SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa
Mùa
Thường Niên Tuần IX
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Dẫn Nhập:
Phụng niên của Giáo Hội kéo dài 34/52 tuần lễ và bao
giờ cũng có các Mùa chính yếu thứ tự như sau: 1- Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh;
2- Mùa Chay và Mùa Phục Sinh; 3- Mùa Thường Niên, một thời điểm phụng niên
được chia thành 2 phần: hậu Giáng Sinh và hậu Phục Sinh.
Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh - thời khoảng
kéo dài
Theo phụng vụ của Giáo Hội thì Mùa Thường Niên hậu
Giáng Sinh, nghĩa là thời khoảng phụng niên kéo dài bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu
Chịu Phép Rửa mở đầu Mùa Thường Niên sau Mùa Giáng Sinh đến hết Thứ Ba áp
Thứ Tư Lễ Tro bắt đầu Mùa Chay, tùy theo năm, dài nhất có thể kéo dài đến
tuần thứ 9 (rất hiếm thấy, như năm 2000 hay năm 2011), và ngắn nhất chỉ kéo
dài đến tuần thứ 5 (như năm 1986, 1989, 1991, 1997, 2002, 2005, 2008, 2016).
Mùa Thường Niên
hậu Phục Sinh - thời điểm bắt đầu
Như thế, nếu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh có thể
kéo dài nhất cho tới 9 tuần thì bình thường Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh sẽ
được tái tục vào Tuần X. Tuy nhiên, thực tế lại xẩy ra là nếu Mùa Thường
Niên nào kết thúc sớm hay muộn thì được tái tục sớm hay muộn ở Mùa Thường
Niên hậu Phục Sinh.
Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh đã được kết
thúc sớm ở Tuần Thứ V, như Năm 2013 hay Năm 2016 thì Mùa Thường Niên hậu
Phục Sinh của cả hai năm này đã được bắt đầu ở Tuần Thứ VIII. Còn Mùa Thường
Niên hậu Giáng Sinh đã được kết thúc muộn ở Tuần Thứ IX, như Năm 2011, thì
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh của cả hai năm này đã được tái tấu vào Chúa
Nhật Tuần XII.
Tuy nhiên, không phải Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh
nào có thời khoảng kéo dài tuần lễ giống nhau đều tái tục ở Mùa Thường Niên
hậu Phục Sinh giống nhau. Chẳng hạn Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh kết thúc
ở tuần Thứ VIII, như năm 2014, 2017, 2019 và 2022, nhưng từng năm này đã
được tái tục ở Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh đôi khi khác nhau, như Năm 2014
ở Tuần XI và Năm 2017 ở Tuần X, nhưng thường giống nhau ở Tuần XI, như Năm
2019 và Năm 2022 giống năm 2011.
Phụng Niên: Các Mùa Phụng Vụ theo niên lịch
52 tuần lễ
Vấn đề Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh được bắt đầu sớm
muộn như thế nào chăng nữa miễn là làm sao phụng niên năm nào cũng có đầy đủ
34 tuần lễ Mùa Thường Niên, cùng với các Mùa Phụng Vụ chính yếu khác trong
năm, như Mùa Vọng bao giờ cũng có 4 tuần, Mùa Giáng Sinh (hơn 2 tuần từ Lễ
Giáng Sinh tới hết tuần Lễ Hiển Linh), Mùa Chay (5 tuần rưỡi 40 ngày
từ Thứ Tư Lễ Tro và nguyên Tuần Thánh là 6 tuần rưỡi), và Mùa Phục Sinh (8
tuần từ Chúa Nhật Phục Sinh tới Lễ Hiện Xuống, thời điểm vừa là tột đỉnh của
Mùa Phục Sinh vừa mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh).
Nếu cộng lại các tuần lễ được tính như trên của một
phụng niên thì lên tới 54 tuần (Mùa Thường Niên 34 + các Mùa Khác 20), nghĩa
là dư mất 2 tuần hay hơn 2 tuần so với lịch dân sự chỉ có 52 tuần lễ.
Bởi thế, có hai thời điểm cần phải uyển chuyển ở đây
cho đủ một năm dân sự 52 tuần lễ. Thời điểm thứ nhất cần phải uyển chuyển
xẩy ra vào Mùa Giáng Sinh, tùy Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh: nếu Lễ Giáng
Sinh 25/12 rơi vào đúng Chúa Nhật, thì Mùa Giáng Sinh chỉ có 2 tuần, nhưng
nếu Lễ Hiển Linh chính thức cử hành vào ngày 6/1 hằng năm sau Giáng Sinh rơi
vào ngay Chúa Nhật (chứ không phải được dời) thì Mùa Giáng Sinh có 3 tuần.
Thời điểm thứ hai cần phải uyển chuyển xẩy ra vào lúc
giao điểm giữa Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh và Mùa Thường Niên hậu Phục
Sinh. Bởi thế chúng ta thấy có những phụng niên Mùa Thường Niên bị mất đi
chỉ có 1 tuần, như năm 2012, 2017, 2018, 2023 v.v., nhưng bình thường là 2
tuần, như năm 2011 cùng những năm liên tiếp như 2013-2016 và năm 2019-2022,
chứ không tiếp nối liên tục từ hậu Giáng Sinh đến hậu Phục Sinh.
Phụng Vụ: lịch dân sự trở thành Lịch Sử Cứu
Độ
Sự kiện Mùa Thường Niên không bao giờ liên tục và
thường bị mất đi 2 tuần lễ đã chứng tỏ con số 54 tuần phụng niên vượt quá 52
tuần theo lịch dân sự, cần phải uyển chuyển làm sao cho đủ.
Ngay ở chi tiết uyển chuyển của lịch phụng vụ với
lịch dân sự hằng năm này cho thấy ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể cũng
như của chiều hướng hội nhập truyền giáo, nhờ đó có thể thăng hoa văn hóa
của con người, bởi lịch dân sự được sử dụng để cử hành Mầu Nhiệm Thần Linh,
Mầu Nhiệm Chúa Kitô nói chung và Mầu Nhiệm Vượt Qua là tột đỉnh của phụng
niên nói riêng, một Mầu Nhiệm Cứu Độ đã biến đổi những gì là sự dữ và chết
chóc thành ân sủng và sự sống bằng cuộc Tử Giá của Chúa Kitô, và đã chiến
thắng tội lỗi cùng sự chết bằng cuộc Phục Sinh của Người, nhờ đó lịch sử của
con người (biểu hiệu nơi lịch dân sự) trở thành Lịch Sử Cứu Độ của Thiên
Chúa, một Lịch Sử Cứu Độ cho con người được Giáo Hội hằng năm nhắc nhở và cử
hành theo lịch phụng vụ của Giáo Hội.
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Thánh Thần Hiện Xuống
Thứ
Hai
Trong đời sống đạo, đời sống thiêng liêng, đời sống đức tin, vì
còn nguyên mầm mống nguyên tội trong bản thân, được lưu truyền
từ nguyên tội và bởi nguyên tội ngay từ ban đầu qua bản tính
loài người của mình, mà cuộc đời của Kitô hữu trên trần gian này
mới trở thành hay mới được gọi là một cuộc hành trình đức tin,
một cuộc sống theo đức tin hướng dẫn và trung thành với đức tin
cho đến cùng, một cuộc sống siêu nhiên cao cả, ở ngay trong thế
gian mà không thuộc về thế gian, một cuộc sống siêu thoát, hoàn
toàn làm chủ thế gian, chẳng khác gì như "muối đất... (và
như) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14),
bất chấp mọi chước cám dỗ của ma quỉ, mọi quyến rũ của thế gian,
nhất là liên quan đến lòng tham lam của cải sản vật thế gian như
người thanh niên giầu có đạo hạnh trong bài Phúc Âm hôm nay,
thậm chí còn thắng vượt mọi gian nan khốn khó bởi dám bơi ngược
giòng đời.
Tuy nhiên, cũng chính vì mầm mống nguyên tội mà tự mình con
người chỉ hướng hạ và thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt
vong mà thôi (xem Mathêu 7:13) không thể nào nên trọn lành được,
không thể nào, như người thanh niên giàu có trong bài Phúc Âm
hôm nay, tự động và vui vẻ mau mắn bỏ đi những gì mình có, như
của cải hay quyền lợi của mình là những gì vừa chính đáng vừa
cần thiết, cho một lý tưởng mơ hồ nào đó, nếu họ không có đức
tin và không được tác động bởi Trời Cao, không được "tuyển
chọn" (Gioan 15:16), như các tông đồ ngày xưa.
Cho dù người thanh niên giầu có đưoọc Chúa Giêsu "trìu mến
nhìn" ấy, ngay lúc bấy giờ không thể đáp ứng ngay lời kêu
gọi nên trọn lành của Chúa Kitô, và cảm thấy buồn khổ, với một
cuộc sống dù sang giầu nhưng vẫn khắc khoải ngôn nguôi ấy, có
thể, vào một lúc nào đó trong đời, chẳng hạn bị thua lỗ hay bị
trộm cướp v.v., đã nghĩ lại mà theo đuổi bậc trọn lành thì sao.
Đó là lý do trong Bài Đọc 1 hôm nay, Sách Huấn Ca đã khuyên dạy
và phấn khích niềm tin nơi những ai thành tâm thiện chí như sau:
"Thiên Chúa đã ban đường công chính cho người sám hối, nâng
đỡ những kẻ mất niềm tin, và hướng dẫn họ đi vào đường chân lý.
Hãy trở về với Thiên Chúa và hãy từ bỏ tội lỗi. Hãy kêu cầu
trước tôn nhan Chúa, hãy chấm dứt những điều xúc phạm, hãy trở
về cùng Chúa, hãy lánh xa những điều gian ác, và hãy chê ghét
những điều xấu xa. Hãy nhận biết công minh và sự xét xử của
Thiên Chúa. Hãy đứng vững và cầu xin với Thiên Chúa Tối Cao. Hãy
thông công vào đời sống các thánh, và cùng với kẻ sống hãy xưng
tụng Thiên Chúa.... Hãy ca tụng Thiên Chúa và ngươi sẽ được vinh
hiển trong tình xót thương của Người. Lòng nhân lành của Chúa và
sự tha thứ của Người đối với những kẻ trở lại với Người thật lớn
lao dường nào!"
