SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 14a. 16
"Nước Ðavít sẽ tồn tại muôn đời trước mặt Chúa".
Bài trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua". Nhưng xảy ra là, đêm ấy, có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?"
"Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ, lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi. Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi, và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị khuấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù, và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 16, 25-27
"Mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nay được tỏ bày".
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Phúc Âm tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các Dân Ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin.
Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 1, 38
Alleluia, alleluia! - Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Phụng Vụ Lời Chúa được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật Thứ IV Mùa Vọng theo chiều hướng của Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh, nghĩa là theo chiều hướng từ nhập thể tới giáng sinh, vì những bài Phúc Âm trong 8 ngày này đều trực tiếp liên quan đến Mầu Nhiệm Nhập Thể và dẫn đến Biến Cố Giáng Sinh. Điển hình là bai Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm cho ngày 20/12, dù là ngày thường trong tuần hay là ngày Chúa Nhật như hôm nay đây. Tuy nhiên, nếu là ngày thường thì chỉ có một bài đọc 1 thì Chúa Nhật phải có 2 bài đọc I và II, nên Giáo Hội đã chọn 2 bài đọc I và II cho bài Phúc Âm ngày 20/12 này cho Chúa Nhật Thứ IV Mùa Vọng như hôm nay.
Bài Phúc Âm cho ngày 20/12, rơi vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng, do đó cho dù chu kỳ năm A hay B hoặc C vẫn chi 3 là bài Phúc Âm ngày 20/12, tức là bài Phúc Âm về biến cố truyền tin Lời Nhập Thể, bởi Quyền Phép Đấng Tối Cao, trong cung dạ trinh nguyên của trinh nữ Nazarét Maria, một trinh nữ đã đính hôn với Thánh Giuse là một con người công chính. Ở đây, biến cố truyền tin này phải hiểu theo chiều hướng phụng vụ Lời Chúa mới thích đáng và theo đúng ý của Giáo Hội, thẩm quyền sắp xết các bài đọc cho phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B hôm nay, phần phụng vụ Lời Chúa bao gồm cả bài đọc 1 và bài đọc 2 cũng như bài đáp ca nữa.
Có lẽ ý chính của Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B hôm nay là ở chi tiết Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Roma ở bài đọc 2 hôm nay, đó là: "mạc khải về mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày". Đúng thế, dự án nhập thể của Thiên Chúa là một "mầu nhiệm", và Con Thiên Chúa làm người là một "mạc khải", "mạc khải về mầu nhiệm" nhập thể "được giữ kín từ đời đời", không phải chỉ âm thầm nơi thượng trí và thánh ý tối cao của Thiên Chúa, mà cần phải "được tỏ bày" trong lịch sử của loài người nói chung, nhất là nơi lịch sử cứu độ của dân Do Thái nói riêng, "khi đến thời gian viên trọn", nghĩa là "khi đến" lúc "Thiên Chúa sai Con Ngài sinh ra bởi một người nữ" (Galata 4:4).
Tuy nhiên, "người nữ" này không phải là một người nữ bình thường hay tầm thường, mà là một "người nữ" đã được Thiên Chúa tuyển chọn ngay từ đầu cùng với dự án nhập thể của Ngài, một "người nữ" được Ngài bắt đầu ám chỉ đến ngay sau nguyên tội và ở chính trong bản án nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), cũng chính là "người nữ sắp sinh con" mà con khủng long mình rực lửa với đầy hận thù ghen ghét (xem Khải Huyền 12:2) rình chực để nuốt đi con trẻ được bà hạ sinh (xem Khải Huyền 12:4), và "người nữ" được tổng sứ thần Gabiên nghiêng mình cung kính chào "đầy ơn phúc" như chính tên gọi đích thật của "người nữ" trước nhan Thiên Chúa, vì hằng tuyệt đối tin tưởng vào Đấng ở cùng mình (xem Luca 1:45, 28).
"Người nữ" mang tên gọi "đầy ơn phúc" này thực sự đã cho thấy bản thân của một tạo vật đệ nhất về ân sủng này đã được "Chúa ở cùng" (Luca 1:28) ngay từ giây phút được hoài thai trong lòng thai mẫu, nhờ đặc ân vô nhiễm nguyên tội Chúa ban cho, mà còn ở chỗ "người nữ" cũng ở cùng Đấng ở với mình, bằng lòng tin tưởng vào Ngài, như một tỳ nữ xin vâng (xem Luca 1:38), nên luôn "được ơn nghĩa với Thiên Chúa" (Luca 1:30), đến nỗi, mức độ "đầy ơn phúc" của "người nữ" này không phải chỉ ở trong tâm hồn mà còn ở cả nơi thân xác của mình nữa, khi chính thân xác của "người nữ" được "thụ thai và hạ sinh ... Con Đấng Tối Cao", Đấng "sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận" (Luca 1:32-33).
Thế nhưng, vì là "Con Đấng Tối Cao", Đấng được "người nữ" "thụ thai và hạ sinh" và "sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp" ấy không phải thuần loài người, mà chính là "Con Thiên Chúa", đến độ cho dù "người nữ" được Thiên Chúa tuyển chọn làm mẹ của Người cho dù "không hề biết đến nam nhân" (Luca 1:34), vẫn có thể "thụ thai và hạ sinh", vì "Con Đấng Tối Cao" này là Sản Phẩm Thần Linh chính yếu bởi trên cao, đúng như thiên thần đã báo mộng cho vị hôn phu công chính của "người nữ" (Mathêu 1:20-21), và tổng sứ thần Gabiên đã khẳng định: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa" (Luca 1:35).
Nghĩa là, "Con Đấng Tối Cao" cũng chính là "Con Thiên Chúa" mà "người nữ" được "thụ thai và hạ sinh" là một Ngôi Vị Thần Linh có hai bản tính: nhân tính vì là giòng dõi vương đế Đavít, và thần tính vì được tạo thành bởi quyền phép Chúa Thánh Thần. Ngôi Vị Thần Linh này không phải là thuần loài người hay thuần thần linh, mà là Vị Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người: "là Thiên Chúa thật và là người thật" (Kinh Tin Kính), một "mạc khải" thần linh đã "được giữ kín từ đời đời", "nhưng nay được tỏ bày", trước hết và trên hết, ở "một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét" chẳng bao giờ nghe thấy trong Lịch Sử Cứu Độ, và cho "một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria".
Thật ra, "mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời" liên quan đến "mầu nhiệm" Nhập Thể này của Thiên Chúa, theo thời gian và tiến trình "mạc khải" thần linh, đã được từ từ và âm thầm "tỏ bày": trước hết được "tỏ bày" cho hai nguyên tổ nơi bản án nguyên tội của các vị và con cháu của các vị (xem Khởi Nguyên 3:15), sau nữa nơi lời hứa với tổ phụ của dân Do Thái là Abraham về đứa con Isaac theo lời hứa (xem Khởi Nguyên 17:19,21; 22:16-18), và sau đó nơi lời hứa với Vua Đavít khi vua tỏ ý muốn xây đền thờ cho Thiên Chúa như được bài đọc 1 hôm nay cho biết: "Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Lời tiên báo và tuyên hứa này của Thiên Chúa với Vua Đavít qua miệng tiên tri Samuel ở bài đọc 1 trên đây ám chỉ về một Đức Vua thuộc giòng dõi của vua sau này, một Đức Vua không phải chỉ là "Giêsu Nazarét Vua Dân Do Thái" (Gioan 19:19-22), như vị tổng trấn dân ngoại Philatô của đế quốc Roma đã ghi nhận về Đấng ông ra lệnh đóng đinh, mà còn là vua của toàn thể nhân loại nữa, như 3 chiêm vương gia từ đông phương đã theo ngôi sao lạ tìm đến với vị "vua của dân Do Thái mới sinh" (Mathêu 2:2), bởi vì, Ngài là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái, và đồng thời và cũng chính vì thế là Chúa Cứu Thế của nhân loại nữa, Đấng giải thoát toàn thể nhân loại, bao gồm cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và sự chết mà được tái sinh đời đời.
"Mầu nhiệm" nhập thể của Thiên Chúa được "tỏ bày" trong giòng thời gian cho tới tột đỉnh "mạc khải" của "mầu nhiệm" này là chính Chúa Giêsu Kitô, nhất là nơi cuộc Vượt Qua của Người, cũng chính là "mầu nhiệm" về Lòng Thương Xót Chúa, về vị Thiên Chúa là "Cha thương xót trên trời" (Luca 6:36), Đấng đã tự ý muốn nhập thể ngay từ ban đầu khi chưa tạo dựng nên trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình, Đấng cũng đã tự động hứa cứu chuộc loài người ngay sau nguyên tội của họ, Đấng "đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian" (Gioan 3:16), và nhất là "đã không dung tha cho Con Mình, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32).
Đó là lý do mới có bài đáp ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 88 liên quan đến Lòng Thương Xót Chúa, một lòng thương xót bao la bất tận, không bao giờ ruồng bỏ con người, dù con người có bất toàn và xấu xa tội lỗi khốn nạn đến đâu chăng nữa, trái lại, họ càng khốn nạn tội lỗi xấu xa thì lại càng được Ngài thương xót, thứ tha và cứu độ, theo lòng trung thành bất biến như chính bản tính tự hữu và hằng hữu của Ngài, "vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài" (2Timôthêu 2:13):
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ, miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Thứ Hai
21/12
Bài Ðọc I: Dc 2, 8-14
"Ðây người tôi yêu đến, nhảy qua núi".
Bài trích sách Diễm Ca.
Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song.
Này người tôi yêu nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!
"Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xp 3, 14-18a
"Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy sung sướng và hết lòng hân hoan!
Chúa đã rút án phạt ngươi, đã xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi, ngươi không còn lo sợ tai hoạ nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và Sion, chớ buông thả đôi tay! Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng vui mừng vì ngươi, sẽ thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc mừng ngươi, như trong ngày đại lễ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Ðáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vầng Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-45
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể viếng thăm
Hôm
nay là ngày Thứ 4 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh từ ngày 17 đến
24/12, nhưng là ngày Thứ Ba trong Tuần IV Mùa Vọng, phụng vụ lời Chúa vẫn
tiếp tục những bài Thánh Kinh trực tiếp liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của
Chúa Kitô.
Thật vậy, Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, cho dù là Con của Vị "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), cũng là vị "Thiên Chúa vô hình" (Colosê 1:15), nhưng được lời hứa cứu độ ngay sau nguyên tội cho biết là thuộc giòng dõi loài người, giòng dõi người nữ (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, Người cần phải được hạ sinh bởi một người nữ và ở một địa điểm đặc biệt trên trái đất này, chứ không phải từ trời nhẩy xuống hay từ một hành tinh nào tới trái đất đây.
Nếu Chúa Giêsu Kitô lịch sử được sinh ra bởi giòng giống Do Thái thì mẹ của Người cũng phải là một phụ nữ Do Thái, và người nữ ấy, trong bài Phúc Âm hôm nay chính là người nữ được Thánh ký Luca thuật lại cho biết đến thăm viếng người chị họ của mình là Isave, một người chị đã được sứ thần cho biết là "đã thụ thai được 6 tháng" trong biến cố truyền tin ở bài Phúc Âm ngày 20/12 của Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh. Biến cố thăm viếng ngay sau biến cố truyền tin này được Thánh ký Luca trình thuật lại đã xẩy ra như sau:
"Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Isave. Và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: 'Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện'".
Ý nghĩa của bài Phúc Âm Mẹ Maria thăm viếng bà chị họ Isave được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật IV Mùa Vọng hôm nay là Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Vọng ngay trước hay gần đến Đại Lễ Giáng Sinh đây mang một ý nghĩa như thế nào, nếu không phải cho thấy sự hiện diện thật sự của "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) nơi mẹ của Người hay sao, một sự hiện diện thần linh thực sự chứ không phải chỉ che mắt thế gian, một sự hiện diện được chứng thực qua tác dụng thần linh nơi chính cả thai mẫu lẫn thai nhi Gioan qua lời chào của Trinh Nữ Maria Nazarét.
Tác dụng thần linh thứ nhất chứng thực "Lời đã hòa thành nhục thể" trong lòng Trinh Nữ Maria Nazarét xẩy ra nơi chính thai nhi Gioan: "khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà".
