhật Phansinh Xaviê: MỘT LINH ĐẠO TRUYỀN GIÁO”, nhân kỷ niệm 500 sinh nhật của thánh Phanxicô (1506-2006)
Năm 2006, Giáo hội toàn cầu mừng long trọng 500 năm Sinh nhật nhà truyền giáo vĩ đại Phansinh Xaviê : 1506(7/4) – 2006(3/12). Ngày 10/4/2006, tại chính lâu dài Javier (=Xavier), Navarra, Tây ban nha, nơi sinh Xaviê, Giáo hội trung ương đã cử hành lễ khánh niệm, với Đức hồng y Tổng giám mục Madrid đặc sứ (légat) Đức Thánh Cha chủ tế, trước sự hiện diện của quốc vương và hoàng hậu Tây ban nha, của cha Tổng quyền Dòng Tên, của nhiều hồng y và giám mục khác.
Vì thánh Phansinh Xaviê đặc biệt là nhà truyền giáo ở Châu Á, nên tại thành phố Hồ Chí Minh, để phát động một phong trào truyền giáo mới trong toàn vùng gồm phân nửa dân số thế giới mà chỉ mới có vài ba phần trăm Công giáo này, Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn sẽ dành trọn ngày 2/12 [1] để tổ chức mừng lễ thánh nhân tại Trung tâm mục vụ với sự tham dự của các hồng y đến từ Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan,v.v.
Riêng với Dòng Tên, thì năm 2006 là Năm Thánh mừng đồng thời 500 năm sinh nhật thánh Phansinh Xaviê và chân phước Phêrô Favre, và 450 ngày sinh trên Trời của thánh tổ Inhã Loyola. Vâng, không thể có nhà truyền giáo lừng danh Xaviê nếu đã không có Inhã, người mà Xaviê luôn nhớ ơn và coi như cha và thầy rất đáng mến, mà mỗi lần đọc thư thì quỳ xuống và khóc.
Vì mừng cả ba vị, nên trong Năm thánh 2006, Dòng Tên dùng ngày 22/4 để mừng long trọng. Tại sao lại 22/4 ? Vì ngày ấy là ngày dòng kính Đức Trinh nữ Maria Mẹ Dòng Tên, nhờ sự bảo cử của Mẹ mà Inhã cảm nhận rõ (huyền thị La Storta) Đức Chúa Cha muốn đặt Inhã (và Dòng trong đó) “cùng với Đức Kytô con Ngài”[2]. Vâng, Dòng Tên luôn coi mình được khai sinh từ huyền thị La Storta ấy.
Phansinh Xaviê và “bản anh hùng ca truyền giáo”
Trong bài giảng ngày 10/4 nói trên, Đức Hồng y Đặc sứ Đức Thánh Cha nhận định rằng : thánh Xaviê “đã để lại dấu ấn không phai mờ trong cả lịch sử Hội thánh lẫn lịch sử loài người khi mang Danh thánh Chúa Giêsu và biểu tượng chữ Thập đến những thế giới mới, đồng thời đề cao trước những vùng trời ấy phẩm giá con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa…”. Và Đức Hồng y so sánh thánh nhân với thánh Phaolô khi mà cả hai được thúc bách từ bên trong bởi lệnh truyền của Chúa :”Hãy đi giảng dậy muôn dân”, để rồi cả hai cùng xuôi ngược đại dương, mang Tin mừng đến tận cùng trái đất hầu hoán cải các tâm hồn cho Chúa.[3]
Nói như thế, ĐHY chỉ muốn nhắc lại nhận định của nhiều sử gia, chẳng những họ so sánh Xaviê với Phaolô, mà còn với cả Christophe Colomb và Á-lịch-xăng đại đế nữa. Vâng, Xavier Léon-Dufour đã gọi cuộc phiêu lưu vĩ đại của Xaviê là “Sử thi thánh Phansinh Xaviê”[4], cuộc phiêu lưu ấy chỉ kéo dài 10 năm, nhưng trải ra trên chiều dài 100.000km đại dương, có khi trên những con thuyền mảnh mai, từ Ấn Độ đến các đảo to nhỏ thuộc Malaidia và Inđônêdia ngày nay, đến tận Nhật Bản, rồi sau cùng đến cửa ngõ Trung Quốc. Mà không chỉ là phiêu lưu suông kiểu Marco Polo, mà phiêu lưu tác chiến với kế hoạch dự phác, với chiến thuật phù hợp, với tổ chức để duy trì, khiến những giáo điểm như Nhật Bản dù bị bách hại gay gắt, vẫn âm thầm tồn tại suốt cho tới hôm nay. Và để đạt được các mục tiêu như thế, Xaviê đã làm như thánh Phaolô, gian lao cực nhọc gần như suốt ngày đêm, bất chấp mạng sống luôn bị đe dọa bởi hải tặc và bão biển, bởi những thổ dân dữ tợn và những phe đảng chém giết nhau. Để rồi khi nhận ra rằng, cái dân tộc Nhật Bản hiếu học, trọng danh dự và văn hóa cao kia lại rất ngưỡng mộ văn minh Trung Quốc, thì với con mắt nhìn xa thấy rộng của một chiến lược gia bậc thầy, Xaviê dự tính chinh phục Nhật Bản (và hẳn là nhiều nước Đông Á khác nữa) bằng cách chinh phục cây đại thụ Trung Hoa này[5]. Và thế là Xaviê gần như một mình đến cắm trại ở hòn đảo nhỏ Thượng Xuyên, cửa ngõ của Quảng Đông, nhằm vận động cho kỳ được giấy phép vào truyền giáo, dù lúc ấy bệnh nặng, lại không thầy thuốc và gần như không ai săn sóc, không luôn cả cơm ăn và áo ấm để mặc.
Chính vì luôn trên đướng, giãi nắng dầm sương, đương đầu cùng gió bão trên biển, gió tuyết bên Nhật, lại làm nhiều mà ăn ngủ quá ít, nên Xaviê không khỏi chết trẻ như Alexandre đại đế, chết ở tuổi 46, không trên giường êm nhưng trên chiến tuyến, đúng như Mã Viện mơ ước xưa: Làm trai chí ở bốn phương, chết ở xa trường, lấy da ngựa bọc thây. Vâng, cuộc đời bôn ba và cái chết bi tráng ấy, cùng với những công cuộc truyền giáo kỳ diệu, trong 10 năm với 100.000 người thuộc nhiều dân tộc và ngôn ngữ chịu phép rửa sau khi đã được dạy dỗ kỹ, quả đáng được gọi là Sử thi hay Anh hùng ca (épopée).
Có điều đây không phải vị anh hùng mà người ta nể sợ, nhưng thánh nhân mà bất cứ ai gần gũi cũng sinh lòng cảm mến, đến nỗi để tránh sự tiếp đón quá nồng nhiệt, Xaviê phải trốn khỏi Ternate ban đêm, đến nỗi khi biết cha còn sống sau chín tháng bặt vô âm tín, cả pháo đài Malacca đã tổ chức cuộc rước kiệu tạ ơn.[6]
Vâng, không như Christophe Colomb chỉ phiêu lưu vì thú vui thám hiểm, không như Alexandre chỉ chiến đấu vì tham vọng thống trị, Xaviê không hề nghĩ đến mình mà chỉ sống vì Chúa mà cha muốn tôn vinh, vì người xung quanh mà cha muốn phục vụ, vì các dân tộc không quen biết mà cha muốn cứu giúp. Đường đường là đại sứ tông tòa (nonce apostolique) cho cả phương Đông rộng lớn, lại được vua Bồ Đào Nha gửi gấm đặc biệt nữa, thế mà trên tàu biển cha đã không ngồi ăn với các sĩ quan cao cấp, nhưng ngày đêm sống bên thủy thủ và săn sóc những người nghèo đau bệnh, giặt cả quần áo dơ của họ. Mà không phải với nét mặt nghiêm nghị nhưng vui tươi, như Nunès Barreto nhận xét:
-“Cha nhã nhặn dễ mến biết chừng nào! Cha luôn cười, nét mặt luôn vui tươi và điềm đạm. Cha tuy cười luôn, mà chẳng cười bao giờ, khi mà sự vui tươi của cha luôn có dáng dấp thiêng liêng… Quả là cha không cười, không bao giờ cười, vì cha luôn hướng nội, chứ không mở tràn ra (s’épancher) với thụ tạo.”[7]
Không những lôi cuốn được những kẻ sống quanh mình, mà còn bằng những lá thư, Xaviê đã làm dậy lên một luồng gió truyền giáo ở cách đó một năm đường biển: Âu Châu! Quả thế, những lá thư viết từ Ấn Độ hay Nhật Bản, trong đó cha kể truyện truyền giáo và kêu gọi tiếp viện, những lá thư rực lửa ấy của cha đã khiến cho cả triều đình Bồ Đào Nha phải say sưa đọc trước, rồi từ đó được gửi đến Rôma, được các nơi khác sao dịch, ấn loát và tung ra, khiến nhiều người, trong đó có cả những giáo sư Sorbonne đã bỏ hết để lên đường, gia nhập các đoàn quân truyền giáo. Trong số những tên tuổi lớn có Nadal, sau này sẽ thành cánh tay mặt của thánh Inhã, thay cho đứa con cưng Xaviê mà thánh tổ định gọi về làm trợ lý cho mình. Vâng, tham vọng truyền giáo của Xaviê vô cùng lớn, như Palmio nhận định khi có người muốn hãm bớt sự cuồng nhiệt của đám trẻ vì đọc cha mà bị coi là mơ mộng hão huyền:
-“Sao, đó là lòng can đảm anh đặt vô đám trẻ ấy để đưa họ vào cánh đồng, vũ trang chỉ bằng sự nhút nhát, sợ sệt, nghi ngờ, yếu hèn như thế sao? Anh nghĩ với hạng người thấp kém như vậy, Xaviê có thể mang chân lý vào Nhật Bản mà thu lượm được chiến lợi phẩm lớn như cha đã làm ư? Trái lại, những hòn đảo chi chít của biển rộng phương trời xa ấy xem ra còn quá hẹp đối với hạt giống Phúc âm Xaviê có sẵn trong kho của mình. Hãy đọc các thư cha gửi cho cụ Cử Inhã của chúng ta và cho các tu huynh ở Bồ Đào Nha thì rõ : tất cả là hy vọng, táo bạo, là lửa, là bão và sấm sét. Cái lòng hăng say muốn thiêu cháy thế giới ấy đúng là ký hiệu riêng của Thánh Thần khi từ trời đáp xuống trên các tông đồ…”[8]
*
Xaviê làm việc quá sức, không có giờ nghỉ trong ngày, không có ngày nghỉ trong tuần hay trong tháng: khi thì tranh luận hộ giáo, khi thì dậy giáo lý hay dậy đọc kinh, Có ngày cha làm phép rửa cho cả một làng, làm mỏi rời cả tay. Ban đêm tuy có thể nghỉ ngơi, nhưng cha ngủ rất ít, từ hai đến bốn giờ thôi, còn để thì giờ trao đổi với Chúa trong nguyện cầu: Chúa, đó là nguồn an ủi duy nhất cho cha sau cả ngày lao nhọc, sau biết bao khó khăn, nguy hiểm! Vâng, vì Chúa Xaviê có thể hy sinh hết, nên Chúa càng làm cho Xaviê say đắm thêm khi tâm sự với Ngài. Chúng ta hãy tiến vào nội tâm bí ẩn của Xaviê qua lời cha gián tiếp thổ lộ:
-“… Lắm khi tôi nghe một người kia nói [chắc đây là cha rồi!] khi sống giữa những Kytô hữu ấy :”Ôi lạy Chúa! Xin đừng cho con nhiều an ủi quá! Nhưng bởi vì Chúa ban niềm an ủi lớn cho con trong tình thương vô biên của Ngài, nên xin Chúa hãy mang con về trong vinh quang [thiên quốc] của Chúa đi : bởi thật khổ khi không được thấy mặt Chúa sau lúc Chúa đối xử thân mật đến thế với thụ tạo của Ngài!”[9]
Những lao nhọc và gian khổ quá mức khiến Xaviê già đi trước tuổi, nhưng niềm hưng phấn thiêng liêng lại tăng thêm sức chiến đấu cho cha, như lời cha thổ lộ sau chuyến du giáo Nhật Bản:
-“Tóc em đã bạc hết, nhưng xét về sức khỏe xác thể, em cảm thấy như dồi dào hơn bao giờ hết.”[10]
Quả thật, tuy là con người hành động, nhưng cha cũng cũng cực kỳ hướng nội với những huyền nghiệm vừa sâu, vừa gây nhiều phấn chấn để cha lao mình hăng say hơn nữa vào công cuộc chiến chinh. Do đó, để hiểu những hành động này, cần phải đi sâu vào nội tâm ấy, và đây là Linh đạo truyền giáo Phansinh Xaviê.