Theo chiều hướng của Bài Đọc 1 hôm nay, Bài Đáp Ca hôm nay đã
chất chứa cảm nghiệm thần linh đầy tin tưởng vào Thiên Chúa như
sau:
1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của
người được ơn che đậy. Phúc thay người mà Chúa không trách cứ
lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian.
2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của
tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: "Tôi thú thực cùng Chúa
điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi".
3) Bởi thế nên mọi người tín hữu sẽ nguyện cầu cùng Chúa,
trong thời buổi khốn khó gian truân. Khi sóng cả ba đào ập tới,
chúng sẽ không hại nổi những người Này.
4) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ;
Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh
Lễ nhớ bắt buộc - Thứ Hai sau Đại Lễ Hiện Xuống
Tước hiệu Mẹ Hội Thánh được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a vì
chính Mẹ đã sinh hạ Đức Ki-tô là Đầu của Hội Thánh và trước
khi Con lòng Mẹ trút hơi thở trên thập giá, Mẹ trở nên Hiền
Mẫu của những kẻ được cứu chuộc. Đức Phao-lô VI đã long
trọng xác nhận danh hiệu này trong diễn từ đọc trước các
nghị phụ Công Đồng Va-ti-ca-nô II ngày 21-11-1964, và quyết
định : “Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu
Thiên Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn
phải tôn kính hơn nữa.”
Sắc
Lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích về
việc cử hành trong lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ
Maria, Mẹ Hội Thánh
Ngày 03 tháng 03 năm 2018, Toà thánh đã công bố Sắc lệnh của
Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích - ký ngày 11 tháng 2 năm
2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức - về việc cử hành trong
lịch chung Rôma lễ kính nhớ Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội
Thánh, và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa
Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.
Sau đây là bản dịch Việt ngữ toàn văn Sắc lệnh, cùng bản văn
phụng vụ với các bài đọc, và bài đọc II Giờ Kinh Sách của lễ
này; bản dịch tiếng Việt của Uỷ ban Phụng tự trực thuộc Hội
đồng Giám mục Việt Nam.
* * *
Trong Hội Thánh hiện nay, việc hân hoan dâng lòng tôn kính
Mẹ Thiên Chúa, dưới ánh sáng của những suy tư về mầu nhiệm
Chúa Kitô và về bản tính của chính Hội Thánh, luôn phải nhắc
đến hình ảnh của một người nữ (x. Gl 4,4): Ðức Trinh nữ
Maria, Ðấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là Mẹ của Hội Thánh.
Ðiều này đã được khơi lên trong suy tư của Hội Thánh từ
những gợi ý của thánh Augustinô và thánh Lêô Cả. Theo thánh
Augustinô, Ðức Maria là mẹ của các chi thể Chúa Kitô, vì Mẹ
đã yêu thương cộng tác vào việc tái sinh các tín hữu trong
Hội Thánh; theo thánh Lêô, khi Ðầu được sinh ra thì toàn
thân thể cũng được sinh ra, vì thế Ðức Maria vừa là mẹ của
Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, vừa là mẹ của các chi thể trong
nhiệm thể Người chính là Hội Thánh. Ðây là những khẳng định
liên quan đến tư cách Thánh Mẫu của Ðức Maria và sự kết hợp
mật thiết của Mẹ với công trình của Ðấng Cứu thế, đạt đến
cao điểm trong giờ hy tế thập giá.
Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy
yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được
Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con
phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã
trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên
Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó,
cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn
đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Ðức
Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo
hiếu kính yêu.
Như một người hướng dẫn tận tâm của Hội Thánh vừa được thiết
lập, Ðức Maria bắt đầu sứ mạng làm mẹ khi hiện diện với các
Tông đồ nơi phòng Tiệc ly, cùng cầu nguyện đợi chờ Chúa
Thánh Thần (x. Cv 1,14). Trong tâm tình đó, suốt bao thế kỷ,
nền đạo đức Kitô giáo đã tôn vinh Ðức Maria với những tước
hiệu khác nhau, mang ý nghĩa tương tự nhau, chẳng hạn Mẹ các
môn đệ, Mẹ các giáo hữu, Mẹ các tín hữu, Mẹ của tất cả những
kẻ được tái sinh trong Chúa Kitô, và "Mẹ của Hội Thánh",
tước hiệu này đã xuất hiện trong những tác phẩm của các tác
giả tu đức cũng như trong các văn kiện Huấn quyền của Ðức
Bênêđictô XIV và Lêô XIII.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 1964, khi bế mạc kỳ họp thứ ba của
Công đồng Vatican II, Ðức chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã
dựa vào những yếu tố nói trên như cơ sở nền tảng để công bố
Ðức Trinh Nữ Maria là "Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là Mẹ của
toàn thể các Kitô hữu, giáo dân cũng như mục tử, những người
vẫn gọi Mẹ là Mẹ vô cùng nhân ái", và Ðức Giáo hoàng xác lập
việc "toàn thể đoàn dân Kitô giáo từ nay phải luôn gia tăng
lòng tôn kính đối với Mẹ Thiên Chúa dưới tước hiệu vô cùng
dịu ngọt ấy".
Trong Năm Thánh Hòa giải 1975, Tòa Thánh đã biên soạn và đưa
vào Sách Lễ Rôma bản văn lễ ngoại lịch kính Ðức Trinh Nữ
Maria Mẹ Hội Thánh; tước hiệu này cũng được thêm vào Kinh
cầu Ðức Mẹ (1980), một số bản văn khác cũng được phổ biến
trong tập sách các lễ kính Ðức Trinh Nữ Maria (1986). Theo ý
thỉnh nguyện, lễ này đã được phép ghi vào lịch riêng của một
số quốc gia, giáo phận và hội dòng.
Ðức Giáo hoàng Phanxicô, sau khi thận trọng cân nhắc hiệu
quả của việc sùng kính này có thể giúp nâng cao cảm thức làm
mẹ của Hội Thánh, đồng thời cũng gia tăng lòng tôn kính Ðức
Mẹ nơi các mục tử, tu sĩ và các tín hữu, đã quyết định đưa
vào lịch chung của Hội Thánh Rôma, lễ nhớ Ðức Trinh Nữ
Maria, Mẹ Hội Thánh, được cử hành hằng năm vào ngày thứ Hai
sau lễ Hiện xuống.
Việc cử hành lễ này sẽ giúp chúng ta nhớ rằng, sự tăng
trưởng của đời sống Kitô hữu phải luôn gắn kết với mầu nhiệm
Thánh Giá, với hy tế của Chúa Kitô nơi bàn tiệc Thánh Thể
cũng như với tâm tình hiến dâng của Ðức Trinh Nữ, Mẹ của
Ðấng Cứu thế và của những người được cứu chuộc.
Lễ nhớ này phải được ghi trong lịch và sách phụng vụ để cử
hành Thánh lễ và Phụng vụ Giờ kinh. Bản văn phụng vụ liên
quan được phổ biến cùng với sắc lệnh này, và các bản dịch sẽ
được công bố sau khi đã được các Hội Ðồng Giám Mục phê duyệt
và Bộ Phụng Tự chuẩn nhận.
Tại những nơi đã được phép đặc biệt để cử hành lễ Ðức Trinh
Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh, vào một ngày khác và với bậc lễ cao
hơn, vẫn có thể tiếp tục cử hành như thế.
Bất chấp mọi điều trái nghịch.
Ban hành từ trụ sở Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích, ngày
11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Ðức Mẹ Lộ Ðức.
Hồng y Robert Sarah
Tổng trưởng
Tổng Giám mục Arthur Roche
Thư ký
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài đọc I St
3,9-15.20
"Mẹ của toàn thể
chúng sinh"
Bài trích sách Sáng
thế
Sau khi Ađam ăn trái
cấm,
9 Chúa
là Thiên Chúa đã gọi ông
và nói cùng ông rằng:
"Ngươi ở đâu vậy?"
10 Ông
thưa: "Con nghe tiếng Ngài trong vườn, nhưng con sợ hãi,
vì con trần truồng và
con ẩn núp".
11 Chúa
hỏi ông: "Ai đã cho ngươi biết ngươi đang trần truồng?
Có phải tại ngươi đã
ăn trái cây mà Ta cấm ngươi ăn không?"
12 Ađam
thưa: "Người phụ nữ mà Ngài đã cho làm bạn với con,
chính bà ấy đã cho con
trái cây và con đã ăn".
13 Chúa
là Thiên Chúa nói cùng người phụ nữ rằng:
"Tại sao ngươi làm
điều đó?"
Người phụ nữ thưa:
"Con rắn đã lừa dối con, và con đã ăn".
14 Chúa
là Thiên Chúa phán cùng con rắn rằng: "Bởi vì mi đã làm điều
đó,
mi là thứ bị chúc dữ
giữa mọi súc vật và thú hoang!
Mi sẽ bò bằng bụng và
sẽ ăn bụi đất suốt đời mi.
15 Ta
sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ,
giữa miêu duệ mi và
miêu duệ Bà,
người miêu duệ này sẽ
đạp đầu mi, còn mi sẽ cắn gót chân người".
20 Rồi
Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh.
Ðó là Lời Chúa.
Hoặc: Cv
1,12-14
"Các Tông đồ đồng
tâm kiên trì cầu nguyện cùng với Ðức Maria, mẹ của Chúa
Giêsu"
Bài trích sách Công vụ
Tông đồ
12 Sau
khi Chúa Giêsu lên trời,
các Tông đồ rời núi
Cây Dầu trở về Giêrusalem,
núi này ở gần
Giêrusalem,
chỉ cách một quãng
đường được đi trong ngày sabbat.
13 Sau
khi trở về thành, các ông lên phòng trên lầu.