Theo các thánh suy diễn thì thai nhi Gioan được khỏi nguyên tội ngay khi còn được thụ thai trong lòng mẹ vào lúc 6 tháng tuổi, lúc "Lời đã hóa thành nhục thể" được Mẹ Maria thụ thai và cưu mang đến thăm thai mẫu của bé. Như thế, tác dụng thần linh đầu tiên của "Lời đã hóa thành nhục thể" nơi cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria là ơn cứu độ của thai nhi Gioan, Vị Tiền Hô Tẩy Giả tương lai của Người, Vị được sai đến để dọn đường cho Người, và chính là tiền thân của Người đóng vai như một "phù rể" (xem Gioan 3:29).
Tác dụng thần linh thứ hai chứng thực "Lời đã hòa thành nhục thể" trong lòng Trinh Nữ Maria Nazarét xẩy ra nơi chính thai mẫu của thai nhi Gioan: "và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần". Không phải hay sao, chính vì được đầy Thánh Linh mà bà chị họ Isave này, cho dù không có mặt trong biến cố truyền tin Lời Nhập Thể với Mẹ Maria, bà cũng đã nói lên tất cả những gì xẩy ra lúc bấy giờ: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?... Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện'".
Mẹ Maria quả thực chẳng hề nói gì với bà chị họ của mình về biến cố truyền tin nói chung và về đặc ân được thụ thai và cưu mang Lời Nhập Thể nói riêng, như chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, cả lời chào của Mẹ cũng chẳng được Thánh ký Luca ghi rõ là gì. Thế mà tự mình, vì được "đầy Thánh Linh", bà chị họ này cũng nhận biết ngay rằng:
1- Mẹ Maria có phúc hơn mọi người nữ kể cả chính bản thân bà!
2- Mẹ đã được thụ thai một Người Con vô cùng cao cả chứ không phải chỉ là một phàm nhân tầm thường;
3- Người em diễm phúc hơn mọi người nữ đang đứng trước mặt bà bấy giờ đã trở thành "Mẹ Chúa tôi";
4- Người em diễm phúc ấy đã hoàn toàn tin tưởng vào những gì được truyền tin, không như phu quân của bà vì ngờ vực nên đã bị câm;
5- Những gì được truyền tin cho người em tin tưởng diễm phúc này chắc chắn sẽ được nên trọn liên quan đến vương quốc vô cùng tận của Người Con cao cả đang được cưu mang trong lòng người em này.
Là Kitô hữu, chúng ta còn diễm phúc hơn thai mẫu và thai nhi Gioan Tiền Hô Tẩy Giả nhiều. Ở chỗ, nhờ Phép Rửa thanh tẩy tái sinh chúng ta đã được lãnh nhận Thánh Linh và nên một với chính Chúa Giêsu Kitô, thậm chí được đồng hóa với Chúa Kitô, đến độ ai phạm đến chúng ta là phạm đến chính Chúa Kitô: "Saulê, Saulê, sao ngươi lại bắt bớ Ta?" (Tông Vụ 9:4). Thế nhưng, chúng ta đã cảm nghiệm thấy Người và tác dụng thần linh của Người nơi chúng ta hay chăng, Đấng đang thực sự sống trong chúng ta nhờ Thánh Thần của Người và muốn tỏ mình ra cho thế gian qua chúng ta?
hay bài dưới đây
21/12
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Dc 2, 8-14
"Ðây người tôi yêu đến, nhảy qua núi".
Bài trích sách Diễm Ca.
Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song.
Này người tôi yêu nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!
"Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xp 3, 14-18a
"Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy sung sướng và hết lòng hân hoan!
Chúa đã rút án phạt ngươi, đã xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi, ngươi không còn lo sợ tai hoạ nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và Sion, chớ buông thả đôi tay! Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng vui mừng vì ngươi, sẽ thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc mừng ngươi, như trong ngày đại lễ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Ðáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vầng Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-45
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể sinh động
Theo thứ tự các bài Phúc Âm trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh từ ngày 17 đến hết 24/12, thì hai ngày đầu theo Phúc Âm Thánh Mathêu và 6 ngày cuối theo Phúc Âm Thánh Luca.
Thật vậy, ngày 17 với bài Phúc Âm của Thánh Mathêu về gia phả của Chúa Giêsu, và ngày 18 với bài Phúc Âm của Thánh Mathêu về biến cố báo mộng cho Thánh Giuse về sự thật Mẹ Maria thụ thai Con Thiên Chúa. Và các bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho những ngày còn lại là: ngày 19 về biến cố truyền tin cho vị tư tế thân phụ của thai nhi Gioan; ngày 20 về biến cố truyền tin Lời Nhập Thể cho Mẹ Maria; ngày 21 về biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng thai mẫu của thai nhi Gioan; ngày 22 về Ca Vịnh Magnificat Ngợi Khen của Mẹ Maria; ngày 23 về biến cố hài nhi Gioan được hạ sinh, và ngày 24 về Ca Vịnh Benedictus Chúc Tụng của vị tư tế thân phụ Zacaria của hài nhi Gioan.
Tuy nhiên, phụng vụ chu kỳ Năm C có một trùng hợp là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Mùa Vọng và bài Phúc Âm cho ngày 21/12 bao giờ cũng trùng nhau, như trong năm 2015, nghĩa là cùng một bài Phúc Âm về biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Thánh Isave cho cả 2 ngày này.
Cho dù có trùng hợp nhưng cùng bài Phúc Âm về biến cố Mẹ Maria thăm viếng thai mẫu của thai nhi Gioan này vẫn mang một ý nghĩa khác nhau theo chung phụng vụ Chúa Nhật IV Mùa Vọng hay riêng ngày 21/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh.
Bài Phúc Âm cho ngày 21/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm nay được tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 20/12, bài Phúc Âm về biến cố truyền tin Lời Nhập Thể cho Trinh Nữ Nazarét Maria. Nếu bài Phúc Âm này, trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng (hôm qua - năm 2015) liên quan đến những tác dụng thần linh nơi cả thai mẫu lẫn thai nhi Gioan để chứng tỏ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria, hay Chúa Nhật IV Mùa Vọng (năm 2020), liên quan đến Mầu Nhiệm được Mạc Khải là Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thế, thì bài Phúc Âm thăm viếng cho ngày 21/12 hôm nay liên quan đến tác dụng thần linh của Lời Nhập Thể nơi chính bản thân của Mẹ Maria, thai mẫu của Lời Nhập Thể.
Thật vậy, nếu "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) và "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban Con Một của Ngài để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16), thì một khi được diễm phúc thụ thai và cưu mang Người, mẹ của Người không thể không được thúc đẩy sống đức ái trọn hảo và để cho Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa tỏ hiện qua đời sống của mình, nơi từng lời nói cũng như nơi mỗi hành vi cử chỉ của mình.
Chứng từ đầu tiên chứng tỏ thực sự "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) nơi Trinh Nữ Nazarét Maria và thực sự hiện diện thần linh trong cung dạ trinh nguyên của Vị Trinh Nữ diễm phúc này, đã được Thánh ký Luca diễn tả ở ngay câu đầu của Bài Phúc Âm hôm nay: "Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa...".
Tác động "Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi", ngay sau biến cố truyền tin Lời Nhập Thể và thụ thai Lời Nhập Thể của Vị Trinh Nữ diễm phúc này chứng tỏ trong Vị Trinh Nữ này có một cái gì hoàn toàn khác lạ và mới lạ, như thể người trinh nữ trẻ trung nghèo hèn quê mùa này đã thực sự được "Quyền Phép Đấng Tối Cao bao phủ" (Luca 1:35), đã được Thánh Linh chiếm đoạt và thôi thúc làm tất cả những gì yêu thương cứu độ như Con Thiên Chúa sẽ làm sau này theo tác động của cùng một Vị Thánh Linh.
Thật vậy, theo kinh nghiệm tu đức cho thấy, tâm hồn nào được Thiên Chúa chiếm đoạt thì: trước hết, không thể ngồi yên, dửng dưng lạnh lùng, mà là ở chỗ, như Mẹ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay: "chỗi dậy"; sau nữa, không thể chậm chạp, băn khoăn do dự, mà là ở chỗ, như Trinh Nữ Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay: "vội vã" mà không hấp tấp hơn là mau mắn; sau hết, không thể khép kín, lo âu ngần ngại, mà là ở chỗ, như bà mẹ trẻ vừa thụ thai trong bài Phúc Âm hôm nay: "ra đi", ra khỏi nhà của mình, ra khỏi con người của mình, và không phải "ra đi" đến một nơi nào gần gũi, mà là đi tới tận những miền xa xôi, những chỗ dốc dác khó đi khó tới nữa, đó là: "tiến lên miền núi".
Chủ trương của vị giáo hoàng đương kim Phanxicô của Giáo Hội Công Giáo Rôma hiện nay hoàn toàn phản ảnh đúng tinh thần của vị thôn nữ Nazarét Maria trinh nguyên trong bài Phúc Âm hôm nay. Bởi vì, ngài luôn nhấn mạnh và thúc đẩy Giáo Hội chẳng những đừng khép kín, mà cần phải liên lỉ mở cửa đón nhận những tâm hồn đáng thương, chẳng những thế, còn phải xông pha ra đi lên đường tìm kiếm họ nữa, và không phải chỉ đi đến những nơi gần gần và dễ dàng, mà phải đến tận những nơi hẻo lánh xa xôi nhất (peripheries), về cả nhân bản lẫn địa dư, nghĩa là phải chú trọng tới những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem Mathêu 25:40,45), cho dù Giáo Hội có bị lem luốc và bầm dập gây ra bởi những thứ xuyên tạc, chụp mũ, vu khống và bôi nhọ của thành phần bảo thủ thiên kiến đầy thiển cận và mù tối, như chính bản thân của ngài đã và đang trở thành nạn nhân của họ.
Hình ảnh của vị thai mẫu trinh nguyên "Maria chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi" để thực hiện một tác động đức ái trọn hảo trong bài Phúc Âm hôm nay ấy đã hiện lên trong Sách Diễm Tình Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay, như một người tình tuyệt vời duyên dáng dễ thương nhất của Thánh Linh:
"Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song. Này người tôi yêu nói với tôi: 'Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến! Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi'".
"Người tôi yêu" trong Bài Đọc 1 hôm nay đây là ai, nếu không phải là Thánh Linh, Vị Thần Linh không có hình dạng như Chúa Kitô, mà chỉ là Đấng luôn âm thầm kín đáo trong nội tâm của linh hồn, như thể "người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song".
Nhưng thật ra Ngài không phải chỉ là một bóng hình hay bóng ma hoang tưởng không có thật, mà là một Vị Thần Linh sinh động, là một linh hứng đầy quyền lực thúc đẩy tác hành: "Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! ... Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!" Và Ngài mong tác động thần linh của Ngài được tâm hồn Ngài tuyển chọn nhiệt liệt hưởng ứng và mau mắn đáp ứng xứng với và trọn vẹn những gì Ngài làm: "Bồ câu ta nấp trong hốc đá, ẩn trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt nàng, tiếng nàng hãy vang lên thánh thót ở tai ta, vì tiếng nàng thì êm ái, nét mặt nàng lại xinh tươi'".
Còn ai là người tình lý tưởng của Thánh Linh như Trinh Nữ Nazarét Maria hay bằng Vị Trinh Mẫu Diễm Phúc hơn mọi người nữ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay chứ! Mẹ chính là "bồ câu" của Vị Tình Nhân Thánh Linh, nghĩa là Mẹ tràn đầy Thánh Linh, vì "bồ câu" là biểu hiệu cho Thánh Linh (xem Luca 3:22), nhờ Mẹ sống rất khiêm hạ và tuyệt đối tin tưởng vào Ngài, như thể "nấp trong hốc đá, ẩn trong kẹt ghềnh", khiến cho Thánh Linh lại càng say mê Mẹ hơn ai hết và hơn bao giờ hết, đến độ rất mong muốn được "thấy mặt nàng" và được nghe "tiếng nàng".
Tác động tràn đầy Thánh Linh của Mẹ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay khiến Mẹ "chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa..." hoàn toàn bộc lộ cho thấy tâm hồn của Mẹ "hân hoan mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi" (Luca 1:47), những tâm tình được chất chứa và vang vọng trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người.