Có điều linh đạo của Xaviê, cũng như của các Giêsu-hữu khác, trong căn bản chính là linh đạo Inhã, một linh đạo tông đồ chính hiệu. Vả lại, chính Inhã Loyola đã tốn nhiều thời gian và công sức để chinh phục chàng Xaviê đầy tham vọng trần tục, rồi bằng tập Linh thao viết từ kinh nghiệm thiêng liêng của mình đã biến đổi hẳn con người đầy lửa ấy thành một chiến sỹ truyền giáo không mệt mỏi. Vâng, dấu ấn Inhã để lại rất sâu nơi tâm hồn Xaviê, khiến Xaviê luôn coi Inhã như người cha và người thầy rất đáng mến của mình, khiến anh lấy việc đọc đi đọc lại thư Inhã là giải trí không thể thiếu, còn chữ ký của Inhã thì anh cắt lấy, cho vào túi nhỏ luôn đeo trên cổ.
Chính vì quan hệ vô cùng sâu đậm giữa hai người như thế, nên dù vạn dặm cách xa nhau, hai bên thường suy nghĩ rất giống nhau, y như có thần giao cách cảm thiêng liêng vậy. Nếu Inhã muốn anh em dòng năng thư từ cho nhau để duy trì sự hiệp nhất khi mà do công việc họ phải phân tán quá mỏng, thì Xaviê cũng thúc đẩy anh em viết thật dài, thật chi tiết cho mình, còn mình thì hứa cũng làm như vậy. Mà quả thực, nhiều bức thư của Xaviê dài thoòng, có lẽ cả trăm trang viết tay. Thế rồi, trong Hiến pháp, Inhã muốn học viên phải coi việc học là quan trọng bậc nhất, khiến để đủ thì giờ học, họ chỉ cần dành một giờ mỗi ngày cho cầu nguyện thôi, còn để duy trì sự kết hợp với Chúa, ngài nhấn mạnh vào tháng Linh thao và việc xét mình hằng ngày. Dù trong đời không được đọc Hiến pháp, Xaviê cũng quy định y hệt như thế cho học viên thuộc quyền cha : một giờ cầu nguyện mỗi ngày, chú trọng vào việc xét mình hằng ngáy và nuôi dưỡng minh bằng tháng Linh thao! Lại những từ ngữ Inhã quen dùng cho cầu nguyện là “cảm nhận” và “nếm” cũng năng được gặp dưới ngòi bút của Xaviê như thế. Và nếu Inhã có thói quen ghi hết những kinh nghiệm thiêng liêng ấy, thì Xaviê cũng thường khuyên người dưới làm như vậy.[11]
Từ Linh đạo tông đồ Inhã
Linh đạo Dòng Tên là linh đạo Inhã (spiritualitas ignatiana), Dòng Tên hiểu như vậy, và mọi người cũng hiểu theo như vậy. Ấy chỉ vì linh đạo ấy đặt nền (a) trên tập Linh thao do Inhã trước tác từ chính kinh nghiệm thiêng liêng của mình, và (b) trên bộ Hiến pháp DT cũng do Inhã soạn dần qua trao đổi thân mật với Chúa.
Linh đạo ấy cũng là linh đạo tông đồ, bởi lẽ trước hết Inhã Loyola là con người hành động. Trong cuộc sống trước, anh có tham vọng tiến thân tại triều đình Tây Ban Nha và muốn làm những việc phi thường để phục vụ một bà chúa nào đó mà anh thầm thương mến. Sau này, được chấp nhận vào cuộc sống tối thân mật với Chúa, tưởng như anh sẽ đi sống ẩn để hưởng hạnh phúc trong cầu nguyện, thế nhưng anh lại bị thúc bách phải đi gặp loài người để nói về Chúa cho họ, để thay đổi thế giới và “làm vinh danh Chúa hơn nữa”. Thậm chí khi vì muốn sống với những kỷ niệm về Chúa, anh quyết đi Giêrusalem, nhưng rồi tại Giêrusalem anh lại định chinh phục lính Thổ Hồi giáo cho Đức Giêsu mà anh mến thương. Cứ xem trong thời gian theo ý bác sỹ phải về dưỡng bệnh đau bao tử ở quê hương (với khí hậu quen thuộc), anh cũng không thể ngồi yên, mà lao vào công việc dạy giáo lý và chiến đấu với những đồi phong bại tục đang hoành hành trên xứ sở. Sau đó tại Venise, trong khi chờ các bạn khác đến, anh cũng can thiệp vào công việc lập dòng của giám mục Carafa (sẽ trở thành giáo hoàng Phaolô IV), để rồi phãi lãnh nhận hậu quả sau này. Cuối cùng, về đến Rôma, gặp lúc mất mùa đói kém, cha phải vất vả nuôi ăn 9.000 người mỗi ngày, đồng thời vì thấy quá nhiều gái điếm trong thành phố, cha lại phải kiếm nhà gom dần họ lại để đổi đời cho họ…. Tất cả chỉ vì Inhã là con người hành động, lại là một hiệp sỹ nên gặp chuyện bất bình thì không thể ngồi yên.
Linh đạo Inhã là con đường do kinh nghiệm riêng cha khai phá trong Chúa. Cha đổi đời theo Chúa chỉ với mớ kiến thức giáo lý thô sơ của thời thơ ấu và với những hiểu biết sơ sài trong hai cuốn sách về cuộc đời Chúa và một số thánh, sách viết giống tiểu thuyết chứ không có tính chuyên khảo. Vâng, tất cả hành trang thiêng liêng của anh chàng khi ấy chỉ là tham vọng muốn ăn chay đánh tội vượt cả hai thánh Phansinh và Đaminh. Và cái thánh của anh còn ấu trĩ đến nỗi anh tưởng, đã là hiệp sỹ, dù hiệp sỹ Công giáo, anh phải đâm chết người đồng hành Hồi giáo chỉ vì anh này dám xúc phạm dến bà chúa mới của lòng anh là Đức Trinh nữ Maria!
Thế mà tại khu làng nhỏ Manresa, không người hướng dẫn thiêng liêng thật sự, anh đã leo được tới đỉnh Cácmen, với những huyền thị tuệ trí, như về Ba ngôi chẳng hạn. Vâng, dù có khi anh bối rối lương tâm đến muốn tự sát, mà cũng không ai giúp gì được. Quả thật, chỉ một mình Thiên Chúa đã hướng dẫn chàng trai còn khù khờ trên đường thiêng liêng này, như anh cảm nhận rất rõ, rằng :”Thiên Chúa đối xử với anh theo cách người thầy đối xử với đứa trẻ khi dạy dỗ nó”. Theo anh nghĩ, đó có thể là “do sự ngu muội, cứng đầu của anh”, có thể “vì anh chẳng có ai chỉ bảo cả”, hoặc giả cũng vì “Thiên Chúa muốn dùng anh để phục vụ Ngài”. Quả Inhã thấy rất rõ Thiên Chúa đối xử với anh như một người thầy, đến nỗi nếu hoài nghi điều ấy, thì đó là “xúc phạm đến Thiên Chúa”.[12]
Quả thật tại Manresa, Inhã đã sống liên miên với biết bao huyền thị (visions), về Thiên Chúa Ba Ngôi hay nhân tính Chúa Giêsu, về Đức Maria hay về tạo thế, về cả quỷ nữa. Rồi lại còn những mạc khải diệu kỳ trên bờ sông Cardoner, với sự hiểu biết thâm sâu mà dù cả một đời học hỏi không thể sánh tày. Thế mà chẳng ai đủ sức hướng dẫn anh, giúp anh biết phân biệt cái gì do Chúa, cái gì do Ác thần. Cuối cùng, anh chỉ còn biết dựa vào phán đoán của mình, với sự soi dẫn đặc biệt của Chúa. Nhờ đó mà anh phát minh ra các nguyên tắc phân định thần căn (discernement des esprits) danh tiếng trong Linh thao.
*
Hiến pháp Dòng Tên nói lên rõ nhất tính tông đồ của linh đạo Inhã, hiến pháp ấy cũng là một công trình thiêng liêng gần như Linh thao. Vì đây không đơn giản là một trước tác pháp lý, mà là kết quả của 16 năm cầu nguyện : Inhã đã mang từng ý tưởng ra dò hỏi Chúa, nhất là trong thánh lễ. Cứ lấy ngay khoản luật thanh bần dành cho các nhà thờ dòng mà xem thì đủ biết. Chỉ vẻn vẹn một câu hỏi ngắn : Các nhà thờ ấy được phép có lợi tức (revenus) hay không để tự duy trì? Vâng, chỉ một câu hỏi như thế mà Inhã phải bỏ ra cả 40 ngày để cầu nguyện, cầu khi chuẩn bị, khi dâng lễ, khi cám ơn, tất cả chiếm gần trọn buổi sáng, cùng với biết bao huyền thị và vượng cảm (consolations). Cân nhắc giữa những vượng cảm (consolations) và suy cảm (désolations) đi đôi với các ý nghĩ, Inhã phải luận ra đâu là đúng ý Chúa : “Có hay không có lợi tức”, xem phải chăng đây chỉ là lựa chọn giữa một bên là khôn ngoan trần thế và bên kia là phó thác trong tay Chúa, nhờ đó giữ trọn đức thanh bần, nó đi đôi với sự bấp bênh của ngày mai?
Vâng, cả Hiến pháp cũng nhắm những mục tiêu thiêng liêng y như Linh thao : Nếu Linh thao nhấn vào tinh thần, thì Hiến pháp đặt ra những khuôn thước để sống tinh thần ấy. Thế mà Hiến pháp lại toát ra rất rõ hướng đi tông đồ của Dòng Tên.
Hướng đi tông đồ ư? Điều ấy đối với các tu hội ngày nay chẳng có gì là đặc sắc cả, vì phần lớn các dòng lập sau thế kỷ XVI đều là dòng hoạt động. Thế nhưng vào thời Inhã, thì tu hành đồng nghĩa với sống chiêm niệm. Quả thế, sau ba thế kỷ bắt bớ, trong đó làm chứng đồng nghĩa với tử đạo[13], thì kể từ Hòa bình Constantin trở đi, không còn cơ hội chết thật vì đạo nữa, người ta đi tìm cái chết thiêng liêng : chết đi với đời bằng cuộc sống cầu nguyện và khổ hạnh, cách biệt hẳn với thế gian.