Hiện diện tại đây có
các ông Phêrô, Gioan, Giacôbê, Anrê,
Philipphê, Tôma,
Bartôlômêô, Matthêu, Giacôbê con ông Alphê,
Simon nhiệt thành, và
Giuđa con ông Giacôbê.
14 Mọi
người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện,
cùng với mấy người phụ
nữ, với bà Maria, mẹ của Chúa Giêsu,
và các anh em Người.
Ðó là Lời Chúa.
Thánh vịnh đáp ca
Tv 86 (87) 1-2.3 và 5.6-7
Ðáp: Hỡi
thành đô của Thiên Chúa,
mọi người truyền tụng
những điều hiển hách về thành.
1 Nền
móng Sion được đặt trên núi thánh,
2 Chúa
yêu chuộng cửa thành
hơn mọi nơi cư ngụ của
nhà Giacob.
3 Hỡi
thành đô của Thiên Chúa.
Mọi người truyền tụng
những điều hiển hách về thành. - Ð.
5 Nói
đến Sion, thiên hạ bảo:
"Tại đó, người người
đã sinh ra,
chính Ðấng Tối Cao
củng cố thành". - Ð.
6 Thiên
Chúa ghi vào sổ bộ các dân:
"Kẻ này người nọ đã
sinh ra tại đó",
7 và
họ múa nhảy hát ca:
"Mọi nguồn mạch của
tôi ở nơi thành". - Ð.
Alleluia
Kính chào Ðức Trinh Nữ
diễm phúc, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giêsu.
Kính chào Mẹ Hội
Thánh, Mẹ là Ðấng giữ gìn trong chúng con
Thần Khí của Thánh Tử
Giêsu Kitô
Tin Mừng Ga 19,
25-27
Này là Con Bà. Này
là Mẹ con.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Gioan
Khi ấy, 25 đứng
gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người,
cùng với chị mẹ Người
là bà Maria, vợ ông Clêôpas và
Maria Mađalêna.
26 Khi
thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,
Chúa Giêsu nói với mẹ
rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà".
27 Rồi
Người nói với môn đệ: "Này là Mẹ con".
Và từ giờ đó môn đệ đã
đón bà về nhà mình.
Ðó là Lời Chúa.
Khi suy xét những mối tương quan liên kết chặt chẽ Đức
Ma-ri-a với Hội Thánh, để tôn vinh Đức Thánh Trinh Nữ và
để an ủi mọi người chúng ta, chúng tôi công bố : Đức
Ma-ri-a rất thánh là Mẹ của Hội Thánh, nghĩa là của toàn
dân Ki-tô giáo, cả tín hữu lẫn mục tử, vốn gọi Người là
Mẹ rất mực yêu thương, và chúng tôi quyết định rằng :
Toàn dân Ki-tô giáo xưa nay đã tôn kính Thánh Mẫu Thiên
Chúa bằng danh hiệu rất ngọt ngào này, thì nay còn phải
tôn kính hơn nữa mà dâng lên Người những lời khẩn
nguyện.
Chư huynh đáng kính, đây không phải là danh hiệu lạ lẫm
đối với lòng đạo đức của các Ki-tô hữu, mà trái lại, các
tín hữu Ki-tô và toàn thể Hội Thánh vẫn thích kêu cầu
Đức Ma-ri-a bằng danh hiệu là Mẹ hơn các danh hiệu khác.
Thật vậy, danh hiệu này dẫn đến lý do đích thực cho lòng
sùng kính Đức Ma-ri-a, vì đặt nền vững chắc trên chính
phẩm tước đã được ban cho Đức Ma-ri-a là Mẹ của Ngôi Lời
Nhập thể.
Vì, cũng như thiên chức Thánh Mẫu Thiên Chúa làm cho Đức
Ma-ri-a có những tương quan hết sức đặc biệt với Đức
Ki-tô và làm cho Mẹ hiện diện trong công trình cứu độ
loài người do Đức Ki-tô Giê-su thực hiện, thì cùng một
cách ấy, những tương quan giữa Đức Ma-ri-a và Hội Thánh
cũng đặc biệt phát sinh từ thiên chức làm Mẹ, bởi lẽ Đức
Ma-ri-a là Mẹ Đức Ki-tô, Đấng ngay khi nhận lấy bản tính
nhân loại trong cung lòng đồng trinh của Mẹ, đã lập tức
liên kết thân mình mầu nhiệm của Người là Hội Thánh với
bản thân Đấng là Đầu. Vậy Đức Ma-ri-a, với tư cách là Mẹ
Đức Ki-tô, cũng phải được xem là Mẹ của mọi tín hữu và
mọi mục tử, tức là của Hội Thánh.
Bởi thế, chúng ta có lý do để, dù bất xứng, dù yếu hèn,
cứ lấy tinh thần đức tin và tình yêu con thảo mà đưa mắt
sốt sắng nhìn lên Mẹ. Xưa kia Mẹ đã trao ban cho chúng
ta Đức Giê-su là nguồn suối ân sủng từ trời, thì nay Mẹ
không thể không đem lại cho Hội Thánh sự phù trợ từ mẫu
của Mẹ, nhất là khi Hiền Thê của Đức Ki-tô đang hăng say
nhiệt thành và nỗ lực chu toàn trọng trách mang ơn cứu
độ cho mọi người.
Niềm tín thác này, chúng ta được khuyên dạy hãy bền lòng
hơn nữa mà dưỡng nuôi và củng cố cho vững vàng, vì giữa
Mẹ chúng ta trên trời với loài người vẫn có những mối
ràng buộc hết sức chặt chẽ. Mặc dầu được Thiên Chúa ban
dư đầy những hồng ân rất trọng đại và tuyệt vời để nên
Thân Mẫu xứng đáng của Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ vẫn rất gần
gũi chúng ta. Mẹ là nữ tử của A-đam như chúng ta và do
đó cũng là chị em với chúng ta vì cùng chung bản tính
loài người. Thực ra, Mẹ được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ
nhờ công trạng sau này của Đức Ki-tô ; nhưng ngoài các
ơn Chúa ban, Mẹ còn nêu gương đức tin hoàn hảo khiến Tin
Mừng ca tụng : “Bà thật có phúc vì đã tin”.
Trong cuộc đời phải chết này, khi diễn tả mẫu người môn
đệ hoàn hảo của Đức Ki-tô, Mẹ đã nêu gương mọi nhân đức
và đã hoạ lại đầy đủ các mối phúc Đức Ki-tô rao giảng.
Vì thế, khi quãng diễn sức sống thiên hình vạn trạng và
đầy năng động nhiệt thành của mình, toàn thể Hội Thánh
nhận Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa làm mẫu gương tuyệt vời
mà bắt chước Đức Ki-tô cách hoàn hảo.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, khi chịu đóng
đinh trên thập giá, Con Một Chúa đã muốn Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a, thân mẫu Người, làm Mẹ chúng con ; xin cho Hội
Thánh Chúa đang ngày một thêm đông, nhờ tình thương Mẹ hiền
nâng đỡ, được vui mừng vì đoàn con thánh thiện và vì lôi
cuốn muôn dân về với mình. Chúng con cầu xin
Thứ Ba
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Tob
2, 10-23
"Tuy bị mù lòa, ông cũng không
phiền trách Thiên Chúa".
Trích sách Tobia.
Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi
chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân
nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù.
Chúa cho phép ông chịu thử thách như
thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như thánh Gióp xưa.
Vì từ lúc còn bé, ông có lòng kính sợ
Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người, tuy bị mù lòa, ông cũng không
phiền trách Thiên Chúa.
Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ
Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông.
Vả các vua xưa nhạo báng thánh Gióp
thế nào, thì nay bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: "Hy
vọng của ông ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?"
Nhưng Tobia quở trách họ rằng: "Các
ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi
cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin
vào Người".
Còn bà vợ của ông là Anna, hằng ngày
đi dệt vải, hễ kiếm được gì bởi tay mình làm để nuôi thân, bà đem về, bởi
đó, có lần bà nhận được một con dê đem về nhà; ông ông chồng nghe tiếng dê
be be, liền nói: "Coi chừng, kẻo lỡ phải của ăn trộm đó. Hãy dắt đem trả cho
chủ nó, vì chúng ta không được phép dùng đến của ăn trộm".
Bà vợ ông nổi giận trả lời rằng: "Rõ
là niềm hy vọng của ông ra vô ích, và kết quả việc bố thí của ông nay đã rõ
ràng!"
Và bà tiếp tục nói những lời như thế
mà mạt sát ông.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: TV. 111,
1-2, 7bc-8,9
Ðáp: Lòng
người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa.
Xướng 1) Ph1uc đức thay người tôn sợ
Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường
trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Người không kinh hãi vì nghe tin
buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị,
người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.
3) Người ban phát và bố thí cho những
kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng
lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: 1 Pr 1,
25
Alleluia, alleluia! - Lời Chúa tồn tại
muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12,
13-17
"Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì
thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc
nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong
lời nói. Họ đến thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người
chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường
lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê
không? Chúng tôi phải nộp hay là không?" Nhưng Người biết họ giả hình, nên
bảo rằng: "Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền". Họ đưa cho
Người một đồng tiền và Người hỏi: "Hình và ký hiệu này là của ai?" Họ thưa:
"Của Cêsarê". Người liền bảo họ: "Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê;
của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa". Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"Chúa đã
dựng nên con cho Chúa nên lòng
con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa"
(Thánh Augustino: Tự Thú I,1).
Suy Niệm
Bài Phúc Âm Thứ Ba Tuần IX Thường Niên hôm nay thuật lại câu Chúa Giêsu
trả lời cho "nhóm
biệt phái và đảng Hêrôđê"
là thành phần "lập
mưu bắt lỗi Người trong lời nói" đó là "hãy trả
về cho Cesa những gì của Cesa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa".
