Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XII Thường Niên Năm A (Chúa
Nhật)và
Năm Lẻ (Ngày Thường)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Bài Ðọc I: Gr 20,
10-13
"Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế
nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố
cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa
dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người
lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức:
Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên
được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu
suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì
con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa,
vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 68,
8-10. 14 và 17. 33-35
Ðáp:Lạy
Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng: 1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu
nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như
khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm
lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ
trên mình con. - Ðáp.
2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời
nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm
lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy
Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi
xin nhìn đến tấm thân con. - Ðáp.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và
hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe
những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi
khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5,
12-15
"Không phải như tội phạm thế nào,
thì ơn ban cũng thế ấy đâu".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín
hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người
mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự
chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có
lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có
lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không
phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.
Nhưng không phải như tội phạm thế nào,
thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải
chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu
Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 17,
17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời
Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10,
26-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông
đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không
bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với
các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai,
hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném
cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một
đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không
biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con
đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt
người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên
trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt
Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm
Nghiệm
"Ánh
sáng chiếu trong tăm tối,
một thứ tăm tối không thể át được ánh
sáng"
Tinh thần của Phụng
Vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc 1, Đáp Ca, Bài Đọc 2 và Phúc Âm, đó
là "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được ánh
sáng" (Gioan 1:5), trái lại, tối tăm lại còn bị ánh sáng xua tan.
Thật vậy, chiều hướng
Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XII Thường Niên
Năm A "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một thứ tăm tối không thể át được
ánh sáng" này đã được tỏ hiện ngay trong Bài Đọc 1 được trích từ Sách
của Tiên Tri Giêrêmia, đoạn nói về vai trò ngôn sứ và sứ vụ chứng nhân được
Chúa ủy thác cho vị tiên tri này, nhưng chính bản thân của vị tiên tri lại
trở nên cớ vấp phạm cho thành phần vị này được sai đến:"Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo
nó, chúng ta hãy tố cáo nó", thế mà họ có dữ tợn đến đâu vẫn không làm
gì đượcngười của Chúa, trái lại còn bị triệt hạ nữa:
"Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói
rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng
Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi
sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn
đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử
người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa
trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng
Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi
tay kẻ dữ".
"Chúa
trả thù nó cho con" ở chỗ nào, hay
bóng tối bị ánh sáng xua tan ra sao, đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô
trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 2 cho biết rất tuyệt vời, vượt ngoài
tất cả mọi dự tưởng và suy nghĩ của trần gian, của khuynh hướng đòi công
bằng của con người, như thế này: "Nhưng không phải như tội phạm thế nào,
thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải
chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu
Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần".
Có nghĩa là, theo đường lối thần linh thật trọn lành
của Thiên Chúa, "trả thù" không phải là ở chỗ "mắt đền mắt, răng đền răng",
mà trái lại, lấy lành thắng dữ, lấy tình thương bù đắp hận thù, lấy thứ tha
bù đắp tội lỗi, nhờ đó mới có thể biến dữ thành lành, biến tội lỗi thành ân
sủng, biến sự chết thành sự sống, như trong mầu nhiệm và biến cố Vượt Qua
của Chúa Kitô.
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm tiếp bài Phúc
Âm Chúa Nhật XI vừa rồi, về Huấn Từ Truyền Giáo của Chúa Kitô, nhưng không
liên tục. Ở câu cuối cùng (câu 8 đoạn 10) của Phúc Âm Thánh Mathêu tuần
trước, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ phải đi đến đâu và phải rao giảng những
gì:
"Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng
vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên
lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến gần". Hãy
chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ
ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Ở câu đầu tiên trong Bài Phúc Âm hôm nay, (câu 26
cùng đoạn 10), Chúa Giêsu liền dặn các tông đồ thừa sai của Người rằng:
"Các
con đừng sợ những người đó". "Những người đó" đây là ai, Chúa Giêsu
muốn ám chỉ ai vậy? Chắc chắn không phải
"dân ngoại", không
phải "các người Samaritanô", thành phần
các tông đồ chưa được Chúa Kitô sai đến, mà là chính đám "chiên lạc
của nhà Israel", một đám "chiên lạc"
ám chỉ chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo Do Thái giáo
đã từng ra tay bách hại và âm mưu sát hại các vị tiên tri nói chung (xem
Mathêu 23:29-32) và tiên tri Giêrêmia (trong Bài Đọc 1 hôm nay) nói riêng.
Có một điều lạ ở chỗ lý do được Chúa Giêsu sử dụng
để trấn an các tông đồ "đừng sợ những người đó", lý do dường như chẳng ăn
khớp gì với lời khuyên đừng sợ của Người, "đừng sợ những người đó"
là "vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm
mà không hề hay biết", như thế có nghĩa là gì? Có nghĩa là "không
có gì che giấu mà không bị thố lộ" ở nơi "những người đó", "và
không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết" ở nơi "những người đó".
Tức là khi "những người đó" bách hại hay giết hại các tông đồ
hay các vị tiên tri trong Cựu Ước, cả hai đều là thành phần được sai đến với
họ, thì họ đều chủ trương cho rằng những vị thừa sai ấy đều là thành phần
"gieo
khủng bố khắp nơi",như Bài Đọc 1 hôm
nay tiết lộ, nên họ chống lại và sát hại các vị.
Tuy nhiên, tâm tưởng của "những người đó"
không phải chỉ ám chỉ về thành phần chống đối, mà nhất là thành phần thiện
tâm, lầm lạc, cho đến khi nhận ra sự thật thì tỏ lòng ăn năn thống hối, đúng
như những gì xẩy ra trên Đồi Canve sau khi Chúa Kitô tử giá (xem Luca
23:47-48), ứng nghiệm lời tiên tri của vị tư tế lão thành Simêon khi ẵm hài
nhi Giêsu trên tay và nói cùng Mẹ Maria rằng: "Phần cô sẽ có một lưỡi
gươm đâm thấu tâm can, nhờ đó tâm tưởng nơi nhiều người sẽ được bộc lộ"
(Luca 2:35).
Thế nhưng, tự bản chất con người vốn yếu hèn với đầy
những khuynh hướng sợ sệt, nên muốn can trường, họ không thể nào không tin
tưởng vào Đấng đã sai mình, vào Đấng quan phòng thần linh, vào Đấng luôn ở
với mình, vào Đấng duy nhất có thể cứu mình khỏi bất cứ một quyền lực chết
chóc nào, Đấng có thể biến họ thành một dấu chỉ thần linh. Phải chăng đó là
lý do Chúa Kitô đã trấn an các tông đồ bằng những lý lẽ siêu nhiên thật là
bất diệt vô cùng thấm thía như trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném
cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một
đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không
biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con
đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần".
Thật sự tự mình "bóng tối không át được ánh sáng"
-
"vì
không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không
hề hay biết", nên Chúa Kitô đã chẳng những trấn an các
tông đồ thừa sai của Người mà còn phấn khích cùng thúc giục các vị hãy hiên
ngang bất khuất thực hiện vai trò chứng nhân tiên khởi của các vị nữa, ở
chỗ: "Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và
điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà".
"Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối"
đây là gì, và "điều các con nghe rỉ tai" đây là chi, những gì được
Chúa Kitô bảo các tông đồ thừa sai của Người cần phải "nói ra nơi ánh
sáng" và phải "rao giảng trên mái nhà", nếu không phải là
những mạc khải thần linh ("Ðiều Thầy nói") mà bản thân của từng vị
trong các ngài cảm nghiệm được ("nghe rỉ tai") bằng chính đức tin
("trong bóng tối") hơn là chỉ bằng cảm giác sôi nổi hay lý trí nông
cạn trước một Vị "Thiên Chúa là thần linh, mà kẻ tôn thờ Ngài phải tôn
thờ trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24).
Đúng thế, chỉ bao giờ con người thừa sai sống một
đời sống nội tâm, "nghe rỉ tai" "trong bóng tối", họ mới không cảm
thấy sợ hãi trước bất cứ một quyền lực đối kháng nào, trái lại, họ còn có
sức chịu đựng cho đến cùng vì họ biết tuyệt đối tin tưởng vào Đấng ở với họ
và sai họ đi, như nội dung, chiều hướng và cảm nhận thần linh của Bài Đáp Ca
hôm nay:
1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu
nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như
khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm
lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ
trên mình con.
2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời
nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm
lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy
Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi
xin nhìn đến tấm thân con.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và
hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe
những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi
khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)St
12, 1-9
"Abram ra đi như Chúa đã truyền
dạy".
Trích sách Sáng Thế.
Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng:
"Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta
chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi,
và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta
sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc
dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc".
Abram ra đi như Chúa đã truyền
dạy, và có ông Lót đi theo. Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm
tuổi. Ông đem Sarai, vợ ông, và Lót là cháu, cùng với tất cả tài sản và
gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi,
Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người
Canaan đang ở xứ này.
Chúa đã hiện ra với Abram và phán
rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn
thờ kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. Rồi từ nơi ấy, ông đi đến
núi ở phía đông Bêthel mà cắm trại: phía tây của trại là Bêthel và phía
đông là Hai. Ông cũng dựng ở đó một bàn thờ kính Chúa, và khấn cầu danh
Chúa. Abram cứ tiến dần mãi về (Nageb ở) phía nam.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32,
12-13. 18-19. 20 và 22
Ðáp:Phúc
thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà
Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời
cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.
2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ
kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ
họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng con mong đợi
Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ
lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
- Ðáp.
Alleluia: Ga
14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà
không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7,
1-5
"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi
trước đã".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán
xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào
mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy
cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao
ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà
đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước
đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm
Nghiệm
Cái nạn mù quáng tâm linh như một thứ hiệp sĩ mù là ở chỗ tỏ ra
biết người hơn biết mình
Chủ đề "sự sống"
của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như
trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm
nay cho thấy.
"Sự
sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các
môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài
phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của
Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà
các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của
Người và nhờ đó mới
có
thể làm chứng nhân cho Người.
Căn cứ vào sự sắp xếp khéo léo của Giáo Hội cho các bài Phúc Âm trong
tuần thì từ tuần X, XI và XII thường niên, Giáo Hội muốn sử dụng Bài
Giảng Trên Núi (Phúc Âm Thánh mathêu đoạn 5, 6 và 7) của Chúa Giêsu về
Các Phúc Đức Trọn Lành của Kitô hữu để nhắc nhở con cái mình: ở tuần X
và XI hãy sống đức ái trọn hảo như Cha trên trời (Phúc Âm Thánh Mathêu
nguyên đoạn 5); ở hai ngày cuối của Tuần XI (Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn
6) về đời sống nội tâm (hoàn toàn chỉ vì Chúa và chỉ có tâm tư thần hiệp
với Ngài như Kinh Lạy Cha) mà Kitô hữu cần phải có thì họ mới có thể
sống đức ái trọn hảo như Cha; ở cả tuần XII, về tác hành của Kitô hữu
phản ảnh đời sống nội tâm của họ, chẳng hạn biết mình trước nhan Chúa và
đối với tha nhân, như giáo huấn của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Vấn đề được đặt
ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các
vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử
công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: "Các
con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét".
Tuy nhiên,
lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội
của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị
thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt
bão: "Các
con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng
đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy".
Trên
thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác
báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi
lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng
mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa
hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những
người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung
quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm
thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.
Một khi chúng ta
xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người
khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình
hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) nhưng chướng tai gai mắtchúng
ta, chúng
ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa
Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách
móc thành phần này trong
bài Phúc Âm hôm nay:
"Sao
ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt
ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh',
và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi
mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh
em ngươi".
Tóm lại, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay dạy Kitô hữu chúng ta 2 điều
then chốt:
1- Đừng biết người hơn là biết mình, bằng không, không biết mình thì
chẳng khác gì như kẻ mù lòa không thể nào biết người khác để giúp họ,
trái lại, con người không biết mình sẽ có những tâm tưởng, ngôn từ, tác
hành và phản ứng sai lầm về người khác, thậm chí chụp mũ và lên án người
khác một cách vô cùng trắng trợn và oan ức, trong khi chính họ không
muốn bị như họ đối xứ với nạn nhân của họ;
2- Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô và là con cái của Cha Trên
Trời không có quyền phán xét ai, lên án ai và ném đá ai, quyền nay hoàn
toàn thuộc về Thiên Chúa, trái lại, chúng ta chỉ có bổn phận thông cảm,
tha thứ và yêu thương anh chị em của mình, nhất là những người anh chị
em đối phương với mình và thù địch của mình, tác hại mình, thậm chí coi
là đại ân nhân đã giúp mình nên thánh hơn, là huấn luyện viên giúp mình
sống Lòng Thương Xót Chúa trọn hảo hơn.