(Lễ Nhớ ngày 27 tháng 4 theo Lịch Phụng Vụ Dòng Tên; Lễ nhớ ngày 21 tháng 12 theo Lịch Phụng Vụ của Giáo Hội)
1. Đavít và Goliat.Ngày
13.11.1549, linh mục Phêrô Kanis đến đại học Ingolastadt ở miền Nam nước Đức
để nhận chức giáo sư thần học. Một học giả Tin lành đã gọi đó là “ngày đánh
dấu một khúc quanh trong lịch sử nước Đức”. Quả thật, thánh Phêrô Kanis là
một con người đã làm nên lịch sử. Bộ mặt tôn giáo của nước Đức đã thay đổi
sâu xa từ khi vị linh mục Dòng Tên 28 tuổi ấy chính thức bắt tay vào việc
hoạt động trong phong trào Phục Hưng Giáo Hội Công Giáo.
Vào cuối thời Trung Cổ, đời sống đức tin cũng như luân lý trong Giáo Hội sa sút rất nhiều. Vì lý do này hay lý do khác, hàng giáo sĩ thường lo việc thế gian hơn là lo việc nhà Chúa. Giáo dân vì thế hầu như bị bỏ mặc làm mồi cho mọi thứ đam mê và dị đoan. Ai cũng ước mong một cuộc phục hưng toàn diện, nhưng cả tình trạng chính trị bên ngoài cũng như cơ cấu tổ chức bên trong của Giáo Hội đều không cho phép.
Nhiều cố gắng của những người thiện chí đã chuốc lấy thất bại. Đầu thế kỷ XVI, tiến sĩ Martin Luther đứng lên khởi xướng Phong Trào Cải Cách, ly khai với Tòa Thánh, tạo nên một thời khủng hoảng sâu rộng chưa từng có trong lịch sử Giáo hội. Là quê hương của phong trào Cải cách Tin lành, Giáo Hội Đức lung lay đến tận gốc rễ.
Đã hẳn là những người con trung tín của Giáo Hội không thể ngồi yên nhìn người mẹ thân yêu chết dần chết mòn. Nhiều tâm hồn nhiệt thành dồn hết mọi nỗ lực vào việc canh tân Giáo Hội, tạo nên phong trào Phục hưng, hy vọng cứu nước Đức khỏi cơn hồng thủy. Viện đại học Ingolsstadt trong nhiều năm trời đã là một trung tâm quan trọng của phong trào Phục hưng. Linh mục Gioan Eck là một nhà thần học và hùng biện lỗi lạc dẫn đầu phong trào Phục hưng tại đây. Người ta gọi ngài là Đavít của phong trào Cải cách nhiều lần phải lùi bước.
Nhưng năm 1543, Đavít của Ingolstadt qua đời, trong khi Gôliát vẫn lớn mạnh như sắp ăn tươi nuốt sống nước Đức. Phong trào Phục hưng mất một lãnh tụ hạng nhất, và đại học Ingolstadt mất hết sức sống. Hay Gioan Eck chỉ là Saolê và người ta còn phải đợi Đavít đến?
Khi cha Phêrô Kanis đến nhận chức, viện đại học chỉ còn vỏn vẹn 15 sinh viên thần học. Người ta không biết tương lai nào đang chờ đón ngài ở đây. Ngoài giờ dạy thần học, ngài cũng đi giảng thuyết đó đây trong thành phố. Và hơn một lần, ngài đã đến nhà thờ trước những hàng ghế vắng vẻ đến trơ trẽn. Trước thử thách lớn lao, thánh Kanis đã không chùn bước. Trái lại, với lòng tin sắt đá và với kinh nghiệm những năm học được ở thành phố Kohl miền Bắc nước Đức, thánh nhân kiên quyết bắt tay vào việc.
2. Trường Tông đồ.
Năm 15 tuổi, thánh nhân được gia đình gởi đến Kohl để trau dồi học vấn. Thành phố văn vật thời danh này đã góp phần không nhỏ vào việc hùng biện con ông thị trưởng Nijmegen nước Hòa Lan thành một chiến sĩ xuất sắc của phong trào Phục Hưng. Thật vậy, khi đến Kohl, Phêrô Kanis lúc đó còn là một cậu bé tinh nghịch và phóng túng. Mẹ mất từ nhỏ, cha tối ngày bù đầu vì công vụ, thánh nhân trải qua một thời thơ ấu không đáng lấy làm hãnh diện mấy. Được thỏa lòng, cậu bé chạy theo bản năng tự nhiên và đua đòi chúng bạn học tập những thói xấu của tuổi trẻ.
Nhưng đến Kohl, thánh nhân quen với một linh mục thánh thiện, nhờ đó, ngài được giúp đỡ rất nhiều về đời sống thiêng liêng. Hơn nữa, thánh nhân còn kết thân với các đan sĩ Chartreux và nhiều tâm hồn nhiệt thành khác trong thành phố. Trong bầu không khí đạo đức ấy, thành nhân bắt đầu nghiền ngẫm Tin Mừng và hạnh các thánh.
Thể theo ý ông thị trưởng muốn cho cậu con trai đầu lòng yêu quí vững bước trên đường công danh, năm 18 tuổi, thánh nhân sang thành phố Louvain nước Bỉ để học luật. Nhưng chẳng bao lâu sau, ngài trở lại Kohl để học thần học: thánh nhân đã quyết định dâng mình cho Chúa làm linh mục để phục vụ Giáo Hội.
Đầu năm 1543, thánh nhân nghe nói đến một linh mục khôn ngoan và thánh thiện tên là Phêrô Favre đang ở Mainz cách Kohl chừng 150 cây số, ngài quyết định lên đường đi tìm gặp cha Favre để bàn hỏi về ơn gọi. Sau khi sốt sắng làm linh thao với Chân phước Phêrô Favre, thánh nhân tuyên khấn vào Dòng Tên, một dòng vừa mới thành lập được hơn 2 năm. Hôm đó là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 22 của thánh nhân.
Trở về Kohl với con người mới, thánh nhân sống với một nhóm anh em trong Dòng và tiếp tục học thần học. Vừa tu luyện về thiêng liêng, vừa học hành, vừa viết sách, vừa giảng thuyết, dù còn trẻ, chẳng bao lâu thánh nhân đã trở thành một nhân vật tên tuổi của thành phố. Khi vị Tổng Giám mục ở Kohl ngả theo Tin lành, thánh nhân tuy mới 24 tuổi đã được chọn làm đại diện thành phố để dàn xếp. Kết quả vị Tổng Giám mục bị Toàn Thánh và Hoàng đế cách chức. Từ đây, lần đầu tiên tiếng Giêsu hữu được dùng để gọi một tu sĩ Dòng Tên. Lúc đó tiếng này hàm ý mỉa mai là phường xảo trá, quân giả hình, một Giêsu giả hiệu. Tuy nhiên, thánh nhân và sau này cả Dòng Tên, đã nhận lấy danh xưng này như một tước hiệu vinh dự, vì trong đó có Tên Vị Thủ Lãnh Chí Thánh.
Năm 1546, thánh nhân lãnh sứ vụ linhh mục tại Kohl. Tuy còn trẻ vì mới 25 tuổi, danh tiếng thánh nhân đã đồn xa, nên chỉ năm sau, Hồng y Tổng Giám mục ở Augsburg đã chọn ngài làm cố vấn thần học và thay mặt đi dự công đồng Trentô. Nhưng mới họp lại được ít lâu, một lần nữa, công đồng lại phải hoãn vô thời hạn. Thánh nhân được cha Tổng Quản I-nhã gọi về Rôma để hoàn tất chương trình thiêng liêng. Sau một thời gian dạy Latinh vỡ lòng cho trẻ em ở đảo Sicilia, thánh nhân được gọi về Rôma khấn trọng, rồi hoàn tất luận án tiến sĩ thần học trước khi chính thức lên đường nhận nhiệm sở tại Ingolstadt.
3. Hành trình tông đồ
Với kinh nghiệm 10 năm ở Kohl, thánh Phêrô Kanis ý thức rõ ràng tình trạng ở Đức. Muốn phục hưng toàn diện, phải chấn hưng đời sống đức tin và luân lý từ hàng giáo phẩm cho đến giáo dân. Và từ Ingolstadt, thánh nhân đã bắt tay vào việc. Có thể nói ngài sinh ra là để lãnh đạo Phong trào Phục hưng. Cùng ngày 8.5.1521 khi thánh nhân mở mắt chào đời tại Hòa Lan, thì tại Đức tiến sĩ Luther dứt khoát ly khai với Giáo Hội Công giáo để thành lập Giáo hội Tin Lành. Ít hôm sau, ở Tây Ban Nha, hiệp sĩ I-nhã bị thương, khởi đầu cuộc trở lại thời danh của ngài. Thật là một trường hợp kỳ diệu, vì chính đây là Ba khuôn mặt lớn của sân khấu lịch sử Giáo hội vào thế kỷ XVI nhiều biến động.
Trừ ngày đến Ingolstadt, cuộc đời và hoạt động của thánh Phêrô Kanis gắn liền với Giáo hội Đức. Chúng ta không biết phải dùng đến bao nhiêu giấy mực mới có thể thuật lại quãng đường 30 năm trời ấy. Có lẽ, để giúp chúng ta có một ý tưởng lờ mờ về những hoạt động của ngài trong thời gian ấy là nhìn những đoạn đường ngài đã đi qua, những thành phố ngài đã tới. Phải nhận rằng thánh nhân là một trong vài Giêsu hữu di chuyển nhiều nhất vào thời Dòng mới khai sinh, có lẽ chỉ thua thánh Phanxico Xavier. Hầu như trong khắp nước Đức, Áo, Ba Lan, Tiệp Khắc, Ý, thành phố nào cũng mang dấu chân ngài. Nếu lập được bản đồ về các chuyến đi của thánh nhân, có lẽ chẳng khác gì một cái màng nhện chi chít, chỉ những chuyển đi đáng kể cộng lại cũng đủ đưa thánh nhân đi được một vòng quanh trái đất. Còn những chuyến đi ít quan trọng hơn thì nhiều vô kể. Điều đáng lưu ý là ít khi ngài dùng ngựa hay xe, hầu hết là đi bộ.
Đôi chân của vị tông đồ lúc nào cũng sẵn sàng cất bước. Bất cứ ở đâu Giáo hội cần đến, ngài liền có mặt. Đi giảng cho giáo dân, đi họp hội nghị với anh em Tin lành, đi dự Công đồng, đi vận động mở trường học, đi lo việc riêng do Tòa thánh ủy thác, đi yết kiến các vua chúa, đi gặp gỡ anh em trong Dòng, đi dạy giáo lý cho trẻ em… hình như lửa nhiệt thành nhà Chúa không cho phép ngài dừng chân bao giờ. Làm bề trên, nhà giáo dục, nhà thần học, nhà ngoại giao, người trung gian, cố vấn các triều đình và các giám mục; đại diện Tòa thánh, coi sóc giáo phận… việc gì ngài cũng hăm hở và miệt mài, chỉ thấy trước mắt Giáo Hội thân yêu của Chúa Ki-tô. Mỗi thành phố đối với ngài chỉ là một trạm dừng chân.