Mãi tới thế kỷ XIII mới xuất hiện những dòng bán chiêm niệm : Phansinh và Đaminh, họ dành ra một phần thời gian cho các hoạt động tông đồ. Dù sao khi ấy và mấy thế kỷ sau này, Giáo hội vẫn coi cầu nguyện là nền tảng của đời tu, và việc cầu nguyện chung là thần tụng (office divin) không thể thiếu cho bất cứ cộng đồng tu trì nào.
Có điều một tu sỹ đang hoạt động tông đồ dở dang, nhất là xa nhà dòng, đâu có thể mỗi lúc lại cắt ngang trở về để nguyện các giờ ba (9 giờ sáng), giờ chín (3 giờ chiều). Bởi thế, trong Hiến pháp, thánh Inhã bãi bỏ việc cầu nguyện chung, và đây là điều có thể làm dựng tóc gáy những người sống vào thời của ngài. Do đó, nếu Giáo chủ Phaolô III vì rất yêu quý Dòng Tên và tin vào tổ sư Inhã nên chấp nhận dễ khoản luật cách mạng nói trên, thì giáo chủ kế vị là Phaolô IV lại buộc Dòng trở về với tập tục cầu nguyện chung, và như thế cho đến hết triều đại Ngài.
Tuy bãi bỏ cầu nguyện chung, nhưng thánh tổ lại nhấn vào cầu nguyện riêng, kể cả hãm mình riêng, mà mỗi người tùy hoàn cảnh hay sức khỏe tự hoạch định lấy cho mình sau khi hỏi ý kiến linh hướng, và nếu cần, đặt mình dưới sự quyết định của bề trên (Hiến pháp, số 582). Ngay trong việc hãm mình này, cha cũng vì hành động tông đồ mà không cho phép làm phương hại đến sức khỏe.
Vì Giêsu-hữu phải hoạt động giữa đời, lắm khi một mình và ở chốn xa xôi nữa, nên Inhã nhấn vào một huần luyện dài lâu và cam go, sao cho mỗi tu sỹ thật sự trưởng thành về mặt thiêng liêng và nhân bản để có thể sống vững vàng tự mình được. Do đó, tu sinh phải trải qua những tháng linh thao, hầu nhiễm lấy cho mình thật sâu những tâm tình cao đẹp của Đấng Cứu thế, để rồi sau khi ra làm việc một thời gian, lại phải qua một năm nhà tập thứ ba để hoàn tất chương trình đào tạo. Trong cả kỳ tập trước và năm tập III này (cách nhau hằng chục năm), họ phải trải qua nhiều tháng tập nghiệm (expériments) : như một tháng hành hương ( phải đi bộ suốt, lại phải ăn mày mà sống và gặp đâu ngủ đấy), và một tháng săn sóc bệnh nhân trong các trại tế bần (hospices) vốn cũng là nhà thương dành cho người cô đơn cùng túng.
Chẳng những vững vàng về mặt thiêng liêng, Inhã còn muốn Giêsu-hữu học nhiều, nhất là về mặt giáo lý (doctrine), hầu đạt hiệu quả tông đồ cao nhất. Vâng, thể theo hướng nhắm của thánh tổ, dòng quy định rằng bao nhiêu có thể, mỗi người ít nhất phải có cử nhân triết học và thần học[14] trước khi đi vào chuyên môn.
Lại cũng vì nguyên tắc Tất cả cho tông vụ ấy, Dòng Tên không có tu phục riêng, mà mặc như giáo sỹ địa phương quen mặc, nhờ đó dễ hòa đồng với họ. Có lẽ do nguyên tắc thích nghi vì tông vụ này, cả trong ăn mặc lẫn nguyện cầu, mà dù bên Ấn Độ hay Trung Quốc, Dòng Tên dễ đi tiên phong trong việc Hội nhập văn hóa, vì thế hay bị hiểu lầm.
Vì tông vụ mà phải sống lắm khi rất phân tán, nên để giữ sự hiệp thông, thánh Inhã khuyến khích sự trao đổi thư từ và nhấn mạnh vào đức vâng lời. Không phải thứ vâng lời mù quáng, mà vâng lời có ý thức để ý hợp tâm đầu giữa trên dưới hai bên. Vâng, Inhã muốn một quản trị cha con, trong khi Xaviê đòi bề trên phải khiến cho người dưới cảm mến mà vâng phục.
Sự vâng lời vừa cần để sống theo ý Thiên Chúa, vừa có ích để hết thảy tập hợp xung quanh một người, nên nó cũng củng cố sự hiệp nhất của một cộng đồng đông đảo (HP. 659 và 621) và tăng thêm sức mạnh cho việc tông đồ chung. Nhưng đội hình Dòng Tên không đứng tách riêng, mà luôn ở giữa lòng Hội thánh, khi mà Giêsu-hữu không chỉ vâng lời các bề trên của mình, mà sự vâng lời ấy còn đi đến tận Giáo hoàng nữa. Nguyên tắc Inhã đề ra là Sentire cum Ecclesia, Cảm thông cùng Hội thánh. Mà Hội thánh trong thế kỷ XVI đang bị chao đảo bởi cuộc nổi dậy của Tin Lành. Trong tình huống ấy, Đức Thánh Cha chính là biểu tượng của sự đoàn kết trong con đường chính thống. Do đó với Inhã, cảm thông và hiệp nhất với Giáo hội cũng là tập hợp xung quanh vị đại diện Chúa Giêsu dưới trần gian. Chẳng rhế mà cha và nhóm đến Rôma để tìm ý Chúa qua sự sai phái của Giáo hoàng, sau khi không thể đi Giêrusalem được. Để rồi khi viết Hiến pháp, cha lại đặt Dòng chính thức dưới sự sai phái trực tiếp của vị dứng đầu Hội thánh bằng lời đoan nguyện (khấn) thứ tư. Xem ra cha cũng mô phỏng trật tự Giáo hội trong cấu trúc dòng của mình.
Những khi ở xa bề trên như trường hợp Xaviê, đương sự càng phải là người trưởng thành mọi mặt để có thể tự quyết định trước mặt Chúa, nhờ khả năng phân định thần căn nó là đặc điểm của linh đạo Inhã. Phải, lúc cầu nguyện chính là lúc Inhã trao đổi với Chúa về công việc của Dòng, còn Xaviê thì trao đổi với Chúa về công việc truyền giáo : Qua những vượng cảm và suy cảm liên quan đến các ý nghĩ, hai vị cố luận ra đâu là thánh ý Ngài.
*
Nếu Hiến pháp biểu hiện rất rõ một hướng tu tông đồ, thì nền tảng thiêng liêng của nó lại là cuốn Linh thao. Vâng, nếu Linh thao thích hợp cho cả tông đồ lẫn đan sỹ, thì xem ra nó thuận âm (consonant) hơn với tâm tình của những ai thiên về hành động. Vả chính tác giả của nó đã là con người hành động rồi, mà Linh thao lại được viết từ kinh nghiệm nội tâm của anh.
Inhã xuất thân là một chàng mã thượng, mà lý tưởng là tiến thân bằng lưỡi gươm. Anh lại rất dũng cảm nữa, và đây là sự dũng cảm “của người phương Bắc” theo ngôn ngữ Đức Khổng : dũng cảm trong chinh chiến. Tại thành Pampelune, sau khi 1000 lính thiện chiến duy nhất đã bỏ thành ra đi, mà quân địch lại quá mạnh với 12.000 bộ binh, 800 kỵ binh và 29 khẩu đại pháo, nhờ sự khích lệ của Inhã, số người còn lại vẫn quyết kháng cự. Thế nhưng cuộc chiến không cân sức ấy chỉ kéo dài được 6 giờ, cho tới lúc ông tướng bất đắc dĩ là Inhã ngã xuống: một viên đạn đại bác làm gãy chân anh. Dẫu sao, cử chỉ anh hùng của chàng trai đã khiến quân Pháp phải nể phục : họ săn sóc anh, rồi cho khiêng anh về tận lâu đài Loyola để dưỡng thương.
Tại đây, vì không có tiểu thuyết, anh đành giải khuây với hai cuốn sách : Cuộc đời Chúa Giêsu và Truyền kỳ mạn lục (Légende dorée, Flos sanctorum hay Truyện lạ các thánh). Chúa đã dùng mấy cuốn sách ấy để gợi lên trong anh những cảm nhận xem như là lạ đối với anh, những cảm nhận làm anh an vui thiêng liêng, không như bất cứ cảm nhận nào trước đó : sự bắt đầu cho những nhận xét có tính “phân định thần căn”, và từ ngữ “cảm nhận” (đi đôi với “nếm”) với hương vị riêng quen thuộc của linh đạo Inhã hẳn cũng bắt đầu từ đấy. Để rồi từ đấy tham vọng của anh đổi chiều hoàn toàn : anh muốn nên thánh, muốn ăn năn đền tội hơn cả mấy thánh anh đọc truyện. Gần một năm được Chúa đích thân dậy dỗ ở Manresa đã chỉnh lại tham vọng thiêng liêng của anh. Anh chỉ còn muốn hiến thân phụng sự một mình Chúa, làm hết những gì có thể “cho vinh danh Chúa hơn” (ad majorem Dei gloriam). Tiếng “phụng sự” và khẩu hiệu AMDG có một vang vọng đặc biệt trong từ vựng Inhã, và được hình tượng hóa rất rõ trong hai bài suy niệm then chốt của Linh thao : “Vương quyền” và “Hai sắc cờ”. Vâng, đây là chọn lựa chiến đấu dưới bòng cờ chữ Thập, với khí giới của Chúa Giêsu là sỉ nhục và thanh bần, với lòng quảng đại tối đa có thể, nó được biểu hiện qua hai bài suy niệm tiếp theo là “Ba loại người” và “Ba cấp khiêm hạ”.
Vâng, Linh thao không chuyên rèn luyện các đức tính như siêu thoát (détachement) và hãm mình như “Gương Chúa Giêsu” và các sách tu đức khác thời ấy. Linh thao tập trung hết vào con người Chúa Giêsu mà Inhã yêu mến và muốn phụng sự như một hiệp sỹ đối với đấng minh quân của mình. Vâng, Linh thao chỉ giúp dõi theo Chúa trong cuộc sống trần gian, trong các mầu nhiệm Nhập thể, Thánh giá và Phục sinh của Ngài, nhờ đó thấm lấy tâm tình Ngài, tinh thần Ngài, cũng như sẵn sàng chịu khổ bằng những khổ hình Ngài chịu, để cùng Ngài chiến đấu cho vinh quang Chúa Cha. Linh thao quả đúng là cuốn binh pháp của chiến tranh thiêng liêng. Nó phù hợp nhất cho những con người hành động mà tâm hồn lại quảng đại. Chính vì rực lửa phụng sự như thế, nên dù bị cuốn hút bởi sự ngọt ngào của huyền nghiệm trải qua liên miên tại Manresa, Inhã đã không đi tu ẩn mà lao mình vào các cuộc săn bắt linh hồn, dù gặp rất nhiều nguy cơ vào thời nhiễu nhương tôn giáo của thế kỷ XVI ấy.
Để chiến đấu vì Chúa, thì trong cụ thể cũng phải biết Chúa muốn gì ở mình, về nếp sống cũng như từng chọn lựa của mình. Linh thao chính là cuốn sách giúp chọn lựa lối sống và hành động, giúp ta đi vào trạng thái bất thiên (indifférence), chỉ muốn Ý Chúa, để rồi bằng những nguyên tắc Phân định thần căn (discernement des esprits), qua suy luận hay bằng cách cân nhắc giữa những vượng cảm và suy cảm, tìm ra đâu là đúng ý Chúa về mính.