Thật vậy, đối với
tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng
những không
biết được thâm tâm của nhau, mà
nhất là không
có quyền đoán xét nhau nữa. Thế
nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con
người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở
chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và
hết mọi sự.
Nhờ đó,
Thiên Chúa có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi họ và qua
họ cho tha nhân, như
trường hợp của tổ phụ Abram, trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên
12:1-9), đã đáp ứng
lời Chúa kêu gọi mà đi đến một nơi xa lạ, không biết mình đi đâu
và đến đâu, cho đến nơi Ngài ấn định:
"Ngươi
hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ
cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta
sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc
lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho
ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc. Abram ra đi như Chúa đã
truyền dạy".
Và
nơi được ấn định
cho tổ phụ Abram cũng như cho giòng dõi của ông sau này đó là xứ Canaan,
nhưng lại là một nơi đã có một dân tộc khác cư ngụ và sinh sống, hoàn
toàn không thuộc chủ quyền của ông, nhưng Chúa lại lấy ban cho ông và
giòng dõi của ông:
"Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho
đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này. Chúa
đã hiện ra với Abram và phán rằng: 'Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi
ngươi'".
Hành động tin tưởng một cách mù quáng của tổ phụ Abram đã thật sự đẹp
lòng Chúa, Đấng đã tuyển chọn ông để ông làm cha của một dân tộc sẽ trở
thành gia nghiệp của Chúa và là mầm mống cho một dân tộc duy nhất dưới
quyền lãnh đạo tối cao của Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai.
Bài Thánh Vịnh 32 (12-13,18-19,20
và 22) được
Giáo Hội chọn đọc ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được cái phúc của dân
tộc cho mọi dân tộc ấy nói chung và của những ai biết kính sợ vào Ngài
nói riêng, thành
phần chỉ biết cậy
trông vào
một mình Ngài mà thôi.
1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ
nghiệp riêng mình(tức
dân
tộc Do Thái - người viết biệt chú riêng).
Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta (ám
chỉ các dân tộc khác trên thế giới - biệt chú riêng của người viết).
2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy
trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng
họ trong cảnh cơ hàn.
3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và
che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con,
theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Ngày 21 tháng 6
Thánh Lu-y Gon-da-ga, tu sĩ
lễ nhớ bắt buộc
Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia
đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân
mẫu, Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho
anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người
gia nhập dòng Chúa Giê-su. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ
dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc mới hai mươi ba tuổi (năm
1591).
Bài đọc 2
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng
Trích thư thánh Lu-y Gon-da-ga gửi cho thân mẫu.
Thưa mẹ khả kính, con cầu xin Chúa Thánh Thần luôn ban xuống
cho mẹ ân sủng và niềm an ủi của Người. Khi nhận được thư
của mẹ thì con vẫn còn ở trênchốn
tử vong này. Nhưng đã đến lúc phải hướng về trời, nơi
chúng ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa hằng hữutrong
cõi đất dành cho kẻ sống. Con cứ tưởng mình đã hoàn tất
được cuộc hành trình này trước đây rồi. Nếu bác ái làvui
với người vui, khóc với người khócnhư
thánh Phao-lô nói, thì thưa mẹ khả kính, hẳn là mẹ phải hết
sức vui mừng vì Chúa đã tỏ cho con thấy niềm hoan lạc đích
thực và sự bảo đảm không bao giờ sợ mất Người nữa ; sở dĩ
con được ơn này cũng là vì tình thương và ân sủng Chúa dành
cho mẹ.
Thưa mẹ khả kính, con thú thật với mẹ là khi suy nghĩ về
lòng nhân hậu của Thiên Chúa, bao la như biển cả không đáy
không bờ, thì tâm trí con bàng hoàng, hầu như lạc lõng,
không sao hiểu nổi. Quả thật, dù con chẳng vất vả bao nhiêu
trong một thời gian vắn vỏi, thế mà Chúa cũng mời con đến
nghỉ yên muôn đời. Từ trời cao, Người gọi con đến hưởng hạnh
phúc vô biên, hạnh phúc mà con đã không mấy thiết tha tìm
kiếm, và Người hứa ban thưởng cho con vì những giọt nước mắt
ít ỏi con đã đổ ra.
Thưa mẹ khả kính, xin mẹ hết sức cẩn thận, đừng khóc thương
con như khóc thương người chết, kẻo xúc phạm đến lòng nhân
từ vô biên của Chúa. Thật ra, con vẫn sống trước nhan Thiên
Chúa và những khi cần thiết, con có thể dùng lời cầu nguyện
mà giúp đỡ mẹ hữu hiệu hơn cả lúc con còn sống ở trần gian.
Cuộc chia ly này sẽ không lâu, vì trên trời chúng ta sẽ gặp
lại nhau, và một khi cùng kết hợp với Đấng cứu độ chúng ta,
chúng ta sẽ được hưởng niềm vui bất diệt mà hết lòng ngợi
khen Chúa và ca tụng tình thương Chúa đến muôn đời. Chúa lấy
lại cái Người đã ký thác nơi chúng ta không ngoài ý định là
đặt nó vào nơi an toàn chắc chắn hơn và dùng chính những thứ
mà chúng ta ước mong có được để làm cho chúng ta nên phong
phú.
Thưa mẹ khả kính, sở dĩ con nói những điều đó là vì lòng
những ước mong mẹ và toàn thể gia đình coi cuộc ra đi của
con như một ân huệ đáng mừng. Xin mẹ lấy tình mẫu tử mà chúc
lành cho cuộc hành trình này của con cho đến khi đạt tới bến
bờ con vẫn hằng hy vọng. Con đã tự ý viết thư này vì không
còn cách nào khác để bày tỏ lòng kính yêu mà một người con
phải có đối với mẹ mình.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Đấng ban phát mọi ơn thiêng, Chúa đã cho thánh Lu-y
Gon-da-ga vừa sống một cuộc đời trong trắng, lại vừa biết hy sinh
hãm mình. Vì công đức và lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa rủ
lòng thương nâng đỡ, để chúng con, dầu không được trong trắng như
người, thì cũng biết noi gương người mà hãm mình đền tội. Chúng con
cầu xin
Thánh Luy Gonzaga
(1568-1591)
Thánh Lu-y là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một
gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh
thiện. Lu-y là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục
vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở
nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Lu-y đã
được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi
lên bảy, đời sống tâm linh Lu-y thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc
kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng
với người em, Lu-y theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ
phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn
thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Lu-y càng chán ngán bấy nhiêu và
tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của
các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Lu-y đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ
cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu
của Lu-y phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình
cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Lu-y đã
chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Lu-y, các cha giám đốc đã buộc Lu-y
phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ
tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Lu-y được gửi
lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Lu-y tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công
Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề
trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe
yếu kém, Lu-y cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba
tháng bệnh hoạn, Lu-y đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23
tuổi.
Ðời sống thánh thiện của Lu-y được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau
này là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong
thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
Lời Bàn Thánh Lu-y dường như không thích hợp là quan thầy của các người trẻ
trong một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy trong các đội thể thao hay
võ thuật. Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và đầy tiện nghi lại tự ý
khép mình vào kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu nó tìm thấy một lý
do, cũng như Thánh Lu-y trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa thanh luyện
chúng ta là phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự cầu
nguyện.
Lời Trích “Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta phải tỉnh thức và tha thiết
với tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt bỏ tất cả những ý tưởng
trần tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng về bất cứ điều gì
ngoại trừ đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa” (Về Kinh Lạy Cha,
Thánh Cyprian).
Lu-y Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu
tước đều được đặt cả vào Lu-y. Lên bốn tuổi, Lu-y đã bắt đầu cùng bố
sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh
đao.
Ông
hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy
vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Lu-y và
cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici
ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi
ấy, Lu-y nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà
người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết
vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy
đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Lu-y theo con đường yêu thương
của Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Lu-y mang nhiều
vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu
nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Lu-y khám phá ra rằng chỉ
còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau
thời gian ở Firenze, Lu-y được gởi tới Mantua sống với những người họ
hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm
lược Giáo lý của Cha Phêrô
Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Lu-y liền dùng tập sách này làm
đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay
3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành
ngày.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Lu-y gặp một cha giải
tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15
tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ
nội tâm, Lu-y cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong
ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Lu-y nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi
của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Lu-y nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý.
Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi
Lu-y một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước,
mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia
tộc, đành phải để Lu-y ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều
này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Lu-y là
“kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Lu-y nhường lại ngôi thế tử
cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với
anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư,
một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi
thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc
công tử Rudolpho vui lắm”, Lu-y
trả lời:“Tôi
còn vui hơn”.
Khi vào nhà Tập, Lu-y tâm niệm rằng: “Tôi
là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong
thực tế, Lu-y nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những
gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của
Cha giám tập, Lu-y không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm,
cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây.
Trên hết, Lu-y từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào
luyện trở thành Giêsu hữu. Lu-y bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt
trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây
anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Lu-y tuyên khấn lần đầu
ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương
trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với
các anh em khác, Lu-y đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh
nhân. Lu-y đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh
viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích
sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Lu-y nói với Cha linh
hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao
lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và
phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ
hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải
yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh
em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít
lây. Một hôm, Lu-y đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn
thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm
1591.
Những ngày sau đó, Lu-y đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm
hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa
về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời
gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Lu-y xin được lãnh các bí tích
sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Lu-y, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt
nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt
lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới
23 tuổi.
Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và
được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726.
Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được
nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người
chăm sóc các bệnh nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho
các học viên thần học.
Thánh Lu-y Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ,
về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo
khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.
Cầu nguyện:Lạy
Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em
của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su
hiền lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế
tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.**R
(có thể
tài liệu trên đây được lấy từ tài liệu dưới đây, chỉ thêm vào 3 đoạn
cuối cùng mà thôi, vì tài liệt dưới đây mang tên tác giả, còn tài liệu
trên không thấy tên ai viết!)
THÁNH LUY GONZAGA TUỔI TRẺ DÂNG HIẾN
Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu
tước đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống
trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao.
Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy
vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và
cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici
ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi
ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà
người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết
vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy
đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của
Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của
cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh
vịnh. Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc
vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi
tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được
cuốn tóm lược giáo lý với phần suy niệm của Cha Phêrô Canisiô. Luy liền
dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi
lớn lao.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải
tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15
tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ
nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong
ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi
của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý.
Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi
Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước,
mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia
tộc, đành phải để Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này,
nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng
quý báu nhất trên cõi đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường
hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ
tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người
hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong
đoàn tuỳ tùng nói với anh: "Chắc công tử Rudolpho vui lắm", Luy trả
lời:"Tôi còn vui hơn".
Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà
Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp
sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn
ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp
tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường
xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân
thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập
làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện…
những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập,
Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học
Rôma để tiếp tục chương trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với
các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh
nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh
viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích
sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh
hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao
lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và
phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ
hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải
yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh
em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít
lây. Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận.
Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.
Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm
hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa
về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời
gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau
cùng. Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn
thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên
Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi mới 23 tuổi.
Thánh Luy Gonzaga Tu sĩ Dòng Tên Sinh : 09.03.1568 – tại Castiglione, Bắc Ý. Qua đời : 21.06.1591 Lễ mừng ngày 21.6 ĐẶNG THẾ NHÂN
"Bác không muốn có sự bất bình
giữa bác và cháu: vì chúng ta là anh em với nhau".
Trích sách Sáng Thế.
Bấy giờ Abram rất giàu, có nhiều
vàng bạc. Ông Lót, người đi với Abram, cũng có nhiều đàn chiên, bò và
lều trại. Miền đó không đủ chỗ cho cả hai cùng ở, vì họ có nhiều tài
sản, nên không thể ở chung với nhau. Bởi thế các người chăn chiên của
Abram và của Lót hay xảy ra cãi lẫy nhau. Khi ấy dân Canaan và dân
Phêrêzê ở miền này.