Câu trả lời của Người dù đã làm cho "họ
rất đỗi kinh ngạc về Người", như
bài Phúc Âm kết thúc, thế
nhưng,
trước
khi trả
lời cho câu
họ đặt ra: "Vậy
chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsa không?", một
câu hỏi thật hóc búa, Người trả lời đằng
nào cũng chết, "có" thì theo đế quốc Roma phản dân tộc, còn "không" thì
tỏ ra xui dân phản loạn với đế quốc này, Người đã
phải căn cứ vào một vật thể, đó là "đồng tiền", vì vấn đề "nộp thuế
cho Cêsa"
liên quan đến "đồng tiền" của đế quốc Rôma.
Thế rồi sau khi "họ
đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: 'Hình và ký hiệu này là của
ai đây?' Họ thưa: 'Của Cêsa'. Người liền bảo họ: 'Vậy thì của Cêsa, hãy
trả cho Cêsa; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa'".
Câu trả lời này của Chúa Giêsu không phải chỉ là một nguyên
tắc cần phải áp dụng vào lãnh vực chính
trị, ám
chỉ phải tuân phục quyền bính thích hợp, mà còn có một ý nghĩa sâu xa
hơn nữa, đó là dù có tuân phục quyền bính trần gian ("trả
cho Cêsa") nhưng với một tinh thần
đức tin siêu
nhiên vì
Chúa ("trả cho Thiên Chúa"), ở
chỗ, vì Chúa là Đấng quan phòng làm chủ lịch sử hơn là vì sợ con
người có
quyền bính: "Đừng
sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không thể nào hủy hoại được linh
hồn. Đúng ra hãy
sợ Đấng có thể hủy
hoại cả hồn lẫn xác trong hỏa
ngục"
(Mathêu
10:28).
Chưa hết "của
Cesa trả cho Cesa, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
còn có nghĩa là "người
ta không sống nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra"
(Mathêu 4:4). Cho dù
cần phải "có thực mới vực được đạo",
thế nhưng,
vì con người được dựng nên để được sống đời đời chứ không phải chỉ sống
trên thế gian mau qua tạm gửi này thôi, nên "chính
thần trí mới cống hiến sự sống chứ xác thịt là thứ vô dụng"
(Gioan 6:63): "cái
gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh"
(Gioan 3:6).
Bởi
thế, trong Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành trên núi, Chúa Kitô đã
khẳng định với thành phần môn đệ của Người là "không
ai có thể làm tôi hai chủ ... Các con không thể vừa làm tôi cho Thiên
Chúa vừa làm tôi cho tiền của được"
(Mathêu 6:24). Nghĩa là "của
Cesa hãy trả cho cesa và của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa"
là thế.
Nếu "hình và ký hiệu"
trên đồng tiền được
thành phần âm mưu bắt bẻ Người bảo là
"của Cesa" ở đây và vì thế "của Cesa hãy trả cho Cesa",
thì con người được nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như
Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27), có thể so sánh như một đồng tiền
quí giá, nếu không muốn nói là vô giá, chứ không phải đồ bỏ vì mang "hình và ký hiệu" của Thiên Chúa nên cần phải trả
về cho Ngài những gì thuộc về Ngài, nghĩa là cần phải sống xứng đáng với
ơn gọi và thân phận thần linh của mình. Ở chỗ, như Thánh Âu Quốc Tinh
(Augustine), sau
cuộc đời vừa lạc giáo về tâm thần vừa trác táng về xác thể, đã có được
một cảm nghiệm rất chí lý và xác thực là: "Chúa đã
dựng nên con cho Chúa nên lòng
con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa"
(Tự Thú I,1).
Cảm Nghiệm
Thật vậy, nếu con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và tương tự
như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) thì quả thực chỉ có một mình Thiên
Chúa là tất cả moị sự của con người và cho con người, là nguyên ủy và là
cùng đích của họ, ngoài Ngài ra con ngưòi chắc chắn sẽ bị lầm lạc và chẳng
bao giờ có hạnh phúc chân thật, trọn hảo và bất tận, nếu con người không tìm
kiếm Ngài, nhận biết Ngài, chấp nhận Ngài và đáp ứng Ngài.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, nhân vật Tobia cha, trước mắt trần gian có vẻ bị
bất hạnh và khốn nạn đấy, nhưng trước nhan Thiên Chúa, nhân vật này quả thực
đã tỏ ra mình là một đồng tiên quí giá mang "hình và huy hiệu" của
Thiên Chúa, bằng đời sống tin tưởng Ngài và kính sợ Ngài của ông: "Từ
lúc còn bé, ông có lòng kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn của Người",
Đấng vì thế phải chăng đã càng cần phải làm cho "hình và huy hiệu"
của Ngài càng trở thành đậm nét hơn nữa nơi con người và cuộc đời của nhân
vật này bằng những gian nan khốn khó:
"Xảy ra trong một ngày nọ, Tobia đi
chôn xác mệt nhọc, trở về nhà, ông liền nằm ngủ bên vách tường, thì phân
nóng chim én từ tổ rơi xuống mắt ông, khiến ông bị mù. Chúa cho phép ông chịu thử thách như
thế, để nêu gương nhẫn nại cho hậu thế như
thánh Gióp xưa".
Quả thực
nhân vật Tobia cha này đã chẳng những "trả về cho Thiên Chúa những gì
của Thiên Chúa" ở chỗ: "tuy bị mù lòa, ông cũng không
phiền trách Thiên Chúa. Trái lại, ông vẫn một lòng kính sợ
Thiên Chúa, và tạ ơn Người hằng ngày trong đời ông", mà còn "trả về
cho Cesa những gì của Cesa" là thế gian được tiêu biểu nơi thành phần
"bà con họ hàng cũng chê cười đời sống của ông mà rằng: 'Hy vọng của ông
ở đâu? Ông làm phúc và chôn xác được ích gì?'" như thế này: "Các
ngươi đừng nói vậy, vì chúng ta là con cái các thánh, chúng ta trông đợi
cuộc sống mà Thiên Chúa sẽ ban cho những ai không bao giờ thay đổi lòng tin
vào Người".
"Lòng
người công chính vững vàng trông cậy vào Chúa", câu thưa chính của Bài
Đáp Ca hôm nay thật là chính xác nơi trường hợp của nhân vật Tobia cha trong
Bài Đọc 1 hôm nay, một nhân vật đã được chính Thiên Chúa càng in đậm nét "hình
và huy hiệu" của Ngài nơi con người và trong cuộc đời của nhân vật này,
một nhân vật thực sự đã biết "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên
Chúa, và trả về cho Cesa những gì của Cesa", một nhân vật đáng được
Thánh Vịnh gia thán phục và ca ngợi trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Phúc đức thay người tôn sợ
Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường
trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.
2) Người không kinh hãi vì nghe tin
buồn thảm, lòng người vững vàng, cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên nghị,
người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi.
3) Người ban phát và bố thí cho những
kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng
lên trong vinh quang.
Ngày 1 tháng 6
Thánh Giút-ti-nô, tử đạo
Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại
Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo,
đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm
bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo”
gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh
luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở
Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng
đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô
hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.
Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là
Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói
với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh
và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông
không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”
Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?”
Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết,
nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý
ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự
lầm lạc.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên
ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì
giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu
; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là
Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin
Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên
báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn
đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ
có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô
biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo
Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các
ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của
Người đến với nhân gian.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”
Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được
tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi
bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được
lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ
được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết
rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay
lành.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên
trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả
lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công
việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế
thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương
tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ
phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả
lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn
cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của
Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”
Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ
ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”
Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân
lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải
chịu án tử hình theo luật định.”
Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu
và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết
sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế
gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp,
xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết
giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin
Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu
thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo,
nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa
chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi
người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi
hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum
Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của
mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc
kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói
rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến
với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao
quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta
không rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học
âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng
điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát
tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được
những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự
thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình
bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người
theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu
được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng
thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát
chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan.
Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã
cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh:
phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong
thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những
người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì:
Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên
Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo
đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế
và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học
tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật,
không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm
mảnh”.
Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều:
Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ
không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là
trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường
hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh
luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn
giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối
thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai
tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo
có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền
thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh
Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của
trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ
nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ
hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến
kết quả là bị kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus,
một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên
xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý
để theo sự lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội
họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu.
Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát
biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi
nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật
khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời
đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông
ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn
chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các
công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng
các ngài.
1.
Thánh Justin người Samaria (miền
Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông
không dạy ông về tôn giáo nào cả.
Khi còn nhỏ, Justin ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông
tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là
thật?
Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già.
Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn
tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông
già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế.
Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.
Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông
càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám
chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.
Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công
giáo.
2.
Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông
đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công
khai về đạo.
Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế
Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp
chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn
“Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa
tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông
còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng
đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng
bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…
Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không
bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.
3. Tranh
luận bênh vực đức tin:
Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này
đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến
cùng.
Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :–
Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.
– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,
vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.
– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?
– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô, mặc dù giáo lý ấy các
người lầm lạc không chấp nhận.
– Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.
– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô, vì sự khổ ấy sẽ đem
chúng tôi về Thiên đàng trên trời.
– Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng
đáng không?
– Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và
nắm vững chắc chắn.
– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị
đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.
Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1
tháng 6 năm 166 tại Roma.
Phần
tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa
Thánh Thần giúp sức cho con.
http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã
có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn
bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha
mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ
lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học.
Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy
nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những
thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.
Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương
anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30
tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy
giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô
Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo
quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô,
một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.
Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài
đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do
Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm
quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng
như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn
còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng
Viện.
Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là
Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả
lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ
sự thật”.
Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
Lời Bàn
Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy
dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết)
để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong
nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với
các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng
phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự
soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói
như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể
hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.
Lời Trích
“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết
rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường
và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).
https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Tb
3, 1-11. 24-25 (Hl 1-11. 16)
"Lời cầu nguyện của hai người
trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận".
Trích sách Tôbia.