Con người Inhã là con người của những chọn lựa dứt khoát và quảng đại. Một khi đã chọn Chúa, anh xoay liền 180o, không tiếc gì với Chúa hết, khiến Chúa Thánh Thần có thể vào cuộc trực tiếp và hoàn toàn, để chỉ trong một thời gian kỷ lục đưa anh tới đỉnh cao lành thánh và chuẩn bị anh cho một công trình lớn của Ngài.
Đến linh đạo truyền giáo Xaviê
Xaviê là một tiềm năng lớn, nên cũng là đồ đệ cưng nhất của Inhã. Vì cảm phục và mến yêu Inhã, mà anh coi như cha, Xaviê nhuần thấm sâu xa con đường thiêng liêng của thầy. Có điều mỗi người là một nhân cách đặc biệt, lại hoạt động ở những môi trường rất khác nhau : Inhã giữa thế giới Công giáo châu Âu thân quen, nên hoạt động mục vụ; còn Xaviê giữa thế giới ngoại dân phương Đông xa lạ về mọi mặt, nên hoạt động truyền giáo. Chính vì thế, linh đạo tông đồ mà Xaviê tiếp thu từ Inhã, cha phải biến chế cho phù hợp hơn với hoàn cảnh của mình.
Bởi lẽ cánh đồng truyền giáo quá rộng, mà thợ làm vườn nho lại quá ít, nên nếu Inhã quy định có đi đâu, gắng đi hai người để hỗ trợ cho nhau, thì theo Xaviê, nếu có hai người, mỗi người cần đi riêng, hầu hiệu quả nhân lên nhiều hơn. Cũng vì một mình phải lao vào các vùng và việc đầy bất trắc và nguy hiểm, nên nếu Inhã đòi mỗi Giêsu-hữu phải trải qua những tập nghiệm cam go, thì Xaviê lại van xin, rằng người được cử đến Á châu phải là người được thử nghiệm dài lâu hơn, khổ cực hơn, hầu có hể vượt thắng mọi ngại ngùng và sợ hãi.[15]
Thế rồi, vì truyền giáo là công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn, nên Xaviê nhấn rất mạnh vào lòng tin tưởng, phó thác trong khiêm nhường, cũng như tìm ơn Chúa và sự đỡ nâng của Ngài trong cầu nguyện.
*
Nổi bật nhất nơi Xaviê là ngọn lửa truyền giáo nó thiêu đốt tâm hồn cha từng giây phút, y như Phaolô xưa kia vậy:
-“ Tình yêu Chúa Kytô thúc bách tôi… Chúa chết vì mọi người, để ai sống không còn sống cho mình nữa, mà cho đấng đã chết và sống lại vì họ.” (2Cor.5.14-15)
Tình yêu mãnh liệt ấy đã thôi thúc Phaolô, rồi Xaviê, bất chấp nguy hiểm và gian lao để chiến đấu vì vương quốc Chúa:
-“Hỏi ai có thể tách chúng ta khỏi tình yêu Chúa Kytô? Phải chăng là cùng khổ, lo sợ, đói khát, cơ cực, gươm đao, nguy khốn? …, Vâng,…tôi chắc chắn rằng, dù sống hay chết, dù thiên thần hay mãnh quỷ, dù hiện tại hay tương lai, dù sức mạnh, lực lượng của trời cao hay vực thẳm…, không gì có thể tách ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa biểu hiện nơi Đức Giềsu Kytô Chúa chúng ta.” (Rom.8.35,38)
Xaviê cũng có những ngôn từ như thiêu như đốt như thế, và quả thực lắm bức thư của cha đã thiêu cháy tâm hồn giới trẻ châu Âu thời bấy giờ, như một trích đoạn sau đây từ lá thư gửi cho Inhã ở Rôma:
-“Tại những vùng đất này, có biết bao người không biết đến ánh sáng chân lý Phúc âm, chỉ vì không ai giảng dạy cho họ. Biết bao phen con muốn gào lên với các đại học bên ấy, nhất là đại học Paris, như thể con đang ở Sorbonne, vâng, con muốn lấy hết sức lực gào lên như một người điên vậy.
“Con sẽ hét lên với những người muốn học hỏi thật nhiều hơn là muốn dùng học vấn của mình để giúp đỡ những ai đang cần đến họ. Quả thật, chỉ do sự thờ ơ của họ mà biết bao linh hồn phải đọa đày vĩnh viễn, khi mà đáng lẽ những linh hồn ấy phải được bất tử và hạnh phúc bởi được Thiên Chúa tạo nên (vì mục đích này)…
“… Trong những vùng đất nói trên, có quá nhiều người trở về với đức tin Chúa Giêsu Kytô, đến nỗi lắm khi con làm phép Rửa đến mệt và mỏi nhừ tay, cả giọng nói cũng khàn đi khi xướng lên các điều phải tin, phải giữ, và dạy đi dạy lại các kinh đọc đã được dịch sang tiếng bản xứ…”[16]
Tuy thư này được đề gửi cho thánh tổ và bạn đồng tu ở Rôma, nhưng tới triều đình Bồ Đào Nha, nó liền bị giữ lại để họ thi nhau đọc, đến nỗi Rôma phải đòi. Kế đó người ta dịch, in và phân phát đi. Mà không phải chỉ một bức thư như thế với ảnh hưởng lớn như vậy. Nói chung, các bức thư của Xaviê đều có lửa của tâm hồn Xaviê, và lửa ấy lây lan rất nhanh, khiến một sách tiểu sử viết về cha mang tựa đề lạ lùng là : “Hãy đi và thiêu cháy thế giới”[17].
Nhà truyền giáo kh6ng thể là người ngồi văn phòng như cha sở được. Họ phải đến với người ta, chứ không chờ người ta đến với mình. Mà đây là đến với những người xa lạ, quen sống với những tin tưởng trong vùng và nghi kỵ trước các tôn giáo đến từ xa. Có khi đây còn là những người man rợ, tính khí không thuần, những lãnh đạo các tôn giáo địa phương không muốn mất thế đứng, những vua quan chỉ muốn dân tùng phục một mình mình chứ không muốn chia sẻ ảnh hưởng với bất cứ thế lực nào. Khi những khó khăn chồng chất lên như thế, hỏi mấy ai đủ gan để dấn thân và phiêu lưu đây? Nên cần phải có những tâm hồn gan lỳ, lại không tìm danh lợi hay quyền lực cho mình, mà chỉ tìm vinh quang cho Chúa thôi. Và đây phải là những lò lửa yêu Chúa, và vì yêu Chúa mong muốn Chúa được mọi người kính yêu. Ngoài ra, những người như thế còn phải trải qua một huấn luyện đặc biệt, nhửng tập nghiệm cam go và lâu dài như Xaviê đòi hỏi.
*
Nét nổi bật thứ hai nơi chiến sỹ truyền giáo Xaviê là tình cộng đồng. Thánh Inhã khuyến khích anh em Dòng phải hiệp nhất với nhau như một cơ thể, cũng như Phao lô quan niệm Hội thánh là một cơ thể như thế: cơ thể Chúa Kytô. Nhưng Hội thánh vì trải rộng năm châu, nên ý tưởng Hội thánh dễ thành thuần trừu tượng. Vậy, cũng như theo thánh Gioan: kẻ không yêu nổi anh em mà hắn thấy, không thể nào yêu Thiên Chúa mà hắn không thấy được, thì : Kẻ không yêu nổi cộng đồng nhỏ của hắn, thì cũng không thể yêu Hội thánh toàn cầu hắn không thể nào chạm tới!
Thế mà yêu Dòng Tên, thì có thể nói, ngoài thánh tổ Inhã ra, không thể ai sánh kịp Xaviê cả. Dĩ nhiên, và rất tự nhiên, anh yêu nhất các “đồng chí” đầu tiên, và trong nhóm bảy người này, anh yêu Inhã như đấng sinh thành thiêng liêng của mình. Xaviê vốn là người nhạy cảm, lại quá cô độc nơi đất khách quê người. Anh nhớ anh em, càng nhớ hơn nữa khi thấy trước không còn ngày tái ngộ. Và anh chỉ còn biết tìm an ủi trong những kỷ niệm về thời gian chung sống và đồng lao cộng khổ bên nhau:
-“Sự giải trí của em ở xứ sở này, là năng tưởng nhớ đến các anh, ôi các anh thân yêu của em! Em nhớ tưởng những tháng ngày xưa, những tháng ngày mà do lòng thương xót của Chúa, em được biết và sống với các anh…” (EX.20/14)
Nhớ thì phải mong gặp lại, nhưng vì không trông còn ngày gặp lại, nên Xaviê muốn được bù đắp phần nào bằng thư từ. Anh đòi các bạn viết cho mình dài vào, chi tiết vào, và về từng người một. Viết thật dài “để có thể đọc ba ngày”, “để có thể đọc tám ngày”, anh nài nỉ như thế. Và anh hứa cũng sẽ làm như vậy. Mà quả thực hễ có chuyến tàu đi là anh viết lia viết lịa, viết hết cho nhóm ở Rôma lại nhóm ở Bồ Đào Nha, v.v.. Mà viết dài nhất với thì giờ cho phép, có thư chiếm cả hăm mấy trang khi in ra, tức gần trăm trang viết tay. Còn khi nhận được thư thì anh đọc đi đọc lại mỗi khi kiếm được thì giờ. Riêng chữ ký của anh em trong thư thì anh cắt riêng ra, đặt bên tờ giấy khấn nguyện (khấn dòng) anh luôn đeo bên mình[18].
Nhớ đến thế, mà không trông gặp lại nữa, hẳn là Xaviê đau khổ lắm. Thế nhưng về lâu về dài, đi sâu vào Chúa và tìm được ở Chúa nhiều an ủi rồi, anh hiểu rằng chỉ Chúa là cần, và sự có mặt thân tình của Chúa đã đủ cho anh. Vâng, anh bằng lòng hy sinh việc gặp lại cha Inhã và anh em!
Thế nhưng về cuối đời, chẳng những cảm nhận sự có mặt thường hằng của Chúa, Xaviê còn cảm nhận luôn sự có mặt thường hằng của anh em, do đó sự gặp mặt thể xác không cần thiết nữa, như anh bộc lộ trong bức thư anh gửi cho bạn Simon Rodriguez năm 1552, chỉ mấy tháng trước khi anh qua đời:
-“Xin Thiên Chúa là Chúa chúng ta tập họp chúng ta lại trong vinh quang thiên quốc, vì em không rõ chúng ta còn gặp nhau trên cõi đời này hay không. Thế nhưng, anh Simon ơi, em đã ghi sâu hình ảnh anh trong lòng em rồi. Vì em nhìn thấy anh thường hằng trong tâm trí em, nên việc thấy anh trong thân xác, mà xưa em mong mỏi biết bao, nay không còn làm em bận tâm mấy nữa: đó bởi vì em luôn thấy anh hiện diện trong tâm hồn em.” (EX.102/2)
Trong tâm hồn nhạy cảm, nay đã thành nhạy cảm thuần thiêng liêng ấy, chẳng những Xaviê thấy sự có mặt khá cụ thể của dăm bảy anh em đầu tiên, mà mọi anh em trong dòng. Vâng, rất cụ thể, vì chẳng những đây là các anh em chung chung, nên khá trừu tượng, mà từng người riêng rẽ, rất mật thiết, như thấy rõ trong bức thư thật dài Xaviê gửi cho các anh em ở Goa năm 1549:
-“Thôi, anh kết thư vậy nhé, kết mà không thể ngừng nói lên tình yêu lớn lao anh dành cho từng người và hết thảy các em. Nếu trái tim những kẻ yêu thương nhau trong Chúa có thể nhìn thấy nhau ở cõi đời này, thì, hỡi các em thân mến, các em có thể nhìn thấy nhau thật rõ trong lòng anh đấy. Giả như nhìn vô trái tim anh mà các em không nhận ra mình trong đó, thì chỉ là vì, dầu anh rất quý trọng các em, các em khiêm tốn mà coi rẻ mình, nên không [dám] nhận ra mình trong đó đấy thôi, chứ không phải vì hình ảnh các em không sâu đậm trong linh hồn anh và trái tim anh đâu.” (EX.90/60).