Vậy Abram nói cùng Lót rằng: "Bác
không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên
của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một
miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ
đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay
trái". Vậy Lót ngước mắt lên trông thấy cả miền đồng bằng sông Giođan,
có nước dồi dào. (Trước khi Chúa huỷ diệt thành Sôđôma và Gômôra, cả
miền ấy và phía Segor như vườn địa đàng của Chúa và như đất Ai-cập). Lót
chọn miền đồng bằng sông Giođan và đi về phía đông. Thế là hai bác cháu
lìa xa nhau. Abram ở lại đất Canaan, còn Lót ở các đô thị gần sông
Giođan, và cư ngụ tại Sôđôma. Dân thành Sôđôma rất xấu xa, vì quá tội
lỗi trước mặt Chúa.
Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng
Abram rằng: "Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía:
đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn
cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi
đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu
ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho
ngươi". Bởi vậy Abram di chuyển lều trại đến ở thung lũng Mambrê, thuộc
miền Hebron, và dựng bàn thờ kính Chúa ở đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14,
2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp:Lạy
Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và
thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa
lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại đồng
liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân,
nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ
thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những
điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: Tv
118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho
con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ
lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7,
6. 12-14
"Tất cả những gì các con muốn
người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước
mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.
"Vậy tất cả những gì các con muốn
người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như
thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.
"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì
cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi
lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm
Nghiệm
4 Nhân Đức Trụ về 3 Nguyên Tắc Sống Khôn Ngoan
Bài
Phúc Âm choThứ
Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa
Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) chất chứa 4 luân đức của Kitô
giáo hay cũng được gọi là 4 nhân đức trụ, những nhân đức cho thấy 3
nguyên tắc sống khôn
ngoan sau đây:
Trước hết là 4 nhân đức trụ. Tu đức Kitô giáo liệt kê 7 nhân đức rõ
ràng, đó là 3 thần đức và 4 luân đức. Ba thần đức tức là 3 nhân đức đối
thần, 3 nhân đức hướng về Thiên Chúa là đối tượng của 3 nhân đức này. Đó
là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến, 3 thần đức được phú bẩm vào tâm hồn Kitô
hữu ngay từ khi họ lãnh nhận Phép Rửa, nhờ đó họ có thể tác hành xứng
đáng là một người con Thiên Chúa, người con được thông phần với bản tính
thần linh của Thiên Chúa và sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và như
Thiên Chúa. Còn 4 luân đức là 4 nhân đức trụ của con người, lấy con
người làm đối tượng và về tư cách làm người cần phải có của con người để
họ có thể nên người trước khi nên thánh. Đó là nh6an đức khôn ngoan,
công bằng, dũng cảm và tiết độ.
Trong Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, Chúa Giêsu đã dạy các
tông đồ của Người là thành phần phải công chính thánh thiện hơn thành
phần biệt phái và luật sĩ, là muối đất và là ánh sáng thế gian, ở đoạn
5, sống đức ái trọn hảo và ở đoạn 6 sống đức tin chân thực và đức cậy
trông vững vàng. Thế nhưng, ở đoạn 7 của Phúc Âm Thánh Mathêu là Phúc Âm
thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Người ở 3 đoạn 5-7, Người cũng không
quên huấn dụ các vị về những gì là cơ bản nhất liên quan đến trực tiếp
bản thân làm người của các vị, như thế Người muốn nói rằng các nhân đức
về con người là điều kiện bất khả thiếu để sống 3 thần đức hợp với tư
cách và thân phận làm con cái của Thiên Chúa và là môn đệ của Người.
4 luân đức cũng là 4 nhân đức trụ này được Chúa dạy trong bài Phúc Âm
hôm nay thứ tự như sau:
Nhân đức khôn
ngoan:"Ðừng
lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng
giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".
Nhân đức công bằng:"Tất
cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy
làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy".
Nhân đức can đảm:"Hãy
vào qua cửa hẹp... cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ
tìm thấy".
Nhân đức tiết độ:"Hãy
vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất,
và có nhiều kẻ đi lối ấy"
Tuy nhiên, nếu trong 4 luân đức này nhân đức đầu tiên được liệt kê và
quan trọng nhất cùng cần thiết nhất đó là nhân đức khôn ngoan, như đèn
soi chiếu cả thân thể, bất khả thiếu, bằng không, không thể thực hành
được 3 nhân đức trụ còn lại. Sau đây là 3 nguyên tắc sống khôn ngoan để
có được hay để thực hành trọn vẹn 4 nhân đức trụ của con người, như sau:
Nguyên
tắc thứ nhất: "Đừng
lấy của thánh mà đem cho
chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo,
kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".
Tại
sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những
gì loài người vốn trân quí.
Bởi
thế, "lấy
của thánh mà đem cho
chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo"là
một hành động hoàn
toàn ngu
xuẩn, phí
của và vô ích, thậm
chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là
chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá
vậy, nên chúng có thể "quay
lại cắn xé các con".
Ở đây,
nếu
chú ý chúng
ta thấy được hai con thú tiêu biểu được
Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có
vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động
từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh
bỉ; còn
"heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là
những gì thuần
vật chất và đến động
từ "quẳng".
Nhưng
dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng
nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng
cần trang điểm bằng "ngọc
trai" cho đẹp
hơn và hãnh diện hơn.
Phải
chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người
là những gì "thánh
hảo" vô
giá và quí
báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc
lấy và trang sức cho
xứng
với vai trò là môn đệ của Người?
Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm
cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều
mà lề luật và các tiên tri dạy".
Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết
người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho
người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình".
Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó
chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó
phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như
kỷ": yêu nhau như bản thân mình.
Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối
với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những
kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê
nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính
là tha nhân.
Tổ phụ Abram trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 13:2,5-18) đã áp dụng
nguyên tắc "ái nhân như kỷ" này khi để cho Lot cháu của ông chọn trước
phần đất nó thích, hơn là chính ông chọn trước để cho cháu phần ông
không thích:
"Bác
không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên
của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một
miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ
đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái".
Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường
thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và
đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".
Đúng
thế,
muốnsống
nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần
phải bỏ
mình đi,
thậm
chí cần phải coi
người
khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào
qua cửa hẹp",hoàn
toàn đi
ngược
chiều với đa số phàm nhân luôn coi
mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì
tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy
lại.
Có thể nói, giáo
huấn Phúc Đức Trọn Lành trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô trong
Phúc Âm Thánh ký Mathêu, nhất là ở đoạn 5, liên quan đến Đức Ái Trọn
Hảo, là"cửa
và đường đưa tới sự sống",nhưng"chật
hẹp" ,phải
có ơn Chúa mới có thể theo đuổi, phải sống đức tin mới có thể đi trọn,
phải sống nội tâm mới có thể làm chủ bản thân mình và theo đúng đường
lối của Thiên Chúa, bằng không, Kitô hữu cũng thuộc về đám đông, thành
phần sống theo tự nhiên, chỉ tìm cầu những gì là dễ chịu nhất và thoải
mái mất, nhưng lại là những gì dễ trở thành dịp tội khiến con người hư
đi:"cửa
rộng và đường thênh thanglà
lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy".
Bởi thế nên Kitô hữu môn đệ đích thật của Chúa Kitô phải là những con
người"hãy
qua cửa hẹp mà vào",phải
thuộc về thành phần thiểu số,"ít người đi" - "ít kẻ
tìm thấy", thành phần dám sống dị chúng nhân, không theo đám đông,
thậm chí bất chấp đám đông, bất chấp ý thức hệ hay áp lực của đám đông,
bất chấp chống đối và chống phá của họ, xuất phát từ thành kiến và ác
cảm của họ trước những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng phúc đức
trọn lành phản thế gian và vượt trên thế gian để soi chiếu thế gian của
mình.
Thật vậy, về phương
diện siêu nhiên, chính vì "cửa
và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp"như
thếmà
những ai hiên ngang tiến bước mới gặp "sự sống", mới trở nên dồi dào,
như trường hợp tổ phụ Abram nhờ nhường cho cháu mà được Chúa chúc phúc:
"Sau
khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: 'Hãy ngước mặt lên và từ nơi
ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi
trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm
cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì
mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì
chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi'".
Thánh
Vịnh 14 (2-3ab,3cd-4ab,5) ở
Bài Đáp
Ca hôm nay đã diễn tả về con người sống luật vàng như tổ phụ Abram này
như sau:
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ
điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận.
Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người
hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung
lay.
22/6
Thánh Phaolino Nolano Giám Mục,
Thánh Gioan Fisher Giám Mục và
Thánh Toma More Tử Đạo
Lịch Rôma hiện hành ghi danh sách ba vị thánh mừng kính ngày 22
tháng Sáu. Chúng tôi xin trình bày ngắn gọn tích truyện các ngài ở
đây, lần lượt từng vị một.
Thánh Paulinô Nôla
Thánh Paulinô Nôla được sinh vào khoảng năm 353 tại Boócđô, nước
Pháp. Thân phụ ngài là một quan chức nhà nước và là một địa chủ giàu
có. Paulinô học hành đỗ đạt. Ngài trở thành luật sư và thi sĩ. Ngài
đi du lịch khắp các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý và ở bất kỳ nơi nào mà
công việc hoặc thú vui khoái lạc đòi hỏi. Năm 381, lúc hai mươi tám
tuổi, Paulinô Nôla trở thành quan chức miền Campania, nước Ý.
Năm ba mươi sáu tuổi, thánh Paulinô Nôla trở thành tín hữu Công
giáo. Thánh nhân và người vợ Têrêsia của ngài sinh được một cậu con
trai. Sau khi đứa con qua đời, đôi vợ chồng bố thí tài sản mình cho
những người nghèo đói. Họ chỉ giữ lại những gì cần thiết để nuôi
sống bản thân. Paulinô và Têrêsia, cả hai đều bằng lòng muốn sống
một đời đơn sơ bình dị. Hai người cùng cầu nguyện, hy sinh và làm
những công việc hữu ích. Các ngài cũng quyết định tuân giữ lời khấn
trong sạch để minh chứng tình yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa.
Cộng đoàn Kitô hữu hết sức nể trọng Paulinô và người vợ của ngài. Họ
rất hài lòng khi Paulinô trở thành linh mục vào năm 394. Sau đó,
thánh Paulinô và Têrêsia thiết lập một cộng đoàn nhỏ dành cho các
đan sĩ ở Nôla, nước Ý. Các ngài cũng mở một nhà tế bần cho những
người nghèo và các lữ khách.
Paulinô và Têrêsia quyết định ở lại Nôla. Paulinô muốn ở gần đền
thánh Phêlích Nôla, một trong các đấng thánh mà ngài yêu mến. Thánh
Phêlích, mất năm 260, đã làm linh mục và giám mục. Thánh nhân đã can
đảm bảo vệ bổn đạo của mình trong suốt cuộc khủng bố bách hại của
hoàng đế Đêsiô. Thánh giám mục Phêlích Nôla nổi tiếng về đời sống
cầu nguyện, về tình yêu đối với đàn chiên và về lối sống đơn sơ
nghèo khó. Qua một thế kỷ sau, Paulinô Nôla cầu nguyện với thánh
nhân và viết sách về ngài. Paulinô Nôla cảm thấy hết sức tin tưởng
vào quyền năng của thánh Phêlích. Vậy điều gì đã có thể làm cho cựu
quan chức Rôma này trở nên giống như thánh Phêlích? Ngoài thánh
Paulinô ra, hẳn là chẳng ai trong chúng ta có thể phỏng đoán được.
Năm 409, Paulinô Nôla được chọn làm giám mục thành Nôla. Dân chúng
rất sung sướng vui mừng. Paulinô Nôla là vị giám mục khôn ngoan, dịu
dàng, hiền lành giống như thánh Phêlích trước đây. Nhiều vị thánh
sống vào thời ấy đã ca ngợi Paulinô Nôla như thánh Ambrôsiô, thánh
Augustinô, thánh Giêrônimô, thánh Martinô thành Tua và nhiều vị
khác. Dù một số tác phẩm hay của Paulinô Nôla đã bị thất lạc nhưng
hiện vẫn còn lại 32 bài thơ và 51 lá thơ.