4. Lửa nhiệt thành nhà Chúa
a. Giảng thuyết
Thánh Phêrô Kanis được coi là một nhà giảng thuyết không biết mệt. Với trí khôn sắc sảo và lòng nhiệt thành, ngài đi khắp nơi để gieo hạt giống Tin mừng. Có thể nói khắp nước Đức và Áo, ai cũng được nghe thánh nhân giảng. Dù không có tài hùng biện tự nhiên như tiến sĩ Luther, thánh nhân vẫn can đảm lên tòa giảng, đem theo mình một đức tin sắt đá, một đức cậy bền vững, và một lòng mến như lửa bùng cháy. Ngài giảng ở kinh đô, ở các thành phố lớn, và ngay cả trong những thôn xóm hẻo lánh ở đồng quê. Ngài giảng cho giáo dân, cho tu sĩ, cho hàng giáo sĩ, cho đủ mọi hạng người, từ những nhà trí thức đến những nông dân mộc mạc. Ở Đức và Áo lúc ấy, nhiều giáo phận có hàng mấy trăm giáo xứ không có linh mục, thánh nhân tự nguyện đi hết xứ này tới họ khác để đem Lời Chúa đến cho tất cả mọi người. Khi ở Ingolstadt, thánh nhân được mời giảng thường trực mỗi Chúa nhật và Lễ trọng tại nhà thờ Chính tòa. Ở Viên, người ta “bở ngỡ vì lòng nhiệt thành nóng bỏng của thánh nhân đối với việc giúp đỡ các linh hồn.” Ở Praha “người lạc giáo nể sợ các bài giảng của ngài.” Ở Regensburg, viên khoa trưởng thần học viết cho ngài: “Không thể tá được ở đây người ta mong chờ cha đến thế nào.” Ở Worms, sau khi nghe thánh nhân giảng, “dân chúng chen lấn nhau để nhìn mặt ngài, như thể họ đi xem một vị hoàng đế.” Ở Augsburg, các bài giảng của thánh nhân được coi là “thành công quá lòng mong ước của phong trào cải cách Tin lành, gần 90% dân chúng đã bỏ Giáo hội Công giáo ngay từ đầu. Khi giảng lần đầu tiên vào một Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa, thánh nhân không có được lấy 50 người nghe. Nhưng chẳng bao lâu sau, nhà thờ đã trở thành nhỏ bé vì số người dự lễ tăng lên thật mau. Ngày nay, gần 90% dân Augsburg đã trở về với Giáo Hội. Đó là một trường hợp điển hình cho nhiều trường hợp khác. Hiện nay, chúng ta còn giữ được chừng 2.000 bài giảng của thánh nhân, đóng chung thành 30 cuốn sách lớn.
b. Nhà giáo dục
Ý thức tầm quan trọng của việc đào tạo một lớp giáo dân và một hàng giáo sĩ vừa có học thức vừa sống đức tin mãnh liệt, thánh Phêrô Kanis có lẽ chiếm giải quán quân về việc mở trường học. Mở một trường không phải là chuyện một sớm một chiều. Phải thương lượng với nhà cầm quyền, tìm nguồn lợi tức, kiếm giáo sư, gây ý thức trong dân chúng và học sinh. Vậy mà thánh nhân đã đích thân thành lập ít là 24 học viện. Nguyên việc lo mở bấy nhiêu học viện cũng đáng là công việc của mấy đời người. Dù sao, những trường công giáo mọc lên khắc nơi. Tuổi trẻ được huấn luyện về học vấn, về đức tin, về đạo đức. Tương lai Giáo Hội tùy thuộc khá nhiều ở những trường này. Đây cũng là vườn ươm các mầm non ơn gọi. Cả đời thành Phêrô Kanis những ao ước tạo lập một thế hệ những người nô bộc xứng đáng của dân Chúa. Từ các trường học được tổ chức chu đóa, đã nảy nở và lớn mạnh lên những lớp người vừa thông thái vừa đạo đức dấn thân vào địa hạt tông đồ. Thánh nhân xứng đáng được gọi là cha của nhiều thế hệ tại Đức.
Như những chốt của Phong trào Phục hưng, các học viện khắp nơi đã đem dến cho cả Giáo hội Đức một làn sinh khí mới, Giáo hội vươn mình khỏi vũng lầy để vững mạnh tiến lên.
c. Nhà văn
Thánh Phêrô Kanis là Giêsu hữu đầu tiên có xuất bản sách. Hồi còn tại Kohl, vào thời gian lãnh sứ vụ linh mục, thánh nhân đã cho xuất bản tác phẩm của thánh Xi-ri-lô thành Alexandria và thánh Lêô cả. Qua những tác phẩm này, chẳng những thánh nhân muốn trình bày học thuyết của các Giáo phụ, mà còn muốn kêu gọi các vị chủ chăn trong Giáo Hội noi gương các thánh về đời sống đức tin cũng như bổn phận đối với Giáo Hội.
Vào khoảng năm 1560, người Tin Lành cho xuất bản một bộ sách khổng lồ thu góp mọi thứ trong lịch sử để triệt hạ Giáo Hội Công giáo. Theo lệnh của Đức thánh Giáo hoàng Piô V, thánh Phêrô Kanis phải soạn một bộ sách trình bày một cách trung thực Giáo lý công giáo cho những tâm hồn ngay chính. Thánh nhân dự tính viết một bộ sách gồm 3 cuốn: cuốn thứ nhất về thánh Gioan Tẩy giá, để trả lời người Tin lành cho rằng vị thánh này là tiền hồ của phong trào Tin lành; cuốn thứ hai về Đức Mẹ thường bị họ công kích; cuốn thứ ba về thánh Phêrô và quyền Giáo hoàng mà họ phủ nhận. Như thế, bộ sách sẽ trả lời hầu hết những điểm then chốt mà người Tin lành chỉ trích. Nhưng sau khi 2 cuốn đầu tổng cộng hơn 1.000 trang được xuất bản và đón tiếp nồng nhiệt khắp nơi, Đức Thánh Cha đã miễn cho thánh nhân soạn cuốn thứ ba, vì ngài quá bận rộn và mệt mỏi.
Nhưng tác phẩm quan trọng nhất của thánh nhân là bộ sách giáo lý. Phải giúp đỡ thanh thiếu niên hiểu biết đức tin mới có thể đứng vững trước những cơn sóng gió. Trước hết, thánh nhân soạn bộ “Tổng luận giáo lý” danh cho các học sinh lớn, gồm 4 cuốn, dày tổng cộng hơn 2.200 trang, xuất bản năm 1555. Tiếp theo, thánh nhân soạn một cuốn gọi là “giáo lý nhỏ” dành cho thiếu niên. Cuối cùng năm 1558, ngài xuất bản cuốn “giáo lý tóm lược”. Chính đây là cuốn sách nổi tiếng nhất của ngài. Chỉ trong một thế kỷ, vào thời mới phát triển nghề in, cuốn giáo lý của ngài được xuất bản tới 400 lần, và được dịch ra hàng chục thứ tiếng, kể cả tiếng Hy lạp, Ấn độ và Nhật bản. Tên ngài gắn liền với cuốn sách đến nỗi ở Đức người ta dùng để gọi sách giáo lý.
Vậy là thanh thiếu niên khắp nơi được học biết tường tận giáo lý, xây dựng nền móng vững chắc cho việc phục hưng Giáo Hội.
Khó có thể định rõ ràng thành công của thánh Kanis đến mức nào. Nhiều người đã cho rằng nếu Giáo Hội ở Đức, Áo, Balan, Tiệp khắc lúc đó còn đứng vững và tìm lại được sức sống một phần lớn là nhờ thánh nhân. Cùng với thánh Bôniphaxiô đã đem Tin Mừng đến cho nước Đức, thánh Kanis được gọi là tông đồ nước Đức vì đã giúp Giáo Hội Đức trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu.
5. Giêsu hữu
Nhưng trong tất cả mọi điều chúng ta vừa nói trên đây, chúng ta thể tóm tắt: Thánh Kanis là tông đồ với nét đặc trưng của một Giêsu hữu. Trong số các Giêsu hữu thuộc thế hệ đầu tiên, và có lẽ trong mọi thế hệ, thánh nhân là người đã thực hiện sự hòa hợp kỳ diệu hơn ai hết giữa đời sống cầu nguyện, đời sống trí thức, và đời sống tông đồ, mà thánh I-nhã coi là lý tưởng của một bạn đường đích thực của Chúa Giêsu. Giữa những ngày tháng trăm công ngàn việc, thánh nhân vẫn trung thành với những giờ cầu nguyện hằng ngày, và nhiều khi bị thánh I-nhã quở trách vì cầu nguyện quá nhiều giờ. Khi được đề cử làm Tổng giám mục giáo phận Viên, ngài đã từ chối để tự do lo cho một Giáo Hội rộng lớn hơn. Luôn luôn đặt nhu cầu Giáo Hội phổ quát khi phải bắt tay vào công việc khẩn thiết hơn. Trong cuốn “Trần tình” và hơn 7.500 trang thư ngài để lại, chúng ta thấy đây là một con người thật nhân bản và hết sức siêu nhiên. Ngài thân thiết với Chúa như con với cha, ngài thân thiết với mọi người như anh em ruột thịt. Những năm cuối đời, ngài về sống tại Fribourg Thụy sĩ, nơi ngài thành lập học viện cuối cùng trong đời tông đồ. Mỏi mòn sau những năm tháng xả thân vì Giáo Hội, thanh nhân dành những năm cuối đời để dạy giáo lý cho trẻ em . Sau bao năm trời oanh liệt giữa những môi trường vinh dự, nay thánh nhân vui vẻ bên các thiếu nhi mà suốt đời ngài hằng quí mến. Một trong những việc cuối cùng ngài làm là sửa lại sách giáo lý của ngài “để các cháu bé dễ đọc hơn”. Đến khi không thể viết lách hay giảng dạy nữa, ngài dành lấy việc quét nhà, rửa chén, với “đôi tay run run”. Cuối cùng ngài liệt giường và thanh thản về nhà Chúa ngày 21.12.1597, thọ 78 tuổi.
Đến miền Nam nước Đức cuối năm 1549 với bậc đàn anh, chỉ 30 năm sau, thánh Phêrô Kanis đã xây dựng từng anh em như người ruột thịt. Tiếp tục công việc của thanh nhân khởi sự, chỉ một thời gian sau, ở Đức đã có 2.500 anh em Giêsu hữu hoạt động trong 120 học viện.
Dòng Tên đã không được lập ra để chống lại Phong trào Cải cách Tin Lành như nhiều người lầm tưởng, nhưng Chúa qua phòng đã dùng những người con nhiệt thành của Dòng để giúp hàng triệu tín hữu trung thành với Đức Kitô và Giáo Hội Ngài. Nếu trong thế hệ đầu tiên của Dòng Tên, thánh Phanxicô Xavier chói sáng một tông đồ giữa dân ngoại, thì thánh Phêrô Kanis cũng nổi bật trong vai trò tông đồ giữa tín hữu. Và cả hai vị thánh đều chỉ tha thiết một điều là xả thân để thấy khuôn mặt Đức Kitô thành hình trong thế gian nhờ Giáo Hội.
Ngài được Đức Thánh Cha Piô XI tuyên thánh và ban danh hiệu thánh sư năm 1925. Cùng với thánh Bôniphaxiô, ngài được gọi là Tông đồ nước Đức.
https://dongten.net/2011/05/10/thanh-phero-canisio/
Thánh Peter Canisius
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Huấn Từ Triều Kiến Chung Thứ Tư 9/2/2011
Bài 131 Giáo Lý Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay tôi muốn nói cùng anh chị em về Thánh Peter Kanis, Canisius là danh hiệu của ngài ở tiếng Latinh, một nhân vật quan trọng của Công giáo trong thế kỷ 16. Ngài vào đời ngày 8/5/1521, ở Nijmegen, Hòa Lan. Cha ngài là vị thị trưởng của thành phố này. Khi còn là một sinh viên ở Đại Học Cologne, ngài thường đến thăm các đan sĩ Carthusan ở Saint Barbara – một trung tâm đang thăng hoa của đời sống Công giáo – và thành phần nam nhân đạo hạnh khác vun trồng thứ linh đạo được gọi là lòng tôn sùng tân tiến. Ngài đã vào Dòng Tên ngày 8/5/1543 ở Mainz (Rhineland-Palatinate), sau khi theo học một khóa linh thao dưới sự hướng dẫn của Chân Phước Peter Faber, Petrus Faber, một trong những đồng bạn của Thánh Ignatius of Loyola. Ngài dược thụ phong linh mục vào Tháng 6/1546 ở Cologne và ngay năm sau ngài đã tham dự Công Đồng Chung Triđentinô như là một thần học gia với giám mục ở Augusta là Hồng Y Otto Truchsess von Waldburg, nơi ngài đã hợp tác với hai vị huynh đệ Diego Laínez and Alfonso Salmerĩn.
Vào năm 1548, Thánh Ignatius đã sai ngài đi để hoàn tất việc huấn luyện
thiêng liêng của ngài ở Rôma và rồi sai ngài đến College of Messina để ngài
đích thân thực thi những việc phục vụ thường hèn trong nhà. Ngài đạt được
bằng tiến sĩ về thần học ở Bologna. Vào ngày 4/10, ngài được Thánh Ignatius
ủy thác cho việc hoạt động tông đồ ở Đức quốc. Vào ngày 2/9 năm 1549, ngài
đã triều kiến Đức Giáo Hoàng Phaolô III ở Castel Gandolfo sau đó ngài đến
Đền Thờ Thánh Phêrô cầu nguyện. Ở đây, ngài van xin sự trợ giúp của các vị
đại Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, để mang lại hiệu quả mãi mãi cho Phép
Lành Tòa Thánh đối với thân mệnh quan trọng của ngài, sứ vụ mới của ngài.
