SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Chay Tuần 4
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sb 36, 14-16. 19-23
"Cơn thịnh nộ và lòng từ bi của Chúa được tỏ bày qua sự lưu đày và giải phóng của dân tộc".
Trích sách Sử Biên Niên quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem.
Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả Chúa, coi thường lời Chúa, và nhạo báng các tiên tri, đến nỗi, sau hết, cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người, và vô phương cứu chữa. Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị; như thế ứng nghiệm lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia mà phán, cho đến khi đất nước được mừng ngày Sabbat; vì trong tất cả những ngày xáo trộn, họ sẽ không giữ được ngày Sabbat trọn bảy mươi năm trường.
Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: "Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 136, 1-2. 3. 4-5. 6
Ðáp: Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi (c. 6a).
Xướng: 1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi. - Ðáp.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!". - Ðáp.
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét. - Ðáp.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 2, 4-10
"Anh em chết bởi tội và được cứu rỗi bởi ân sủng".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi; Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô? Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được tự phụ. Vì chúng ta là thụ tạo của Người, đã được tạo thành trong Ðức Giêsu Kitô, để làm các việc lành mà Chúa đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 3, 16
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài, sẽ được sống đời đời.
Phúc Âm: Ga 3, 14-21
"Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa; và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách; nhưng ai hành động trong sự thật thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B hôm nay được phản ánh
nơi cảm nhận đầy xác tín của Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại trong bài đọc 2
(Êphêsô 2:4-10) sau đây:
"Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu
thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm
cho chúng ta sống lại trong Ðức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi;
Người đã cho chúng ta được cùng chung sống lại và đồng ngự trị trên nước trời
trong Ðức Giêsu Kitô, để tỏ cho hậu thế được thấy sự phong phú dồi dào của ơn
Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô".
Đúng thể, hai yếu tố Thiên Chúa nhân từ và con người tội lỗi đã gặp nhau ở phụng vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật 4 Mùa Chay năm B này, nhưng tình thương bao la của Thiên Chúa đã thắng vượt tội lỗi và cứu chuộc nhân loại. Như trong bài đọc 1 (2Niên Ký 36:14-16,19-23) đã nhận định về tình trạng càng ngày càng tội lỗi của dân Chúa đến độ họ bị đi đầy sang Babylon, nhưng Chúa vẫn thương mang họ về lại đất hứa sau thời gian 70 năm đúng như lời Ngài đã phán qua tiên tri Giêrêmia.
"Trong những ngày ấy, tất cả những đầu mục tư tế và dân chúng đều bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của các dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giêrusalem... Cơn thịnh nộ của Chúa đã đổ lên dân Người... Quân thù đã đốt đền thờ Chúa, phá huỷ tường thành Giêrusalem, phóng hoả tất cả các lâu đài và thiêu huỷ mọi đồ vật quý giá. Nếu có ai thoát khỏi lưỡi gươm, thì bị dẫn về Babylon để làm nô lệ nhà vua và con cái vua, cho đến thời vua nước Ba-tư thống trị.."
"Năm thứ nhất triều đại Cyrô, vua xứ Ba-tư, để lời Chúa dùng miệng tiên tri Giêrêmia phán trước được thực hiện, thì Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: 'Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên'".
Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan (3:14-21) càng cho thấy rõ Thiên Chúa yêu thương
nhân loại biết là dường nào. Ở chỗ:
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt".
Thật vậy, Thiên Chúa ban Con Một của Ngài cho thế gian là để cứu thế gian chứ
không phải để luận phạt thế gian. Thế nhưng, để được cứu, hay để lãnh nhận ơn
cứu độ con người phải tin vào Con của Ngài, phải chấp nhận Con của Ngài, phải
nhận biết Con của Ngài. Đó là lý do Thánh Phaolô, cũng trong bài đọc hai đã
khẳng định nguyên tắc cứu độ như sau:
"Vì chưng, bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi nhờ đức tin. Ðiều đó không phải do
anh em, vì đó là ân huệ của Chúa; cũng không phải do việc làm, để không ai được
tự phụ".
Đối với thành phần không tin Con của Ngài, không chấp nhận và nhận biết Con của
Ngài thì tự họ luận phạt họ, như Chúa Kitô khẳng định trong bài Phúc Âm như sau:
"Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa;
và đây án phạt là sự sáng đã đến thế gian, và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự
sáng, vì hành động của họ xấu xa".
Theo tiến trình phụng vụ Lời Chúa từ Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay cho tới nay thì
nếu Chúa Nhật tuần thứ 1 về một Chúa Kitô chay tịnh 40 đêm ngày trong
hoang địa và bị ma quỉ cám dỗ, ám chỉ Người sẽ đạp nát đầu rắn quỉ (xem Khởi
Nguyên 3:15) bằng cuộc tử giá của Người, Chúa Nhật tuần thứ 2 về một Chúa Kitô
biến hình, ám chỉ cuộc phục sinh vinh hiển của Người, hoàn toàn chiến thắng tội
lỗi và sự chết, và Chúa Nhật thứ 3 về một Chúa Kitô như một đền thờ của Thiên
Chúa bị bàn tay con người phá hủy bằng cách sát hại nhưng Người đã dựng lại nội
trong 3 ngày, ám chỉ đến mầu nhiệm vượt qua từ sự chết (bị phá hủy) đến sự sống
(dựng lại) của Người, thì Chúa Nhật thứ 4 cũng chất chứa mầu nhiệm vượt qua như
vậy, ở chỗ:
"Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào (để chữa lành cho những ai bị rắn cắn mà nhìn lên nó - xem Dân Số 21:4-9, và loài người cũng bị rắn quỉ cắn trong địa đường nên cũng phải nhìn lên Đấng bị tử giá), thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy (khổ nạn và tử giá), để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời (phục sinh)".
Vấn đề được đặt ra ở đây là chẳng lẽ con rắn là loài độc hại lại ám chỉ Chúa Kitô cứu độ hay sao? Nếu đọc kỹ chúng ta thấy Lời Chúa Giêsu chỉ so sánh hình ảnh "treo lên" mà thôi, của con rắn và của Người. Con rắn bị "treo lên" ở một cây cột thẳng đứng (pole), còn Chúa Giêsu bị treo lên ở cây thập tự giá (cross), hoàn toàn khác nhau giữa cây cột và cây thập giá. Chỉ có hình ảnh "treo lên" là giống nhau thôi. Thế nhưng, hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ ám chỉ hình ảnh "treo lên" của Đấng đến "để tiêu diệt công việc của ma quỉ" (1Gioan 3:8) là tội lỗi và sự chết do hắn gây ra cho chính mình (xem Khải Huyền 12:1-9) cũng như cho con người ngay từ ban đầu (xem Khởi Nguyên 3:1-7), bởi thế hình ảnh "treo lên" của con rắn ám chỉ nó bị tiêu diệt bởi sự kiện "treo lên" của Chúa Cứu Thế.
Tóm lại, qua phụng vụ lời Chúa trong Mùa Chay nói chung và Chúa Nhật IV nói
riêng, Giáo Hội muốn cho con cái của mình thấy được chẳng những một Chúa Kitô
vượt qua để thấy được Đấng đã sai Người là Cha trên trời vô cùng yêu thương nhân
loại, đến độ lợi dụng chính tội lỗi của con người để tỏ lòng thương
con người,
mà còn nhờ đó cảm nghiệm được tình thương bao la vô cùng bất tận của Thiên Chúa
và tin vào Con của Ngài là tất cả mạc khải thần linh của Ngài và về Ngài, là
hiện thân sống động tình thương của Ngài đối với nhân loại tội lỗi
không thể cứu mình và vô cùng hèn
hạ khốn nạn bất xứng chỉ đáng sa phạt đời đời mà thôi!
1) Trên bờ sông Babylon, chúng tôi ngồi khóc nức nở, khi tưởng nhớ đến núi Sion. Trên những cây dương liễu miền đó, chúng tôi treo các cây lục huyền cầm của chúng tôi.
2) Vì nơi này, quân canh ngục đòi chúng tôi vui vẻ hát lên. Họ giục chúng tôi rằng: "Hãy vui mừng; hãy hát cho chúng ta nghe điệu ca Sion!".
3) Lẽ nào chúng tôi ca hát ngợi khen Thiên Chúa trên đất khách quê người? Hỡi Giêrusalem, nếu tôi lại quên ngươi, thì cánh tay tôi sẽ bị khô đét.
4) Lưỡi tôi dính vào cuống họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi. Nếu tôi không đặt Giêrusalem trên tất cả mọi niềm vui thoả.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không
còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các
ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo,
vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân
hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn
nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu,
không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là
chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất
nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân
thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài
đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài.
Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài
vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng
vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu
giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa
là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị
tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân
chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở
Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có
một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin
Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống
chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những
phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức
trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói
và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con
ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ
cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông
mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai
Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống tỏ mình
Ngày 15: Thánh Nữ Louise de Marillac,
vị thánh của gia đình
Chúng ta cùng nhau chiêm ngắm chân dung một vị Thánh của gia đình và của xã
hội: Thánh Nữ Louise de Marillac, lễ kính vào ngày 15 tháng 3 hàng năm.
Các thánh nhân của Giáo Hội Công Giáo là những con người thánh thiện nhưng
lại rất nhân bản. Các ngài đã sống những cuộc đời phi thường. Mỗi một vị
thánh mà Giáo Hội tôn kính đều đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa mà phát
huy hết các đặc sủng mà Ngài đã ban cho từng vị. Thiên Chúa cũng mời gọi
từng người một trong chúng ta trở thành một vị thánh với những hồng ân mà
Chúa đã ban cho mỗi người.
Louise sinh tại Meux, nước Pháp. Cô mồ côi mẹ khi còn rất bé. Ðến năm cô 15
tuổi, người cha yêu dấu của cô cũng qua đời. Khao khát của cô muốn đi tu bị
cha giải tội của cô bác bỏ. Người ta sắp đặt một cuộc hôn nhân cho cô. Cô
sinh được một đứa con trai. Nhưng chẳng mấy chốc cuộc hôn nhân đó chỉ còn là
việc bổn phận chăm sóc người chồng bị đau lâu ốm dài cho tới khi chàng ta
mất.
Louise may mắn tìm được hai cha giải tội khôn ngoan và thông cảm với cô, một
người về sau cũng được phong Thánh: Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-di-ô, người kia
là bạn của ngài, Ðức Giám Mục Giáo Phận Belley, Pháp. Có điều cả hai vị này
chỉ có thể gặp Louise theo định kỳ thôi. Nhưng trong lòng Louise được ơn soi
sáng cho biết rằng cô sẽ đón nhận một công cuộc lớn lao dưới sự hướng dẫn
của một người mà cô chưa hề gặp: Cha Thánh Vinh-sơn Phao-lô (St. Vincent de
Paul).
Khi cô gặp được cha Vinh-sơn ngài rất miễn cưỡng trở thành cha giải tội cho
cô vì ngài rất là bận rộn với Hội Ðoàn Bác Ái do ngài sáng lập. Ðây là nơi
quy tụ các mệnh phụ phu nhân quý tộc làm việc từ thiện hỗ trợ ngài chăm sóc
người nghèo và trẻ em bị bỏ rơi, một nhu cầu nhức nhối vào thời đó. Có điều
các quý bà này còn bề bộn với bao việc gia đình và bổn phận khác. Công việc
của ngài lại cần đến nhiều người cộng tác khác có thể dành toàn thời gian
cho người nghèo, đặc biệt là các thôn nữ vì họ dễ dàng gần gũi và chinh phục
cảm tình của những người nghèo. Ngài còn cần có ai đó tổ chức và dạy dỗ đám
thôn nữ.
Phải mất một thời gian dài, sau khi cha Vinh-sơn biết đến Louise nhiều hơn,
ngài mới nhận ra Louise chính là người Thiên Chúa gởi đến để đáp lại lời cầu
nguyện của cha. Louise thông minh, quảng đại, cứng cáp, kiên trì trái ngược
với chứng đau ốm dai dẳng của cô. Công việc cha giao cho cô làm đã có kết
qủa là có bốn cô quê mùa gia nhập nhóm. Cha Vinh-sơn thuê một căn nhà ở
Paris để làm trung tâm huấn luyện cho những người mới gia nhập trong việc
chăm sóc người đau yếu và người nghèo. Công việc nhanh chóng phát triển và
đã đến lúc phải đề ra nội quy. Chính Louise, dưới sự hướng dẫn của cha
Vinh-sơn, đã soạn ra bản hiến pháp cho Các Nữ Tu Bác Ái Vinh-sơn Phao-lô.
Riêng cha Vinh-sơn chỉ thích gọi Tu Hội bằng một cái tên đơn sơ hơn: Nữ Tử
Bác Ái (Daughters of Charity - Filles de la Charité).
Cha Vinh-sơn luôn ngần ngại và cẩn trọng trong quan hệ với Louise và Tu Hội.
Cha nói rằng cha không hề bao giờ mảy may có một ý tưởng là sẽ lập nên một
cộng đoàn mới, chính Chúa mới là Ðấng làm nên mọi sự. Cha nói với nhóm chị
em: "Nhà của người đau ốm sẽ là Tu Viện của chúng con. Một căn phòng thuê
tạm bợ vá víu sẽ là phòng của chúng con. Nhà Thờ của chúng con sẽ là nhà Thờ
của Giáo Xứ. Các hang cùng ngõ hẻm của đường phố, các phòng bệnh trong bệnh
viện sẽ là lối đi của Tu Viện."
Ban đầu tu phục của các cô chỉ là y phục thường ngày của các cô gái thôn dã.
Phải qua nhiều năm sau, cha Vinh-sơn Phao-lô rốt cuộc mới cho phép bốn cô
gái có những lời khấn từng năm một về Khó Nghèo, Trinh Khiết và Vâng Phục.
Và phải chờ đợi nhiều năm nữa Tu Hội mới được Rô-ma chính thức châu phê và
đặt dưới sự hướng dẫn của Tu Hội Các Linh Mục của cha Vinh-sơn (Dòng
Lazariste).
Nhiều thiếu nữ trẻ không được đi học cho nên Tu Hội non trẻ rất ngần ngại
khi nhận nhiệm vụ chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi. Louise luôn luôn có mặt ở mọi
nơi cần đến bàn tay của cô dù cho sức khoẻ cô luôn bết bát. Cô đi khắp nước
Pháp và thiết lập các cộng đoàn các nữ tu tại các bệnh viện, các nhà mồ côi
và ở các nơi cần đến họ. Vào ngày cô qua đời, 15.3.1660, Tu Hội đã có 40
Cộng Ðoàn trong nước Pháp. Sáu tháng sau, cha Vinh-sơn Phao-lô cũng qua đời
ngày 27.9.1660.
Louise de Marillac được phong Thánh năm 1934 và thánh nhân được đặt làm Quan
Thầy những người làm công tác bác ái từ thiện năm 1960.
Vào thời của Louise, việc giúp đỡ người nghèo là một việc xa xỉ mà chỉ có
các quý bà giầu sang quý tộc có khả năng làm vào những lúc vô công rỗi nghề.
Louise hết sức ngưỡng mộ Thánh Vinh-sơn Phao-lô đã khôn ngoan nhận ra rằng
các thiếu nữ quê mùa nghèo khổ mới dễ dàng phục vụ người nghèo hữu hiệu hơn,
các Nữ Tu Bác Ái đã được khai sinh dưới sự lãnh đạo của Louise. Cho đến ngày
hôm nay, Tu Hội vẫn tiếp tục sứ mạng chăm sóc người đau ốm, già nua, mang
đến chỗ nương tựa cho các em mồ côi. Có nhiều hội viên của Tu Hội làm công
tác từ thiện bác ái dưới sự bảo trợ của Thánh Louise de Marillac. Tất cả mọi
người chúng ta phải học nơi chị thánh sự quan tâm ưu ái với những người bất
hạnh.
Theo Bách Khoa Tự Ðiển Encarta của hãng Microsoft, một tự điển hoàn toàn có
tích cách thế tục, hai Thánh Vinh-sơn Phao-lô và Louise de Marillac, qua các
việc bác ái từ thiện, đã có công đầu tại Pháp vào thế kỷ 17 trong việc chặn
đứng phong trào ly giáo.
(Because of the Wars of Religion in France, the Counter Reformation did not
pick up momentum there until the 17th century. Devotion to the poor, as
exemplified by St. Vincent de Paul and St. Louise de Marillac, especially
characterized the French experience. Considerable attention was given there,
as it was in Italy, to popular missions among the peasantry. Meanwhile, St.
Francis of Sales, bishop of Geneva, published his Introduction to the Devout
Life (1608), among the most popular of all works of Christian spirituality.
"Counter Reformation", Microsoft � Encarta � Encyclopedia
2000. � 1993
- 1999 Microsoft Corporation. All rights reserved.)
Ðất nước Việt Nam chúng ta mang ơn các Nữ Tử Bác Ái rất nhiều. Ða số công
việc phục vụ của các chị đều âm thầm vô danh tuy một số được nhiều người
biết đến như thiết lập và điều hành các trại phong Bến Sắn, Di Linh, Phước
Tân, và mới đây là Trung tâm Mai Hòa chăm sóc bệnh nhân AIDS trong những
ngày sau cùng. Ðặc điểm nổi bật nhất của các chị là luôn phục vụ người nghèo
và trong yêu thương và khiêm tốn với tư cách người đầy tớ theo lời căn dặn
của cha Thánh Vinh-sơn: "Khi các con cho người nghèo bánh ăn, các con còn
phải xin lỗi họ."