Thánh Paulinô làm giám mục thành Nôla cho tới khi qua đời năm 431.
Thánh Paulinô Nôla đã trở nên một tín hữu Công giáo tuyệt vời như
vậy bởi vì ngài rất quý trọng ơn đức tin. Chúng ta hãy khẩn cầu cùng
thánh Paulinô Nôla và xin ngài giúp chúng ta tăng triển lòng biết ơn
đối với đức tin đã lãnh nhận.
Thánh Gioan Phítsơ
Thánh Gioan Phítsơ sinh tại Gioócsi, nước Anh vào năm 1469. Gioan
học tại trường đại học Cambrít và được làm linh mục. Cha Phítsơ cũng
dạy học tại Cambrít. Ngài là một nhà giáo ưu tú chuyên giúp các sinh
viên tăng triển và đào sâu thêm tri thức về đức tin của họ. Cha
Phítsơ cũng là một thần học gia. Cha đặc biệt giúp ích trong việc
chỉ ra những nhầm lẫn tôn giáo của thời đại mà những nhầm lẫn này đã
làm cho một số người bối rối.
Năm 1504, cha Gioan Phítsơ trở thành giám mục thành Rôchétxtơ, nước
Anh. Đó là một giáo phận nghèo và giám mục Phítsơ đã lưu lại với đàn
chiên của ngài suốt ba mươi năm. Vì thế, giám mục Phítsơ kiêm một
lúc hai nhiệm vụ quan trọng. Ngài vừa là giám mục của giáo phận vừa
là hiệu trưởng của trường đại học Cambrít. Năm 1514, Phítsơ được chỉ
định làm hiệu trưởng trường đại học vì sự sống còn của nó. Giám mục
Phítsơ cũng là cha giải tội của thân mẫu vua Henri VIII. Tên của bà
là Êlizabeth Gioóc.
Giám mục Gioan Phítsơ có nhiều bạn bè, gồm cả học giả danh tiếng
Êrasmô và thánh cả Tôma Môrê. Ít người biết được thánh giám mục
Gioan Phítsơ và thánh Tôma Môrê cùng được mừng kính chung một ngày
lễ trong niên lịch kính nhớ các thánh.
Chắc chắn chưa có cuộc mừng khi đức giám mục Phítsơ bị giam tù năm
1533. Ngài bị bắt giam tù vì đã nhất định minh chứng cuộc hôn nhân
giữa nhà vua và hoàng hậu Catarina là đúng đắn. Sau đó, vua Henri
VIII ly dị Catarina và kết hôn với Annê Bôlây trong một nghi thức
dân sự. Ông yêu cầu thần dân ký tên vào văn bản thề hứa trung thành
với ông. Ông tự phong cho mình là thủ lãnh Giáo hội Anh quốc. Giám
mục Phítsơ không ký tên. Và liền sau đó, ngài bị đem tới tháp đài
Luânđôn, một chiếc tháp thật ẩm ướt và cách đối xử ở đó rất ư khắc
nghiệt. Thánh giám mục Gioan Phítsơ tuy phải chịu đựng rất nhiều đau
khổ nhưng ngài đã không phản bội niềm tin của mình. Thậm chí dù chưa
có tivi và máy thu thanh nhưng người ta vẫn nhận biết được những
việc mà giám mục Phítsơ, ngài Tôma Môrê và những người khác, đã thực
hiện. Họ xúc động và đau buồn. Ngày 12 tháng Sáu năm 1535, đức thánh
cha Phaolô III đã đặt giám mục Gioan Phítsơ làm hồng y. Đức thánh
cha hy vọng rằng việc này sẽ làm cho Henri VIII trả lại tự do cho
Phítsơ. Nhưng vua càng thêm tức giận và độc ác. Ông yêu cầu hồng y
Phítsơ phải chết. Gioan Phítsơ bị giết chết ngày 22 tháng Sáu năm
1535.
Cùng với người bạn Tôma Môrê, hồng y Gioan Phítsơ được đức thánh cha
Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1935.
Đôi lúc bạn dễ đồng tình với đám đông hơn là đứng ra bênh vực chân
lý. Khi thấy mình lâm vào tình trạng như vậy, bạn hãy cầu nguyện xin
thánh Gioan Phítsơ ban cho một chút lòng can đảm của ngài.
Thánh Tôma Môrê
Thánh Tôma Môrê là một luật sư và là một văn gia danh tiếng. Ngài
sinh tại Luânđôn vào năm 1477. Thân phụ của Tôma Môrê cũng từng là
một luật gia và là một quan tòa. Tôma hằng biết ơn cha mình vì đã
hết sức yêu thương và đã không làm ngài hư hỏng.
Người vợ thứ nhất của Tôma, bà Giên Côn, đã qua đời khi còn rất trẻ.
Bà để lại cho Tôma bốn người con nhỏ. Tôma Môrê kết hôn lần nữa với
một quả phụ, một quả phụ đơn sơ chất phác chẳng biết viết cũng chẳng
biết đọc gì cả. Người chồng đã gắng công dạy dỗ vợ mình. Tôma làm
cho bầu khí gia đình trở nên vui tươi dễ chịu bởi vì ngài có tính
vui vẻ hòa nhã đối với mọi người. Có một trẻ đọc trích đoạn Kinh
Thánh suốt bữa ăn. Sau đó, cả nhà vui đùa và nói chuyện khôi hài với
nhau. Thánh Tôma Môrê cũng hay mời những người láng giềng nghèo khó
xấu số hơn tới nhà ngài dùng bữa tối. Ngài luôn luôn giúp đỡ người
nghèo theo khả năng có thể. Thánh nhân thích tạo sự ngạc nhiên bất
ngờ cho các vị khách của ngài. Thậm chí Tôma Môrê cũng nuôi vài chú
khỉ làm những con vật cưng trong nhà. Nhưng ít người có thể hình
dung ra thánh Tôma Môrê thật đã sống nội tâm sâu xa đến độ nào. Ban
đêm, ngài đã cầu nguyện hàng giờ và thực hành nhiều việc khổ chế.
Thánh nhân ý thức rõ rằng để trở nên một Kitô hữu đích thực thì cần
phải có ơn Thiên Chúa giúp đỡ.
Thánh Tôma Môrê nắm giữ những chức vụ chính trị quan trọng. Suốt ba
năm, thánh nhân làm đại chưởng ấn (ngày nay gọi là thủ tướng). Vua
Henri VIII thường khoác tay mình trên vai của Tôma Môrê cách yêu
thương trìu mến. Tuy nhiên, dù Tôma Môrê là một thần dân rất trung
thành, thì đối với Thiên Chúa, thánh nhân vẫn trung thành hơn. Thật
sự là khi nhà vua cố làm cho Tôma Môrê vi phạm lề luật của Thiên
Chúa, Tôma Môrê đã không chịu nhượng bộ. Henri VIII muốn được ly dị
người vợ của ông để cưới một người đàn bà khác. Tuy nhiên, đức thánh
cha không thể ban phép vì đi ngược lại luật Thiên Chúa dạy. Henri
VIII thật bướng bỉnh và ngoan cố; và sau cùng, ông đã rời bỏ Giáo
hội. Ông muốn mọi người tôn nhận ông là thủ lãnh của Giáo hội Anh
quốc. Tôma không đồng ý chuyện đó. Ngài kiên quyết luôn trung thành
với đức tin Công giáo và với Thiên Chúa. Và Tôma Môrê bị kết án tử
vì lý do đó. Tuy vậy, Tôma Môrê đã tha thứ cho các kẻ xét xử ngài.
Thậm chí thánh nhân còn nói rằng ngài sẽ gặp lại họ trên nước thiên
đàng. Tôma Môrê thật sự có ý như vậy.
Trên đoạn đầu đài nơi ngài sắp sửa phải lìa đời, thánh Tôma Môrê đã
hôn lên mặt của người đao phủ. Sau đó, thánh nhân nói đùa rằng không
nên chém đứt bộ râu của ngài bởi vì nó chẳng làm điều gì nên tội.
Thánh nhân được phúc tử vì đạo vào hôm thứ Ba ngày mùng 6 tháng Bảy
năm 1533, thọ năm mươi bảy tuổi. Cùng với hồng y Gioan Phítsơ, Tôma
Môrê được đức thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm
1935.
Vị thánh này được mọi người ngưỡng mộ vì ngài đã hết lòng tin tưởng
vào chân lý đức tin; và ngài đã sẵn lòng hy sinh mạng sống vì chân
lý ấy. Thánh Tôma Môrê đã liều mất hết mọi thứ: tài sản, địa vị, sự
an toàn của bản thân và của những người ngài thương yêu nhất. Thánh
Tôma Môrê đã giữ vững đức tin dù phải hy sinh cả mạng sống của mình.
Thánh nhân thách đố chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta sẽ làm gì
nếu ở trong hoàn cảnh giống như ngài
Thánh Gioan Fisher, Thánh Tôma More và Thánh Paulinô Nôlanô
Ngày đăng:
Thánh GIOAN FISHER Giám Mục (1469 – 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia
giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ
gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm
1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501,
và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của
Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ
chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được
chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục
tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc
sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết
sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng
giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy
lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân
của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật
này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến
những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng
người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã
viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của
thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết
cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước
đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon.
Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng
thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành
hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để
nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của
Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha
Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là
phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này
mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với
Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền
kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này.
Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo
luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas
More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535
đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà
vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6
năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân
xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn
cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị
treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông
Thames … nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More
Thánh
TOMA MORE (1478 – 1535) Quan thầy
của các chính trị gia
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia
đình mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện”.
Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo
phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho
Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc
đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ
Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng
nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì
trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu
trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái
thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ
và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ
sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More
tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận,
nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục
rất cẩn thận. “Trong gia đình này không có ai làm biếng cả…”
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước
mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn
là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả
tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia
đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết
thư cho vợ: “Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát
này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được”.
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- “Anh không muốn còn đầy muỗm nếu
một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta”.
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy
tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối
thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi
kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều
đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và
năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với
hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua
và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị
nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: –
Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt
giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày
mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna
More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14
tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện.
Trước toà án Ngài nói : – Vương quốc Anh không thể bất phục tòa
thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: – Thánh Phaolô đồng loã với cái
chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh
cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết
án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng
cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời
khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu
đài, Ngài còn khôi hài nói : – Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo : – Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn
quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói : – Nó
không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6
tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
Thánh PAULINÔ NÔLANÔ (355 – 431)
Thánh
Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan.
Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được
thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở
nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang
Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với
Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai
như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz
và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn
thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ:
lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính
Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là
cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho
Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho
người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395
chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban
Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn
một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính
thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: –
“Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu
những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự
trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ”.
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả
là một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con
người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà
người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem
Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế
nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình,
thánh Paulinô viết: – “Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu
rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc
đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – “Sự nghèo khó của anh em
bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó
túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ
bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại
dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể.
Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục,
nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu
viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời
sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy
như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các
thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người
Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá
Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân,
nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ
còn biết cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền
bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả
cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng
có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục
của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ
giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32
bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp
quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được
thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên
danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban
Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu
nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng
năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới.
Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ
cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi
nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay
kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái
chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên
Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo.
Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục
tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au,
Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây,
Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – "Có
nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những
thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành
mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là
một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con
người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người
tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ
khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh
Paulinô viết:
–"Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi
đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất
lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – "Sự nghèo khó của anh em bạn
là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng
thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên
kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước
chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy
sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành
một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời
sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như
được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên
thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người
Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá
Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng
đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết
cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa
biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm
là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ
Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người
Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ
giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài
thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
"Abram tin vào Thiên Chúa và vì
đó, ông được công chính".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, có lời Chúa
phán cùng Abram trong thị kiến rằng: "Hỡi Abram, ngươi chớ sợ, Ta là
Ðấng phù trợ và là phần thưởng rất bội hậu cho ngươi". Abram thưa rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho con điều gì? Con sẽ qua đi mà
không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc
gia đình con". Abram nói tiếp rằng: "Chúa không cho con sinh con; đây
con của người giúp việc sẽ là kẻ nối nghiệp con". Tức thì có lời Chúa
phán cùng ông rằng: "Chẳng phải người này sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi,
nhưng là chính người con ngươi sinh ra, sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi".
Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên
trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp:
"Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa và vì
đó, ông được công chính.
Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng
dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này
làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con
có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt
một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi,
một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả những con
vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia:
nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những
con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi.
Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê;
một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời đã
lặn rồi, bóng tối mù mịt phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối
lửa băng qua giữa những phần con vật chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã
thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ
ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Euphrát".
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy
hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng
ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. -
Ðáp.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của
Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và
quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ
của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa
là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa
cầu. - Ðáp.
4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời
minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người
đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.
Alleluia: Ga
14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7,
15-20
"Hãy xem quả thì các con sẽ
biết chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng
các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các
con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái
vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu
thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể
sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa.
Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm
Nghiệm
Chân dung của những "con sói... cắn xé"
Suy
Niệm
Chủ đề "sự sống" từ Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp tục ở bài Phúc Âm hôm
nay, Thứ Tư Tuần XII Thường Niên, ở chỗ hoa trái của sự sống này, một
thứ hoa trái cho biết là sự sống đó thật hay giả, siêu nhiên hay tự
nhiên, dồi dào hay cằn cỗi. Chúa Giêsu đã sử dụng ngay định luật tự
nhiên về sự sống để áp dụng vào sự sống siêu nhiên, ở chỗ căn cứ vào hoa
trái của nó, như Người phán dạy như sau:
"Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con,
nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ
biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi
bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh
trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh
trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy
coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".
Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần"tiên
tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho
dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên
không thể sinh hoa trái tốt lành:"cây
xấu không thể sinh trái tốt",trái
lại,"cây xấu thì sinh trái xấu"là
thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt,
hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn
tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng"sẽ
bị chặt đi và ném vào lửa"xứng với số phận bóng tối
không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.
Thành phần "tiên tri giả"đượcChúa
Giêsu đề cập đến ở đây, ở vào phần cuối của Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành
Trên Núi mà Người trực tiếp ngỏ cùng các tông đồ và gián tiếp cho dân
chúng, chắc Người không ám chỉ thành phần biệt phái và luật sĩ sau này
bị Người công khai và thậm tệ quở trách là"đồ giả
hình"ở đoạn 23 của cùng Phúc Âm Thánh Mathêu,mà
là chính các tông đồ hằng được nghe Người giảng dạy và thấy gương sống
của Người mà vẫn sống ngược lại với Người.
Một trường hợp điển hình cho thấy có thể Người ám chỉ thành phần "tiên
tri giả" là các tông độ hay môn đệ của Người, bề ngoài có vẻ hiền
lành dễ thương như "chiên" nhưng bề trong vốn còn tính chất "sói
dữ... cắn xé", đó là trường hợp của chính tông đồ Gioan, vị tông đồ
đã có lần ngăn cản người khác không được lấy danh Thày mà trừ quỉ bởi
không thuộc về nhóm của ngài (xem Luca 9:49), và ngay sau đó ngài còn
cùng tông đồ Giacôbê anh mình đã ngỏ ý xin Thày sai lửa trời xuống thiêu
rụi một thành Samaritano vì họ không tiếp rước Người (xem Luca 9:54). Sở dĩ có bài Phúc Âm hôm nay ở phần cuối của Bài Giảng Trên Núi, là
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc thực hành giáo huấn phúc đức trọn
lành của Người vừa giảng dạy cách riêng cho các tông đồ. Những ai thực
hành lời của Người thì sẽ sinh hoa trái tốt đẹp nhờ lời của Người, bằng
không sẽ chẳng sinh hoa trái gì, thậm chí còn sinh hoa trái xấu theo bản
tính và xu hướng tự nhiên hướng hạ của mình. Cảm Nghiệm
Như thế, bất kỳ ai, không phải chỉ ở nơi dân ngoại không biết Chúa hay
chưa biết Chúa, hoặc ở nơi những kẻ được coi là tội lỗi gian ác, mà là
chính thành phần mang danh môn đệ của Chúa Kitô, Đấng "hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), cũng có thể là thành phần
"tiên tri giả", ở vào một lúc nào đó hay ở một nơi nào đó, nếu
họ không sống trọn lành theo giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi được Chúa
Giêsu truyền dạy suốt trong gần 3 tuần vừa qua ở Tuần X, XI và XII Mùa
Thường Niên này.
Thực tế quả thực cho thấy đúng như vậy. Như lịch sử Giáo Hội và đời
thường cho thấy, thành phần Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng đã
có những thái độ"sói
... cắn
xé"còn
gian dối hơn cả lương dân, còn dữ dằn độc ác hơn cả dân ngoại, thậm chí
lấy chính chân lý hay nhân danh chân lý để sát hại nhau chứ không phải
để giải thoát nhau, để cứu giúp nhau như chính bản chất của chân lý là
soi sáng và giải phóng (xem Gioan 8:32), còn chia rẻ nhau trong nội bộ
Kitô giáo của mình, gây gương mù và tai hại trầm trọng cho công cuộc
truyền giáo là bản tính của Giáo Hội Chứng Nhân của Chúa Kitô và cho
Chúa Kitô.
Những trường hợp điển hình cho thấy thành phần "tiên tri giả" là thành
phần, như Chúa Kitô diễn tả, có 3 đặc tính: "mặc lốt chiên",nhưng
bên trong lại là"sói dữ"nên đời
sống của họmang lại những hậu"cắn
xé"tai hại. Chẳng hạn các vị linh mục lạm dụng tình
dục trẻ em, "mặc lốt chiên" là cha cụ, nhưng lại thèm muốn hèn hạ đến độ
như "sói dữ" dám lén lút ăn thịt con chiên của mình, và vì thế các vị
quả thực đã "cắn xé" chẳng những biết bao nhiêu là giới trẻ đã bỏ đạo
bởi gương mù của các vị bị phanh phui mà còn "cắn xé" cả tài sản của
giáo hội địa phương là nơi các vị thuộc về liên quan đến việc bồi thường
cái hậu quả "cắn xé" như một con "sói dữ".
Hay trường hợp cha mẹ Kitô hữu đạo đức tốt lành, đọc kinh "xem" lễ và
rước lễ hằng ngày, nhưng con cái vẫn cứ hư đi, vẫn bỏ đạo, bởi vì bên
trong cái vỏ đạo đức như "mặc lốt chiên" ấy, họ vẫn chất chứa tâm tưởng
của loài "sói dữ" đầy những thành kiến xấu, những ác cảm, những hận thù
ghen ghét, những chấp nhất lặt vặt, những nghĩ bậy cho nhau, được bộc lộ
qua những lời nói hành nói xấu, phê bình chỉ trích chủ quan, chửi rủa
nguyền rủa nhau v.v., khiến con cái bị "cắn xé" bởi gương mù gương xấu
của họ, đến nỗi có những đứa bỏ đạo, không đi thờ đi lễ như cha mẹ mong
muốn và thúc giục nữa, bởi theo chúng, việc đi thờ đi lễ của cha mẹ và
như cha mẹ chúng là không gì không mang lại lợi ích, trái lại, còn gây
hại nữa... thì theo gương các vị mà làm gì, chẳng có lợi thì chớ mà lại
còn mất giờ và bị mang tiếng là giả hình nữa.
Tuy nhiên, cho dù trong lòng Giáo Hội tự bản chất "thánh thiện" hằng
liên lỉ có những đứa con "sói dữ... cắn xé", dù vô tình hay chủ ý, bằng
cách này hay cách khác, ở thời này hay thời kia, Giáo Hội của Chúa vẫn
không thể bị hủy hoại, bởi Giáo Hội chính là công việc của Chúa, chứ
không phải là việc làm của con người thuần túy. Chúa sẽ ở với Giáo Hội
và qua những gian nan khốn khó thử thách cả trong lẫn ngoài như thể bị
nội công ngoại kích ấy, Giáo Hội lại càng trở thành dấu chứng cho thấy
Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô có Chúa Kitô là Đầu và càng hiệp
nhật nên một với Người ở chỗ giống Người trong việc bách hại và sát hại.
Đúng thế, không ai có thể phá hủy được Giáo Hội, cho dù là quyền lực
kinh khủng của hỏa ngục đi nữa, vì Chúa ở cùng Giáo Hội như Thiên Chúa ở
cùng dân Do Thái xưa, ngay từ ban đầu, qua tổ phụ Abram của họ, như Bài
Đọc 1 hôm nay cho thấy, một vị tổ phụ đã già mà vẫn còn son sẻ:"Con
sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của
người giúp việc gia đình con",thế nhưng, theo sự quan
phòng thần linh vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa thì:"chính
người con ngươi sinh ra sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi",một
sự nghiệp ngoài đất hứa mà chính yếu bao gồm muôn vàn con cháu:"Ngươi
hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao...Miêu
duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế".
Chính vì tin tưởng mọi sự vào Thiên Chúa, vào ý định vô cùng huyền
diệu của Ngài, một ý định được Ngài tỏ hiện và bày tỏ qua giao ước Ngài
đã tự động lập ra và ký kết với dân của Ngàiqua
các vị tổ phụ của họ,Vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất bất biến dù con người có qua đi hay bất
trung với Ngài: "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên
Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15) -"Tới muôn đời
Chúa vẫn nhớ lời minh ước",mà Thánh
Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dường như đã âm vang tâm tình ngợi
khen chúc tụng của tổ phụ Abram, Vị được Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định:"Abram
tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".
1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa
ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi
điều kỳ diệu của Chúa.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa,
hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm
thiên nhan Chúa luôn luôn.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp,
những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền
cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.
4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an
bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa
Người đã thề với Isaac.
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)St
16, 1-12. 15-16
"Agar đã sinh cho Abraham một
con trai và ông gọi nó là Ismael".
Trích sách Sáng Thế.
Bà Sarai vợ ông Abram không sinh
con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng ông
rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi,
may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Ðã
mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar,
người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với
nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói
cùng Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi
vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa
xét xử giữa tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở
dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho
đến nỗi nàng trốn đi.
Thiên thần Chúa gặp nàng trong
rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên
thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi
đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng
rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa
nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và
nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ
đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi.
Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người
sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh
con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi
Agar sinh Ismael.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này:St
16, 6-12. 15-16
Abram trả lời Sarai rằng: "Này, nữ
tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai
hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong
rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên
thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi
đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng
rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa
nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và
nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ
đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi.
Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người
sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh
con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi
Agar sinh Ismael.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105,
1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp:Hãy
ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi
Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được
những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen
Người? - Ðáp.
2) Phúc cho những ai tuân giữ
những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa,
xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm
viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa
chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng
phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 1,
14 và 12b
Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã
làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban
cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7,
21-29
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây
trên cát".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy
Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở
trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ
nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh
Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà
làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta
chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi
mặt Ta".
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói
đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình
trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa
vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai
nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như
người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và
lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời
trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như
Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.
Ðó là lời Chúa.
Suy
Niệm Cảm Nghiệm
Nữtỳ
Agar... cuộc đời cát đá
Bài
Phúc Âm
cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là
bài phúc âm (Mathêi 7:21-29) kết
thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài
phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các
môn đệ của Người rằng:
1- Chỉ có ý
Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và
tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: "Không
phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào
nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy
mới được vào nước trời".
2- Chứ không phải
là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói
tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc
làm phép lạ với đầy
quyền năng: "Trong
ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào
chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ
quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ
tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm
điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'"..
3- Đời
sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người,
vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả
những gì Người đã truyền dạy mà
thôi: "Vậy
ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người
khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào,
gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy
được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra
thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa
sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống
hoang tàn".
Ở đầu
Bài Giảng Trên Núi, Thánh
ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi;
khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo
huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được
Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành
"ánh sáng thế gian".
Thế nhưng, kết thúc
Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng
cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành này
của Chúa Giêsu nữa,
hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to
hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của
Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi
Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của
Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và
các biệt phái của họ".
Qua lời
diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này
của Thánh ký Mathêu, chúng
ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không
thông thái
như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn
cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn
lành của Người tuy cao
siêu "chật hẹp" nhưng
hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang
ra áp
dụng thực
hành con người
sẽ được
biến đổi và thăng
hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm
người của họ.