Trong những ngày ấy, Tôbia thổn
thức và khóc lóc cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa công bình, mọi sự xét
đoán của Chúa đều công minh, mọi đường lối của Chúa là từ bi, chân lý và
phán quyết. Lạy Chúa, giờ đây xin hãy nhớ đến con, xin đừng báo oán tội
lỗi con, xin đừng nhớ đến những lỗi lầm của con và của cha ông con. Bởi
chúng con đã không vâng theo các giới răn của Chúa, nên Chúa để cho
chúng con bị cướp bóc, tù đày, chết chóc, nhạo báng, và khinh bỉ nơi các
dân mà chúng con bị lưu đày. Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật
cao cả và công bình, vì chúng con không sống theo giới răn Chúa, và
không thành tâm tiến bước trước thánh nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin
cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho linh hồn con được an
nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"
Cũng trong ngày đó, xảy ra là
Sara, con gái của Raguel, người thành Mêđi, cũng bị một đứa đầy tớ gái
của cha cô lăng mạ, bởi vì cô đã kết hôn với bảy người đàn ông, nhưng
khi họ vừa đến gần cô, thì bị quỷ Asmođêô giết chết ngay. Vậy khi một
đứa tớ gái có lỗi, cô quở mắng nó, nó liền trả lời rằng: "Ðồ sát chồng,
chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà trên mặt đất này.
Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của bà đó sao?" Nghe
lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không
ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa,
mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy.
Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai
người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận.
Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính
lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24,
2-4a. 4b-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa,
con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).
Xướng: 1) Con tin cậy vào Chúa,
xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai
trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân
phản bội. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường
đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa
cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng
thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con
theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
- Ðáp.
4) Chúa nhân hậu và công minh, vì
thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung
trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv
129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng
rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12,
18-27
"Người không phải là Thiên Chúa
kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người phái Sađốc đến
cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người rằng:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh em
chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó
để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới
vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không
con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng
người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì
người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người
đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Các ông không hiểu biết Kinh
Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của Thiên Chúa, như vậy các ông
chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy
chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống
lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời
Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa
Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ
sống. Vậy các ông thật lầm lạc".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"Thiên Chúa kẻ sống"
Suy Niệm
Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh trở lại một cách tỏ tường hơn 2
ngày đầu tuần này ở phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Thứ Tư Tuần IX Thường
Niên, qua lời Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marco
(12:18-27), xác quyết với "ít
người phái Sađốc"
là thành phần "không
tin có sự sống lại"
rằng: "Ngài
không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Một trong những chứng cứ được phái Sađốc căn cứ vào để phủ nhận sự kiện
sống lại, đó là chính câu họ đặt ra chất vấn Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này:
Nếu ai có anh em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới
lấy người vợ goá đó để gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em:
người thứ nhất cưới vợ rồi chết không con. Người thứ hai lấy người vợ
goá và cũng chết không con, và người thứ ba cũng vậy, và cả bảy người
không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết. Vậy ngày sống lại,
khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người nào? Vì cả
bảy anh em đã cưới người đó làm vợ".
Nghe như thế, Chúa Giêsu đã khẳng định với họ rằng: "các
ông thật lầm lạc". Ở
chỗ nào? Ở chỗ, như Người vạch ra cho họ thấy, trước hết về lý do họ lầm
lạc: "Các
ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của
Thiên Chúa", sau
nữa về chính vấn đề vợ chồng liên quan đến việc sống lại: "khi
người chết sống lại, thì không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các
thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ chết sống lại, nào các ông đã chẳng
đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời Thiên Chúa phán cùng Môsê
rằng: 'Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa Giacóp'".
"Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" là
một chân lý được chính Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa khẳng định
trong bài Phúc Âm hôm nay.
Trước hết, "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ám
chỉ mầu nhiệm thân xác của con người sẽ được sống lại, dù họ là người
lành hay kẻ dữ. Thật vậy, thân xác của loài người, sau nguyên tội và bởi
nguyên tội, "đã
từ đất bụi phải trở
về với đất
bụi"
(Khởi Nguyên 3:19). Thế nhưng, nhờ "Lời đã
hóa thành nhục thể"
(Gioan 1:14) và Vượt Qua mà thân xác của con người đã được giải cứu khỏi
sự chết về thể lý, nghĩa là sẽ được sống lại, trở thành thiêng liêng "như
thiên thần",
không còn vấn đề liên hệ xác thịt như trong đời sống vợ chồng nữa. Con
người thực sự đã được Chúa Kitô cứu
chuộc cả linh hồn lẫn thân xác chứ không phải chỉ nguyên
một minh linh
hồn bất tử mà
thôi, nhờ đó,
thân xác thiêng liêng mới có thể cùng với linh hồn vô hình tồn tại đến
muôn đời muôn kiếp.
Sau nữa, "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" còn ám
chỉ Ngài là Thiên Chúa của thành phần công chính sống theo đức tin, như
3 vị tổ phụ tiêu biểu của dân Do Thái là "Abraham,
Isaac và Giacóp", thành
phần nhận biết Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nên đã chấp
nhận ý muốn của Ngài và đáp ứng những gì Ngài muốn, cho dù tương lai có mù
mịt không
biết bỏ quê cha đất tổ đi về đâu, thậm chí cho dù có phải chính tay sát
hại đứa con duy nhất của một giòng dõi đông như sao trời nhiều như cát
biển theo lời Chúa hứa, như trường hợp của tổ phụ Abraham (xem Khởi
Nguyên 12:1-4 và 22:15-18),
cha của
các kẻ tin (xem Roma 4:9-12).
Thật vậy, tất cả mọi xác phàm đều sống lại, nhưng chỉ có kẻ nào tin
tưởng "nhận
biết Cha là Thiên
Chúa chân
thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô"
(Gioan 17:3) mới được
"sự
sống đời đời"
(cùng đoạn
vừa dẫn),
với
một
thân xác phục sinh vinh hiển như thân xác phục sinh của Chúa Kitô (xem
Philiphê 3:21).
Tuy nhiên,
kể cả thành phần bị hư đi trong hỏa ngục chăng nữa, thậm chí bao gồm cả
Satan và ma quỉ, cho dù không muốn, bấy giờ, trong cõi đời đời, cũng
vẫn "nhận
biết Cha là Thiên
Chúa chân
thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô".
Thế nhưng, sự "nhận biết" này ở trong cõi hư mất không
phải bởi Thánh Linh của Thiên Chúa ở trong họ như khi họ chưa hư đi
nữa, mà bởi họ không
thể nào chối bỏ được sự thật bất diệt này, hay nói
cách khác, bởi "Thiên
Chúa là ánh sáng"
(1Gioan 1:5) không thể nào không chiếu soi, cho dù con người có chấp
nhận hay phủ nhận, một "ánh
sáng thật"
(Gioan 1:9): "Ánh
sáng chiếu trong tăm tối, thứ tối tăm không thể nào át được ánh sáng"
(Gioan 1:5).
Cảm Nghiệm
Chính vì "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" mà
Ngài đã chẳng những tỏ mình ra cho riêng dân Do Thái qua suốt giòng lịch sử
cứu độ của họ cho tới khi Ngài tỏ hết mình ra "vào thời viên trọn"
(Galata 4:4) nơi Con của Ngài là Lời Nhập Thể Vượt Qua, mà còn cho chung
loài người qua chứng từ của Giáo Hội Chúa Kitô, một Nhiệm Thể được cấu trúc
liên hợp giữa Chúa Kitô là Đầu và các chi thể Kitô hữu của Người, nhất là
những chi thể gắn bó với Người như cành nho dính liền với thân nho để nhờ đó
họ có thể sinh nhiều hoa trái bằng chứng từ "đức tin thể hiện qua đức ái"
của họ (xem Galata 5:6).
Thật vậy, trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Tobia, chúng ta đã
thấy được chân lý
"Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" ở
nơi 2 tâm hồn thống khổ, nhưng vẫn tin tưởng vào vị Thiên Chúa chân thật duy
nhất của dân tộc mình, nên chỉ còn biết bày tỏ nỗi lòng đớn đau nhức buốt
của mình với Ngài thôi, đó là nhân vật Tobia bố và Sara là người con dâu
tương lai của ông.
Nỗi đớn đau thống thiết của nhân vật Tobia bị vợ đay nghiến bởi việc làm
bác ái yêu thương, qua việc liều mình chôn xác kẻ chết của đồng hương,
và thái độ công chính của mình, về của cải trần gian, đã lên đến tột
cùng, đến độ, sau khi nhận biết mình cùng ăn năn thống hối trước nhan
Chúa, đã chân thành và tha thiết nguyện xin cùng Ngài rằng: "Lạy
Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con
không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh
nhan Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và
xin hãy cho linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn
sống!"
Còn nỗi đớn đau thống thiết của đứa con dâu ông là Sara, đối với thân
phận nữ giới thời bấy giờ ở dân tộc Do Thái và với vai trò làm con của
gia chỉ đầy quyền hành, bị một đứa nữ tỳ thậm tệ mỉa mai đay nghiến một
cách hỗn xược, như một lời nguyền rủa:
"Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy con trai con gái của bà
trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy người chồng của
bà đó sao?". Bởi thế, thay vì quát tháo, chửi mắng và đuổi
ngay con nữ tỳ quái gở ấy đi, thì phản ứng bác ái của nàng là: "Nghe
lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô, và trong ba ngày đêm, cô không
ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than van cùng Thiên Chúa,
mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy".
Với hai tâm hồn sống
"đức tin thể hiện qua đức ái"
của họ (xem Galata 5:6) như thế, Vị "Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống" đã
tỏ mình ra một cách thực tế ngay
trong trường hợp của cả hai người như sau: "Lúc ấy, lời cầu nguyện của hai
người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận.
Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính
lúc họ dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa". Và đó là lý do
những tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay rất thích hợp với hai tâm hồn tin
tưởng vào
Vị "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ
chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", như sau:
1) Con tin cậy vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân
thù hoan hỉ về con. Phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi
sẽ là những kẻ liều thân phản bội.
2) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về
lối bước của Ngài. Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn
cậy trông vào Chúa.
3) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót
tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì
lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
4) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay
đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo
người khiêm cung đường lối của Ngài.
Ngày 31 tháng 5
ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
lễ kính
Trong khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật thánh
Gio-an Tẩy Giả, Hội Thánh mừng lễ Đức Ma-ri-a đi thăm viếng bà
Ê-li-sa-bét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là,
mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong
lòng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này tràn ngập niềm vui của bài thánh ca
“linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.
Phụng Vụ Giờ Kinh
Bài đọc 2
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng
Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung
Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.
Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên
trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền
lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.
Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm
vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban
cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.
Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt
thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì
nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối
với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.
Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác
trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận
biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian
bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su
thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.
Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người
không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của
mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao
cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao
sang.
Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh
Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất
cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu
cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn
đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm
ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói
tới trong câu : Thần
trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi
người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn
các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng
sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững
mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là
thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn
ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau
suy gẫm.
Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ
xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người
mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt
hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con
hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ
đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà
cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên
thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho
chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo
với Người.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca
ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn
vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng
ta :
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin
cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống
thánh thiện trong gia đình.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin
cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm
nghiệm tình mẫu tử của Người.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa,
và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở
thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin
cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh
quang với thần thánh trên trời.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Lời nguyện cho chung các giờ kinh
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a
vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm
viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo
Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen
Cha muôn đời. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xp 3,
14-18a
"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca!
Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy
mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù
của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ
sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi,
là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan
vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì
ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Rm
12, 9-16
"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu
thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, đức ái không được giả
hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong
tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ
biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong
niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp
đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.
Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh
em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc
lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một
hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3.
4bcd. 5-6
Ðáp: Ðấng Thánh
cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).
Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu
độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và
là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.
2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu
thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ
rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm
những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành
Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa
ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 1, 45
Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ
Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực
hiện. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1,
39-56
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến
viếng thăm tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy,
vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria
và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài
nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà
kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ
nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến
viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng
trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được
thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã
đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng
tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh
Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho
những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần
lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống
khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát
no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc
Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán
cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba
tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Viếng
Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu
1- Trong đoạn trình
thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy
hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình
bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ
mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào
trần gian của mình.
Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký
đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu
động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa
Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực
về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn
dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi
động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh
của nó.
2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên
đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh
Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một
địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan
báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân
của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin
thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng:
‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).
Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở
việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi
chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị
loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con
thần linh của Người.
Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa
đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình
truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).
Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ
vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng
tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho
những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm
vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.
3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng,
vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào
hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng
bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một
đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào
bà Elizabét” (Lk 1:40).
Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của
Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của
Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở
chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã
mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như
là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.
Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa,
để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc
hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).
Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria,
vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu
Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa
Giêsu, Đấng Thiên Sai.
4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả
một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt
sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua
kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng
những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.
Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói
đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc
cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk
1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một
con người tin tưởng.
Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự
mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ
Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà
Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi
Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng
tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai
(Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh
Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt
qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu
này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).
Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm
nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân
phúc cho đời sống của mọi tín hữu.
Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị
Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi
giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa
nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk
1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức
Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống
xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể
hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Tb
6, 10-11a; 7, 1. 9-17; 8, 4-10
"Thiên Chúa đã khiến các người
đến nhà tôi để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc".
Trích sách Tôbia.
Trong những ngày ấy, Tôbia hỏi
thiên thần rằng: "Ngài muốn chúng ta ở đâu?" Thiên thần trả lời rằng: "Ở
đây có người tên là Raguel, người bà con thuộc chi tộc của anh; và ông
này có người con gái tên là Sara". Thiên Thần và Tôbia đi vào nhà
Raguel, và được Raguel vui mừng đón tiếp.
Sau khi trò truyện, Raguel bảo
giết chiên dọn tiệc, rồi mời khách ngồi vào bàn ăn. Tôbia liền nói: "Hôm
nay đây cháu không ăn uống gì cả, nếu bác không chấp nhận lời cháu thỉnh
nguyện: xin bác hứa gả con của bác là Sara cho cháu".
Vừa nghe câu đó, Raguel hoảng sợ,
vì biết việc đã xảy ra cho bảy người chồng trước, khi họ tới gần con gái
của ông. Ông lo sợ kẻo người này cũng đồng số phận như vậy chăng. Trong
lúc ông lưỡng lự, không biết phải trả lời làm sao với kẻ xin cưới con
mình, thiên thần liền nói: "Ông đừng sợ gả con gái ông cho người này, vì
con gái ông xứng đáng làm vợ người này vốn hay kính sợ Thiên Chúa; do
đó, không ai khác cưới được nàng". Bấy giờ Raguel thưa: "Tôi không còn
hồ nghi, vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra
trước tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người
đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình theo
luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho cháu". Ông
liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng tay mặt của Tôbia và nói rằng:
"Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai
con, chính Người phối hợp hai con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành
của Người xuống cho hai con. Hai bên làm giấy hôn thú. Và sau đó họ ăn
tiệc cưới cảm tạ Thiên Chúa.
Bấy giờ Tôbia khuyên bảo nàng
trinh nữ rằng: "Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng
Thiên Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp
với Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì
chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau như
những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa". Cả hai cùng chỗi
dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh sạch. Tôbia
nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con, danh Chúa đáng
chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả, sông ngòi và mọi tạo
vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà dựng nên Ađam, và ban
cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không
phải vì dục tình mà con cưới em này làm vợ, song chỉ vì muốn có con cái
nối dòng, để danh Chúa được chúc tụng muôn đời". Sara cũng nguyện rằng:
"Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, xin thương xót chúng con, xin cho
hai chúng con được an khang trường thọ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127,
1-2. 3. 4-5
Ðáp: Phúc thay
những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa (x. c. 1a).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào
tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người: Công quả tay
bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy
hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn; con cái bạn như những chồi
non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để
cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. - Ðáp.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion
chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết
mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con! -
Ðáp.
Alleluia: Ga
10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12,
28b-34
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên
Chúa duy nhất và ngươi hãy kính mến Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật
sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào
trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel,
hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy
yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và
hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân
như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó".
Luật sĩ thưa Người: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên
Chúa là Chúa duy nhất, và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác. Yêu mến
Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính
mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy
tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa
bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tin Yêu Lẽ Sống
Suy Niệm
Phụng vụ Lời
Chúa cho Thứ Năm của
Tuần
IX Thường
Niên hôm nay bao gồm
bài Phúc Âm của Thánh ký Marco (12:28b-34) và bài đọc 1 trích từ Sách
Tobia (6:10-11a; 7:1,9-17; 8:4-10) cùng với bài Đáp Ca trích từ Thánh
Vịnh 127 (1-2,3,4-5), tất cả đều phản ảnh ý nghĩa của chủ đề "sự sống"
của Mùa Phục Sinh ở một khía cạnh nào đó.
Trước
hết, lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm đã cho thấy "sự sống" thần linh
là ở chỗ kính mến Thiên Chúa hết bản
thân mình: "hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", cùng yêu
thương tha nhân như bản
thân mình: "hãy
yêu mến tha nhân như chính mình ngươi".
Giới
răn thứ hai "yêu
tha nhân như
bản thân mình"
là giới răn gắn liền bất khả phân ly với giới răn thứ nhất và là giới
răn bất khả châm chước. Đến độ, Chúa Giêsu đã khẳng định với vị luật sĩ
hỏi Người "trong các giới răn, điều nào
trọng nhất?" về
cả 2 giới răn bất khả phân ly này rằng: "Không
có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", một
câu trả lời chí lý khiến nhà thông luật đặt vấn nạn đã phải công nhận
một cách rất chính xác rằng: "Yêu
mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính
mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh", một
nhận thức tuyệt vời chỉ cần thực hành nữa là trọn vẹn nên vị luật
sĩ đã được Chúa Giêsu vừa khen tặng vừa phấn khích rằng: "Ông
không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu".
Thế
nhưng, vấn đề được đặt
ra ở đây là tại sao "Không có giới răn
nào trọng hơn hai giới răn đó"? Phải
chăng "yêu
thương là hoàn trọn lề luật" (Roma
13:10)!? Và phải
chăng yêu thương mới làm cho con người hiệp thông thần linh với Thiên
Chúa, ở chỗ tác động yêu thương chính là tác động con người nhận biết
Ngài là "Vị Thiên
Chúa chân thật duy nhất",
chỉ có Ngài là đáng yêu trước hết mọi sự và trên hết mọi sự, Đấng "đã
yêu chúng ta trước" (1Gioan
4:19), như Ngài đã tự tỏ mình ra đúng là như thế trong Lịch Sử Cứu Độ
của dân Do Thái: Ngài đã yêu thương dân của Ngài tuyển chọn một cách
nhưng không, đã yêu thương một cách trọn lành, đã yêu thương một cách
thủy chung, bất chấp dân này phản bội Ngài và liên lỉ gian dâm ngoại
tình với tà thần ngoại bang cùng ngẫu tượng của họ.
Vì Chúa Kitô "xuất
hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha
trông đợi Người"
(Do Thái 9:28), tức những ai "bền đỗ
cho đến cùng"
24:13) bằng lòng tin tưởng mãnh liệt vào Người, mà "đức
tin thể hiện qua đức ái" (Galata
5:6), một đức ái
chính là hoa trái của đức tin, là tầm vóc viên mãn của đức tin. Bởi thế,
trong cuộc chung
thẩm, để được sự sống đời đời hay bị luận phạt, con người sẽ bị Vị Thẩm
Phán Giêsu phán xét theo tiêu chuẩn đức ái về hành động đối với tha nhân
- yêu thương nhau như bản thân mình, mà thật ra là đức tin về tinh
thần đối với Thiên Chúa - kính mến Thiên Chúa hết mình (xem Mathêu
25:37-39,44).