Ngài đã viết trong cuốn nhật ký một số lời lẽ về việc cầu nguyện này. Ngài
nói: “Ở đó, nhờ những vị chuyển cầu này, tôi cảm thấy hết sức an ủi và có
được hiện diện của ân sủng. Các vị khẳng định sứ vụ của tôi ở Đức quốc, và
các vị dường như truyền sang cho tôi, với tư cách là tông đồ Đức quốc, sự
trợ giúp của lòng ưu ái các vị. Lạy Chúa, Chúa biết rằng cùng ngày hôm đó
qua bao nhiêu là cách thức và biết bao nhiêu lần Chúa đã ủy thác Đức quốc
cho con, một đất nước sau đó con chăm sóc và con muốn sống chết vì đất nước
này”.
Chúng ta cần phải nhớ rằng chúng ta bấy giờ ở vào thời điểm của cuộc Cải Cách của Luthêrô, ở vào thời điểm đức tin Công giáo trong các xứ sở nói tiếng Đức, trước cuộc thu hút của cuộc Cải Cách này, dường như bị mai một đi. Công việc được ủy thác cho Thánh Canisius hầu như không thể nào trở thành khả dĩ, vì ngài có trách nhiệm làm tái sinh động, bằng việc canh tân đức tin Công Giáo ở các xứ sở nói tiếng Đức. Vấn đề chỉ có thể thực hiện bằng quyền năng của việc nguyện cầu. Nó chỉ có thể xuất phát từ tâm điểm, tức là từ mối thân tình sâu xa riêng tư với Chúa Giêsu Kitô; mối thân tình với Chúa Kitô nơi thân mình của Người là Giáo Hội, mối thân tình được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể là sự hiện diện thực sự của Người.
Tuân theo sứ vụ lãnh nhận từ Thánh Ignatius cũng như từ Đức Giáo Hoàng Phaolô III, Thánh Canisius đã lên đường đi Đức quốc và trước tiên tới lãnh địa của công tước ở Bavaria, nơi ngài thi hành thừa tác vụ của mình mấy năm trời. Là koa trưởng, viện trưởng và phó chưởng ấn Đại Học ở Ingolstadt, ngài coi sóc sinh hoạt hàn lâm của cơ cấu này cũng như việc canh tân đạo đức và luân lý của dân chúng. Ở Vienna, nơi ngài đã đảm nhận việc quản trị một thời gian ngắn, ngài đã thi hành thừa tác mục vụ của ngài ở các bệnh viện và nhà giam, cả trong thành phố lẫn ngoài miền quê, và ngài đã sửa soạn phát hành cuốn giáo lý của ngài. Vào năm 1556 ngài đã thành lập College of Prague, và cho tới năm 1569, ngài là vị bề trên tiên khởi của tỉnh dòng Tên ở Thượng Vùng Đức quốc.
Với vai trò này của mình, ngài đã thiết lập ở các xứ sở Đức quốc một hệ thống vững chắc cho các cộng đồng dòng của mình, nhất là các học viện là những khởi điểm cho việc Cải Cách Công giáo, cho việc canh tân đức tin Công giáo. Vào lúc ấy ngài cũng tham dự cuộc hội luận ở Worms với các nhà lãnh đạo Thệ Phản, trong đó có Philipp Melanchthon (1557); ngài đã tham dự vào hai Hội Nghị Augusta Diets (1559 và 1565); ngài đã tháp tùng Đức Hồng Y Stanislaw HoỮusz, vị đại biểu của Đức Piô IV sai đến với Hoàng Đế Ferdinand (1560); ngài đã can thiệp vào khóa họp cuối cùng của Công Đồng Chung Triđentinô khi ngài nói về vấn đề Hiệp lễ hai hình và về Danh Sách Các Sách Cấm (1562).
Vào năm 1580, ngài đến Fribourg ở Tụy Sĩ, hoàn toàn dấn thân cho việc giảng dạy và biên soạn. Ngài đã qua đời ở đó ngày 21/12/1597. Ngài được Đức Piô IX phong chân phước năm 1864 và vào năm 1897 ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên nhận là vị đệ nhị quan thày của Đức quốc, và Đức Piô XI vào năm 1925 đã phong hiển thánh cho ngài và tuyên nhận ngài là một trong những vị tiến sĩ của Giáo Hội.
Thánh Peter Canisius đã trải qua phần lớn đời mình trong việc giao tiếp với những con người có tầm vóc quan trọng nhất về xã hội vào thời của ngài và đã gây được một ảnh hưởng đặc biệt với các văn bản của mình. Ngài là vị biên soạn trọn vẹn các tác phẩm của Thánh Cyril thành Alexandria và của Thánh Lêô Cả, các Bức Thư của Thánh Giêrônimô và những lời Cầu Nguyện của Thánh Nicholas of Flue. Ngài đã phát hành những cuốn sách đạo đức bằng mấy ngôn ngữ, các tiểu sử của một số Thánh nhân Thụy Sĩ cùng nhiều bài giảng. Tuy nhiên, những bản văn quảng bá nhất của ngài là ba cuốn giáo lý được ngài biên soạn giữa những năm 1555 và 1558. Cuốn thứ nhất cho các sinh viên để có thể hiểu những quan niệm căn bản về thần học; cuốn thứ hai cho những đứa con trai con gái trong dân chúng cần đến những hướng dẫn ban đầu về đạo; cuốn thứ ba cho thanh thiếu niên theo chương trình học đường ở cấp trung học. Giáo huấn Công giáo được dẫn giải bằng những câu vấn đáp, ngắn gọn, với những từ ngữ thánh kinh, hết sức rõ ràng và không bình luận. Nguyên trong thời gian ngài còn sống số ấn bản đã lên tới 200 lần cuốn giáo lý này! Và cả hằng trăm ấn bản nữa theo nhau cho đến thế kỷ 20. Bởi vậy ở Đức quốc, cho tới thể hệ cha của tôi, dân chúng đã gọi cuốn giáo lý này ngắn gọn là Canisius: Ngài thực sự là giáo lý viên của các thế kỷ; ngài đã hình thành đức tin của dân chúng qua các thế kỷ.
Đây là một đặc tính của Thánh Peter Canisius: đó là có thể đúc kết một cách hòa hợp lòng trung thành với các nguyên tắc tín điều với sự tôn trọng hết mọi người. Thánh Canisius đã phân biệt một thứ bỏ đạo có ý thức và mắc tội với việc mất đức tin vô tội tùy theo các trường hợp. Và ngài đã tuyên bố trước Rôma rằng phần đông người Đức bỏ sang Thệ Phản không có lỗi. Ở vào giây phút lịch sử xẩy ra những chống đối mãnh liệt về niềm tin, ngài đã tránh – đây là một điều đặc biệt – cái thô lỗ và thuật ngữ của niềm giận dữ thới ấy trong những cuộc bàn luận giữa các Kitô hữu, một điều hiếm thấy như tôi đã nói – và ngài chỉ chú ý tới việc trình bày những căn gốc thiêng liêng cũng như đến việc làm tái sinh động đức tin của Giáo Hội. Kiến thức bao rộng và thấu đáp của ngài về Thánh Kinh cũng như về các vị giáo phụ của Giáo Hội đã giúp ngài làm việc ấy: cũng những kiến thức ấy đã nâng đỡ mối liên hệ riêng tư của ngài với Thiên Chúa và cái linh đạo khổ chế được ngài chuyển hóa từ lòng tôn sùng tân tiến và khoa thần bí Rhenish.
Đặc tính của linh đạo Thánh Canisius là một mối tình thân hữu cá biệt sâu xa với Chúa Giêsu. Chẳng hạn, vào ngày 4/9/1549, ngài đã viết trong nhật ký của mình khi ngài thân thưa cùng Chúa rằng: “Cuối cùng, như thể Chúa đã mở cho con con tim của Thân Mình Chí Thánh, một con tim con dường như thấy trước mắt, Chúa đã truyền cho con uống từ nguồn mạch ấy, khi mời gọi con, có thể nói, đạt tới những giòng nước cứu độ của con từ những mạch nguồn của Chúa, Ôi Đấng Cứu Độ con”. Thế rồi ngài thấy rằng Đấng Cứu Thế đã ban cho ngài một tấm áo có 3 phần được gọi là bình an, yêu thương và kiên tâm. Và với tấm áo được làm nên bởi bình an, yêu thương và kiên tâm này, Thánh canisius đã thi hành công việc canh tân Công giáo của mình. Mối thân tình của ngài với Chúa Giêsu – mối thân tình là tâm điểm của bản chất ngài – đã được nuôi dưỡng bằng lòng yêu mến Thánh Kinh, bằng lòng mến yêu Bí Tích, bằng lòng yêu mến các vị Giáo Phụ, mối thân hữu này rõ ràng là được liên kết với việc nhận thức mình là người tiếp tục sứ vụ của các Tông Đồ trong Giáo Hội. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng hết mọi nhà truyền bá phúc âm hóa bao giờ cũng là một dụng cụ được liên kết với Chúa Giêsu cũng như với Giáo Hội, nhờ đó mới sinh hoa kết trái.
Thánh Peter Canisius được khuôn đúc mối thân tình của ngài với Chúa Giêsu nơi môi trường thiêng liêng của đan viện Carthusan ở Cologne, một môi trường đã giúp ngài giao tiếp với hai vị thần bí gia Dòng Carthusan đó là Johann Lansperger, theo tiêág Latinh là Lanspergius, and Nicholas van Hesche, theo tiếng Latinh là Eschius. Sau đó, ngài đã đào sâu cảm nghiệm về mối thân hữu này, familiaritas stupenda nimis, với việc chiêm niệm các mầu nhiệm về đời sống của Chúa Giêsu, những mầu nhiệm đã hình thành phần lớn các cuộc linh thao của Thánh Ignatius. Việc ngai thiết tha tôn sùng Trái Tim Chúa, một lòng tôn sùng đạt đến tột đỉnh nơi việc ngài đã dâng hiến thừa tác vụ tông đồ của mình ở Đền Thờ Vatican, có nền tảng của mình ở việc ngài chiêm niệm các mầu nhiệm này.
Bắt nguồn nơi linh đạo nhân trung Kitô của Thánh Peter Canisius là một niềm xác tín sâu xa: Không có một tâm hồn nào quan tâm đến sự trọn lành của mình mà không thực hành tâm nguyện hằng ngày, một phương tiện bình thường giúp cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô sống thân mật với Vị Thày thần linh này. Vì thế, trong các văn bản viết ra để dạy đàng thiêng liêng cho dân chúng, vị thánh của chúng ta nhấn mạnh đến tầm quan trọng của phụng vụ kèm theo những nhận định của ngài về các Phúc Âm, về các ngày lễ, về nghi thức Thánh Lễ và về các bí tích, thế nhưng, đồng thời ngài thận trọng cho thành phần tín hữu thấy nhu cầu và vẻ đẹp của việc cầu nguyện riêng tư hằng ngày, một việc cần phải hỗ trợ và thấm đậm sự tham dự vào việc thờ phượng công khai của Giáo Hội.
Đó là một huấn dụ và là một phương pháp bảo trì giá trị tinh tuyền của chúng, nhất là sau khi nó lại được đề ra một lần nữa bởi Công Đồng Chung Vaticanô II trong Hiến Chế "Sacrosanctum Concilium": đời sống Kitô hữu không gia tăng nếu nó không được nuôi dưỡng bằng việc tham dự phụng vụ, nhất là Thánh Lễ Chúa Nhật, cũng như bằng việc cầu nguyện riêng tư hằng ngày, bằng việc giao tiếp riêng tư với Thiên Chúa. Giữa hằng ngàn những hoạt động và nhiều thứ phân tâm xẩy ra chung quanh chúng ta, cần phải tìm những giây phút lắng tâm tĩnh niệm trước Chúa hằng ngày để lắng nghe Người và nói với Người.