Trong bài đọc
1 hôm nay, được Giáo Hội trích từ Sách Khởi Nguyên (16:1-12,15-16 hay
16:6-12,15-16), cho thấy nữ tỳ Agar của tổ phụ Abram tỏ ra lên mặt
"khinh dể bà
chủ" Sarai của mình, sau khi được bà chủ hiến nàng cho chồng để chồng có
con với nàng thay cho bà là vợ nhưng lại bị son sẻ, nên nàng đã bị bà
chủ ra tay "hành hạ... đến
nỗi nàng phải trốn
đi", nhưng
nàng được "Thiên
thần Chúa bảo nàng rằng: 'Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục
bà'".
Hành động
khinh bỉ bà chủ của nữ tỳ Agar là hành động tự nhiên theo thế gian xác
thịt, như xây nhà trên cát, sẽ bị sụp đổ khi bão tố nổi lên, đến độ nàng
không chịu được tình trạng bị bà chủ hành hạ đến phải bỏ đi. Hành động
trở về tùng phục bà chủ theo như lời thiên thần dạy là
hành động xây nhà trên đá của
người tỳ nữ này, nên đứa con do nàng sinh ra cho tổ phụ Abram không mồ
côi cha (nếu nàng bỏ đi không trở về) và nó được
thân
phụ của nó đặt
tên cho là Ismael khi ông vừa đúng 80 tuổi.
Tuy nhiên,
tự bản chất là đứa con sinh ra bởi một người tỳ nữ, chứ không bởi người
vợ chính thức, nhất là không bởi lời hứa như Isaac sau này, mà Ismael
tiêu biểu cho những gì là xác thịt đầy ngỗ nghịch phản chống, như
thể thừa hưởng giòng máu và khuynh hướng xác thịt của người mẹ nữ tỳ
của nó, đúng như lời thiên thần đã tiên báo: "Trẻ
này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ
chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em".
Phải
chăng
lời
tiên báo cách đây
cả 4 ngàn 1 trăm năm này đang được
hiện thực hơn bao giờ hết nơi hiện tượng Ả Rập Hồi giáo quá khích, khủng
bố và tàn sát, như
nhóm Al Queda mới đây
và ISIS hiện nay?
Thế nhưng, tất cả
mọi sự xẩy ra đều ở trong sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và
quyền năng của Thiên Chúa là chủ tể lịch sử loài người, Đấng làm gì cũng
chỉ nhắm đến lợi ích thiêng liêng bất diệt cho chung loài người cũng như
cho từng người, cho dù trong ruộng của Ngài đầy những cỏ lùng (xem
Mathêu 13:24-30).
Biết đâu hiện tượng
Nhà Nước Hồi Giáo ISIS (Islamic State of Iraq and Syria) lại là phương
tiện cần phải có Thiên Chúa muốn sử dụng để thanh tẩy Tây phương càng văn
minh vật
chất càng phá sản đức tin Kitô giáo, nhờ đó chẳng những làm cho Kitô
giáo hiệp nhất với nhau mà chiến thắng ISIS (có thể vào một lúc nào đó
ISIS đã chiếm được Âu Châu), còn làm cho Do Thái giáo (theo tây phương
cũng bị ISIS cai trị) nhận biết Chúa Kitô giáo tổ Kitô giáo chính
là Đấng Thiên Sai của họ nữa, khi nhờ Kitô giáo hiệp nhất thắng được
ISIS mà họ được giải phóng thì
sao!
Bởi thế, Thánh Vịnh
105 (1-2,3-4a,4b-5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được tình yêu nhân
hậu của Ngài đối với chung nhân loại (câu 1) cũng như đối
với thành
phần tuân giữ huấn lệnh của Ngài (câu 2) và với dân của Ngài (câu 3):
1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn
đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết
mọi lời ngợi khen Người?
2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi
điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân
Ngài.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì
hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân
Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.
Lễ Sinh Nhật
Thánh Gioan Tẩy Giả
Lễ Trọng
Phụng Vụ Giờ Kinh
lễ trọng
Hội Thánh hân hoan mừng ngày thánh Gio-an Tẩy Giả chào đời. Sứ mạng
của người là “làm chứng cho ánh sáng” đang đến khai mạc thời đại mới
: đó là Đức Giê-su Ki-tô. Khi đề cập đến vai trò có một không hai
của vị tiền hô, chính Đức Giê-su đã nói : “Trong số phàm nhân đã lọt
lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả.”
Thánh thi giờ kinh sách
Từ tấm bé đã vào hoang địa Lánh cuộc đời đô thị phồn hoa, Cốt sao phòng bị ngăn ngừa Hồn thiêng vương vấn uế nhơ bụi trần.
Lông dã thú quấn thân làm áo, Bện da chiên chế tạo dây lưng, Đồ ăn thức uống thường dùng : Cào cào, châu chấu, mật rừng, nước khe.
Các ngôn sứ muốn bì sao đặng, Họ chỉ loan ánh sáng đến thôi, Gio-an Tẩy Giả riêng ngài Trỏ cho thấy Đấng đền thay tội đời.
Tìm xem khắp mọi nơi mọi nước, Thánh trẻ nào sánh được Gio-an, Mình ngài đáng tới Gio-đan, Rửa cho Đấng rửa muôn dân tội tình.
Toàn thiên quốc tôn vinh cảm tạ, Trước ngai vàng một Chúa Ba Ngôi, Chúng con khẩn nguyện lòng trời Ban ơn xá tội cho đời an vui.
Bài đọc 2 giờ kinh sách
Tiếng người hô trong hoang địa
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Hội Thánh coi sinh nhật của thánh Gio-an như một ngày thiêng thánh.
Không có vị nào trong các bậc cha ông được chúng ta mừng sinh nhật
trọng thể như thế. Chúng ta mừng sinh nhật thánh Gio-an và mừng sinh
nhật Đức Ki-tô : đó là điều không thể bỏ qua. Nếu chúng tôi không
giải thích nổi ý nghĩa cao trọng của ngày lễ, thì anh em vẫn có thể
suy gẫm về điều đó một cách hữu ích và sâu sắc.
Thánh Gio-an sinh ra bởi một cụ bà son sẻ, còn Đức Ki-tô sinh ra bởi
một thiếu nữ đồng trinh. Vì không tin Gio-an sẽ chào đời, nên người
cha đã hoá câm ; vì tin Đức Ki-tô sẽ chào đời, nên Đức Ma-ri-a đã
thụ thai bởi lòng tin. Chúng tôi đã đề nghị những điều cần tìm hiểu
và báo trước những điều cần thảo luận. Nhưng như tôi đã nói trước
đây nếu chúng tôi không đủ khả năng hay thời giờ để đào sâu hết mọi
ngõ ngách của một mầu nhiệm cao cả như thế, thì Đấng nói trong anh
em sẽ dạy anh em một cách tốt hơn, cả khi chúng tôi vắng mặt, đó là
Đấng mà anh em đã sốt sắng tưởng nhớ, đã đón nhận bằng cả tấm lòng,
và đã trở nên đền thờ của Người.
Vậy Gio-an xuất hiện như ranh giới giữa hai giao ước, Cựu Ước và Tân
Ước. Chính Chúa chứng thực ông như một ranh giới khi nói :Cho
đến thời ông Gio-an thì có luật và các ngôn sứ. Như vậy ông vừa
đại diện cho thời đại cũ, vừa là sứ giả của thời đại mới. Vì là đại
diện cho thời đại cũ, ông đã được sinh ra bởi hai ông bà già ; vì là
đại diện cho thời đại mới, ông đã được gọi là ngôn sứ ngay từ trong
lòng mẹ. Quả vậy, khi thánh Ma-ri-a tới viếng thăm, dù chưa được
sinh ra, ông đã nhảy mừng trong dạ mẹ. Ngay lúc đó ông đã được chỉ
định, được chỉ định trước khi sinh ra. Ông đã xuất hiện như vị tiền
hô của Đấng mà mãi sau này ông mới được gặp. Những điều đó thật cao
cả, vượt quá tầm hiểu biết của con người. Sau cùng ông đã chào đời,
được đặt tên và lưỡi của cha ông lại được mở ra. Bạn hãy suy nghĩ về
điều đã xảy ra để hiểu được ý nghĩa tượng trưng của sự việc.
Ông Da-ca-ri-a bị câm, không nói được cho đến khi Gio-an, vị tiền hô
của Chúa chào đời, nhờ đó ông lại nói được. Sự im lặng của ông
Da-ca-ri-a có nghĩa gì nếu không phải là lời ngôn sứ tạm ngưng, tức
là bị che giấu và đóng lại cho tới khi Đức Ki-tô đến rao giảng ? Khi
ông Gio-an đến thì lời ngôn sứ được mở ra và khi Đấng được tiên báo
đến thì lời ngôn sứ trở nên rõ ràng. Việc ông Da-ca-ri-a lại nói
được vào thời Gio-an sinh ra cũng giống như tấm màn trong đền thờ xé
ra vào ngày Đức Ki-tô bị treo trên thập giá. Nếu ông Gio-an loan báo
chính mình thì đã không mở được miệng cho thân phụ. Lưỡi được mở vì
tiếng ra đời. Khi ông Gio-an tiên báo về Chúa thì người ta hỏi ông
rằng :Ông là ai ?Và
ông trả lời :Tôi là
tiếng, còn Chúa, ngay từ nguyên thuỷ đã là Lời. Ông Gio-an là
tiếng trong thời gian, còn Đức Ki-tô, ngay từ khởi đầu, đã là Lời
vĩnh cửu.
Thánh thi giờ kinh sáng
Gio-an Tẩy Giả siêu quần bạt chúng, Đời trinh trong như tuyết trắng mỹ miều, Tay anh hùng tử đạo thích cô liêu, Vị ngôn sứ đứng đầu trong Cựu Ước.
Xin Đấng Thánh quyền năng dầy công đức Uốn cho mềm lòng dạ chúng tôi đây, Nẻo quanh co, ngài uốn lại thẳng ngay, Đường lồi lõm, ngài san cho bằng phẳng.
Để khi thấy hồn chúng tôi trong trắng, Chúa Giê-su, Đấng chuộc tội gian trần Sẽ vui lòng rời gót ngọc viếng thăm Và ban thưởng muôn hồng ân cứu độ.
Cả thiên quốc dâng Ba Ngôi một Chúa Lời tôn vinh câu chúc tụng sum hoà, Kẻ phàm trần mong được Chúa thứ tha Hầu chung hưởng phúc vinh cùng Đấng Thánh.
Lời cầu giờ kinh sáng
Đức Ki-tô đã chọn thánh Gio-an làm Tiền Hô để dọn đường cho
Người. Chúng ta hãy tin tưởng cầu xin :
Chúa là Vầng Hồng tự trời cao xuất hiện, xin ngự đến thăm viếng chúng con.
Chúa đã làm cho thánh Gio-an nhảy mừng trong lòng bà
Ê-li-sa-bét, - xin cho chúng con vui mừng hoan hỷ vì Chúa
đến ở với loài người.
Chúa là Vầng Hồng tự trời cao xuất hiện, xin ngự đến thăm viếng chúng con.
Chúa đã dùng lời nói và cuộc đời của thánh Gio-an mà chỉ cho
nhân loại đường trở về cùng Chúa, - xin cho lòng chúng con
luôn hướng về Nước Trời.
Chúa là Vầng Hồng tự trời cao xuất hiện, xin ngự đến thăm viếng chúng con.
Chúa đã muốn dùng người phàm để rao giảng Nước Chúa, - xin
gửi nhiều sứ giả Tin Mừng đến mọi nước mọi dân.
Chúa là Vầng Hồng tự trời cao xuất hiện, xin ngự đến thăm viếng chúng con.
Chúa đã muốn thánh Gio-an làm tròn nhiệm vụ khi thánh nhân
làm phép rửa cho Chúa bên bờ sông Gio-đan, - xin cho chúng
con biết cộng tác với Chúa mà xây dựng Nước Trời.
Chúa là Vầng Hồng tự trời cao xuất hiện, xin ngự đến thăm viếng chúng con.
Thánh thi giờ kinh chiều I và II
Thân lạy thánh Gio-an kính ái, Nguyện xin ngài thanh tẩy chúng tôi, Đáng dâng lên một đôi lời, Tán dương sự nghiệp cao vời thánh nhân.