Ngày 15.3.2003, một Thánh Lễ mừng 70 năm khấn dòng của chị Jean Gabriel Ðặng
Thị Cúc; 60 năm của chị Aimée Nguyễn Thị Nữ; và 25 năm của 11 chị khác. Trên
tấm thiệp báo đơn sơ ta chỉ đọc được vỏn vẹn hàng chữ đơn sơ: "Tất cả là
Hồng Ân".
Xét cho cùng không có Hồng Ân nào to lớn hơn là được sai đi phục vụ Chúa
Giê-su nơi người nghèo.
Hoàng Thiên Ân
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)
Ngày 15: 2.
Thánh Clemente Maria Hofbauer, linh mục dòng Chúa Cứu Thế
Clemente Hofbauer sinh ngày 26.12.1752 tại đất nước Áo, vừa đúng 30 năm sau
khi Thánh An Phong sáng lập DCCT. Có một chi tiết hết sức dễ thương trong
tuổi thơ ấu của cậu bé Clemente Hofbauer. Năm cậu vừa lên 7 thì người cha
qua đời. Bà mẹ dắt cậu đến dưới chân Thánh Giá, chỉ lên tượng Chúa Giê-su
chịu đóng đinh và bảo: "Con ơi, kể từ nay, người này sẽ là cha của con" Tất
cả như là một hạt giống ban đầu của Ơn Gọi Thiên Chúa muốn gieo vào lòng cậu
bé Clemente. Có thể nói, chính lời dặn dò nhắn nhủ của bà mẹ đã xác định cho
Clemente rằng: kể từ nay chỉ có Chúa Giê-su mới là Ðấng duy nhất mà cậu sẽ
phải tuân phục và tận hiến cuộc đời cho Ngài.
Năm 1769, khi vừa tròn 24 tuổi, chàng thanh niên Clemente quyết định xin vào
tu trong Ðan Viện Tivoli, để rồi 2 năm sau đó, thầy tình nguyện xin vào sa
mạc để ẩn tu. Trong 3 năm liền cầu nguyện chiêm niệm, thầy lại khám phá ra ý
định Thiên Chúa muốn thầy không dừng lại ở nếp sống ẩn tu, nhưng quả cảm dấn
thân cho Ơn Gọi hoạt động truyền giáo. Thế là thầy lại khẳng khái trình với
Bề Trên để xin chia tay ra đi. Suốt trong 4 năm ròng, thầy Clemente đã rong
ruổi vượt đường xa hành hương về Rô-ma không dưới 5 lần để chọn một Dòng Tu
hoạt động.
Và thế là lại thêm một chi tiết lý thú ghi dấu trong đời thánh nhân. Tháng 9
năm 1784, một lần nữa lại đến Rô-ma, băn khoăn không biết chọn Dòng nào giữa
quá nhiều Dòng Tu, thầy nảy ra ý rủ một thầy bạn, một buổi sớm mai, hễ tiếng
chuông của Nhà Nguyện Tu Viện nào ở Rô-ma rung lên những tiếng chuông đầu
tiên thì hai người sẽ tìm đến để xin nhập Dòng. Hai người thao thức cả đêm,
đến khi vừa mới chợp mắt thì tiếng chuông một Tu Viện DCCT ở Rô-ma đã vang
lên trước nhất, cả hai trỗi dậy vội vã lên đường tìm đến Nhà Dòng và đã được
đón nhận. Ngày 24.10.1784, thầy Clemente mặc áo Dòng, và một năm sau, ngày
19.3.1785, đúng lễ kính Thánh Giu-se, ngài tuyên khấn và nhận sứ vụ Linh Mục
trong DCCT, một Linh Mục DCCT đầu tiên không phải là người Ý, nhưng là người
Áo.
Cuộc đời mục vụ của cha Clemente khởi đi từ cộng đoàn Saint-Bennon tại thành
phố Varsovie. Cha đặc biệt quan tâm phục vụ trẻ em bị bỏ rơi, những thanh
niên mù chữ, những cô gái điếm bất đắc dĩ, những người già bị hất hủi, và cả
đến những bệnh nhân tâm thần. Cha và cộng đoàn DCCT ở đây cũng không quên tổ
chức những tuần Ðại Phúc, hay phải nói cho đúng, ngài đã biến mỗi ngày trong
tuần thành một phiên Ðại Phúc với kinh nguyện, Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể,
giảng thuyết bằng nhiều thứ tiếng cho từng đối tượng người Ðức hay người
Ba-lan, và nhất là miệt mài ngồi tòa Giải Tội cho hàng đoàn người sám hối từ
khắp nơi tuôn về...
Rồi đây, xuyên qua các biến cố lịch sử chiến tranh và bạo động, trải qua
những chống đối và bách hại, những ngộ nhận và ngăn trở của chính quyền lẫn
giáo quyền, cha Clemente sẽ nghiệm chứng trong cuộc đời mình Lời Chúa trong
Tin Mừng Lu-ca: "Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con đi
vào giữa bầy sói..." (Lc 10, 3) bởi cha không thể dừng chân mãi tại
Saint-Bennon cho dẫu nhu cầu mục vụ ở đây ngày một đòi hỏi bức thiết.
Cha Clemente không bao giờ quên sự thúc bách của Tin Mừng, của "lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt lại ít..." (Lc 10, 2) để tiếp tục lên đường, "không mang
theo túi tiền, bao bị, giày dép..." (Lc 10, 4), cha chỉ một lòng thực hiện
Thánh Ý Thiên Chúa để đưa DCCT vượt ra khỏi dãy núi Alpes của vương quốc
Napoli để đến các nước miền Âu Châu như Ba Lan, Tiệp Khắc, rồi qua Áo, Thụy
Sĩ..., và cứ thế mà lan tỏa đi khắp thế giới, đến miền Bắc Mỹ để rồi từ
Canada, DCCT sẽ đặt chân đến Việt Nam năm 1925 mà có được Tỉnh DCCT Việt Nam
như ngày nay.
Chia sẻ đến đây, tự nhiên chúng tôi nhớ đến một lời kinh nguyện hằng ngày
của anh em DCCT Việt Nam đã được phổ thành bài hát: "Lạy Chúa, ngay giữa
lòng Hội Thánh, Chúa đã cho khai sinh gia đình Dòng chúng con mang tên Chúa
Cứu Thế sáng danh Vua Trời. Như là một cây nho Chúa thương vun trồng và chăm
sóc, mang đến những chùm nho, Ơn Cứu Thế bình an, chan chứa khắp trần
gian..."
Thư Thánh Phao-lô Tông Ðồ gửi cộng đoàn Cô-rin-tô có khẳng định: Phao-lô
trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng
hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới
đáng kể (x. 1 Cr 3, 6 - 7).
Trong tâm tình khiêm tốn của Linh Mục và Tu Sĩ Dòng Chúa Cứu Thế khám phá ra
chính Thánh Ý Chúa đã chọn để cho Thánh An-phong gieo hạt giống đầu tiên mà
mọc lên thành một cây nho sinh hoa kết quả tốt tươi, trong đó có công sức
vun tưới của Thánh Clemente Hofbauer, thế nhưng trên hết, chúng ta vẫn phải
chung nhau một lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Giê-su, Ðấng mà Nhà Dòng đã
xin được mang tên là Chúa Cứu Thế. Chính Ngài chứ không phải ai khác, đã
chọn Thánh An-phong làm người sáng lập Dòng, đã sai Thánh Clemente đưa Dòng
lan tỏa vươn nhánh ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có quê hương Việt Nam
chúng ta.
Cha Clemente Maria Hofbauer được Chúa gọi về ngày 15.3.1820. Mọi ngộ nhận và
ngăn trở từ mọi phía không còn nữa, ngược lại, đám tang của ngài trở thành
một cuộc khải hoàn của Tình Yêu Thiên Chúa Quan Phòng. Những ước mơ và công
trình dở dang của ngài rồi sẽ được nối tiếp, hoàn tất và phát triển rực rỡ.
Người ta tuôn về bên mộ ngài để cầu nguyện xin ơn chữa lành cả thể xác lẫn
tâm hồn, các anh em DCCT cũng như nhiều tu sĩ các Dòng tìm đến, cúi đầu mặc
niệm và tĩnh tâm để như thể tìm nơi ngài một nghị lực lên đường cho sứ vụ
truyền giáo. Năm 1909, cha được Ðức Giáo Hoàng Pi-ô 10 nâng lên hàng Hiển
Thánh. Mãi mãi, DCCT đề cao ngài như vị Thánh Tổ thứ hai, sau Thánh
An-phong.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau chú ý đến một câu, một chi tiết trong
bài Tin Mừng Thánh Lễ mừng kính Thánh Clemente ngày 15 tháng 3: "Khi ấy, Ðức
Giê-su chỉ định 72 người và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào
tất cả các thành, các nơi mà chính Ðức Giê-su cũng sẽ đến..." (Lc 10, 1).