Gương của Thánh Canisius để lại cho chúng ta, chẳng những bằng các tác phẩm của ngài, nhất là bằng đời sống của ngài, đồng thời cũng luôn là những gì thích thời và có một giá trị vĩnh tại. Ngài rõ ràng dạy rằng thừa tác vụ tông đồ trở nên hiệu năng và mang lại hoa trái cứu độ chỉ khi nào vị giảng thuyết là một chứng nhân riêng của Chúa Giêsu và có thể trở thành một dụng cụ co Người sử dụng, liên kết chặt chẽ với Người bằng niềm tin vào Phúc Âm của Người cũng như vào Giáo Hội của Người, bằng một đời sống thiết tha với luân lý và không ngừng cầu nguyện như thể yêu thương. Điều này là những gì chân thực đối với hết mọi Kitô hữu muốn sống gắn bó với Chúa Kitô bằng việc dấn thân và lòng trung thành. Cám ơn anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/2/2011
Thứ
Ba
22/12
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Sm 1, 24-28
"Bà Anna tạ ơn Chúa vì được sinh Samuel".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Ngày ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi, lấy ba cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn nhỏ bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: "Kính lạy ngài, chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây trước mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin. Vậy tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa". Và họ thờ lạy Chúa ngay ở đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8abcd
Ðáp: Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi, miệng tôi rộng mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2) Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy nay làm thuê vì miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại con đàn cháu đống, kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn. - Ðáp.
3) Chúa cho chết và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho nghèo rồi cho nên giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao. - Ðáp.
4) Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến, cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vua muôn dân và Ðá Góc toà nhà Hội thánh, xin hãy đến cứu độ con người mà Chúa đã tạo dựng bằng bùn đất! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 46-56
"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể ngợi khen
Hôm nay là ngày 22/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh. Vẫn theo Phúc Âm của Thánh ký Luca cho 6 ngày còn lại của tuần bát nhật tiền Giáng Sinh này, mầu nhiệm cứu độ nơi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) được tiếp tục với Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria.
Thật vậy, sau khi được "thụ thai Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35) trong cung dạ trinh nguyên của mình từ biến cố truyền tin, và sau khi được thai mẫu "đầy Thánh Linh" (Luca 1:41) của thai nhi Gioan Tiền Hô Tẩy Giả nhận biết cùng khen tặng, thì người thôn nữ Nazarét được Sách Diễm Tình Ca trong Bài Đọc 1 hôm qua diễn tả như "Bồ câu trong hốc đá, trong kẹt ghềnh", đã "cho thấy mặt mình", với "tiếng thánh thót... êm ái" cùng với "nét mặt mình xinh tươi'" trong Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat như sau:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Nơi bài Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat quen thuộc này, một ca vịnh được Giáo Hội chọn đọc trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh này, cũng như nơi Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của tư tế thân phụ hài nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bao giờ cũng vào ngày 24/12, chất chứa một niềm trông mong và tin tưởng vào Vị Thiên Chúa cứu độ, cách riêng của dân Do Thái.
Đúng thế, nội dung của Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat của Mẹ Maria trong Bài Phúc Âm hôm nay đã chú trọng đến Vị Thiên Chúa cứu độ, thứ tự như sau: Vị Thiên Chúa đã cứu độ chính cá nhân Mẹ (1); Vị Thiên Chúa cứu độ những ai đáng thương (2), và là Vị Thiên Chúa đặc biệt cứu độ dân Do Thái của Ngài (3).
1- Vị Thiên Chúa đã cứu độ chính cá nhân Mẹ: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa". Qua câu này, Mẹ Maria đã công nhận là Mẹ cũng được Thiên Chúa cứu độ, như thể chính Mẹ nhận biết Mẹ được đặc ân vô nhiễm ngay từ lúc Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu của Mẹ, như chúng ta vẫn tin theo tín điều được Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố ngày 8/12/1854.
Mẹ được Thiên Chúa cứu độ ở đây, trong trường hợp chuyên biệt duy nhất của Mẹ, không phải vì Mẹ "khi còn là những tội nhân" (Roma 5:8) như tất cả loài người là giòng dõi của Mẹ, mà Mẹ được Thiên Chúa cứu độ ở chỗ Ngài đã gìn giữ riêng một mình Mẹ khỏi nhiễm lây nguyên tội, cùng các tì vết và hậu quả của nguyên tội, ở chỗ, Ngài đã cho Mẹ được hưởng trước Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ, cho dù Người chưa nhập thể giáng sinh, bởi Mẹ đã được Thiên Chúa từ đời đời tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
2- Vị Thiên Chúa cứu độ những ai đáng thương: "Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không".
Những ai đáng Thiên Chúa cứu độ được Mẹ Maria cảm nghiệm thấy và liệt kê trong Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat này, thứ tự như sau:
Trước hết là "những ai kính sợ Chúa", chứ không phải "những ai lòng trí kiêu căng", thành phần đầy những tự phụ tự đắc cho mình là nhất, ở chỗ kỹ càng tuân giữ lề luật, và tỏ ra khinh người, theo khung hướng tự nhiên của đa số hay hầu hết thành phần biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái.
Sau nữa là "những người phận nhỏ" trước tôn nhan Chúa, chứ không phải "người quyền thế", thành phần lạm dụng quyền bính trời ban của mình để hưởng thụ hơn là phục vụ, điển hình như một quận vương Hêrôđê trong việc sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay tìm giết hài nhi Giêsu.
Sau hết là "người đói khát", cảm thấy mình nghèo hèn thiếu thốn chỉ biết tìm kiếm chân lý và tin tưởng và Đấng Tối Cao, chứ không phải "người giàu có", thành phần tự cho mình viên mãn và tự mãn, chẳng cần gì, có thể "tự độ", tự cứu được bản thân mình, chẳng cần đến Thiên Chúa cứu độ.
Tuy nhiên, vì là Vị Thiên Chúa cứu độ, Ngài muốn cứu tất cả mọi người, kể cả thành phần "lòng trí kiêu căng", "quyền thế" và "giàu có" nữa, mà càng như vậy thì Ngài càng cần phải cứu họ và tìm hết cách để cứu họ, như Ngài đã từng thực hiện trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái của Ngài.
3- Vị Thiên
Chúa đặc biệt cứu độ
dân Do
Thái của Ngài: "Chúa
săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa
đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn
đời!"
Dân Do Thái nói chung, qua giòng lịch sử cứu độ của mình, một lịch sử cho thấy tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, đã liên lỉ tỏ ra bất trung với Ngài, bằng những thái độ bất xứng của họ, được tiêu biểu nơi "con bò vàng" (Xuất Hành đoạn 32), một thứ ngẫu tượng cho thấy họ vừa "kiêu căng" (ở chỗ từ bỏ và hoàn toàn bất tuân phục Vị Thiên Chúa đã tỏ tường cứu họ ra khỏi thân phận nô lệ ở Ai Cập), vừa "quyền thế" (ở chỗ ngang nhiên truất phế quyền bính của vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nơi họ), và vừa "giầu có" (vì "con bò vàng" được làm nên bởi chính vàng bạc của họ đóng góp, như ám chỉ họ tự độ hay tự có thể cứu độ họ mà không cần Thiên Chúa). Thế nhưng, "dù chúng ta có bất trung, Ngài vẫn trung thành, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình Ngài" (1Timôthêu 2:13).
Đó là lý do, Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat đã kết luận ở câu then chốt và chính yếu nhất làm nên lịch sử cứu độ của dân Do Thái, cũng là câu phản ảnh chính bản chất của Đấng đã xưng mình với Moisen: "Ta là Ta - I am who am" (hay) "Ta là hiện hữu" (hoặc) "Ta là Đấng Có" (Xuất Hành 3:14), tức là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15), Vị Thiên Chúa bất biến, Vị Thiên Chúa luôn hiện hữu, Vị Thiên Chúa luôn ở với dân Ngài, Vị Thiên Chúa thủy chung trước sau như một, đã hứa là làm, bất chấp con người có bất trung và bất xứng: "Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Thật ra, cốt lõi của Ca Vịnh Ngợi Khen về Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ đây chính là Lòng Thương Xót Chúa, như chúng ta thấy Mẹ Maria đã đề cập tới ở cả 3 phần, đối với bản thân của Mẹ, cũng như đối với những ai kính sợ Chúa, thậm chí với cả dân Do Thái phản bội Chúa nữa. Đó là lý do, không phải Lòng Thương Xót Chúa chỉ nhắm tới "những ai kính sợ Ngài" mà thôi, còn bao gồm cả 3 thành phần tỏ ra không kính sợ Ngài nữa. Tuy nhiên, Lòng Thương Xót của Ngài đối với 3 thành phần này được tỏ ra một cách có vẻ "dữ dội" hơn bình thường, xứng hợp với thái độ mù quáng ngông cuồng phạm thượng của họ, để nhờ đó họ có thể nhận biết Lòng Thương Xót Chúa. Chẳng hạn, với "những ai lòng trí kiêu căng" thì Ngài "vung cánh tay ra oai thần lực"; đối với "người quyền thế" thì Ngài "lật đổ xuống khỏi ngai vàng", và đối với "người giàu có" thì Ngài bắt "trở về tay không".
Theo tinh thần của Bài Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat về thành phần "kính sợ", "nhỏ bé" và "đói khát" đáng được Thiên Chúa cứu độ ấy, có một người nữ điển hình trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là thân mẫu của bé Samuel, một bà mẹ luôn "kính sợ" Thiên Chúa, nhưng lại bị Ngài để cho son sẻ, nhưng bà vẫn "đói khát" tin tưởng cầu xin cùng Chúa bằng tất cả thân phận "nhỏ bé" của mình, để rồi khi được nhận lời, bà đã giữ lời hứa dâng con mình cho Chúa:
"Ngày ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi, lấy ba cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn nhỏ bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: 'Kính lạy ngài, chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây trước mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin. Vậy tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa'. Và họ thờ lạy Chúa ngay ở đó".
Bài Đáp Ca hôm nay được trích trong đoạn Sách Samuel, tiếp ngay sau Bài Đọc 1 trên đây, một Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat Cựu Ước được vang lên từ môi miệng mẹ của hài nhi Samuel, cũng chất chứa và bộc lộ tâm tình tương tự như trong Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat Tân Ước của Mẹ Maria ở Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm tình tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa và chúc tụng ngợi khen cảm tạ Lòng Thương Xót của Vị Thiên Chúa cứu độ:
1) Lòng
tôi nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi, miệng
tôi rộng mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi.
2) Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy nay làm thuê vì miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại con đàn cháu đống, kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn.
3) Chúa cho chết và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho nghèo rồi cho nên giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao.
4) Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến, cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang.
Thứ Tư
23/12
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4; 4, 5-6 (Hr 3, 1-4, 23-24)
"Ta sẽ sai tiên tri Êlia đến cùng các ngươi trước ngày Chúa đến".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Ðây là những điều Thiên Chúa phán: Này đây, Ta sai sứ thần Ta đi dọn một con đường trước mặt Ta. Và bỗng chốc, Ðấng Chủ tể các ngươi tìm kiếm, Sứ Thần Giao Ước các ngươi mong ước, Người ngự đến trong thánh điện Người. Này đây, Người ngự đến, Chúa các cơ binh phán: Ai biết được ngày nào Người đến? Ai đứng vững mà trông xem Người? Vì Người như ngọn lửa hoả lò, như lá thuốc của phường thợ giặt. Người sẽ ngồi nung nấu luyện bạc, sẽ tẩy luyện con cái Lêvi, lọc chúng nó như vàng như bạc, để chúng trở thành cho Chúa những người dâng lễ tế trong công chính. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa, như những năm đầu.
Này đây, Ta sai Tiên tri Êlia đến cùng các ngươi, trước ngày trọng đại và kinh khủng của Ta. Người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu, và lòng con cháu trở về cùng cha ông, kẻo Ta ngự đến tiêu diệt địa cầu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 8-9. 10 và 14
Ðáp: Hãy nhìn xem và hãy ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc các ngươi đã gần đến (Lc 21, 28).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Emmanuel, là Vua và là Ðấng ban lề luật, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin hãy đến cứu độ chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 57-66
"Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan".
Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan". Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.
Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể từ ái
Ngày 23/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm nay, Thánh ký
Luca trình thuật lại biến cố hài nhi Tiền hô Gioan Tẩy Giả được hạ sinh, một
bài Phúc Âm tiếp liền với bài Phúc Âm hôm qua về Ca Vịnh Ngợi Khen
Magnificat của Mẹ Maria.
Thật vậy, ở cuối bài Phúc Âm hôm qua, Thánh ký Luca đã ghi nhận như thế này: "Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình". Tuy vị thánh ký này không cho biết là Mẹ Maria "trở về nhà mình" trước hay sau biến cố hài nhi Gioan được sinh ra, chúng ta cũng có thể suy đoán rằng cho tới khi hài nhi Gioan xuất hiện. Bởi vì thời gian "ba tháng" này là thời gian bao gồm cho tới khi hài nhi Gioan được sinh ra, và mục đích của Mẹ Maria đến thăm bà là để giúp đỡ bà chị họ của mình thì phải bao gồm cả chính lúc bà lâm bồn cần giúp đỡ nhất nữa mới phải.
Vậy, nếu quả thực Mẹ Maria ở lại nhà Bà Isave cho đến khi hài nhi Gioan được sinh ra thì Mẹ đã chứng kiến thấy biến cố này xẩy ra như thế nào, Thánh ký Luca đã trình thuật lại như sau:
"Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: 'Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan'. Họ bảo bà rằng: 'Không ai trong họ hàng bà có tên đó'. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: 'Tên nó là Gioan'. Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: 'Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca không nhấn mạnh đến chính biến cố hạ sinh của hài nhi Gioan cho bằng đến biến cố cắt bì của ngài và biến cố đặt tên cho ngài, một biến cố bao gồm cả phép lạ xẩy ra cho vị thân phụ tư tế của ngài được khỏi câm nữa.
Trước hết, luật cắt bì là luật của Chúa, bắt đầu từ thời tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 17:9-14) chứ không phải từ thời Moisen, thời được ghi thành luật (xem Levi 12:1-3) những gì vốn đã được thực hành theo truyền thống.
"Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: 'Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta,
ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là giao
ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng
dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt
bì. Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước
giữa Ta với các ngươi. Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ
phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà,
hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không
thuộc dòng dõi các ngươi. Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô
lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành
giao ước vĩnh cửu. Kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai không được
cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ: nó đã phá vỡ giao ước
của Ta'".
Tục lệ và luật lệ cắt bì này của dân Do Thái mang ý nghĩa thuộc về Chúa và trở nên thanh sạch, nhờ đó họ mới được tham dự vào Lễ Vượt Qua (xem Xuất Hành 12:44,48), như thể phải lãnh nhận Phép Rửa rồi mới hợp lệ để được Rước Lễ của Giáo Hội Công Giáo bây giờ vậy. Tuy nhiên, tục lệ và luật lệ cắt bì này còn mang một ý nghĩa khác nữa về phía lãnh nhận nhân, đó là cắt bì tấm lòng của mình (xem Levi 26:41; Đệ Nhi Luật 10:16;30:6), nghĩa là kẻ cắt bì không sống theo xác thịt và cho mình nữa mà là sống theo Thần Linh và cho Chúa, như Kitô hữu sau khi lãnh nhận Phép Rửa đã cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới là Chúa Kitô vậy (xem Roma 6:6; Epheso 4:24).
Tất cả ý nghĩa của tục lệ và luật lệ cắt bì liên quan đến tính cách thánh hiến và tinh thần tận hiến được nên trọn nơi hài nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, như sau này ngài đã được các Phúc Âm thuật lại về sứ vụ và đời sống cùng thế giá của ngài trong dân Do Thái, đến độ qua biến cố cắt bì và đặt tên của ngài này đã xẩy ra những việc lạ lùng liên quan đến cả tên gọi của ngài cũng như đến sự kiện vị thân phụ tư tế của ngài được chữa lành khỏi bị câm, và cả hai sự kiện này đã khiến "mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: 'Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó'".
Nếu tên gọi của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là "Giêsu", một tên gọi được trời cao đặt cho (xem Mathêu 1:21), và có nghĩa là "Chúa cứu độ", thì tên gọi vị tiền hô của Người là "Gioan" cũng do trời cao đặt cho (xem Luca 1:13), một tên gọi được chính thân phụ bé là tư tế Zacaria đang bị câm, bởi ngờ vực về chính sự kiện bé được sinh ra, đã bất ngờ bật lên cất tiếng gọi, có ý nghĩa là Giavê từ ái, Giavê ưu ái.
Như thế, hài nhi Gioan xuất hiện mang tên "Gioan" có nghĩa là dấu hiệu Thiên Chúa tỏ lòng từ ái và ưu ái, không phải cho riêng gia đình của bé, cho mẹ của bé khỏi bị hổ ngươi bẻ mặt bởi son sẻ, và cho cha của bé khỏi bị câm, mà còn cho toàn dân Do Thái nữa, một dân tộc đang trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một dân tộc bấy giờ được đại diện bởi hàng xóm láng giềng kéo đến chúc mừng chung gia đình bé và riêng bản thân bé. Và thực sự bé Gioan đã sống một cuộc đời xứng với vai trò cao trọng của mình là Tiền Hô báo trước Đấng Thiên Sai Cứu Thế là chính hiện thân sống động của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất vô cùng từ bi thương xót.
Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri Malachy, Vị Giavê từ ái, Vị Giavê ưu ái, như nơi tên gọi của bé Gioan, đã báo trước về bé như là một "sứ thần" của Ngài, đóng vai như "Êlia", được Ngài sai đến trước để dọn đường cho "Đấng chủ tể" là Con của Ngài đến sau, như thế này:
"Này đây, Ta sai sứ thần Ta đi dọn một con đường trước mặt Ta. Và bỗng chốc, Ðấng Chủ tể các ngươi tìm kiếm, Sứ Thần Giao Ước các ngươi mong ước, Người ngự đến trong thánh điện Người. Này đây, Người ngự đến, Chúa các cơ binh phán: Ai biết được ngày nào Người đến? Ai đứng vững mà trông xem Người? Vì Người như ngọn lửa hoả lò, như lá thuốc của phường thợ giặt. Người sẽ ngồi nung nấu luyện bạc, sẽ tẩy luyện con cái Lêvi, lọc chúng nó như vàng như bạc, để chúng trở thành cho Chúa những người dâng lễ tế trong công chính. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa, như những năm đầu. Này đây, Ta sai Tiên tri Êlia đến cùng các ngươi, trước ngày trọng đại và kinh khủng của Ta. Người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu, và lòng con cháu trở về cùng cha ông, kẻo Ta ngự đến tiêu diệt địa cầu".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu và nhận thức thần linh về một Vị "Chúa nhân hậu và công minh" của những tâm hồn như cha mẹ của hài nhi Gioan trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng như của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả sau này:
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài.
Ngày 23: Thánh Gioan Kenty, linh mục
Thánh Gioan thành Krakau sinh ngày 24.6.1390 tại làng Kêty nước Balan. Lớn
lên theo học triết và thần học tại Cracovie; khi thành tài lại dạy hai môn
này cũng tại thành phố trên. Ngài biết lợi dụng vị trí giáo sư của mình để
làm việc tông đồ giữa sinh viên.
Ngài chịu chức linh mục và ra nhậm xứ đạo. Khi coi xứ ngài rộng tay bố thí.
Ngày nọ ngài gặp một người ăn xin rách rưới, ngài cởi áo choàng mặc cho kẻ
ấy. Hai ba ngày sau, Đức Mẹ hiện đến và trả lại cho ngài chiếc áo choàng.
Khi cảm thấy nhiệm vụ chánh xứ quá nặng nề , ngài xin trở lại ghế đại học.
Ngài vẫn luôn sống nhiệm nhặt dù dù ở bất cứ địa vị nào; nhiệm nhặt cho mình
để rộng tay bố thí cho kẻ khác.
Ngài đã đi hành hương Giêrusalem và Rôma, tất cả là 4 lần; luôn đi bộ và tự
tay vác lấy hành lý. Lần nọ bị ăn cướp dọc đường, bọn cướp lấy hết hành lý
rồi thả ngài đi. Đi một đoạn ngài sờ vào túi thấy còn mấy đồng tiền vàng;
ngài vội vã quay lại đưa nốt cho bọn cướp tất cả.
Ngài qua đời vào ngày 24.12.1473 ở Krakau và được phong hiển thánh năm 1767.
Chúng ta biết đến thánh Gioan Kenty như là một con người thánh thiện và học thức, Ngài vừa là một giáo sư đại học lừng danh, vừa là một ân nhân của người nghèo.
Có một truyền thuyết rất đẹp về lòng bác ái của thánh nhân. Một người nghèo ăn xin ở cửa phòng ăn. Mỗi người có đúng phần mình, nhưng Gioan đã lấy trọn phần mình cho người bất hạnh. Từ đó, phần của người ăn xin được dành riêng. Công thức “người nghèo đến” được đáp ứng lại bằng “Chúa Kitô đến”. Gioan Kenty còn đưa chính áo choàng của mình cho người bị lạnh lẽo.
Là bậc thầy về đức ái, Ngài cũng rất vui tươi. Một lần, được những người quí phái mời, Ngài đến với y phục rất khiêm tốn của mình và bị đầy tớ chủ nhà xua đuổi. Thay bộ đồ khiêm tốn ấy đi Ngài được mời vào tiệc. Chẳng may, một người giúp việc vụng về làm rớt đồ ăn vào đó. Ngài nói : – “Này, chính nhờ bộ áo mà tôi được ở đây, thế là nó cũng được quyền nếm nước chấm nữa”.
Tinh thần và bác ái đi đôi quá chân thật có một không hai. Ngày kia, khi đi Roma, Ngài bị bọn cướp bóc lột, Ngài nói với họ là không còn gì nữa. Nhưng sau đó Ngài thấy tiền trong áo kép. Ngài vội đuổi theo họ, thú nhận mình ăn cắp và đưa cho họ số tiền này. Lịch sử kể lại rằng, bon cướp đã hối cải ngay.
Kenty, quê hương của Gioan gần Cracovia, là nơi Ngài theo học và đạt bằng tiến sĩ triết học lẫn thần học, Ngài thụ phong linh mục. Giữ ghế tại đại học, Ngài nói tiếng Latinh và tiếng Balan.
Khi cần thiết, Ngài chỉ tranh luận trong tinh thần bác ái bao dung. Trả lời cho những nhục mạ của đối phương, Ngài chỉ biết nói: “Tạ ơn Chúa”. Để vượt qua mọi cực nhọc, thử thách, Ngài tự nhủ: “ráng lên”. Ngài thường nói với học trò của mình : – “Hãy lấy nhẫn nại, dịu dàng và tình yêu làm khí giới để chống lại những quan điểm sai lầm. Thô bạo chỉ hại cho linh hồn và làm hư chính nghĩa”.
Những ghen tương đố kỵ đã làm cho Ngài mất chức đại học và đẩy Ngài vào công việc nặng nhọc tại giáo xứ. Thời gian làm cha sở tại Gracôvia, Ngài đã tỏ ra có một đức bác ái vô bờ, nhưng đại học lại đòi Ngài phải trở về, Ngài lãnh trách nhiệm dạy kinh thánh và tôn giáo cho các công tử Balan. Ngài hành hương Giêrusalem và lắng nghe các lương dân. Khi qua đời vào tuổi rất thọ, sự thánh thiện của Ngài đã lừng khắp nơi Ngài đã đi qua. Thánh Gioan Kenty đã để lại lời kinh rất đẹp này.
“Xin hãy cho chúng con yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu mọi người vì Chúa và làm đẹp lòng Chúa trong tâm hồn và trong hành động của chúng con”.
Nhiều người khóc thương Ngài và Ngài được kể như người làm nhiều phép lạ. Nhưng mãi tới năm 1767, Ngài mới được tuyên thánh.
Trong
thư của Đức Giáo Hoàng Clêmantê XIII
“ Đồng hành với đức khiêm nhường lại có thêm tính đơn sơ họa hiếm, xứng danh
một trẻ thơ. Thế nên trong hành vi ngôn ngữ của ngài, không cò một chút gì
mưu mô hay giả hình. Ngài sẵn sàng nói như đã ôm ấp trong lòng.
Ban ngày, sau khi đã thi hành phận sự, ngài đi thẳng từ trường tới nhà thờ.