Đọc những lá thư như vậy, người ta có cảm tưởng như đây là thư tình trai gái viết cho nhau, và tuy nói thật những cảm nghĩ của mình, họ nói theo nhiệt tình và nói văn vẻ, nên phóng đại theo tưởng tượng. Thế nhưng đây là thư của một vị thánh, nên không thể có hoa ngữ. Vì thế, chỉ có thể kết luận về một cảm nhận thật, nhưng một cảm nhận huyền nhiệm (mystique). Thánh Tiên sa Avila, về thứ huyền nghiệm cao nhất là Hôn nhân thiêng liêng, nói đến một hiện diện sâu xa, cụ thể và thường hằng của Chúa với hồn trong chính cuộc sống thường ngày của đương sự, cả trong lúc đương sự bận rộn. Với Xaviê, đây không chỉ là hiện diện cụ thể và thường hằng của Chúa thôi, mà của luôn cộng đồng anh em trong Chúa nữa. Vâng, đây là Huyền nghiệm cộng đồng (mystique communautaire), có một không hai, chắc thế!
Đây là cộng đồng của những bạn đường Chúa Giêsu, của Dòng được mang tên cực trọng Giêsu khi mà trong huyền thị La Storta[19], Chúa Cha tỏ ý muốn đặt thánh Inhã (và các bạn trong đó) “cùng với Đức Giêsu”. Cộng đồng thân yêu, căn cứ điểm và chỗ dựa cho Xaviê trên con đường chiến chinh ấy, luôn nằm trong Giáo hội, như sự cụ thể hóa của chính Giáo hội:
-“Trong khi chờ đợi, nhờ hạnh nghiệp (mérites) của Hội thánh Mẹ chúng ta, cái Hội thánh mà anh em là thành phần sống động, cái Hội thánh mà em đặt hết sự nương cậy vào, em tin Chúa Kytô sẽ nghe lời em và đoái thương sử dụng thứ công cụ vô ích là em cho việc gieo trồng niềm tin vào Ngài giữa các ngoại dân.” (15/15)
*
Điều cuối cùng phải nói về linh đạo truyền giáo của Xaviê là tinh thần thích nghi vì lợi ích tông đồ. Đọc truyện ngài với tâm thức con người thời nay, người ta không khỏi ngỡ ngàng khi thấy ngài nghĩ như thánh Augustin rằng : hễ ai không biết Chúa Kytô và chịu phép Rửa đều sa hỏa ngục hết. Thật ra, đó là quan điểm của mọi Kytô-hữu (Châu Âu) thời ấy. Vâng, vào thời ấy, không thể đòi người ta có thái độ Hội nhâp văn hóa và Đối thoại tôn giáo như sau Vatican II.
Thế nhưng dù vào thời ấy, vì lợi ích tông đồ, Thánh Inhã đã dám bỏ tu phục riêng, tu phục mà không dòng nào không coi trọng, bỏ luôn thần tụng đọc chung càng được coi như thành phần nền tảng của đời tu, đồng thời giảm nhẹ đời sống chung (để dòng có thể phân tán mỏng và đi rất xa) nó là dư âm của đan viện.
Xông pha truyền giáo giữa những vùng trời rộng lớn với biết bao thói tục khác lạ, Xaviê thấy càng phải thích nghi hơn nữa. Nếu Inhã muốn đi đâu đi hai người, thì Xaviê xin, nếu có được hai người thì hai người ấy sẽ đi riêng để nhân đôi kết quả. Và nếu về tu phục, Inhã để tùy theo phong tục, thì dù bản thân thích ăn mặc như kẻ nghèo nhất, Xaviê vẫn dùng vải lụa và đi cáng (như các người Nhật quý phái quen làm) để có thể được một lãnh chúa (daimyo) tiếp đón và cho phép truyền giáo. Lại cũng để các nhà sư Phật giáo khỏi coi khinh, Xaviê đã ăn nhạt, nghĩa là kiêng ăn thịt cá. Thế rồi tại trường học ở Goa, dành cho cả người Ấn lẫn người Âu, cha hạ thấp kỷ luật một phần để học sinh bản xứ có thể giữ. Vâng, con đường Xaviê khá đậm nét thích nghi, dù sự thích nghi ấy chưa được sống động hóa bởi cái linh hồn cần thiết của nó là sự tôn trọng các văn hóa, để thích nghi thành Hội nhập văn hóa. Vâng, cha coi nhẹ hình thức chỉ vì lợi ích các linh hồn thôi. Chắc hẳn hướng đi phóng khoáng là Thích nghi ấy đã mở đường cho những thích nghi bán hội nhập sau này của De Nobili bên Ấn, của Matthieu Ricci (vô được Bắc kinh 30 năm sau khi nhà tiên phong Xaviê qua đời) bên Trung Hoa. Và nếu những thích nghi ấy, ít là bên Trung quốc, không gặp quá nhiều trở lực, thì ắt hẳn bộ mặt Giáo hội tại giang sơn của “Ông Con Trời” cũng như ở Nhật và Việt nam đã đổi khác.
Kết luận
Xaviê đã qua đi, nhưng như Phaolô, cha đã để lại một tinh thần, một tấm gương, và phần nào : một con đường! Nếu nhân ngày kỷ niệm 500 năm Sinh nhật Xaviê, chúng ta muốn phát động một luồng gió Truyền giáo mới, thì cuộc đời và tinh thần ấy phải trở thành bài học cho hôm nay.
Thứ nhất, các chủng viện xưa nay quen đào tạo những người coi văn phòng, giúp Giữ đạo hơn là những nhà tiên phong phổ đạo. Những “cha sở” tương lai ấy không đủ lửa để đốt cháy thế giới đâu. Cần phải mở riêng những chủng viện truyền giáo, chọn đưa vào đó những người trẻ hăng say có chí phiêu lưu và dám dấn thân. Và những nhà truyền giáo tương lai này phải trải qua những tập nghiệm cam go, khắc nghiệt[20]. Để đào tạo được những người “thép đã tôi thế đấy”, cũng phải chọn những linh hướng và bề trên đặc biệt, những người có kinh nghiệm truyền giáo và mang sẵn lửa truyền giáo trong tim, để bằng lửa ấy, họ có thể thắp cháy tâm hồn đám trẻ được đặt vào tay họ.
[1] Ngày mồng 3/12 là ngày sinh trên Trời và lễ kính thánh Phansinh Xaviê, nhưng năm nay ngày ấy lại nhằm ngày chúa nhật, nên phải tránh.
[2] Xx. Truyện Người hành hương số 96 và Nhật ký thiêng liêng số 67. Tập trên là do Inhã kể lại (và một tu sỹ viết ra) do sự thôi thúc của dòng; còn tập sau là một đoạn nhật ký mà cha thư ký cứu được từ lò sưởi (thánh Inhã định thiêu hủy toàn bộ nhật ký thiêng liêng của ngài).
[19] Trong đoạnthư 20/14, Xaviê ám chỉ huyền thị La Storta khi coi Dòng được khai sinh qua mạc khải của Chúa cho một mình cha Inhã.
[20] Dòng Tên thời đầu đã xướng xuất và thực thi nhựng tập nghiệm kiểu ấy. Nhưng sau này, một vài tập nghiệm như ăn mày phải bỏ vì không còn phù hợp với thời đại nữa, và một hai tập nghiệm khác được giảm nhẹ khi mà phần đông làm những công việc không đòi hỏi nhiều can đảm và gian lao. Thế nhưng ai muốn truyền giáo trong các vùng đất khó xâm nhập, thì thiết nghĩ không thể không đưa họ trở về với những tập nghiệm khắc nghiệt, giống những gì mà Dòng Tên xưa phải trải qua..
https://dongten.net/2011/11/29/500-nam-sinh-nhat-phanxico-xavie-mot-linh-dao-truyen-giao/
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 29, 17-24
"Ngày đó mắt người mù sẽ được xem thấy".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: Không còn bao lâu nữa, Liban sẽ trở nên lùm cây, và lùm cây sẽ trở nên cánh rừng. Ngày đó, người điếc sẽ được nghe lời Sách Thánh, và từ bóng tối, mắt người mù sẽ được xem thấy. Những người hiền lành sẽ càng thêm vui mừng trong Chúa, và những kẻ nghèo khó sẽ nhảy mừng trong Ðấng Thánh của Israel. Vì chưng, người ỷ thế sẽ thất bại, kẻ khinh người sẽ bị hổ ngươi, người mưu toan gian ác sẽ bị tiêu diệt. Ðó là kẻ dùng lời nói để cáo gian người khác, kẻ ra cửa thành mà đánh lừa người xử kiện, kẻ lấy sự nhỏ nhoi mà hiếp đáp người công chính. Vì thế, Chúa, Ðấng cứu chuộc Abraham, phán cùng nhà Giacóp lời này: Từ đây Giacóp sẽ chẳng còn phải hổ ngươi và đỏ mặt; nhưng khi xem thấy con cháu mình là công trình của tay Ta, đang ca ngợi danh thánh Ta giữa nhà Giacóp, thì chúng sẽ ngợi khen Ðấng Thánh của Giacóp và tuyên xưng Thiên Chúa Israel. Và tâm trí lầm lạc sẽ được hiểu biết; người lẩm bẩm sẽ học biết lề luật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. - Ðáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. - Ðáp.
ALLELUIA: Is 45, 8
Alleluia, alleluia! - Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai; hỡi ngàn mây, hãy mưa Ðấng Công Chính, đất hãy mở ra và trổ sinh Ðấng Cứu Chuộc. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 27-31
"Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Ðavít, xin thương chúng tôi". Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy". Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm
Lời Chúa
nhập thể sáng soi
Thứ Sáu Tuần I Mùa Vọng hôm nay, Bài Phúc Âm về sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho hai người mù, như được Thánh ký Mathêu thuật lại nguyên văn như sau:
"Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi Con vua Ðavít, xin thương chúng tôi'. Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: 'Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?' Họ thưa: 'Lạy Thầy, có'. Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: 'Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy'. Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: 'Coi chừng, đừng cho ai biết'. Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy".
Trong trình thuật này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy được đức tin mạnh mẽ của hai người mù. Trước hết, được họ tỏ ra ở chỗ khi thấy "Chúa Giêsu đi ngang qua" thì "chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi Con vua Ðavít, xin thương chúng tôi'". Sau nữa, "khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa", có nghĩa là họ từ từ đến với Chúa một cách không lưỡng lự hay do dự mà là bạo dạn theo đuổi cho tới cùng, vì họ hoàn toàn tin tưởng mãnh liệt vào Đấng có thể chữa lành cho họ. Bởi thế, sau hết, khi được Chúa hỏi "'Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?' Họ thưa: 'Lạy Thầy, có'". Thế là họ được như ý: "Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: 'Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy'. Mắt họ liền mở ra".
Vâng, ngày mà hai người mù trong Bài Phúc Âm hôm nay được chữa lành, là thời đểm được Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã tiên báo là "ngày đó", ngày mà vị tiên tri này còn cho biết những gì sẽ xẩy ra nữa, đó là "người điếc sẽ được nghe lời Sách Thánh, và từ bóng tối, mắt người mù sẽ được xem thấy. Những người hiền lành sẽ càng thêm vui mừng trong Chúa, và những kẻ nghèo khó sẽ nhảy mừng trong Ðấng Thánh của Israel", thậm chí "tâm trí lầm lạc sẽ được hiểu biết; người lỗi lầm sẽ được chỉ dẫn" nữa.
Sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho 2 người mù tin vào Người trong bài Phúc Âm hôm nay cũng rất thích hợp với ý nghĩa của Mùa Vọng là thời điểm đợi trông Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Vì Người là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), "ánh sáng thật chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5). Đó là lý do ánh sáng đã trở thành một trong những đặc điểm chính yếu nhất của Mùa Giáng Sinh, một thứ ánh sáng có liên hệ với cả Ngôi Sao Lạ dẫn đường cho ba chiêm vương gia từ Đông Phương tới bái thờ vương nhi Do Thái Giêsu mới sinh (xem Mathêu 2:1-12).
Thế
nhưng, cho dù tự mình là "ánh
sáng thế
gian" (Gioan 8:12), một ánh sáng theo bản tính không thể nào không soi
chiếu (xem Mathêu 5:14-16), và "là
chân lý"
(Gioan 14:6), một chân lý không thể nào không giải phóng (xem Gioan 8:32),
và cho dù "tối
tăm không thể nào át được ánh sáng"
(Gioan 1:5), ánh sáng cũng chỉ xua tan bóng tối nơi những ai chấp nhận ánh
sáng mà thôi, như nơi hai người mù tin tưởng xin Chúa Giêsu chữa lành cho
cặp mắt mù lòa của họ trong Bài Phúc Âm hôm nay. Ngoài ra, những ai tự cho
mình là sáng mắt, không bị mùa lòa, sẽ trở thành mùa lòa: "Tôi đến
thế gian để kẻ mù được thấy và kẻ thấy bị mù"
(Gioan 9:39).
Bởi thế, trong Mùa Vọng đợi trông, như đêm mong chờ hừng đông, chúng ta mong chờ ánh sáng tỏ hiện, chẳng những trên thế giới càng ngày càng trở nên tối tăm mù mịt về luân lý và lãnh lẽo về đạo lý, mà còn ngay trong tâm hồn của mỗi người chúng ta, tâm hồn của thành phần Kitô hữu "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14) nhưng có những lúc đã trở thành tối tăm, qua những hành vi cử chỉ đầy gian dối, tội lỗi, bất chính, theo quyền lực của tối tăm, của sự chết, hơn là quyền lực của sự sống, xứng với danh phận là con cái sự sáng của mình.
Chớ gì tâm tình đầy xác tín của Bài Đáp Ca hôm nay luôn được vang vọng trong tâm hồn của Kitô hữu chúng ta bao giờ cũng kháo khát Chúa, cũng hướng về và trông mong chờ đợi Chúa:
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời
tôi, tôi sợ gì ai?
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa.
Ngày 04/12: Thánh Gioan Ðamascenô, linh mục Tiến Sĩ Hội Thánh
Thánh Gioan Đamascênô
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 6/5/2009 – Bài Giáo Lý 82 trong Loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh chị em thân mến:
Hôm nay tôi muốn nói về Thánh Gioan Đamascênô, một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử của khoa thần học Byzantine, một vị đại tiến sĩ trong lịch sử của Giáo Hội hoàn vũ. Trước hết ngài là chứng nhân cho một cuộc vượt qua từ nền văn hóa Hy Lạp và Syria, một nền văn hóa chung ở miền đông của Đế quốc Byzantine, sang nền văn hóa Hồi giáo, một nền văn hóa đã xâm chiếm qua những thắng lợi về quân sự một vùng lãnh thổ thường được coi là Trung Đông hay Cận Đông.
Thánh Gioan Đamascênô được sinh ra từ một gia đình Kitô giáo giầu có, khi còn đang trẻ đã đóng vai trò – có lẽ cũng như cha của ngài – làm đầu về kinh tế ở vương quốc ấy. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, không thỏa mãn với đời sống ở triều đình, ngài hoàn toàn đi đến chỗ sống đời đan tu, gia nhập đan viện San Sabas, gần Gialiêm. Năm đó khoảng năm 700. Không bao giờ xa lìa đan viện này, ngài đã hiến thân hết mình cho việc sống khổ hạnh và hoạt động văn chương, mà vẫn không chối bỏ một hoạt động mục vụ nào đó, như được chứng tỏ trong nhiều bài giảng của ngài. Lễ nhớ ngài được cử hành vào ngày 4/12. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã công bố ngài là một vị tiến sĩ của Giáo Hội hoàn vũ năm 1890.
Ở Đông phương, trước hết ngài được nhớ đến vì 3 bài ngài nói chống lại những ai nói xấu các thứ ảnh tượng thánh, những bài nói bị lên án sau khi ngài qua đời bởi Công Đồng Hieria (754) của nhóm bài ảnh tượng. Tuy nhiên, những bài nói này là nguyên tố chính cho việc tái phục hồi và phong thánh cho ngài bởi các vị nghị phụ chính thống qui tụ lại ở Công Đồng Chung Nicaea II (787), Công Đồng Chung Thứ Bảy. Trong các bản văn này người ta có thể tìm thấy những nỗ lực thần học quan trọng nhất để hợp thức hóa việc tôn kính các thứ ảnh tượng thánh, khi liên kết chúng với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa trong cung dạ của Trinh Nữ Maria.
Thánh Gioan Đamascênô cũng là một trong những người đầu tiên phân biệt giữa việc thờ phượng chung và riêng của Kitô hữu, cũng như giữa việc tôn thờ (latreia) và tôn kính (proskynesis): việc tôn thờ chỉ có thể giành cho Thiên Chúa là Đấng rất thần linh; còn việc tôn kính có thể sử dụng một hình ảnh để hướng bản thân về Đấng được tiêu biểu nơi ảnh tượng.
Hiển nhiên là một vị thánh không thể nào lại đồng hóa với chất thể làm nên ảnh tượng. Việc phân tích này mau chóng trở nên quan trọng trong việc đáp ứng theo đường lối Kitô giáo đối với những ai cho rằng cần phải tuân giữ chung và mãi mãi việc cấm chỉ trong Cựu Ước về vấn đề sử dụng các hình ảnh để tôn thờ. Đó cũng là một vấn đề bàn cãi quan trọng trong cả thế giới Hồi giáo nữa, một thế giới Hồi giáo chấp nhận truyền thống này của người Do Thái trong việc hoàn toàn loại bỏ những hình ảnh cho việc tôn thờ. Trái lại, Kitô hữu, trong bối cảnh ấy, đã cứu xét vấn đề này và đã thấy là chính đáng cho việc tôn kính ảnh tượng.
Thánh Đamascênô đã viết: “Vào những thời buổi khác, Thiên Chúa đã không bao giờ được tiêu biểu nơi một hình ảnh nào, vô hình và không có dung nhan. Thế nhưng vì giờ đây Thiên Chúa đã được nhìn thấy nơi xác thịt và đã sống giữa con người, tôi là tiêu biểu cho những gì hữu hình nơi Thiên Chúa. Tôi không tôn kính chất thể, nhưng là Vị Tạo Hóa của chất thể, Đấng đã biến mình thành chất thể vì tôi và đã muốn ở nơi chất thể và thi hành việc cứu độ tôi nhờ chất thể. Bởi thế tôi sẽ không bao giờ thôi tôn kính chất thể mà nhờ đó ơn cứu độ mới được ban cho tôi.
“Thế nhưng tôi tôn kính nó một cách tuyệt đối như tôi ton kính Thiên Chía! Làm thế nào Thiên Chúa lại có thể là những gì đã lãnh nhận việc hiện hữu từ vô hữu thể chứ?... Trái lại, tôi cũng tôn kính và trân trọng tất cả những gì là chất thể mang lại ơn cứu độ, vì nó hoàn toàn là những năng lực thánh hảo và ân sủng. Không phải là cây gỗ của thập giá đã được chúc phúc 3 lần hay sao?... Và mực cùng sách thánh Phúc Âm không phải là chất thể hay sao? Bàn thờ cứu độ là nơi phân phát cho chúng ta bánh sự sống không phải là chất thể hay sao?... Và trước hết mọi sự thịt và máu của Chúa của tôi không phải là chất thể hay sao? Phải chăng tính chất linh thánh của tất cả những sự ấy cần phải bị triệt tiêu? Hay cần phải theo chiều hướng của truyền thống Giáo Hội tôn kính các ảnh tượng về Chúa và ảnh tượng về các người bạn của Thiên Chúa là những ảnh tượng được thánh hóa bởi tên chúng có, và vì thế nhờ ơn Thánh Linh chúng trở thành biểu hiện. Bởi thế, đừng vì chất thể mà xúc phạm: nó không đáng khinh vì chẳng có gì Thiên Chúa làm mà lại đáng khinh hết” (Contra imaginum calumniators, I, 16, ed. Kotter, pp. 89-90).
Chúng ta thấy rằng, vì biến cố Nhập Thể, chất thể đã trở nên như được thần linh hóa, nó được thấy như là nơi cư ngụ của Thiên Chúa. Đây là một nhãn quan mới về thế giới và về các thực tại thể chất. Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và nhục thể đã thực sự trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa, với vinh quang được chiếu tỏa nơi dung nhan con người của Chúa Kitô. Bởi thế, những lời mời gọi của vị tiến sĩ Đông phương này, thậm chí cho đến nay, vẫn còn hết sức hiện đại, trong việc coi trọng giá trị chất thể nhận được nơi mầu nhiệm Nhập Thể, để có thể nhờ đức tin trở thành một dấu hiệu và bí tích có tác dụng cho cuộc gặp gỡ của con người với Thiên Chúa.
Thế nên, Thánh Gioan Đamascênô là một chứng nhân đặc biệt của việc tôn kính ảnh tượng, một việc tôn kính trở thành một trong những khía cạnh đặc biệt của khoa thần học và tu đức học Đông phương cho tới ngày nay. Tuy nhiên, nó là một hình thức thờ phượng chỉ thuộc về đức tin Kitô giáo, thuộc về niềm tin tưởng vào vị Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và trở thành hữu hình. Giáo huấn này của Thánh Gioan Đamascênô bởi thế đã được đưa vào truyền thống của Giáo Hội hoàn vũ, một truyền thống chất chứa tín lý về các bí tích coi các yếu tố thể chất từ thiên nhiên có thể nhờ ân sủng biến đổi bởi việc kêu cầu (epiclesis) của Thánh Linh, kèm theo việc tuyên xưng đức tin chân thực.
Liên kết với những ý tưởng nồng cốt này, Thánh Gioan Đamascênô cũng đặt việc tôn kính hài tích các thánh trên căn bản của niềm xác tín là các Kitô hữu thánh hảo, vì được tham phần vào cuộc phục sinh của Chúa Kitô, không thể được thuần túy coi là “kẻ chết”. Chẳng hạn, khi liệt kê những hài tích và hình ảnh của những ai đáng tôn kính, Thánh Gioan đã đề cập trong bài nói thứ ba của ngài để bênh vực các hình ảnh là: “Trước tất cả những vị chúng ta tôn kính được Chúa nghỉ ngơi giữa họ, Đấng thánh duy nhất ngự giữa các thánh nhân (cf. Is 57:15), chẳng hạn như Thiên Chúa Thánh Mẫu bà tất cả các thánh nhân. Đó là những vị đã hết sức nên giống Thiên Chúa theo ý muốn của mình và nhờ được Chúa ngự trị và trợ giúp thực sự được gọi là các vị thần linh (cf. Ps 82:6), không phải theo bản tính, mà là nhờ trợ thuộc, như thanh sắt nung đỏ được gọi là lửa không phải tự bản chất mà là nhờ phụ trợ và và được tham dự vào lửa. Đúng như lời phán: ‘Các ngươi cần phải nên thánh vì Ta là thánh’ (Lev 19:2)” (III, 33, col. 1352A).