Hóa ra các môn đệ được sai đi trước để dọn đường, để vỡ đất khai hoang trồng
trọt. Còn chính Ðức Giê-su, Ngài sẽ làm cho cánh đồng Tin Mừng trổ sinh bao
thóc lúa bội thu.
Vì thế, chúng ta xác tín rằng: DCCT, Dòng của Chúa Giê-su, tức là đã được
đặt nền móng trên chính Ðức Ki-tô. Và rồi, Thánh Clemente, đến các thế hệ
anh em tu sĩ DCCT đã được sai đi mở đường để rồi chính Ðức Giê-su Ngài sẽ
đến, để qua anh em Tu Sĩ Linh Mục, qua cả những anh chị em Giáo Dân đang
cộng tác nhiệt thành với chúng tôi, Ngài tuôn tràn Ơn Ðức Ðộ cho mọi người,
nhất là những người nghèo đói bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần, để mọi
người cùng nhận ra: "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Lc 10, 9).
Xin tạ ơn Thiên Chúa, xin biết ơn Thánh Clemente. Amen.
Lm. Lê Quang Uy, DCCT
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)
Thứ Ba
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì
tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy
dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn
nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi
qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và
đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay
cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt
cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu
gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang
lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không
thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được,
nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn
ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi
trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi:
"Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa,
rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả
những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất
nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự
sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của
nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có
trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức
ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu
giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ
xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng
Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh
sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các
ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên
vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm
vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại
Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa,
chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người
đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người
nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết
anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa:
"Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết
tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy
vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi.
Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi
bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta
trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi:
"Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không
biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được
lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói
cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong
ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống tươi mát
Thứ Tư
Bài Ðọc I: Is 49, 8-15
"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu
độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước
của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để
ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong
tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo
đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa,
gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người
hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi
của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này
đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những
người từ miền nam lên.
Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa
đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.
Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể
quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù
người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18
Ðáp: Chúa
là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm
với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc
Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng
đứng thẳng lên. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm.
Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 17-30
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con
cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta
cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì
không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là
Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ
rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình
làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng
làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết
mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi
các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống
lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống
là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con
trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng
Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã
sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng
đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết
mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay
bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống.
Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa
Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử,
vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi
kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành
thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì
công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống thông ban
NGÀY 17 THÁNG 3
THÁNH PATRICK
Lễ Nhớ tùy ý
Truyện Thánh Patrick
Thánh Patrick đặt nền tảng công cuộc tông đồ trên việc cầu nguyện và
hãm mình.
Câu truyện cuộc đời thánh Patrick từ khởi đầu đến kết thúc là một cuộc mạo
hiểm thánh thiện. Sinh trong một gia đình Công Giáo tại nước Anh vào cuối
thế kỷ IV, bấy giờ là thuộc địa của Roma, khi còn là một thiếu niên, Patrick
đã bị bọn hải tặc bắt đem về Ái nhĩ lan, một miền đất từng có thời rất văn
minh, nhưng khi ấy đã suy tàn. Tại Ái nhĩ lan, Patrick bị bán cho một tộc
trưởng, và ông này bắt ngài đi chăn heo. Theo truyền tụng, nơi ngài bị bắt
là Slemish, hiện nay là Antrim.
Patrick luôn coi thảm họa này như một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống vì tội lỗi của ngài. Ngài đã kể lại, Khi ấy tôi mười sáu tuổi. Tôi không biết Thiên Chúa thật; và tôi bị bắt sang Ái nhĩ lan với nhiều ngàn người khác, đáng với tội lỗi chúng tôi, vì chúng tôi đã xa lìa Chúa, không giữ các giới răn của Người, không tùng phục các linh mục, những vị thường nhắc nhở cho chúng tôi về phần rỗi của chúng tôi.1
Tuy nhiên, giữa cảnh lầm than, ngài đã hồi tưởng lại những bài học thời thơ
ấu và trở về với Chúa. Giờ đây, sau khi tôi đã đến Ái nhĩ lan, công việc
hằng ngày của tôi là chăn dắt đoàn vật; và tôi thường cầu nguyện vào ban
ngày. Lòng yêu mến và kính sợ Chúa ngày càng gia tăng, đức tin tăng triển,
tinh thần được đánh động, thành ra trong một ngày tôi thường đọc nhiều trăm
kinh, và ban đêm cũng gần được chừng ấy; tôi thường ở lại trong rừng và trên
núi vì mục đích ấy. Trước lúc tảng sáng, tôi thường thức dậy để cầu nguyện,
trên tuyết, trong băng giá, trong mưa. Tôi không cảm thấy đau đớn, cũng
không biếng trễ như giờ đây, bởi vì khi ấy tinh thần trong tôi rất sốt
sắng.2
Sau sáu năm trong hoàn cảnh ấy, Patrick đã tìm cách trốn thoát. Trước tiên, nhờ một số nhà buôn tốt bụng, ngài đã trốn sang Pháp, và sau cùng, ngài đã về đến quê hương và được hân hoan chào đón. Vào thời điểm ấy, Patrick không có ý định trở lại nơi bị bắt trước kia, nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác. Và quả thật, trong những thị kiến ban đêm, tôi đã nhìn thấy một người tên là Victoricus từ Ái nhĩ lan đến, mang theo vô số thư từ. Ông trao cho tôi một bức, và tôi đọc phía trên bức thư có hàng chữ ‘tiếng kêu từ Ái nhĩ lan’; và trong khi đang đọc lớn phần đầu bức thư ấy, tôi nghĩ rằng ngay lúc ấy tôi nghe thấy tiếng kêu của những người đang sống gần khu rừng Foclut, sát với biển Tây. Họ đồng thanh kêu lớn: ‘Chúng tôi năn nỉ, ôi bạn trẻ, hãy đến, và một lần nữa hãy đi lại giữa chúng tôi.’ Tôi tan nát trong lòng, không đọc thêm nữa. Và thế là tôi thức giấc. Cám tạ Thiên Chúa, vì sau nhiều năm, Chúa đã ban cho họ điều họ kêu xin.3
Sau đó, Patrick sang Auxerre, Pháp một vài năm để chuẩn bị cho sứ mạng bằng
việc học tập dưới quyền thánh Germanus, người được Đức Celestine I giao phó
việc chuẩn bị cho công cuộc truyền giảng xứ Ái nhĩ lan. Tuy nhiên, Patrick
vô cùng thất vọng vì không được tuyển chọn; sứ vụ được giao phó cho một
người khác tên là Palladius.4 Nhưng Palladius đã qua đời ngay khi vừa đặt
chân đến Ái nhĩ lan, và thế là đoàn người đành quay về Auxerre. Lúc ấy,
Patrick được chọn để thay thế và được thánh Germanus tấn phong giám mục.
Hướng đến mọi tầng lớp xã hội.
Khi đặt chân lên đất Ái nhĩ lan vào năm 432 để truyền giáo cho một dân tộc
ngoại giáo hiếu chiến, thánh Patrick đã có một đức tin sắt đá kiên vững
trong mọi thử thách, một sự khôn ngoan thực tế, và một kiến thức về đất
nước, ngôn ngữ và phong tục địa phương.
Trong công việc, thánh Patrick đã giữ một tập quán. Mỗi khi đến một miền
nào, trước tiên thánh nhân đến trình diện và giảng Phúc Âm cho vị tộc trưởng
địa phương, và trao tặng một ít quà cáp theo tập tục thời ấy. Các tài liệu
cổ xưa kể lại, mặc dù có một số tộc trưởng qui thuận đức tin, nhưng một số
kẻ khôn ngoan thế gian vẫn giữ lại một số tập tục dễ dãi của tổ tiên họ. Tuy
nhiên, thánh Patrick luôn yêu cầu hai điều mà lúc nào ngài cũng thành công:
xin một miếng đất để xây nhà thờ; và xin phép tộc trưởng để rao giảng cho
dân chúng.
Kế đó, thánh Patrick hướng về phía các con trai con gái của vị tộc trưởng.
Lúc này, thành công của ngài hầu như rất khả quan. Lúc trước tại Ái nhĩ lan,
khi chưa nghe biết về Thiên Chúa, người ta thờ lạy bụt thần và các sự quái
gở. Gần đây, họ đã trở thành một dân tộc của Chúa, và được gọi là con cái
Chúa. Các con trai con gái của các tộc trưởng Ái nhĩ lan trở thành các đan
sĩ và trinh nữ của Chúa Kitô.