Cảm Nghiệm
"Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó", ở
chỗ con người phải kính mến Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình;
nhưng muốn được như thế, chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa, như
ở nơi hai tâm hồn trong Bài Đọc 1 hôm nay, như được Sách Tobia thuật
lại, đó là chàng Tobia con và nhân vật nhạc phụ tương lai của chàng,
tương tự như trường hợp Tobia cha và nàng con dâu tương lai của ông
trong Bài Đọc 1 hôm qua.
Chính vì kính mến Thiên Chúa hết mình và yêu tha nhân như mình mà
ông bố của người vợ tương lai của chàng Tobia con mới lo sợ không
dám gả con mình cho chàng, kẻo chàng cũng chịu chung số phận tử vong
như 7 người chồng mới cưới khác trong ngay đêm động phòng của họ với
con gái của ông. Cho tới khi ông nhận biết ý Chúa, qua lời thiên sứ
Raphael mà ông cứ tưởng là bạn đồng hành với chàng con rể tương lai
của ông, ông mới tin tưởng mau mắn tuân theo:
"'Tôi không còn hồ nghi,
vì Chúa đã chấp nhận lời tôi kêu cầu và nước mắt tôi chảy ra trước
tôn nhan Người. Tôi cũng tin rằng vì thế mà Người khiến các người
đến nhà tôi, để con gái tôi kết hôn với người trong thân tộc mình
theo luật Môsê, và giờ đây tôi không ngần ngại gả con gái tôi cho
cháu'.
Ông liền nắm tay con gái ông, đặt vào lòng
tay mặt của Tôbia và nói rằng: 'Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa
Isaac, và Thiên Chúa Giacóp ở cùng hai con, chính Người phối hợp hai
con, xin Người ban tràn đầy ơn phúc lành của Người xuống cho hai
con'".
Về phần chàng Tobia con cũng thế, thậm chí hơn thế nữa, ở chỗ đã
tin tưởng vào Vị Thiên Chùa chân thật duy nhất của cha ông mình,
nên đã tỏ ra kính mến Ngài hết mình, qua lời cầu rất tuyệt vời
của một người chàng rể lý tưởng nhất, có thể nói không thể tìm
thấy trên trần gian này ở vào đêm động phòng, qua lời chàng
khuyên vợ, nhất là lời chàng cầu với Thiên Chúa như sau:
"'Hỡi Sara, hãy chỗi dậy, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên
Chúa hôm nay, mai và mốt; trong ba đêm đầu, chúng ta hãy kết hợp với
Thiên Chúa. Qua đêm thứ ba rồi, chúng ta mới giao hợp với nhau: vì
chúng ta là con cái các thánh, chúng ta không thể giao hợp với nhau
như những người dân ngoại không biết gì đến Thiên Chúa'. Cả hai cùng
chỗi dậy, cùng cầu nguyện không ngừng, để xin ơn được sống thanh
sạch. Tôbia nguyện rằng: 'Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ phụ chúng con,
danh Chúa đáng chúc tụng cho đến muôn đời! Hỡi trời đất, biển cả,
sông ngòi và mọi tạo vật, hãy chúc tụng Chúa. Chúa đã lấy bùn đất mà
dựng nên Ađam, và ban cho người một bà nội trợ là Evà. Và giờ đây,
lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình mà con cưới em này làm
vợ, song chỉ vì muốn có con cái nối dòng, để danh Chúa được chúc
tụng muôn đời'".
Những lời chúc tụng như thể
chúc phúc trong Bài Đáp Ca hôm nay thật xứng đáng với chung đôi tân
hôn trong Bài Đọc 1 hôm nay, cách riêng với người chàng rể đã yêu
Chúa hết mình và yêu người như mình là chính người vợ của chàng
trong giây phút động phòng có thể ngất ngây hưởng thụ ngay bấy giờ,
bởi chàng thực sự thuần khiết yêu nàng như bản thân mình
(xem Epheso 5:28):
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo
đường lối của Người: Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh
phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung
nhà bạn; con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh
bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên
Chúa.
3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy
cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và
để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!
Ngày 1 tháng 6
Thánh Giút-ti-nô, tử đạo
Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại
Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo,
đầu thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm
bênh vực Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo”
gửi cho hoàng đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh
luận với người Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở
Rô-ma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng
đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô
hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.
Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là
Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói
với thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh
và tôn kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông
không thể tố cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng tôi.”
Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?”
Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết,
nhưng tôi đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý
ấy không minh nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự
lầm lạc.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên
ư, hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì
giáo huấn đúng nên tôi theo đạo lý đó.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu
; chúng tôi tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là
Hoá Công toàn thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin
Chúa Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên
báo sẽ đến rao giảng ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn
đệ Người tuyển chọn. Và vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ
có thể nói được một vài điều, bởi lẽ thần tính của Người thì vô
biên. Tôi công nhận uy tín của các ngôn sứ khi các ngài tiên báo
Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa nói. Quả thật, tôi biết các
ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước về cuộc giáng lâm của
Người đến với nhân gian.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”
Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được
tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi
bị đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được
lên trời không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ
được ở trên đó, nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết
rằng cho đến tận thế, Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay
lành.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên
trời và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả
lời : “Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công
việc cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế
thần đi.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương
tri mà lại bỏ con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ
phải chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả
lời : “Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng tôi, để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn
cứu độ và làm cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của
Chúa là Thiên Chúa và Đấng cứu độ chúng tôi.”
Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ
ý, chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”
Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân
lệnh hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải
chịu án tử hình theo luật định.”
Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu
và hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết
sâu xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế
gian coi là điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp,
xin cho chúng con thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết
giữ vững niềm tin. Chúng con cầu xin
Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu
thế kỷ thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo,
nhưng ngài luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa
chân thật. Với nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi
người triết thuyết đường thời và không thoả mãn được các đòi
hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum
Tryphone), chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của
mình: Trước hết, ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc
kỷ. Những người này chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói
rằng sư hiểu biết ấy không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến
với một người theo thuyết của Aristote. Ông này đòi thù lao
quá cao, khiến sinh viên trẻ là Giustinô phẫn uất: người ta
không rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học
âm nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng
điều góp phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát
tâm hồn khỏi các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được
những đối tượng trong trí khôn và cho phép thấy được sự
thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình
bị thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người
theo phái Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu
được những điều vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng
thế giới tư tưởng chấp cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát
chân lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan.
Ông trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã
cho ngài một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh:
phải vượt qua những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong
thời gian hơn các triết gia, phải nghe các tiên tri là những
người nói bởi Chúa Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì:
Không ai có thể thấy hay nghe được những điều này nếu Thiên
Chúa và Đức Kitô không cho họ hiểu biết.
Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo
đảm hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế
và sự thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học
tại Rôma và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật,
không một đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm
mảnh”.
Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều:
Thấy các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ
không thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là
trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường
hoạt động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh
luận, bằng việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn
giáo. Ngày nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối
thoại với Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai
tác phẩm ấy, Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo
có thế giá được thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền
thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh
Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của
trí khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ
nhất vào năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ
hai cho Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến
kết quả là bị kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus,
một người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên
xưng đức tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý
để theo sự lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội
họp. Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu.
Tài liệu còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát
biểu trong cuộc đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi
nguyên tắc chính đáng mà các triết gia và các nhà lập luật
khám phá được và trình bày cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời
đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông
ta dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn
chương mà bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các
công trình của các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng
các ngài.
1.
Thánh Justin người Samaria (miền
Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông
không dạy ông về tôn giáo nào cả.
Khi còn nhỏ, Justin ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông
tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là
thật?
Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già.
Hai người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn
tìm vị Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông
già chỉ cho Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế.
Ông khuyến khích Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.
Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông
càng thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám
chết cho đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.
Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công
giáo.
2.
Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông
đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công
khai về đạo.
Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế
Justin bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp
chúng ta hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn
“Bênh đạo và cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa
tội quãng năm 160, nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông
còn viết về sách “Nghi thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng
đoàn Kitô hữu thời đó gồm: đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng
bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…
Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không
bỏ đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.
3. Tranh
luận bênh vực đức tin:
Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này
đáp lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến
cùng.
Quan Tổng Đốc Roma truyền lệnh :–
Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.
– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần,
vì chúng tôi đã theo Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.
– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?
– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô, mặc dù giáo lý ấy các
người lầm lạc không chấp nhận.
– Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.
– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô, vì sự khổ ấy sẽ đem
chúng tôi về Thiên đàng trên trời.
– Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng
đáng không?
– Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và
nắm vững chắc chắn.
– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị
đánh đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.
Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1
tháng 6 năm 166 tại Roma.
Phần
tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa
Thánh Thần giúp sức cho con.
http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã
có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn
bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha
mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ
lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học.
Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy
nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những
thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.
Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương
anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30
tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy
giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô
Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo
quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô,
một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Ðức Kitô.
Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài
đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do
Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm
quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng
như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn
còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng
Viện.
Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là
Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả
lời: “Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ
sự thật”.
Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
Lời Bàn
Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy
dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết)
để phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong
nội tâm chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với
các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng
phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự
soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói
như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể
hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.
Lời Trích
“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết
rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường
và sự hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).
https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài
Ðọc I: (Năm
I) Tob
11, 5-17
"Chúa đã sửa phạt tôi, và
lại cứu chữa tôi, đây tôi nhìn thấy con trai tôi"
Bài trích sách Tobia.
Trong những ngày ấy, mỗi ngày
bà Anna đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa
được.
Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà
ngóng chờ con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi
đến, bà chạy báo tin cho chồng rằng: "Kìa, con mình đang về tới
kia".
Và Raphael nói với Tobia rằng:
"Lúc bạn vào nhà rồi, lập tức bạn hãy thờ lạy Chúa là Thiên Chúa
bạn, và cảm tạ Người, rồi bạn đến gần mà hôn cha của bạn. Liền sau
đó, bạn hãy lấy mật cá đem theo mình, xức lên mắt ông. Mắt của ông
sẽ mở ra, cha của bạn sẽ thấy ánh sáng mặt trời, và hân hoan trước
mặt bạn".