Sau một chuỗi những đối chiếu về kiểu mẫu ấy, Thánh Đamascênô có thể nhờ đó thản nhiên suy diễn rằng: “Thiên Chúa, Đấng thiện hảo và vượt lên trên tất cả mọi thiện hảo, không cảm thấy hài lòng với việc chiêm ngưỡng bản thân mình, nhưng muốn có những hữu thể nhờ ơn Ngài có thể tham phần vào sự thiện hảo của Ngài: Vì thế, Ngài đã tạo dựng nên mọi sự từ hư không, hữu hình và vô hình, bao gồm cả con người, một thực tại vừa hữu hình vừa vô hình. Và Ngài đã dựng nên họ với chủ ý làm cho họ trở thành một hữu thể có thể nghĩ tưởng (ennoema ergon) được phong phú hóa bởi lời (logo[i] sympleroumenon) và hướng về thần trí (pneumatic teleioumenon)” (II, 2, PG 94, col. 865A).
Và sau đó để làm sáng tỏ ý tưởng này, ngài đã nói thêm rằng: “Cần để cho mình cảm thấy bàng hoàng (thaumazein) trước tất cả những công việc của sự quan phòng (tes pronoias erga), ca ngợi tất cả những việc ấy và chấp nhận tất cả các việc ấy, khắc phục khuynh hướng muốn vạch ra nơi chúng những khía cạnh mà đối với nhiều người dường như là bất công hay trái đạo lý (adika), ngược lại, công nhận rằng dự án (pronoia) của Thiên Chúa là những gì vượt lên trên khả năng nhận biết và hiểu biết (agnoston kai akatalepton) của con người, trong khi đó, chỉ có một mình Ngài mới là Đấng biết được các ý nghĩ của chúng ta, các hành động của chúng ta và thậm chí tương lai của chúng ta” (II, 29, PG 94, col. 964C).
Triết gia Plato cũng đã nói là tất cả mọi triết lý đều bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng: Đức tin của chúng ta cũng được bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng trước thiên nhiên tạo vật, trước vẻ đẹp của Thiên Chúa, Đấng trở nên hữu hình.
Tính chất lạc quan về việc chiêm ngưỡng về thiên nhiên này (physikè theoria), của cái nhìn nơi thiên nhiên tạo vật hữu hình sự thiện, sự mỹ và sự chân, cái lạc quan của Kitô giáo này không phải là một thứ lạc quan non dại: Nó để ý tới vết thương nhức nhối nơi bản tính con người bởi quyền tự do chọn lựa được Thiên Chúa muốn và bị sử dụng bất xứng bởi con người, với tất cả mọi hậu quả của tình trạng bất hòa tràn lan xuất phát từ nó. Từ đó mới hiện lên một nhu cầu, rõ ràng được nhận định bởi khoa thần học của Thánh Đamascênô, là thiên nhiên tạo vật là những gì phản ảnh sự thiện hảo và vẻ đẹp của Thiên Chúa đã bị tổn thương bởi tội lỗi của chúng ta “sẽ được củng cố và canh tân” bởi việc hạ giáng của Con Thiên Chúa nơi nhục thể, sau nhiều cách và nhiều lần chính Thiên Chúa đã cố gắng chứng tỏ cho thấy rằng Ngài đã tạo dựng nên con người để họ chẳng những ‘hiện hữu’ mà còn ‘hiện hữu tốt đẹp’ nữa” (cf. La fede ortodossa, II, 1, PG 94, col. 981).
Bằng một lời than tha thiết, Thánh Gioan đã giải thích là “Thiên nhiên tạo vật cần phải được kiên cường và canh tân, và đường lối sống đức hạnh sẽ được thể hiện và được cụ thể chỉ dạy (didachthenai aretes hodòn), một đường lốio loại trừ đi tình trạng băng hoại và dẫn đến sự sống trường sinh… Như thế đã xuất hiện ở chân trời lịch sử một đại dương yêu thương của Thiên Chúa đối với con người (philanthropies pelagos)…”
Đó là một diễn tả tuyệt vời. Một đàng, chúng ta thấy vẻ đẹp của thiên nhiên tạo vật, đàng khác, tình trạng hủy hoại gây ra bởi lầm lỗi con người. Thế nhưng, chúng ta thấy nơi Con Thiên Chúa, Đấng hạ giáng để canh tân thiên nhiên, cả một biển cả yêu thương của Thiên Chúa giành cho con người. Thánh Gioan Đamascênô tiếp tục: “Chính Người, Đấng Hóa Công và là Chúa, đã chiến đấu cho tạo vật của mình, bằng việc truyền đạt giáo huấn của mình cho họ qua gương của Người… Nhờ đó, Con Thiên Chúa, trong khi vẫn mang thân phận Thiên Chúa, đã từ trời hạ giáng và hạ mình… xuống với thành phần tôi tớ của mình… để thực hiện điều mới mẻ nhất này, điều duy nhất thực sự mới dưới ánh mặt trời, một điều mà qua đó Người đã thực sự tỏ ra quyền năng vô cùng của Thiên Chúa ra” (III, 1, PG 94, col. 981C-984B)
Chúng ta có thể mường tượng được niềm an ủi và vui mừng tràn đầy tâm can của thành phần tín hữu nơi những lời đầy hình ảnh lôi cuốn này. Cả chúng ta hôm nay nghe thấy những lời ấy, chia sẻ cùng những cảm thức của Kitô hữu thời bấy giờ: Thiên Chúa muốn nghỉ ngơi nơi chúng ta, Ngài muốn canh tân lại thiên nhiên tạo vật cũng nhờ ở việc hoán cải của chúng ta, Ngài muốn làm cho chúng ta được thông phần vào thần tính của Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta cảm thấy những lời ấy là những gì quan trọng thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/5/2009
Thánh Gioan Damasceno, Linh mục, Tiến Sĩ Hội Thánh
Gioan chào đời vào lúc thành phố Damas sinh quán của Ngài, đang dưới quyền của người Ả Rập. Cha Ngài là Sergiô được vị Calife (người kế vị của Mahomet) mến chuộng. Đến nỗi dầu là người Kito hữu, ông cũng được đặt làm kẻ thừa hành. Ông quan tâm bảo vệ các tín hữu bị áp bức, hy sinh tiền bạc để chuộc họ. Ngày kia, giữa đám người bất hạnh bị điệu ra nơi công cộng, ông thấy các tử tội qùi xuống dưới chân một người trong nhóm họ xin cầu nguyện... Ông biết được rằng người được khẩn nài đó tên là Cosma, một tu sĩ Italia rất thông thái. Sergiô liền chạy tới vị Calife, xin được lưu giữ Cosma làm thầy dạy cho con mình là Gioan.
Cosma trở thành bạn của Sergiô, đồng thời là thày dạy của Gioan và của một đứa trẻ Giêrusalem khác mà Sergiô nhận nuôi. Khi kết thúc chu kỳ dậy dỗ, Cosma xin rút lui vào một tu viện. Gioan đã nên lừng danh nhờ trí khôn ngoan và sự hiểu biết của mình và được gởi về triều đình của vị vua Calife. Khi cha Ngài qua đời, hoàng tử người Ả Rập đặt Ngài đứng đầu hội đồng cố vấn và làm thừa tướng vùng Damas. Thế là định mệnh đổi thay của một tu sĩ được cứu mạng, đã khiến cho những hiểu biết của Hy lạp và Roma được đưa vào triều đình của các vị Califes.
Đế quốc Đông phương lúc ấy do Lêo, người Isauria cai quản. Ông là một con người bách hại các Kitô hữu. Gioan có thế giá nơi vị Calife không sợ hãi gì mà lại còn viết thư thúc đẩy các Kitô hữu can đảm trong đức tin. Hoàng đế biết điều đó, liền giận dữ. Không làm gì được, ông đã dùng đến một mưu mô khả ố. Ông cho người giả mạo chữ của Gioan để viết một bức thư bội phản, trong đó, người được vị Calife bảo vệ, tính trao nộp Damas cho vua Byzance. Rồi Leo, người Isauria, báo cho vị Calife biết có một kẻ thừa hành bội phản. Và câu chuyện thật kỳ diệu đến nỗi các văn phẩm thời đó còn kể lại. Vị Calife đòi Gioan đến. Dầu biện minh cho sự vô tội của mình, Gioan vẫn bị chặt tay phải.
Gioan mang cánh tay bị chặt về nhà và khấn nài Đức Trinh Nữ hoàn lại cánh tay mà từ nay Ngài sẽ chỉ dùng để viết các thánh thi ca tụng Con Mẹ. Gioan đi ngủ và mơ thấy Đức Trinh Nữ chữa lành cho mình. Thức dậy, cánh tay đã được nối liền và chỉ còn để lại một đường máu đỏ. Trước phép lạ này, vị Calife không còn nghi ngờ gì về sự vô tội của Gioan nữa và đã tái lập Ngài làm nhà cầm quyền. Nhưng đối với Gioan Damasceno, thời danh giá đã qua rồi. Ngài muốn hiến thân cho Thiên Chúa.
Ngài bỏ mọi sự, phân phát của cải cho người nghèo lên đường tìm một cuộc đời trầm lặng trong tu viện thánh Sabas tại sa mạc Giuđa, nơi thày mình đang sống và người em nuôi cũng đã tới đó trước. và ngài đã sống ở đó cho đến mãn đời.
Nhưng không ai dám huấn luyện quan thừa tướng bãi nhiệm theo đường thánh thiện cả. Cuối cùng bề trên trao Ngài cho một tu sĩ già khó tính, thù ghét với tất cả những gì là êm ái đối với Gioan như thơ phú và âm nhạc.
Nếu không tự ý vâng phục như một bằng chứng của tình yêu, thì cuộc sống Ngài sẽ cay đắng đến thế nào. Ngài đã bị tước bỏ mọi niềm vui cao đẹp, cả đến việc giữ lời hứa là viết các thánh thi. Ông thày còn sai người đã cai trị Damas đi bán giỏ sọt với giá cắt cổ, khiến các lời chế nhạo đổ xuống như mưa. Gioan vẫn âm thầm vâng phục và chịu đựng, sau khi đã thử thách quá lâu người tập sinh như thế, vị tu sĩ già để cho Người được tự do học hỏi và tìm hứng.
Sau khi thấy thánh nhân thực lòng yêu mến Chúa và tuân phục hoàn toàn, Bề trên cho ngài học thần học Thánh Kinh, và phong chức Linh mục cho ngài. Lúc ấy, tự đáy lòng Gioan đã khơi dậy những khúc thánh thi đáng khâm phục, cùng với sự cộng tác của người em nuôi, cho tới khi ông ta được đặt làm giám mục Palestina. Từ đó, ngài dùng hết thời giờ, và sự hiểu biết để viết sách và sáng tác thánh thi, ca ngợi Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, như lời ngài đã hứa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là cuốn “Nguồn gốc sự hiểu biết”.
Ngài đã chuyên tâm nghiên cứu thần học và giảng thuyết. Những suy tư của ngài đã tạo được một ảnh hưởng lớn tại Tây Phương cũng như Ðông Phương. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của ngài là ba tập Minh Giáo (726-730) bênh vực việc tôn kính ảnh tượng, chống lại những ngăn cấm của hoàng đế Léon Isaurien và Constantin V. Đúng thế, một việc thánh nhân làm đặc biệt lúc đó là bênh vực việc sùng kính ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh. Ngài tranh luận hùng hồn với những kẻ chủ trương đập phá các ảnh tượng. Và mặc dầu bị nhiều người đe dọa, trong số đó có cả hoàng đế Hy-lạp, ngài cũng không sợ và vẫn giữ vững lập trường.