Đặc biệt, một nữ lưu Ái nhĩ lan dòng dõi quí phái vị vọng, rất xinh đẹp,
khôn lớn, và đã được rửa tội; sau một vài ngày, bà đã đến gặp chúng tôi vì
một lý do gì đó. Bà tỏ cho chúng tôi biết bà đã được một thiên thần của
Thiên Chúa cảnh báo, và khuyên bà hãy trở thành một trinh nữ của Chúa Kitô,
và sống thân mật với Thiên Chúa. Cám tạ Chúa, sáu ngày sau, rất đáng khen và
hăm hở, bà ấy đã giúp tất cả các trinh nữ của Thiên Chúa làm theo như bà;
nhưng vì không được sự đồng ý của cha mẹ họ; nên họ bị thân nhân bắt bớ và
quở mắng; tuy nhiên, con số họ ngày càng gia tăng.5
Điều này đã đặt nền tảng cho công cuộc hoán cải về sau của rất đông dân
thường mà thánh Patrick đã đề cập đến. Chính ngài đã đích thân rửa tội cho
‘nhiều ngàn người”: Điều hết sức cần thiết là chúng ta phải giăng những
chiếc lưới của chúng ta để đem vô số đám đông về cho Chúa. Mọi nơi nên có
linh mục được phong chức để rửa tội và nâng đỡ những người nghèo khó và túng
quẫn.6
Tuy nhiên, ta không nên nghĩ rằng mọi việc đều xuôi thuận. Nhiều lúc thánh
Patrick đã gặp nguy hiểm từ mọi nơi, nhất là bọn Druids, những kẻ đối nghịch
không đội trời chung. Nhờ khôn ngoan, thánh nhân đã thoát được; và hơn một
lần, Chúa quan phòng đã phải can thiệp để cứu ngài. Tuy nhiên, thử thách
gian truân nhất đối với thánh Patrick là sự chống đối từ phía các anh em
Kitô giáo tại Anh và Pháp. Họ truyền cho nhau nhiều câu truyện bịa đặt về
ngài, đến độ ngài đã phải dùng ngòi bút để tự vệ. Nhờ đó, chúng ta ngày nay
mới may mắn có được quyển Tự Thuật của thánh nhân, tài liệu chủ yếu về những
chi tiết trong cuộc đời của ngài.
Đức tin và văn hóa.
Giáo đoàn do thánh Patrick thành lập mang một số đặc trưng rất rõ nét. Sứ
điệp Phúc Âm ăn rễ sâu và biến đổi từ bên trong mà không hủy diệt nền văn
hóa Celtic. Chúng ta giờ đây khó mà tưởng tượng được dân tộc và văn hóa của
họ sẽ như thế nào, nếu không được thấm nhuần tinh thần Kitô Giáo sâu xa,
ngay cả nhiều thế kỷ về sau. Vì thế, nền văn hóa ấy luôn phù hợp với đức
tin. Về giáo lý cũng như về việc truyền bá Phúc Âm nói chung, chúng ta được
mời gọi đem sức mạnh Phúc Âm vào trái tim của từng nền văn hóa và mọi nền
văn hóa. Vì mục đích này, người làm công tác giáo lý phải tìm hiểu các nền
văn hóa và những yếu tố chính của chúng; phải biết các biểu hiện ý nghĩa
nhất của chúng; phải tôn trọng các giá trị và sự phong phú riêng của chúng…
Họ phải ghi nhớ hai điều sau đây.
Thứ nhất, không được tách rời sứ điệp Phúc Âm khỏi nền văn hóa nguyên thủy
của nó (tức là thế giới Thánh Kinh, chính xác là địa phương văn hóa mà Chúa
Giêsu thành Nazareth đã sống), cũng đừng tách biệt khỏi những nền văn hóa mà
sứ điệp Phúc Âm đã được diễn tả theo dòng các thế kỷ.
Thứ hai, sức mạnh của Phúc Âm biến đổi và chấn hưng mọi sự. Khi hội nhập vào
một nền văn hóa, chắc chắn sức mạnh ấy sẽ chỉnh đốn nhiều yếu tố của nền văn
hóa này. Nếu như Phúc Âm đã bị biến dạng khi tiếp xúc với các nền văn hóa,
thì có lẽ đã chẳng còn giáo lý. Quên điều này tức là vấp vào điều thánh
Phaolô đã mạnh mẽ tố cáo là ‘làm trống rỗng sức mạnh thập giá của Chúa Kitô’
(1 Cr 1:17).7
Điểm đặc trưng thứ hai của giáo đoàn mới mẻ này là bản chất tông đồ sâu xa.
Những người đầu tiên được hưởng nhờ lợi ích từ động lực tông đồ là những
người Picts xứ Scotland, sau đó là các bộ tộc man di định cư tại những miền
hoang tàn của đế quốc Roma tại Bắc Âu: Pháp, Đức, và xa nữa là Lombardy. Kể
từ giai đoạn ấy, quê hương Ái nhĩ lan của các nhà truyền giáo thánh thiện và
học thức đã nổi danh khắp thế giới Kitô Giáo là ‘đảo các thánh và các học
giả.’ Mặc dù giai đoạn hoàng kim ấy đã chấm dứt vào thế kỷ IX, khi Ái nhĩ
lan rơi vào tay những người Vikings xâm lược, nhưng các di sản của thánh
Patrick không suy suyễn và vẫn trường tồn qua các thăng trầm của lịch sử.
Điểm đặc trưng thứ ba mà đức tin của thánh Patrick đã nung đốt cho giáo đoàn
ở đây là sự hợp nhất với Tòa Thánh, suốt từ khi có ủy nhiệm thư đầu tiên của
Đức Celestine. Thánh Patrick đã mô tả những người tín hữu yêu quí của ngài
là Giáo Hội người Ái nhĩ lan, tức là Giáo Hội Roma.8 Sau khi thánh Patrick
qua đời, thánh Columbanus đã thưa với Đức Boniface IV: Chúng con những người
Ái nhĩ lan… là môn đệ của thánh Phêrô và Phaolô… Chúng con nắm giữ vững vàng
đức tin Công Giáo mà chúng con trước tiên đã được lãnh nhận từ cha.9 Lời
tuyên xưng này đã được Đức Gioan Phaolô II nhắc lại vào năm 1979: Ái nhĩ lan
luôn luôn trung thành – ‘semper fidelis.’10
Ngày nay, khi cám tạ Thiên Chúa về đặc ân đức tin thánh Patrick đã truyền
lại, chúng ta hãy quyết tâm noi theo gương sáng của ngài. Chúng ta hãy sống
những lời được truyền tụng là của chính ngài:
Ngày Thánh Patrick
Dù Thánh Patrick là ai, ông chắc chắn cũng không bao giờ mong đợi sự ồn ào mà mình tạo ra 15 thế kỷ sau khi ông qua đời. Trên khắp thế giới, ngày được dành riêng cho vị Thánh bảo hộ của xứ Ireland (17/3) hiện được xem là một dịp kỷ niệm sôi động, hầu như chỉ mang tính thế tục về tất cả mọi thứ liên quan đến Ireland hoặc được cho là như vậy. Lễ diễu hành hàng năm trên Đại lộ Số 5 New York thường được mô tả là cuộc diễu hành quần chúng lâu đời nhất của nước Mỹ. Dù xuất phát từ trước cuộc Cách mạng Mỹ, sự kiện này chỉ bắt đầu sôi động kể từ những năm cuối thế kỷ 19, khi những người Ireland Công giáo di cư, chạy trốn khỏi nghèo khổ và đói khát, bắt đầu khẳng định bản sắc của mình. Những tập quán khác thì xuất hiện gần đây hơn: chỉ khoảng 50 năm qua, sông Chicago mới được nhuộm một màu xanh lá cây để đánh dấu dịp lễ này. Vậy Thánh Patrick là ai?
Về Thánh Patrick trong nền văn hóa đại chúng, chỉ có hai đặc điểm nổi bật trong cuộc đời ông: ông đã đuổi loài rắn khỏi Ireland, và ông đã sử dụng một loại cây của Ailen gọi là cây cỏ ba lá (shamrock) làm công cụ khi truyền đạo, sử dụng hình dạng ba lá để giải thích ý tưởng về một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba ngôi (Chúa Ba ngôi). Cũng giống như rất nhiều nhân vật khác xuất hiện bên rìa thế giới La Mã, trong thời kỳ bóng đêm do đế chế sụp đổ, câu chuyện về cuộc đời Thánh Patrick cũng bao gồm nhiều điều không rõ ràng. Có thể thấy rằng ông đã đến Ireland để rao giảng Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ năm và ông đã chết vào thời điểm nửa cuối thế kỷ đó. Bằng chứng vững chắc nhất mà chúng ta biết về việc Kitô giáo được truyền bá vào Ireland là vào năm 431 Đức Giáo Hoàng đã gửi một nhà truyền giáo có tên là Palladius đến hòn đảo này. Còn sứ mệnh của Thánh Patrick thì không có ngày tháng nào rõ ràng như vậy.