Từ cao thẳm, sứ thần của Chúa Đến báo cho thân phụ ngài hay Người con sinh hạ mai ngày Sẽ nên cao cả không ai sánh bằng.
Và mặc khải rõ ràng tên tuổi, Đời trẻ thơ một chuỗi lạ kỳ, Tâm tình, ngôn ngữ, hành vi Xứng ngôi Tẩy Giả, đáng vì Tiền Hô.
Vì thân phụ chẳng cho là thật, Bị câm không nói được một lời, Mãi khi ngài đã chào đời, Bỗng nhiên mở miệng cho người nói năng.
Thuở thai nhi ngài từng nhận diện Vua vi hành đến viếng thần dân, Công này thánh hoá song thân, Trở thành ngôn sứ góp phần tiên tri.
Toàn thiên quốc gối quỳ cảm tạ Trước ngai vàng một Chúa Ba Ngôi, Chúng con khẩn nguyện lòng trời Mưa ơn xá tội cho tươi mát lòng.
Lời cầu kinh chiều I và II
Thiên Chúa đã chọn thánh Gio-an Tẩy Giả để chuẩn bị lòng
người đón nhận Đức Ki-tô. Chúng ta hãy vui sướng khẩn cầu :
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Thánh Gio-an, ngay từ trong lòng mẹ, đã được Chúa mời gọi
làm Tiền Hô dọn đường cho Đức Ki-tô ngự đến, - ngày nay Chúa
cũng mời gọi chúng con theo Đức Ki-tô như vậy.
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Thánh Gio-an đã nhận ra Đức Giê-su, nhân vật đến với mình,
là Chiên Thiên Chúa, - ngày nay Hội Thánh đang giới thiệu
Đức Giê-su cho mọi người.
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Thánh Gio-an nói về Đức Giê-su rằng : “Người phải nổi bật
lên, còn tôi phải lui vào bóng tối”, - ngày nay Chúa cũng
muốn chúng con phải nhượng bộ lẫn nhau để thiên hạ nhận ra
Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế.
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Thánh Gio-an đã đổ máu đào mà bảo vệ công lý, - ngày nay
Chúa sai chúng con đi làm chứng cho sự thật.
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Thánh Gio-an là ngọn đèn cháy sáng làm cho người thế được
vui mừng trong một thời gian, - xin cho anh chị em chúng con
đã ly trần được chính Đức Giê-su là ánh sáng muôn đời soi
chiếu.
Xin Chúa dẫn chúng con bước vào đường nẻo bình an.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã sai thánh Gio-an Tẩy Giả đến chuẩn bị cho dân
Chúa sẵn sàng đón Đức Ki-tô. Xin rộng ban cho các tín hữu được
đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, và xin hướng dẫn họ bước vào
con đường cứu độ và bình an. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr
1, 4-10
"Trước khi tạo thành ngươi
trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Có lời Chúa phán cùng tôi rằng:
"Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi
ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên
tri cho các dân tộc". Và tôi đã thưa lại: "A, a, a, lạy Chúa là Thiên
Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít".
Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng:
"Ngươi đừng nói: "Con là con nít", vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ
sai ngươi đi, ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi
đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi". Chúa phán như thế.
Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà
nói với tôi rằng: "Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban
quyền cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ
và đập phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70,
1-2. 3-4a. 5-6ab. 15 và 17
Ðáp:Từ trong
thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con (c. 6b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến
nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh
Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con; xin ghé tai về bên con và giải
cứu. - Ðáp.
2) Xin trở nên thạch động để con
dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là
chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác. - Ðáp.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi,
thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con từ hồi thanh xuân. Ngay
từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu con, Chúa
là Ðấng bảo vệ con; con đã luôn luôn trông cậy vào Chúa. - Ðáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự
Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao
mà kể cho cùng. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây
giờ con còn kể những sự lạ của Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1
Pr 1, 8-12
"Chính ơn cứu rỗi này là đối
tượng các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em yêu mến
Chúa Giêsu Kitô, dù không thấy Người, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh
em cũng không thấy Người, bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh
quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần
rỗi linh hồn.
Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng
các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu, khi các ngài tiên báo về ân sủng
dành cho anh em: các ngài đã tìm xem coi trong thời gian nào, hoặc hoàn
cảnh nào Thần Trí của Ðức Kitô chỉ cho các ngài biết phải tiên báo những
khổ nạn và những vinh quang kế tiếp dành cho Ðức Kitô. Các ngài được mạc
khải cho biết rằng các ngài không phải phục vụ chính mình, mà là cho anh
em, trong những gì đã được loan truyền cho anh em hiện nay, do những kẻ
rao giảng Tin Mừng với sự trợ giúp của Thánh Thần từ trời được sai
xuống, Ðấng mà các thiên thần cũng ước ao nghiêng mình chiêm bái.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1,
7; Lc 1, 17
Alleluia, alleluia! - Ông đến để
chứng minh về sự sáng; để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc hoàn hảo. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1,
5-17
"Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi
một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa,
có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng
dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên
Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được
điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến
tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức
vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng
tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương,
đang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ
dâng hương. Bấy giờ thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải
hương án. Giacaria thấy vậy thì hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào
ông.
Nhưng thiên thần nói với ông rằng:
"Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth
vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ
là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui
mừng, vì việc con trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt
Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men; sẽ được tràn đầy Thánh Thần
ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên
Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia,
để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương
tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị sẵn
sàng".
Ðó là lời Chúa.
Một Vị Tiền
Hô được
hạ sinh
Hôm
nay, theo ngày trong tháng, 24/6, là ngày sinh nhật của vị Tiền
Hô Gioan Tẩy Giả. Thật
ra Giáo Hội cũng chẳng biết rõ ngày nào là ngày sinh nhật của vị tiền hô
này, thậm chí cả ngày Giáng Sinh của Chúa Kitô cũng thế. Tuy nhiên, theo
Phúc Âm Thánh Luca thì vị tiên hô này được thụ thai trước khi Lời Nhập
Thể 6 tháng thì cũng phải được sinh ra trước Chúa Kitô 6 tháng. Bởi thế,
nếu Giáo Hội cử hành Lễ Giáng Sinh
của
Chúa Kitô vào ngày 25/12 hằng năm thì Giáo Hội phải cử hành lễ Sinh Nhật
Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vào ngày 24/6 là hợp tình hợp lý.
Chưa hết, Lễ Sinh Nhật của Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả được Giáo Hội mừng ở bậc lễ trọng (solemnity), không buộc, như Lễ
Thánh Giuse 19/3 và Lễ Nhị Vị Tông Đồ Phêrô và Phaolô 29/6, nên có lễ
vọng từ chiều hôm trước, và
trong phụng
vụ của chính
ngày lễ có cả kinh vinh
danh cùng
kinh tin
kính và 3
bài đọc. Trong các
thánh, chỉ có duy một mình vị tiền hô này được Giáo Hội cử hành phụng vụ
mừng sinh nhật thôi.
Tất nhiên trừ Đức Mẹ ra, vị được Giáo Hội cử
hành phụng vụ mừng sinh nhật hằng năm vào ngày mùng 8 tháng 9, cách Lễ
Trọng Buộc Mẹ Vô Nhiễm 8-12 đúng
9 tháng. Tuy nhiên,
lễ sinh nhật Đức Mẹ Giáo Hội chỉ mừng ở bậc lễ kính (feast day), chỉ có
kinh vinh danh và 2 bài đọc, như
lễ kính các
Thánh Tông Đồ, thua bậc
lễ mừng sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Tại sao thế?
Phải chăng vì Mẹ Maria đã được Giáo Hội cử
hành 18 lễ trong năm (kể
cả Lễ Mẹ Giáo Hội và không kể lễ Đức Mẹ Guadalupe chưa có tính cách hoàn
vũ), bao gồm đủ mọi bậc lễ, trong khi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả chỉ có 2 lễ,
một lễ mừng ngày sinh nhật trần thế của ngài 24/6 và một ngày lễ mừng
ngày sinh nhật Nước Trời của ngài (bị chém đầu) 29/8,và
trong 17 lễ về Đức Mẹ, có 3 Lễ Trọng Buộc liên quan đến vai trò Đồng
Công Cứu Chuộc của Mẹ (Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12, Lễ Thiên Chúa 1/1, Lễ Mẹ
Mông Triệu 15/8)?
Hay phải chăng vì lời Chúa Kitô khẳng định về
bản thân của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao
trọng nhất được
sinh vào trần gian (xem Mathêu 11:11)? Tất nhiên, cho dù là con người cao
trọng nhất được
sinh vào trần gian, nhờ ngài (thuộc giòng dõi Levi có cha thuộc hàng tư
tế) đóng vai trò làm phép rửa cho chính Chúa Kitô, liên
quan đến linh hồn của Chúa Kitô, hơn
cả Mẹ Maria, người
mẹ sinh hạ Chúa Kitô về phần xác, nhưng
về ân sủng không một tạo vật nào, bao gồm cả các thần trời, cao trọng
bằng Đức Mẹ hay cao trọng như Đức
Mẹ.
Vì
vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này cao trọng như thế mà cả việc
ngài được thụ thai lẫn được đặt tên cũng đặc biệt lạ lùng, nhất là liên
quan đến biến cố thân phụ của ngài bị câm trước khi ngài được thụ
thai rồi ông bỗng dưng được khỏi câm ngay sau khi đặt tên cho ngài, như
Thánh ký Luca thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay (1:57-66,80) về tác
dụng của biến cố khỏi câm này nơi thành phần dân
chúng chứng
dự bấy giờ:
"Bỗng
chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều
kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc
đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: 'Con trẻ này rồi
sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó'. Con trẻ lớn lên,
mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng
dân Israel".
Những
sự kiện đặc biệt và lạ lùng về
Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, cả
từ khi chưa được thụ thai, cho đến khi được thụ thai vào lúc mẹ
ngài đã hết thời, rồi
khi được sinh ra với các dấu lạ, và đời
sống thuộc về Thiên Chúa của ngài với tư cách là tiền hô được sai đến
trước dọn đường cho Đấng cao trọng hơn đến sau mình là Chúa
Kitô v.v., cũng
thích hợp với những gì được
Tiên Tri Isaia nói trong
bài đọc 1 hôm nay (49:1-6):
"Chúa
đã kêu gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ, đã nhớ đến tôi khi tôi còn
ở trong bụng mẹ. Người đã làm cho miệng tôi nên như lưỡi gươm sắc bén,
đã bảo vệ tôi dưới cánh tay Người, đã làm cho tôi nên như mũi tên nhọn,
và đã ẩn giấu tôi trong ống đựng tên... Chúa là Đấng đã tác tạo tôi
thành tôi tớ Người, khi tôi còn trong lòng mẹ...".
Nếu
Mạc Khải Cựu Ước, qua Tiên Tri Isaia, đã một cách nào đó cho thấy hay
nói về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả từ lúc khởi đầu của ngài thì Mạc Khải
Tân Ước, qua Sách
Tông Vụ (13:22-26) ở bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã xác nhận vai trò
dọn đường mở lối của
ngài cho Chúa
Kitô thế này:
"Bởi
dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu
làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước, khi người đến rao giảng
phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành
trình, ngài tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng;
nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới
chân Người'".
Thật
là cao trọng vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này. Ở chỗ, như bài Phúc Âm Lễ
Vọng cho thấy (xem Luca 1:13-15), biến cố hạ sinh của ngài cần
phải được một vị tổng thần từ trời hiện xuống báo tin một cách hết
sức trịnh trọng vào giờ xông hương của vị tư tế thân phụ ngài tại
nơi thánh trong Đền Thờ Giêrusalem, như biến cố của "Lời đã hóa
thành nhục thể" (Gioan 1:14) nơi cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria
vậy. Biến cố truyền tin về việc thụ thai và hạ sinh vị
Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này không
xẩy ra cho vị đại tổ phụ Abraham hay cho Mose, thậm chí cho chính Mẹ
Maria, đệ nhất tạo vật về ân sủng.