Ngoài ra, chúng ta còn lưu giữ được những bài giảng của ngài về Ðức Mẹ và ngài xứng đáng với danh hiệu "Tiến sĩ thần học về Ðức Maria". Ngài chủ trương: Là Mẹ Thiên Chúa hằng sống, Ðức Maria cũng phải được đưa về trời... Hơn nữa, ngài còn là một thi sĩ, và những sáng tác của ngài thường được dùng trong phụng vụ Ðông Phương. Tư tưởng của ngài là những chất liệu giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa yêu thương loài người.
Gioan Damasceno chỉ rời tu viện để đi giảng tại các thánh đường. Lúc về già, Ngài sửa chữa các bản văn, đôi khi tự trách là bút pháp quá khởi sắc, Ngài nghiên cứu học hỏi không ngừng và đã trình bày thần học một cách liên tục đáng kể.
Một bí nhiệm bao quanh những năm cuối đời thánh nhân. Có người tin rằng: Ngài đã qua đời trong thinh lặng tại tu viện, người khác lại nghĩ rằng, Ngài đã rảo qua các tỉnh Đông phương để nâng đỡ các tín hữu đang bị nhóm phá ảnh tượng bách hại, rồi chết vì đạo.
Thánh nhân qua đời năm 880, hưởng thọ 104 tuổi. Là triết gia, thần học gia, nhà hùng biện, thi sĩ. Và năm 1890, Đức Giáo Hoàng Lê-ô thứ 13 đã tôn phong ngài lên hàng Tiến sĩ Hội thánh..
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 30, 19-21. 23-26
"Người động lòng thương ngươi, lắng nghe lời ngươi kêu xin".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa là Thiên Chúa, Ðấng Thánh của Israel phán: Dân Sion sẽ được ở Giêrusalem. Ngươi sẽ chẳng còn than van khóc lóc; Chúa động lòng thương ngươi, và khi vừa nghe tiếng ngươi kêu, Người liền đáp lại lời ngươi. Chúa sẽ cho ngươi chút bánh đau thương, ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ ngươi sẽ không lìa bỏ ngươi, mắt ngươi sẽ trông nhìn Ðấng giáo huấn ngươi, và tai ngươi sẽ nghe tiếng Ðấng từ sau lưng bảo rằng: "Ðây là đường, hãy bước đi theo đó, đừng rẽ bên mặt, đừng quẹo bên trái". Sẽ ban mưa xuống cho hạt giống của ngươi, bất cứ trên đất nào ngươi đã gieo vãi. Bánh thổ sản sẽ rất dồi dào và thơm ngon. Ngày ấy, chiên được chăn thả trên lãnh địa rộng lớn của ngươi. Bò lừa cày ruộng ngươi được ăn rơm có muối, đã được rê sạch. Trong ngày tru diệt muôn người, khi thành quách đổ nhào, sẽ có giòng suối chảy trên đồi cao núi thẳm. Ngày Chúa băng bó thương tích của dân Người, và chữa lành da bầm thịt giập; mặt trăng sẽ sáng chói như mặt trời, mặt trời sẽ bảy lần chói sáng hơn, như ánh sáng bảy ngày.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 146, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Phúc cho tất cả những ai mong đợi Chúa (Is 30, 18).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán. - Ðáp.
2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một. - Ðáp.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất. - Ðáp.
Alleluia: Is 55, 6
Alleluia, alleluia! - Hãy tìm kiếm Chúa khi còn gặp được Người; hãy kêu xin Người lúc Người còn gần các ngươi. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 35 - 10, 1. 6-8
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Ðó là lời Chúa.
nhập
thể dẫn dắt
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy cuối Tuần I Mùa Vọng hôm nay cũng thế, như các bài Phúc Âm khác trong tuần, từ đầu tuần đến nay, đang ở vào tuần đầu tiên của Mùa Vọng mà nội dung lại về những gì ở đâu đâu, chẳng hạn như bài Phúc Âm hôm nay về sứ vụ truyền giáo của cả Chúa Giêsu lẫn các môn đệ của Người.
Thật vậy, Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay cho biết về cả sứ vụ truyền giáo của Chúa Giêsu lẫn mối quan tâm truyền giáo của Người như sau:
"Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các
hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật
nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất
tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ
rằng: 'Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai
thợ đi gặt lúa'".
Thánh ký Mathêu cũng thuật lại sứ vụ truyền giáo của các tông đồ cần phải thực hiện theo lệnh sai đi của Chúa Giêsu như thế này:
"Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: 'Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không'".
Một yếu tố tối hậu quyết liệt bất khả thiếu trong tất cả mọi việc Chúa Kitô làm, cũng là việc của Thiên Chúa, Đấng sai Người làm, đó là chính tấm lòng "thương xót" của Người, một tấm lòng "thương xót" mà nếu thiếu vắng sẽ không bao giờ xẩy ra những chuyện được Phúc Âm thuật lại, như việc hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn lũ dân chúng trong Bài Phúc Âm Thứ Tư vừa rồi: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn". (Mathêu 15:32), hay để sai các môn đệ của Người đi truyền giáo như trong bài Phúc Âm hôm nay: "Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn".
Thậm chí phải khẳng định rằng chính việc hóa thân làm người của "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) cũng thế, sẽ không bao giờ xẩy ra nếu Thiên Chúa không phải là "Cha trên trời là Đấng thương xót" (Luca 6:36), đến độ chính Con của Ngài trong thân phận làm người đã trở thành hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa, hay nói đúng hơn là chính Lòng Thương Xót Chúa muốn tỏ ra cho loài người.
Nếu "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) thì tình yêu Ngài tỏ ra phải là một tình yêu vô cùng "trọn lành" (Mathêu 5:48), không phải chỉ ở chỗ yêu một cách nhưng không, tự hạ ngang hàng với người yêu trong mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh, và hiến mạng cho người mình yêu (xem Gioan 15:13) trong mầu nhiệm khổ nạn và tử giá, mà còn "yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1) nơi việc Ngài tìm kiếm từng con chiên lạc của Ngài, cũng như nơi việc vui vẻ (chứ không gượng ép hay đành phải) tha thứ tất cả mọi tội lỗi cho con người, dù tội của họ có nhiều đến đâu chăng nữa hay có nặng đến mấy chăng nữa, miễn là tội nhân tỏ ra nhận biết Ngài và tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa của Ngài.
Như thế, có thể nói nếu Lòng Thương Xót Chúa chính là tột đỉnh của tình yêu Thiên Chúa, hay là chính chân dung của Vị "Thiên Chúa là tình yêu", thì thiếu vắng Lòng Thương Xót thì Thiên Chúa không còn "là tình yêu" nữa, không còn "trọn lành" nữa, mà chỉ là một vị thần thuần công thẳng, hay chỉ là một ác thần, không gì bất toàn có thể tồn tại trước mắt thuần chính trực chỉ biết đúng sai phải trái của vị thần này.
Thật vậy, Lòng Thương Xót Chúa chẳng những là ưu phẩm tối cao của Thiên Chúa, mà còn là chính Ơn Cứu Độ của loài người hèn yếu khốn nạn tội lỗi và cho loài người mà chính vì thế mới càng đáng thương trước nhan vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, chẳng khác gì "như những con chiên không có người chăn tất tưởi bơ vơ". Bởi thế, cho dù con người, qua hai nguyên tổ của mình, sau khi sa ngã phạm tội, đã trở nên mù tối đến độ không hề xin Thiên Chúa thứ tha, Ngài vẫn tự động hứa cứu độ họ và toàn thể nhân loại là giòng dõi của họ (xem Khởi Nguyên 3:15).
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Isaia, chính Vị "Thiên Chúa là tình yêu" đã bày tỏ Lòng Thương Xót của Ngài với dân ưu tuyển của Ngài trong cảnh khốn khổ của họ như sau:
"Ðây Chúa là Thiên Chúa, Ðấng Thánh của Israel phán: Dân Sion sẽ được ở
Giêrusalem. Ngươi sẽ chẳng còn than van khóc lóc; Chúa động lòng thương
ngươi, và khi vừa nghe tiếng ngươi kêu, Người liền đáp lại lời ngươi. Chúa
sẽ cho ngươi chút bánh đau thương, ít nước khốn cùng. Nhưng Ðấng dạy dỗ
ngươi sẽ không lìa bỏ ngươi, mắt ngươi sẽ trông nhìn Ðấng giáo huấn ngươi,
và tai ngươi sẽ nghe tiếng Ðấng từ sau lưng bảo rằng: 'Ðây là đường, hãy
bước đi theo đó, đừng rẽ bên mặt, đừng quẹo bên trái'".
Trong câu trên đây, chúng ta thấy Thiên Chúa dù có thương yêu dân của Ngài mấy đi nữa, Ngài cũng không hề nuông chiều họ, trái lại, tình thương của Ngài phải làm sao có thể cải hóa họ cho họ xứng với bản tính trọn lành "là tình yêu" của Ngài.
Bởi thế, như Bài Đọc 1 cho thấy Ngài đã nuôi dưỡng họ bằng thứ lương thực đắng đót có tính cách vượt qua (xem Xuất Hành 12:8): "Chúa sẽ cho ngươi chút bánh đau thương, ít nước khốn cùng", để đánh động họ nghĩ lại, chứ không phải là bỏ rơi hay đầy đọa họ: "Nhưng Ðấng dạy dỗ ngươi sẽ không lìa bỏ ngươi, mắt ngươi sẽ trông nhìn Ðấng giáo huấn ngươi, và tai ngươi sẽ nghe tiếng Ðấng từ sau lưng", nhờ đó họ có thể hướng về Ngài và chạy đến kêu cầu Ngài để Ngài được dịp tỏ tình thương của Ngài cho họ: "Chúa động lòng thương ngươi, và khi vừa nghe tiếng ngươi kêu, Người liền đáp lại lời ngươi".
Sách Tiên Tri Isaia vẫn tiếp tục sử dụng từ ngữ "ngày ấy" để ám chỉ "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), khi "Thiên Chúa sai Con của Ngài được hạ sinh bởi một người nữ" (Galata 4:4), thời điểm nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" như "Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình vì chiên" (xem Gioan 10:11) mà "chiên được chăn thả trên lãnh địa rộng lớn của ngươi. Bò lừa cày ruộng ngươi được ăn rơm có muối, đã được rê sạch", và là thời điểm nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9) mà "Ngày Chúa băng bó thương tích của dân Người, và chữa lành da bầm thịt giập; mặt trăng sẽ sáng chói như mặt trời, mặt trời sẽ bảy lần chói sáng hơn, như ánh sáng bảy ngày".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay đã vang lên tâm tình tri ân cảm tạ cùng lời chúc tụng ngợi khen Vị "Thiên Chúa là tình yêu" vô cùng nhân hậu qua việc cứu độ của Ngài đối với riêng dân Ngài cũng như chung nhân loại, nhất là đối với những ai yếu hèn khiêm hạ:
1) Hãy ngợi khen Chúa vì Người hảo tâm; hãy ca mừng Thiên Chúa chúng ta, vì Người êm ái, thực Người rất đáng ngợi khen. Chúa xây dựng lại Giêrusalem, tập họp con cái Israel phân tán.
2) Chính Người chữa những kẻ giập nát tâm can, và băng bó vết thương của lòng họ. Người ấn định con số các ngôi sao, và gọi đích danh từng ngôi một.
3) Chúa chúng ta cao cả và mãnh liệt quyền năng, sự khôn ngoan của Người thực là vô lượng. Chúa nâng cao những kẻ khiêm cung, Người đè bẹp đứa ác nhân xuống tận đất.