Tuy nhiên, điều mà chúng ta có là tư liệu riêng của ông: hai tài liệu tiếng Latin có ảnh hưởng lớn đã làm nổi bật lên nhân cách của vị thánh này. Trong một tài liệu được biết đến nhiều hơn trong hai bản, bản “Lời thú tội” (Confessio), vị thánh kể lại những chi tiết xúc động về cuộc sống riêng của mình. Ông lớn lên trên bờ biển phía tây nước Anh (có thể là Cumbria) trong một gia đình người Anh Cơ đốc giáo La Mã. Cha ông là một thầy phó tế và ông nội của ông là một linh mục. Khi còn là một thiếu niên, ông đã bị bắt cóc bởi bọn cướp Ai-len và bị giam cầm trong sáu năm, và chính trong khoảng thời gian bị giam cầm này mà ông lần đầu tiên nghe được một tiếng gọi linh thiêng. Bằng cách nào đó ông đã trốn thoát và lên một chiếc thuyền buồm trở về Anh, và sau những hành trình nguy hiểm ông đã hội ngộ được với gia đình của mình. Nhưng một mặc thị đã cho ông hay rằng những người dân Ireland đang kêu gọi ông quay trở lại và truyền bá đức tin Cơ đốc giáo.
Một cuộc sống đầy màu sắc của Patrick đã được viết lại 200 năm sau ngày ông mất, cũng bằng tiếng Latinh, bao gồm tất cả những chi tiết trên nhưng được thêm một vài điểm mới. Tài liệu này nói rằng ông đã được đào tạo cho chuyến đi truyền giáo tại Ai-len của mình thông qua một quá trình tiếp cận lâu dài với những giáo sĩ tại tu viện ở Gaul, tức nước Pháp ngày nay. Điều đó khá hợp lý, bởi hẳn ông đã phải đi tới một nơi nào đó để đạt được trình độ tiếng Latinh và thần học được thể hiện nổi bật trong các tác phẩm của mình.
Có lẽ có một điều đã kết nối Patrick với những kẻ hội hè, những người uống bia màu xanh lá cây và hát những bản ballad ủy mị từ Chicago đến Sydney vào ngày 17 tháng 3. Ông đã trải qua một phần trong cuộc đời mình không phải ở Ireland nhưng lại gắn chặt với Ireland từ xa, và đã đạt được những điều ông không bao giờ có thể có được nếu ông tiếp tục ở lại Đảo Ngọc Lục bảo (Emerald Isle – tức Ai-len).
http://nghiencuuquocte.org/2016/04/18/chung-ta-biet-gi-ve-thanh-patrick/
Khi bạn nghĩ về Ngày Thánh Patrick, có lẽ bạn nghĩ về bia xanh, bắn dây chuyền thủy tinh có tên là Kiss Kiss Tôi là người Ailen, và mọi người nói về việc họ bất ngờ như thế nào. Điều đó rất tốt và tốt, nhưng tôi cá là bạn không biết nhiều về nguồn gốc của ngày lễ, hay vị thánh mà nó tôn vinh. Chà, cởi cái mũ ngu ngốc đó ra, dừng nói chuyện như một yêu tinh trong một giây, và giáo dục cho mình một nụ cười.
Thánh Patrick, được coi là vị thánh bảo trợ của Ireland, thực ra được sinh ra ở Banna Venta Berniae, một thị trấn ở Anh, vào khoảng cuối những năm 300 sau Công nguyên. Đúng vậy, Patrick không phải là người Ireland. Và tên của anh ta không phải là Patrick, cũng là Maewyn Succat, nhưng anh ta không quan tâm đến điều đó nên anh ta đã chọn được gọi là Patricius ở tuyến dưới. Anh ta thực sự có nhiều biệt danh trong suốt cuộc đời: anh ta được nhiều người gọi là Magonus, bởi những người khác là Succetus, và một số người là Cothirthiacus. Nhưng chúng ta sẽ gọi anh ấy là Patrick vì những người khác cũng vậy. Có một chiếc nhẫn đẹp với nó ...
Cha của ông, Calpurnius, là một phó tế trong nhà thờ Cơ đốc giáo đầu tiên, nhưng Patrick không phải là một tín đồ. Mãi cho đến khi anh ta bị cướp biển Ailen bắt giữ năm 16 tuổi và bị bắt làm nô lệ trong sáu năm với tư cách là người chăn cừu mà anh ta chọn để chuyển sang Cơ đốc giáo. Khi ở phía đông bắc Ireland, Patrick đã học ngôn ngữ và văn hóa Ailen trước khi tìm cách trốn trở về Anh. Nhưng Patrick không giỏi trốn thoát rõ ràng, vì anh ta bị bắt trở lại. Lần này do người Pháp. Anh ta bị giam giữ ở Pháp, nơi anh ta đã học được tất cả về tu viện trước khi anh ta được thả ra và được gửi về Anh, nơi anh ta tiếp tục nghiên cứu Cơ đốc giáo tốt vào những năm hai mươi. Cuối cùng, Patrick tuyên bố rằng anh ta có một tầm nhìn bảo anh ta mang Cơ đốc giáo đến với người Ailen, những người chủ yếu là ngoại đạo và say xỉn vào thời điểm đó, vì vậy Patrick đã tìm đường trở về Ireland và mang theo một túi Cơ đốc giáo lớn.
Tuy nhiên, khi Patrick trở lại Ireland, anh và những cách giảng đạo của mình không được hoan nghênh, vì vậy anh phải rời đi và đáp xuống một số hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Ở đó, anh ta bắt đầu có được những người theo dõi, và cuối cùng anh ta chuyển đến đại lục để truyền bá tư tưởng Kitô giáo trên khắp Ireland trong nhiều năm tới. Trong thời gian này, Patrick đã rửa tội cho hàng ngàn người (một số người nói là 100.000), đã phong chức linh mục mới, hướng dẫn phụ nữ làm phiền, chuyển đổi con trai của các vị vua trong khu vực và hỗ trợ thành lập hơn 300 nhà thờ.
Văn hóa dân gian cũng kể về việc Patrick xua đuổi tất cả những con rắn khỏi Ireland, nhưng nghe có vẻ xấu xa, thực sự không có con rắn nào trên đảo bắt đầu. Lame, tôi biết. Nhưng Patrick có thể là người chịu trách nhiệm phổ biến shamrock, hoặc cây ba lá mà bạn sẽ thấy được dán khắp nơi ngày hôm nay. Theo truyền thuyết, Patrick đã sử dụng nó để dạy cho người Ireland khái niệm về Holy Holy Trinity. Họ đã có ba vị thần và được coi là số ba rất cao, vì vậy việc sử dụng shamrock của Patrick có thể đã giúp anh ta giành được nhiều sự ưu ái với người Ireland.
Ngày nay, Patricius được biết đến nhiều nhất với cái tên Saint Patrick. Mặc dù về mặt kỹ thuật, ông không phải là một vị thánh được phong thánh bởi Giáo hội Công giáo, nhưng ông được đánh giá cao trên khắp thế giới Kitô giáo. Nhưng tại sao lại nghỉ lễ? Tại sao luôn luôn là ngày 17 tháng 3? Cái gì với màu xanh lá cây? Và tại sao chúng ta nghĩ về một người quyến rũ không phải là người Ailen, không phải rắn là biểu tượng của Ireland?
Ngày thánh Paddy bắt đầu như một lễ kỷ niệm tôn giáo vào thế kỷ 17 để kỷ niệm cuộc đời của Thánh Patrick và sự xuất hiện của Kitô giáo ở Ireland. Ngày lễ ăn mừng này luôn luôn diễn ra vào ngày giỗ của Patrick, được cho là vào ngày 17 tháng 3 năm 461 sau Công nguyên. Vào đầu thế kỷ 18, những người nhập cư Ailen đã mang truyền thống đến các thuộc địa của Mỹ và chính tại đó, Saint Patrick bắt đầu trở thành biểu tượng của di sản và văn hóa Ailen ngày nay. Khi nhiều người Ailen đi qua Đại Tây Dương, lễ kỷ niệm Ngày lễ dần dần trở nên phổ biến. Thực tế, rất nhiều, cuộc diễu hành Ngày Thánh Patrick đầu tiên được tổ chức tại Boston vào năm 1737.