Và trước mặt Đức Kitô ẩn náu trong bí tích Thánh Thể, ngài cầu nguyện và
suy ngắm lâu giờ. Lúc đó thật chỉ có Thiên Chúa ở trong lòng ngài và chỉ có
mình Thiên Chúa ở trên miệng ngài”
Trong Lời Chào mở đầu tại phi trường quốc tế Krakow-Balice ngày Thứ Sáu 16/8/2020, trong chuyến tông du thứ 96/104 chuyến dọc suốt giáo triều 26 năm rưỡi của mình, và là chuyến thứ 8, chuyến cuối cùng của ngài về quâ hương Balan, ĐTC đã nhắc đến địa danh Krakow, một thành phố được Chúa Giêsu chọn để ban bố sứ điệp LTXC của Người cho nữ tu Faustina Kowalska thuộc Dòng Đức Mẹ Thương Xót ở đây, đồng thời nó cũng là nơi ngài đã từng làm Giám Mục phụ tá rồi Tổng Giám Mục 20 năm trời, 1958-1978, ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc tới các vị thánh liên quan đến thành phố Krakow này, trong đó có thánh Gioan Kety như sau:
"Chớ gì ba ngày Tôi ở tại quê hương Tôi đây dẫn
chúng ta đến một cuộc tái sinh nơi niềm tin tưởng sâu xa vào quyền năng của
lòng thương xót Chúa.
1.- Một lần nữa, Tôi xin chào Nước Balan và toàn
thể nhân dân của Tôi… Lần này Tôi sẽ chỉ ở tại Krakow mà thôi, nhưng lòng
cảm mến của Tôi ôm ấp toàn thể Balan và tất cả nhân dân Balan…
2.- Anh Chị Em thân mến! “Thiên Chúa giầu lòng
xót thương”. Đây là câu tâm niệm cho cuộc hành hương lần này. Là lời loan
báo của cuộc hành hương đây. Lời này phát xuất từ bức Thông Điệp “Dives in
misericordia”, nhưng nguồn gốc của lời ấy được bắt đầu từ nơi chốn này, từ
Krakow, ở Lagiewniki. Vì, từ nơi đây, nhờ những nỗ lực khiêm tốn của một
chứng nhân ngoại thường là Vị Thánh Nữ Tu Faustina mà sứ điệp Phúc Âm về
tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa đã được vang lên. Đó là lý do tại sao giai
đoạn đầu tiên của cuộc hành hương và mục đích chính của cuộc hành hương lần
này của Tôi là việc Tôi đến viếng thăm Đền Thờ Chúa Tình Thương. Tôi lấy làm
vui mừng thực hiện việc cung hiến ngôi đền đài mới này, một đền đài đang trở
thành trung tâm thế giới về lòng tôn sùng Chúa Kitô nhân hậu xót thương.
Tình Thương của Thiên Chúa được phản ánh nơi tình
thương của nhân loại. Qua các thế kỷ, Krakow đã được diễm hạnh có những đại
nhân vật là thành phần tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa đã làm chứng cho
tình thương bằng các việc yêu thương cụ thể đối với tha nhân. Chỉ cần kể đến
các vị như Thánh Hedwig, Thánh Gioan Kety, Cha Piotr Skarga hay Thánh Sư
Huynh Albert. Nay hàng ngũ của các ngài sẽ được thêm các Vị Tôi Tớ Chúa do
Tôi vui mừng tôn vinh trên bàn thờ vào Thánh Lễ ở Blonie Park. Việc tuyên
phong chân phước cho các Vị Tôi Tớ này là Zygmunt Szcxesny Felinski, Jan
Beyzym, Sancja Szymkowiak và Jan Balicki là lý do thứ hai của cuộc Tôi hành
hương lần này. Tôi hy vọng rằng những vị tân Chân Phước này, những vị đã làm
gương về việc thực hành lòng xót thương, sẽ nhắc nhở chúng ta về tặng ân cao
cả của tình yêu Thiên Chúa, và dọn lòng chúng ta trong việc thực hiện hằng
ngày tình yêu thương anh chị em tha nhân của chúng ta".
Lời Cầu Nguyện của Giáo Hội trong Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 23/12
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con ngày càng tiến bước trên con đường tìm hiểu Cha theo gương thánh Gioan linh mục. Xin cho chúng con cũng biết cư xử bác ái với mọi người, hầu đáng được Cha nhân từ tha thứ . Chúng con cầu xin…
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp và thêm thắt (phần liên quan đến ĐTC Gioan Phaolô II)
Thứ
Năm
24/12
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 16
"Vương quốc Ðavít sẽ tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua".
Nhưng xảy ra (là) đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?" Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 67-79
"Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
"Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể chúc tụng
Hôm nay, ngày 24/12 trong Tuần Bát Nhật ngay trước Đại Lễ Giáng Sinh, Bài
Phúc Âm của Thánh
ký Luca ghi lại
Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của vị tư tế thân phụ của bé Gioan, ngay trong
biến cố bé được cắt bì và đặt tên, như được cùng vị Thánh ký này đề cập đến
trong bài Phúc Âm hôm qua.
Qua bài Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus này, tư tế Zacaria ở đây có thể nói là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, vì ông nói tiên tri chẳng những về Đấng Thiên Sai Cứu Tinh mà còn nói tiên tri về chính người con trai mới được cắt bì và đặt tên cho là Gioan. Nguyên văn Ca Vịnh mà "Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri" như sau:
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Trong Bài Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus này của tư tế Zacaria thân phụ của bé Gioan là Vị Tiền Hô tương lai của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày 24/12 ngay trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm nay, bao gồm 2 phần rõ ràng: phần đầu về chính "Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel", và phần sau về vị "ngôn sứ của Ðấng Tối Cao" là chính Gioan con của ông.
Trước hết, về chính "Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel", tư tế Zacaria đã "chúc tụng" Ngài, vì Ngài là Vị Thiên Chúa cứu độ, Đấng "đã viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài", bằng chính việc "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) cuối cùng "Ngài đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế từ dòng dõi trung thần Ðavít", hoàn toàn ứng nghiệm với tất cả những gì "Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa", bất chấp dân của Ngài có thất trung bội tín với Ngài, chỉ vì Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, ở chỗ, trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, Ngài đã liên tục tỏ ra "trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham".
Nghĩa là Thiên Chúa cứu độ dân của Ngài, một dân tộc trong tất cả mọi dân tộc được Ngài nhưng không tuyển chọn và tỏ mình ra cho, là vì chính Ngài thương họ, hơn là họ đáng công, trái lại, còn đáng tận diệt nữa, và vì họ là một dân tộc càng phản bội thất trung bội tín với Ngài lại càng đáng thương và càng cần Ngài cứu độ để chứng thực Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ và là vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân hậu, đúng như cảm nhận của vị tư tế xướng lên Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus này: "Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn".
Sau nữa, về vị "ngôn sứ của Ðấng Tối Cao" là chính "hài nhi" Gioan con của ông, ông đã nói tiên tri rằng "Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên". Và thực sự bé Gioan này đã hoàn thành sứ mệnh của mình, chẳng những bằng chính lời kêu gọi của ngài nhắn gửi chung dân Do Thái: "Hãy hoán cải cuộc sống! Nước Thiên Chúa đã gần" (Mathêu 3:2), mà còn bằng chính phép rửa thống hối của ngài nữa, một phép rửa tiên báo cho Cuộc Vượt Qua của Đấng Thiên Sai Cứu Thế để là Đấng đến sau ngài nhưng cao trọng hơn ngài, Đấng đến làm phép rửa "bằng Thánh Thần" (Gioan 1:33), để "tha cho họ hết mọi tội khiên", Đấng xuất hiện như "Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Bài Đọc 1 hôm nay cũng chất chứa những lời Thiên Chúa tiên báo về chính Đấng Thiên Sai của Ngài sẽ được sai đến và xuất phát từ giòng dõi vuơng gia Đavít, một Đấng Thiên Sai sẽ cai trị bất diệt với một triều đại vô cùng bất tận, như đã được chính Sứ Thần Gabiên tái xác định với Trinh Nữ Nazarét Maria trong biến cố truyền tin (xem Luca 1:32-33), những lời đã được chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất phán qua tiên tri Nathan về ý định Vua Đavít muốn xây một ngôi nhà đàng hoàng cho hòm bia của Ngài rằng: "Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Bài Đáp Ca hôm nay là lời "ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời", Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của riêng dân Do Thái cũng là Vị Thiên Cúa cứu độ của chung nhân loại, nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài, Đấng sẽ thiết lập vương quốc yêu thương của Ngài giữa muôn dân bền vững đến vô cùng bất tận:
1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Chân lý mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 24/12 Bài đọc 2
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Hỡi con người, thức dậy đi : vì bạn, Thiên Chúa đã làm người. Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào ! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng bạn. Tôi xin lặp lại : vì bạn, Thiên Chúa đã làm người.
Bạn sẽ phải chết muôn đời, nếu Người đã không sinh ra trong thời gian. Bạn sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi xác thịt tội lỗi, nếu Người đã không chấp nhận mang xác thịt tội lỗi giống như bạn. Bạn sẽ phải khốn nạn mãi mãi nếu Người không tỏ lòng thương xót bạn. Bạn sẽ chẳng tìm lại được sự sống, nếu Người đã chẳng chết như bạn. Bạn sẽ ngã quỵ, nếu Người chẳng đỡ nâng. Bạn đã phải tiêu vong, nếu như Người không đến.
Chúng ta hãy hoan hỷ đón mừng Đấng cứu độ và giải thoát chúng ta đang đến. Chúng ta hãy mừng ngày lễ, ngày mà ánh sáng vĩ đại và vĩnh cửu phát xuất từ ánh sáng vĩ đại và vĩnh cửu đến chiếu sáng ngày vắn vỏi mau qua của chúng ta.
Chính Người đã làm cho chúng ta nên công chính, đã thánh hoá và giải thoát chúng ta, hợp như lời đã chép : Ai tự hào, thì hãy tự hào vì Chúa.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : Chúa Ki-tô đã nói : Thầy là Chân Lý sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : bởi vì khi tin vào Đấng đã giáng sinh, con người được nên công chính, không phải bởi sức riêng mình, nhưng bởi Thiên Chúa.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : bởi vì Ngôi Lời đã làm người. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : vì mọi ân huệ tốt lành, mọi phúc lộc hoàn hảo đều từ trời cao ban xuống.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : thân xác được sinh ra từ Đức Ma-ri-a. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : bởi vì chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.
Vì chúng ta được nên công chính nhờ đức tin, nên giờ đây chúng ta được sống hoà hợp với Thiên Chúa : vì hoà bình công lý đã giao duyên. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta : bởi vì chân lý mọc lên từ đất thấp. Người đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay. Chúng ta lại còn tự hào vì được trông đợi hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô không nói : vinh quang của chúng ta nhưng nói vinh quang của Thiên Chúa : bởi vì công lý không phát xuất từ chúng ta, nhưng nhìn xuống tự trời cao. Thế nên, ai tự hào thì đừng tự hào vì mình, nhưng hãy tự hào vì Chúa.
Bởi đó, các thiên thần lên tiếng hát mừng Chúa sinh ra do Đức Trinh Nữ : Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Bình an dưới thế bởi đâu, nếu không phải bởi chân lý mọc lên từ đất thấp, nghĩa là Đức Ki-tô sinh ra bởi xác phàm ? Chính Người là bình an của chúng ta, Người đã liên kết đôi bên nên một để chúng ta nên những người thiện tâm, liên kết mật thiết với nhau bằng mối dây hợp nhất.
Bởi vậy chúng ta hãy vui mừng hoan hỷ vì ân sủng này, để lời chứng của lương tâm làm cho chúng ta được vinh quang : chúng ta được vinh quang không phải ở nơi mình, nhưng nơi Chúa. Vì thế có lời rằng : Ngài là vinh quang của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất khuất. Liệu Thiên Chúa có giãi sáng trên chúng ta bằng một ân sủng nào lớn hơn ân sủng này : là làm cho Con Một của Người nên một con người, để ngược lại, làm cho con người nên con của Thiên Chúa chăng ?
Hãy tìm coi đâu là công phúc, hãy tìm coi đâu là lý do, hãy tìm coi đâu là công lý và hãy xem bạn có thấy gì khác, ngoài ân sủng.