Chưa hết,
lời
truyền tin về biến cố hạ sinh Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này còn bao
gồm những chi tiết liên quan đến tên tuổi Gioan của ngài, đến vai
trò tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai của
ngài, đến
vai trò cao trọng của ngài trước nhan Chúa, đến tình trạng nội tâm
tràn đầy
Thánh Thần ngay trong lòng mẹ (nên ngài đã nhẩy mừng khi được mẹ con
Lời Nhập Thể đến viếng thăm - Luca 1:41, và
cho dù chưa trực diện với Chúa Kitô ngài đã có thể làm chứng về
Người - Gioan 1:33, và nhận ra Người khi Người đến xin ngài làm phép
rửa cho - Mathêu 3:13-14), đến
tác dụng của việc ngài được hạ sinh là mang lại niềm vui cho dân Do
Thái, đến
uy tín và thế giá
của ngài trước mặt dân Do Thái. Phải
chăng ngài được biệt đãi như vậy là vì ngài là con người được người
nữ sinh hạ cao trọng nhất (xem Mathêu 11:11)?!
Thánh
Vịnh 138
(1-3,13-14ab,14c-15) được
Giáo Hội chọn cho Bài Đáp
Ca hôm nay dường như đã thực sự phản ảnh
tâm tình của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả:
1) Lạy Chúa, Chúa đã thử con và đã nhận biết con: Chúa nhận biết con khi
con ngồi và khi con chỗi dậy. Từ lâu, Chúa đã hiểu biết các tư tưởng của
con: Chúa thấu suốt đường lối của con rồi.
2) Tâm can con thuộc quyền sở hữu của Chúa; Chúa đã nhận lãnh con từ khi
con còn trong lòng mẹ. Con ca ngợi Chúa vì con được tạo thành cách lạ
lùng; các việc Chúa làm thật là kỳ diệu.
3) Chúa đã am tường linh hồn con; các xương con không giấu kín trước mặt
Chúa, lúc con được tạo thành cách âm thầm, khi con được dệt trong lòng
đất.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)Gen
17,1.9-10.15-22
"Mọi đứa con sẽ chịu cắt bì để làm
dấu giao ước. Sara sẽ sinh cho ngươi đứa con trai".
Bài trích sách Sáng Thế.
Khi Abram vừa được chín mươi chín
tuổi, Chúa hiện ra với ông và phán bảo ông rằng: "Ta là Chúa toàn năng, hãy
đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".
Chúa lại phán bảo Abram rằng: "Vậy
ngươivà dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Ðây là giao
ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con
trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".
Chúa lại bảo Abraham rằng: "Ngươi sẽ
không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc
phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó
sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước".
Abraham cúi mặt cười, nghĩ trong lòng
rằng: "Già đã trăm tuổi mà còn có con được sao? Sara đã chín mươi tuổi sẽ
sinh con ư?"
Rồi ông thưa cùng Chúa: "Xin Chúa cho
Ismael được sống trước mặt Chúa!"
Chúa phán bảo Abraham rằng: "Sara vợ
ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập
giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó. Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho
Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai
tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn. Còn lời giao ước của Ta
chỉ ký kết với Isaac, do Sara sẽ sinh ra cho ngươi mùa này sang năm".
Sau khi nói hết lời cùng Abraham,
Thiên Chúa biến đi.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca:
127,1-2,3,4-5
Ðáp:Ðó
là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. (4)
Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ
Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay
ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.
2) Vợ ngươi như cây nho sai trái,
trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở
chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.
3) Ðó là ơn phúc dành cho người kính
sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem
thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 1-4
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa
tôi được sạch".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám
đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy
Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra
chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền
lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói
với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh
chứng cho họ biết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm
Nghiệm
Hình ảnh Thiên Chúa... bị phong cùi
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh
ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi
Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người".
Tức
là, sau Bài
Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi
dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm
qua cho thấy: "Khi
Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người:
vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái
của họ".
Nhưng
có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi,
không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không
anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa
lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có
một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có
thể chữa tôi được sạch'".
Còn
một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa
Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế
theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được
chữa lành nữa: "Chúa
Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức
thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý
tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật
Môsê để minh chứng cho họ biết'".
Nếu
Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng
theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy
ý tứ, đừng nói với ai" đây
nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được
chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa
Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một
lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó,
nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi
sống xa
tránh dân chúng?
Thật
ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa
Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa
lành
cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì
người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa
lành của Người.
Thái độ khiêm cung ("đến
lạy Người") và
hoàn
toàn tin
tưởng phó
thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy
Ngài nếu Ngài muốn, Ngài
có thể chữa tôi được sạch") của
nạn nhân phong cùi đã được
Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ
tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".
Bệnh
phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh
tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên
theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn
hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa.
Thế nhưng, Thiên
Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi
Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình,
bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên
Chúa vô hình" (Colose 3:15).
Để thực hiện dự án
cứu độ thần linh này, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc và lập giao ước với họ
qua tổ phụ Abram của họ, một giao ước liên quan đến sự trọn lành của họ, như
Chúa phán trong bài đọc 1 (Khởi Nguyên 17:1,9-10,15-22) hôm nay: "Ta
là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".
Sự trọn
lành về phía con người này, một sự trọn lành tương ứng với giao ước của
Thiên Chúa Cứu Độ, là ở chỗ, như Ngài đã phán với vị tổ phụ này trong cùng
bài đọc 1 hôm nay rằng: "Vậy
ngươi và dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Đây là
giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả
con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".
Giao ước
liên quan đến sự trọn lành của dân được Thiên Chúa tuyển
chọn bởi
thế không xuất phát từ xác thịt, được tiêu biểu nơi Ismael, đứa con sinh ra
bởi người tỳ nữ Ai Cập Agar, mà phát xuất từ thần linh, được tiêu biểu nơi
Isaac, đứa con của Lời Hứa:
"Ngươi
sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc
phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó
sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước... Sara vợ
ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập
giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó".
Tuy Ismael là đứa
con sinh bởi xác thịt chứ không phải do Lời Hứa nhưng vẫn không bị Thiên Chúa
bỏ rơi, trái lại, còn được Thiên Chúa
ban cho khả
năng phát triển theo bản chất bẩm sinh thiên về xác thịt của nó: "Ta
cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản
nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân
tộc lớn".
Bài Đáp
Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), chất chứa ý
nghĩa liên quan đến vị tổ phụ công chính Abram, một vị tổ phụ đã được Chúa
chúc phúc cho làm cha của dân Do Thái nói riêng và các dân tộc trên thế giới
nói chung, qua người con được vợ ông sinh
ra theo Lời Hứa:
1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ
hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn.
2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái
ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi.
3) Đó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành
cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống
của ngươi.
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)St
18, 1-15
"Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu.
Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng
Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng
bức. Ông ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông
thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng:
"Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua. Con xin lấy ít
nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Ðấng
dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã ghé vào nhà con".
Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ làm".
Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng:
"Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng". Còn ông, ông chạy đến đàn bò
bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và
thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới
bóng cây.
Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng:
"Sara bạn ông đâu?" Ông trả lời: "Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói
tiếp: "Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh
khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai". Sara đứng sau cửa lều nghe vậy
thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà
cười thầm rằng: "Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa
sao!" Chúa phán cùng Abraham rằng: "Sao Sara lại cười mà rằng: "Nào tôi đã
già mà còn sinh nở được sao?" Ðối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn,
độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara
sẽ được một con trai". Sara chối mà rằng: "Con không có cười", bởi vì bà
khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: "Không đúng, bà có cười".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1,
46-47. 48-49. 50 và 53. 54-55
Ðáp:Chúa
đã nhớ lại lòng từ bi của Chúa (c. 54b).
Xướng: 1) Ðức Maria đã nói: Linh hồn
tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Ðấng
Cứu Ðộ tôi. - Ðáp.
2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi
tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Ðấng đã
làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh. -
Ðáp.
3) Ðức từ bi Người từ đời nọ tới đời
kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo;
bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. - Ðáp.
4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ
Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng
tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 5-17
"Những người từ phương đông và
phương tây sẽ đến trong nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành
Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng
nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo
ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ
phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ
là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo
người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân
làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ
theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin
mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều
người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và
Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên
ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan
rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã
được lành mạnh.
Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy
bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến
đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.
Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều
người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân,
để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật
của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Từ phương đông và phương tây
Bài
Phúc Âm của
Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục
bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường
hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người
liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của
Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một
đại đội trưởng".
Thế
nhưng, phải công nhận là viên đại đội
trưởng Roma này có
lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy
Thầy, thằng nhỏ giúp
việc cho nhà
tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được
Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi
sẽ đến chữa nó".
Đúng
thế,
viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp
việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông
chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi
cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại.
Ngoài ra, có thể ông
cũng biết
nói cả tiếng
Do Thái để
sống với họ là thành phần sống dưới
quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó,
không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói
thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một
số vị
trưởng lão Do Thái đến với Người"
(7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
hôm nay.
Ở Phúc Âm Thánh ký
Luca, chúng ta còn thấy 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống
bác ái yêu thương dân chúng bị đô hộ
của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão
do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu
thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa"
(Luca 3:5).
Tuy nhiên,
không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội
trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò
làm đại đội trưởng
khá nhiều quyền lực trong vùng trách
nhiệm của ông.
Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có
thể đã
biết tiếng
Do Thái (nhờ
học hỏi giao tiếp) để
sống hòa đồng với thành
phần dân
bị đế
quốc ông đo hộ,
chứ không cần nhờ người phụng dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến
xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai
bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích
thân bày tỏ
cái
cảm giác bất
xứng trong việc được
diễm phúc đón
rước vào
nhà của ông một vị ông
rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là
Chúa Giêsu:
"Lạy
Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán
một lời, thì thằng nhỏ đầy
tớ của
tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng
tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi
bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"
Đó
là lý
do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau
khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiên nhượng như vậy,
Chúa
Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong
bài Phúc Âm hôm nay:
"Nghe
vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật,
Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel.
Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương
tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con
cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc
nghiến răng".
Lòng
bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trương dân ngoại Rôma này
phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô
thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức
tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói
với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy,
gia nhân ông đã được lành mạnh".
Việc
Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma
cho thấy
rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài
người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang
giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản
tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài
Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên
tri Isaia: "Người
đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương
của chúng ta".
"Chúng
ta" đây nơi lời
Tiên Tri Isaia trước hết ám
chỉ riêng dân Do Thái, một
dân tộc dầu sao cũng đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chẳng những tỏ mình ra
cho họ và qua họ cho cả dân ngoại nữa. Bởi thế, ngay trong giao ước với tổ
phụ Abraham về đất hứa và về một dân tộc đông như sao trời như cát biển đã
bao gồm cả dân ngoại rồi
(xem Khởi Nguyên 22:17), một dân tộc xuất phát từ một người con sinh ra bởi
lời hứa là Isaac chứ không phải theo xác thịt như Ismael từ người tỳ nữ Ai
Cập Agar.
Bài đọc 1 hôm nay, được
trích từ Sách Khởi Nguyên (18:1-15), đã cho thấy người con giao ước được hứa
ban cho vị tổ
phụ này
trong lúc người vợ của ông là Sara đã hết thời sinh nở, như chính bà nghiệm
thực như vậy, khi nghe 3 vị thiên sứ nói về việc bà thụ thai và sinh con:
"Sara
đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara
đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: 'Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão,
nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!'"
Thế
nhưng, những gì con người không làm được thì không thành vấn đề với Thiên
Chúa, và chính vì thế mới là việc của Ngài, và người con sinh ra ngoài khả
năng tự nhiên của con người mới
quả thực là người con thực
sự của giao ước để
thực hiện những gì Ngài hứa phải
thành hiện thực:
"Chúa
phán cùng Abraham rằng: 'Sao Sara lại cười mà rằng: Nào tôi đã già mà còn
sinh nở được sao?' Đối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này
sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được
một con trai".
Bài Đáp
Ca hôm nay, được
Giáo Hội lấy từ một
số câu tiêu biểu trong Ca
Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Luca 1:
46-47,48-49,50 và 53,54-55), chẳng
những liên quan đến vợ tổ phụ Abraham là bà Sara
mà
còn đến cả viên đại đội
trưởng dân ngoại Rôma nữa:
1) Đức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui
mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.
2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ
khen rằng tôi phước đức, vì Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người
quyền năng và danh Người là Thánh.
3) Đức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ
đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không.
4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của
Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ
ông tới muôn đời.