Vào giữa thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã chứng kiến một dòng người nhập cư Ailen khổng lồ hy vọng thoát khỏi Nạn đói lớn. Điều này đã biến việc quan sát Ngày Lễ tương đối quy mô nhỏ thành một lễ kỷ niệm đầy đủ mà mọi người muốn trở thành một phần của việc họ có phải là người Ireland hay không. Vào năm 1903, Ngày lễ trở thành một ngày lễ quốc gia ở Ireland và theo thời gian, nó đã biến thành ngày nay được gọi là Ngày Thánh Patrick. Ngày lễ đã được tổ chức trên khắp thế giới tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Canada, Argentina, Úc, New Zealand, Thụy Sĩ, Nga và thậm chí trên khắp châu Á. Khi điều đó xảy ra, Ngày Thánh Paddy rất nổi tiếng, nó được cho là được tổ chức ở nhiều quốc gia hơn bất kỳ lễ hội quốc gia nào khác. Những gì đã từng là một ngày khá lạnh của việc đi đến đại chúng, xem một cuộc diễu hành và ăn một bữa ăn thịnh soạn với gia đình đã biến thành bữa tiệc lớn nhất trên thế giới.
Nếu bạn đang tự hỏi tại sao bạn lại mặc màu xanh lá cây ngay bây giờ, thì có nhiều thứ hơn là bảo vệ khỏi những ngón tay bị chèn ép. Nó quay trở lại cuộc nổi loạn Ailen, khi những người lính Ailen mặc màu xanh lá cây khi họ chiến đấu chống lại người Anh bằng màu đỏ thương hiệu của họ. Cho đến lúc đó, màu sắc liên quan đến St. Patrick và Feast Day thực sự là màu xanh. Những người lính bài hát đã hát trong cuộc chiến năm 1798, Đêm Sự mặc của màu xanh lá cây, đã thay đổi tất cả những điều đó và làm cho màu xanh lá cây, màu của shamrocks, màu chủ đạo của Ireland. Từ đó trở đi, mọi người mặc màu xanh lá cây trong Ngày Thánh Patrick đoàn kết. Và khi Chicago nhuộm màu xanh của dòng sông lần đầu tiên vào năm 1962, việc mặc và trang trí màu xanh lá cây đã trở thành một phần của văn hóa nhạc pop. Bây giờ nó là phổ biến để phá vỡ rau xanh tốt nhất của bạn vào giữa tháng ba.
Được rồi, vậy tại sao tất cả uống rượu? Đó là một phần của lịch sử, một phần chúng ta chịu thua quảng cáo và một phần rập khuôn. Ban đầu, Ngày Thánh Patrick, hay Ngày Lễ, đã chứng kiến việc dỡ bỏ các hạn chế Mùa Chay trong ngày, mang lại cho các Kitô hữu một hơi thở khi họ tiến đến Lễ Phục Sinh. Về cơ bản, đó là một ngày để ăn và uống nhiều như bạn muốn trong lễ kỷ niệm, do đó là bữa ăn truyền thống của thịt xông khói và bắp cải. Nhưng thấm nhuần rượu whisky và bia không phải là một phần của phương trình. Trên thực tế, các quán rượu ở Ireland đã bị pháp luật buộc phải đóng cửa cho kỳ nghỉ cho đến cuối thế kỷ 20, và uống rượu vào Ngày Thánh Patrick đã rất khó chịu cho đến cuối những năm 1970.
Sau đó, một nỗ lực tiếp thị khổng lồ từ Budweiser trong thập niên 80 đã thuyết phục những người khao khát khát nước rằng uống bia và Ngày Thánh Patrick là một trong cùng một. Phần còn lại là lịch sử say rượu dường như không ai nhớ, vì tất cả đã được thay thế trong đầu của chúng tôi bằng các trích dẫn từ. Giống như Cinco de Mayo, nhiều người bây giờ sử dụng kỳ nghỉ như một cái cớ để uống đồ uống, điều này thúc đẩy định kiến tiêu cực bằng cách liên kết không chính xác hành động bị lãng phí với văn hóa Ireland. Nhưng, ít nhất bây giờ bạn có thể tự hào về Guinness vì bạn biết câu chuyện thực sự. Sláinte!
https://vi.goldavelez.com/lich-su-thuc-su-cua-ngay-thanh-patrick
Đọc bản văn trên, người chia sẻ Lời Chúa ở đây cảm thấy như là một bài dịch bởi kỹ thuật dịch hơn là người dịch, bởi nhiều chỗ lủng củng và tối nghĩa v.v.
Thứ Năm
Bài
Ðọc I: Xh 32, 7-14
"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà
ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã
chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng
đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa
ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy
rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ
với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một
dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi
cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra
khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo
dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa
nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ
đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng:
"Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ
ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi
sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều
dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng.
Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng
đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và
những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa
chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt
họ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 5, 31-47
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về
Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta,
và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi
Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của
loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan
là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời
gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha
đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm
chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính
Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng
Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng
giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra
cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn
đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu
đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không
chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ
đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm
vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các
ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các
ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin
Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta.
Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi
tin lời Ta được?"
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống chứng
thực
Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị chính dân Người chống đối và trù dập.
Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và
thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết
chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ
không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về Người:
ĐTC Biển Đức XVI: Thứ Tư 27/6/2007 - Bài Giáo Lý 43 - Thánh Giáo Phụ Cyril thành Giêrusalem 18/3
https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-cyrilo-thanh-gierusalem-896.html
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".
Trích sách Khôn Ngoan.
Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ
công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng
ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự
hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo
những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy
bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó
thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa
lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó
tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật
hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem
chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh
vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục
mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy
kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu
nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho
chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên
cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh
dự của những tâm hồn thánh thiện.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23
Ðáp: Chúa
gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).
Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần
ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu
lo. - Ðáp.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương
dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải
thoát. - Ðáp.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa
cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài,
người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ
Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của
người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi,
nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết
sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà
chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta
biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết
Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói
rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta
mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng
Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm
cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Sự Sống tương phản
Ngày 19 tháng 3
THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MA-RI-A
lễ trọng
Thiên cung hoan hỷ tán dương ngài,
Giáo Hội tưng bừng khắp đó đây,
Lạy thánh Giu-se, ngài xứng đáng
Làm bạn Nữ Hoàng, hạnh phúc thay !
Thấy người thai nghén mà bỡ ngỡ,
Lo lắng hoài nghi rộn tâm tình,
Thiên sứ bảo rằng : thai nhi đó
Chính là do bởi Chúa Thánh Linh.
Bế bồng ấp ủ Chúa còn thơ,
Rồi ẵm sang Ai, trốn quân thù,
Lạc ở Sa-lem, tìm lại thấy,
Vui buồn sướng khổ mấy mươi thu !
Chư thánh chỉ trông phúc thiên đàng
Một khi lìa khỏi chốn dương gian.
Nhưng phần Thánh Cả được hồng phúc
Sống ở thế này cạnh Thánh Nhan.
Cậy nhờ công đức thánh Giu-se,
Nguyện Chúa Ba Ngôi khấng phù trì.
Dẫn dắt đoàn con lên cõi thọ,
Muôn đời ca tụng Chúa từ bi.
Thánh Giu-se trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Chúa Giê-su
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, linh mục.
Đây là đường lối thông thường của Chúa khi Người ban những ơn riêng cho một thụ tạo có trí khôn : Chúa thương tuyển chọn và ban cho ai một ơn đặc biệt hay một địa vị cao trọng nào, thì Người cũng ban mọi đặc sủng cần thiết cho kẻ được tuyển chọn ấy cũng như cho nhiệm vụ của họ. Những đặc sủng này còn tô điểm thêm cho bản thân họ rất nhiều.
Điều này được chứng thực cách tuyệt hảo nơi thánh cả Giu-se. Thánh nhân được coi là cha của Chúa Giê-su Ki-tô và thật sự là bạn trăm năm của Đức Ma-ri-a, nữ hoàng trần thế và nữ vương các thiên thần. Chúa Cha hằng hữu đã chọn thánh Giu-se để thánh nhân trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, và Đức Ma-ri-a hiền thê của thánh nhân. Đây là hai kho tàng quý giá nhất của Người. Thánh nhân đã chu toàn nhiệm vụ ấy một cách rất trung thành. Vì thế, Chúa đã nói với thánh nhân : Hỡi người tôi tớ tài giỏi và trung thành, hãy vào hưởng niềm vui của chủ.
Nếu bạn muốn nói đến vị thế của thánh Giu-se trong Hội Thánh Đức Ki-tô, thì không phải thế này sao : thánh nhân chính là con người được tuyển chọn, con người đặc biệt. Nhờ có thánh nhân đứng bảo lãnh mà Đức Ki-tô đã vào trần gian một cách hợp pháp và đàng hoàng ? Vậy nếu toàn thể Hội Thánh mắc nợ Đức Mẹ Đồng Trinh, vì nhờ Mẹ mà Hội Thánh được đón nhận Đức Ki-tô, thì sau Đức Mẹ, thánh Giu-se phải được Hội Thánh biết ơn và tôn sùng hơn hết.
Thánh nhân chính là điểm kết của Cựu Ước. Nơi thánh nhân, các tổ phụ và ngôn sứ đón nhận được hoa trái Thiên Chúa hứa ban. Điều mà Thiên Chúa đã rủ tình hứa ban cho các vị ấy, nay trở thành một con người bằng xương bằng thịt, và một mình thánh Giu-se được tiếp đón.
Suốt cuộc đời dương thế, Đức Ki-tô đã sống thân tình với thánh Giu-se, đã quý trọng và tôn kính thánh nhân như người con đối với cha mình, thì hẳn không thể nghi ngờ gì nữa : nay trên trời, chẳng những Đức Ki-tô không chấm dứt, mà còn gia tăng và kiện toàn những tâm tình ấy.
Bởi đó, thật thích đáng khi Chúa nói thêm : Hãy vào hưởng niềm vui của chủ. Đúng ra, niềm vui thấm nhập cõi lòng khi con người được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Chúa vẫn thích nói thế này hơn : Hãy vào hưởng niềm vui... Chúa muốn ta hiểu sâu xa rằng : Không những niềm vui thấm nhập vào lòng người, nhưng nó còn bao trùm, cuốn hút, và, như một vực thẳm mênh mông vô tận, nó tràn ngập con người.
Lạy thánh Giu-se, xin nhớ đến chúng con và cầu thay nguyện giúp cho chúng con bên toà Đức Ki-tô là Dưỡng Tử của ngài. Xin kêu cầu bạn trăm năm của ngài là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh rủ lòng thương xót chúng con. Người là Thân Mẫu Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Đây bậc Thánh cả thiên đàng hãnh diện,
Niềm cậy trông và cột trụ trần gian,
Chúng con dâng lời tán tụng đôi hàng,
Xin hiền phụ Giu-se thương nhận lãnh.
Dòng Đa-vít, Chúa tạo thành se định
Được kết duyên cùng Trinh Nữ ngọc ngà,
Con Chúa Trời âu yếm gọi là “Cha”,
Ngài cộng tác vào công trình cứu độ.
Ngài lặng lẽ ngắm nhìn Ngôi Thiên Tử,
Giờ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn,
Đấng bao đời ngôn sứ đã ngợi khen,
Ngài thờ lạy đầu tiên cùng Đức Mẹ.
Đây Chúa Tể càn khôn, đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hãi hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.
Lời vinh tụng, dâng Ba Ngôi trìu mến
Đã ban cho ngài chức trọng quyền cao,
Được ngài thương hằng nâng đỡ nguyện cầu,
Đoàn chúng tử sẽ thông phần vinh phước.
Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giê-su cho thánh cả Giu-se, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giê-su, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003
1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt 1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng, các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan Phòng.
3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này, Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.
Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.
Con người là chủ thể và là vai chính của việc làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).
Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng “một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).
4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và chiều kích của nó.
Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.
Anh Chị Em thân mến,
Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.
Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.
Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh Giuse 19/3/2006
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.
Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.
Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.
Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.
Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc làm trọn công cuộc cứu độ.
Khi Đức Thánh Cha vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như “Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn mấy lần.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/3/2006
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20
"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những
mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con
đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta hãy bỏ cây vào
bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không
còn nhớ đến tên nó nữa".
Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ
gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con
khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như
sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi
con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người
hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên
Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 7, 40-53
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng
nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng
Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh
Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem,
quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người.
Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt
Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông
này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành
thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời
rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và
các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết
gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người
trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai
mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời
rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy
rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự Sống Ẩn Hiện
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm nay
không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào. Thế nhưng dù
không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà Người lại nổi bật hơn
bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như
thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa
hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng quá ấn tượng của Người.
Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi
ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói
rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'.
Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh
chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê
hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người".
Sau nữa, giữa
thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong
số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy
khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ
rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa hành thưa rằng:
'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái trả lời rằng: 'Chớ
thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người
biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề
luật'".
Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô
là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với
họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc
không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông cũng là
người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào
phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".
Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ
lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần này
cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ không
phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là tiên tri hay
chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?
Dân chúng: "Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói:
Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của
Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh
Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa".
Đó là về phía thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp nhận
Người thì họ lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn cứ vào
chính những gì Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng như Người
chứng thực về Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận.
Trong khi chung dân chúng: "sau khi nghe Chúa
Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là
tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành
phần thừa hành của các vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì đó
đặc biệt nơi Người: "Chẳng hề có ai nói như
người ấy".
Đến đây và ở trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy thật
sự và hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là vị đã ẵm hài nhi
Giêsu trên tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con Trẻ này sẽ trở thành
cớ cho nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi dậy, trở thành một dấu hiệu
đối chọi" (Luca 2:34).
Chính Chúa Kitô cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu nhiệm
vô cùng cao cả và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết, cho dù
Người không giấu diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và nhiều
cách tỏ mình ra cho họ biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu cách loài
người, đến độ, cả thành phần môn đệ thân tín của Người cũng thế, cũng không
hơn gì dân chúng và thành phần lãnh đạo dân chúng, như chính Người đã quả
quyết với các vị như đã quả quyết với chung dân Do Thái rằng:
"Các con ơi, Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm
kiếm Thày, nhưng này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với
người Do Thái đó là 'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'" (Gioan
13:33; 7:33-34).
Thậm chí, Người còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần
lãnh đạo của họ biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong
tội lỗi của quí vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn toàn đúng
như vậy, trong Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một Hội Đồng Đầu Mục Do
Thái đã đồng thanh lên án tử cho Người ngay khi Người chân nhận mình là Đấng
Thiên Sai như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, mà còn cả một tông đồ đoàn
bỏ chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp Thày mình và nhất là một
lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày mình ...
Tuy nhiên, không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen tối
như thế mà Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy sợ hãi và
toan tính bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình, một "chủ
chiên nhân lành thí mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là
sự sống viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi
tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Qua miệng tiên tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp nhận
thân phận thiên sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của mình một
cách ngoan ngoãn như con chiên bị đem đi giết như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con
những mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi
giết. Con đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta hãy
bỏ cây vào bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người
ta không còn nhớ đến tên nó nữa'".
Thế nhưng, mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy lại",
chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng tiên tri
Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi sự
theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công
minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã
phó thác việc con cho Chúa",
Đúng thế, cách "báo thù" của Thiên Chúa bao
giờ cũng là lấy lành mà thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn biến ác
thành lành, một đường lối siêu việt đến độ thế gian không thể nào hiểu được,
chứ đừng nói làm được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy chính mưu đồ đầy
gian ác, hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do của mình lại trở thành phương
tiện và cơ hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, theo đúng
dự án thần linh của Ngài: "Viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở thành
viên đá gốc" (Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42; Tông Vụ 4:11).
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày, chất
chứa tâm tình của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị Thiên
Chúa của mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối thượng
của Ngài được nên trọn:
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi
người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp
bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi
con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người
hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên
Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày.
Nếu theo dõi kỹ, kể từ Thứ Tư Tuần 4 Mùa Chay, chúng ta thấy Chúa Giêsu càng tỏ
mình ra càng bị dân Do Thái nói chung và thành phần có thẩm quyền nói
riêng chống đối, hay nói ngược lại, dân Do Thái càng tìm biết Người, thì Người
càng được dịp tỏ mình ra cho họ, nhưng lại càng khiến họ bị chói lòa đến mù
quáng đến độ sát hại Người.
|
Ý định của người Do Thái |
Chúa tỏ mình cho người Do Thái |
Phản ứng của người Do Thái |
Thứ 4 |
muốn giết Người vì Người lộng ngôn - là người mà cho mình ngang hàng với
Thiên Chúa |
Nhưng Chúa Giêsu lợi dụng dịp này để tỏ
cho họ thấy được rõ ràng mối liên hệ mật thiết giữa Người
và Cha |
|
Thứ 5 |
muốn biết về Người nên dựa vào thế giá của Tiền Hô
Gioan và tìm tòi Thánh Kinh |
Nhưng cả hai điều ấy đều chứng thực về Người, nhất là ở chính các việc
NgườI làm theo ý
Đấng sai Người |
|
Thứ 6 |
tưởng rằng biết được nguồn gốc xuất thân của Người căn cứ vào nhận định
trần gian của họ |
Nhưng Chúa Giêsu đã cho họ biết
Người xuất thân từ trời, từ
trên cao, tức từ Cha là Đấng đã sai Người. |
“Họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai dám đụng tới Người, vì chưa
tới giờ Người” |
Thứ 7 |
|
“sau khi nghe Chúa Giêsu giảng”
(về những gì cần chứng thực về Người là Đấng Thiên Sai như những sự trên
đây) |
“dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người”, nhất là phe thẩm quyền
không chấp nhận Người vì Người xuất thân từ Galilêa. “Sau đó ai về nhà
nấy”. |