Bấy giờ con chó đi theo Tobia,
chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo tin. Người cha mù lòa
của Tobia chỗi dậy, loạng choạng đi ra cửa đón con mình.
Ông đón lấy và hôn con ông và
vợ nó.
Cả hai oà lên khóc vì vui
mừng.
Sau khi thờ lạy và cảm tạ
Thiên Chúa, họ cùng ngồi xuống.
Bấy giờ Tobia lấy mật cá, xức
lên mắt cha mình.
Chờ đợi nửa giờ, thì một vẩy
trắng tựa như màng trứng tách ra khỏi hai mắt.
Tobia cầm vẩy trắng ấy kéo ra
khỏi mắt cha mình, ông liền thấy được.
Rồi ông, vợ ông và những người
quen thuộc ca tụng Chúa.
Còn Tobia thì cầu nguyện rằng:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt
tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con
trai của tôi".
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
145, 2abc, 7,8-9abc-10
Ðáp: Linh hồn tôi
ơi, hãy ngợi khen Chúa. (2a)
Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy
ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả cuộc đời, bao lâu còn
có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.
2) Thiên Chúa cứu gỡ những
người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. - Ðáp.
3) Thiên Chúa giải thoát những
kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân.
Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những
người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên
Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm
vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Alleluia: Ga
14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống, không ai đến được
với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc
12, 35-37
"Sao họ có thể bảo Ðức Kitô
là Con vua Ðavít?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng
giảng dạy trong đền thờ rằng: "Sao các luật sĩ lại nói Ðấng Cứu Thế
là con vua Ðavít? Vì chính Ðavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã
nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu
Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ dưới chân con". Chính
Ðavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Ðavít
được?" Và đám dân chúng thích thú nghe Người nói.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Sự sống chiếu soi
Suy Niệm
"Đám dân chúng thích thú nghe
Người nói". Bài
Phúc Âm hôm nay
(Marco 12:35-37) đã được kết
thúc như thế. Bởi vì, họ thấy vấn đề được Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng
hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề.
Theo bài Phúc Âm của Thánh
ký Marco thì đây không phải là vấn đề được thành phần thông luật vốn chất
vấn ngài đặt ra, mà chính Người tự nêu lên:
"Khi ấy, Chúa Giêsu cất tiếng giảng dạy
trong đền thờ rằng: 'Sao các luật sĩ lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít?
Vì chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng
Chúa tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con
làm bệ dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có
thể là Con Đavít được?'"
Ở đây, trong bài
Phúc Âm này, không thấy Thánh ký Marco thuật lại những lời giải đáp của Chúa
Giêsu về vấn nạn chính Người tự nêu lên ấy. Thế
nhưng, căn
cứ vào chính vấn nạn tự đặt ra này của Chúa Giêsu: "Chính
Đavít gọi Người là Chúa, thì sao Người lại có thể là Con Đavít được?", chúng
ta thấy dường như Người muốn kín đáo mạc khải cho dân Do Thái biết rằng
Người là vị Thiên Chúa nhập thể, có 2 bản tính, thiên tính và nhân tính.
Thiên tính ở chỗ: "Chính
Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa tôi
rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt các kẻ thù con làm bệ
dưới chân con'. Chính Đavít gọi Người là Chúa". Nhân
tính ở chỗ: "Các luật sĩ
lại nói Đấng Cứu Thế là con vua Đavít".
Đây
là một mạc khải
thần linh do chính Đấng có 2 bản tính tỏ ra, chứ không phải do loài người suy
luận. Loài người chỉ suy luận theo những dấu hiệu bề ngoài, và lập luận theo
lý lẽ
của trần gian mà
thôi. Ở chỗ, nếu "Đấng
Cứu Thế là con Vua Đavít", mà Vua Đavít là loài người thì tất nhiên con
của vua cũng phải là loài
người và
chỉ là loài người như vua, chứ không thể nào lại là một Vị Thiên Chúa vô
cùng cao cả, tự hữu và hằng hữu có trước vua và dựng nên vua.
Vấn đề ở đây
là tại sao Chúa Giêsu lại đặt vấn đề này ở đây, với mục đích gì? Thánh ký
Marco không cống hiến cho chúng ta một chút ánh sáng nào, trong khi đó Thánh
Mathêu ở cuối đoạn 22, đã cho biết thêm mấy chi tiết như sau: chi tiết thứ
nhất đó là sở dĩ Người đặt câu hỏi này là để răn cho thành phần Pharisiêu
kiêu ngạo một bài học biết mình trước mặt Người.
Thật vậy, theo trình thuật
của Thánh Mathêu thì sau khi thấy phái
Sađốc vừa bị Chúa Giêsu bịt miệng về vấn đề sống lại, (được
bài Phúc Âm hôm Thứ Tư tuần này thuật lại), nhóm
người Pharisiêu đã qui tụ lại như thể muốn chứng tỏ họ khôn ngoan thông giỏi
hơn nhóm Sađốc, với một câu hỏi khác còn độc hơn vấn đề của phái Sađóc nữa, đó là
vấn đề giới răn trọng nhất (được bài Phúc Âm hôm qua Thứ Năm thuật lại).
Thế rồi, sau khi Chúa
Giêsu trả lời cho nhóm Pharisiêu xong, Thánh ký Mathêu liền cho biết tiếp
thế này: "Chúa
Giêsu đã đặt một câu hỏi ngược lại cho những người Pharisiêu qui tụ bấy giờ"
(22:41), đó là chính câu cũng được Thánh ký Marco thuật lại trong bài
Phúc Âm hôm nay, để rồi sau câu hỏi của Người, Thánh Ký Mathêu đã kết luận
như sau: "Không
ai có thể trả lời, vì vậy, từ hôm ấy trở đi, chẳng có ai dám hỏi Người bất
cứ câu hỏi nào nữa"
(22: 46).
Thái độ tỏ ra thông luật mà
lại mù tịt trước vấn đề được Chúa Giêsu đặt ra như thế chứng tỏ thành phần
thông luật này chỉ là thứ đám con nít trước mặt một vị Đại Sư Thần Linh
Giêsu vậy thôi. Đó là lý do ngày mai chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu càng tỏ ra
thẩm quyền của mình đối với thành phần thông luật giả hình này như thế
nào....
Cảm Nghiệm
Vần đề được Chúa Giêsu đặt ra trong Bài Phúc Âm hôm nay, theo mạc khải Thánh
Kinh, đó là "các vị luật sĩ nói Đấng
Cứu Thế là con vua Đavít", đúng như mạc khải Thánh
Kinh của Thiên Chúa, nhưng họ chưa có thể áp dụng nhận thức thánh kinh này vào chính
bản thân Chúa Kitô, tức họ chưa nhận ra Chúa Kitô, Đấng vì thế mà đang cố
gắng giúp cho họ nhận ra Người khi cố ý gợi lên thắc mắc về nguồn gốc thần
linh của "Đấng Cứu Thế là
con vua Đavít" theo nguồn gốc trần gian bởi huyết
nhục của Người: "Vì
chính Đavít được Chúa Thánh Thần soi sáng đã nói: Thiên Chúa đã phán cùng Chúa
tôi rằng: 'Con hãy ngồi bên hữu Cha, cho đến khi Cha đặt
các kẻ thù con làm bệ dưới chân con'".
Vậy thì nội dung của Bài Phúc Âm hôm nay có liên hệ gì
với câu truyện được Sách Tobia thuật lại trong Bài Đọc 1 hôm nay hay
chăng, câu chuyện về sự kiện nhân vật Tobia bố được chữa lành con mắt đã
bị đui mù sau khi ông thực hiện một việc bác ái, được xuất phát từ lòng
tin của ông vào Thiên Chúa, là chôn xác đồng hương Do Thái của mình, cho
dù nguy hiểm đến tính mạng?
Xin thưa có, ở chỗ, nếu cuối bài Bài Phúc Âm hôm nay được
Thánh ký Marcô ghi nhận rằng:
"Đám dân chúng thích thú nghe
Người nói",
vì họ thấy vấn đề được
Người đặt ra rất là kỳ lạ nhưng hết sức lý thú mà họ chắc chưa bao giờ
nghe thấy, hoặc tự nghĩ ra hay đặt vấn đề, thì trong Bài Đọc 1
hôm nay, chúng ta cũng thấy thậm chí cả con vật cũng vui mừng nữa: "Bấy
giờ con chó đi theo Tobia, chạy về trước, nó vui mừng vẫy đuôi như báo
tin", nhất là thầy hai cha con Tobia tốt lành, tin Chúa yêu người:
"Cả hai oà lên khóc vì vui mừng". Tại sao thế?
Tất nhiên tại vì hai cha con gặp lại nhau sau
bao nhiêu ngày xa cách nhớ nhung,
một nỗi nhung nhớ đến độ, như được tỏ hiện qua hành động của người
mẹ cũng là người vợ của hai cha con này:
"Trong những ngày ấy, mỗi ngày bà Anna
đến ngồi ở vệ đường bên sườn núi, nơi đó có thể nhìn xa được.
Cũng tại chỗ đó, đang lúc bà ngóng chờ
con bà trở về, thì bà thấy và nhận ra con bà từ đàng xa đi đến, bà chạy báo
tin cho chồng rằng: 'Kìa, con mình đang về tới kia'".
Chính vì gặp lại nhau mà cả nhà Tobia đã vui
mừng hớn hở như thế thì họ còn vui mừng đến là chừng nào khi thấy ơn
Chúa tuôn đổ xuống cho gia đình này, chẳng những trên cá nhân Tobia con
đã lấy được người vợ đúng như Thiên Chúa xe định, cũng như trên cả Tobia
bố, và tất nhiên bao gồm cả người vợ đã đay nghiến ông đến độ ông muốn
chết đi cho xong, nhờ đó, qua những gì bà thấy được ơn Chúa xuống cho
ông mà nhận biết Chúa hơn, và ơn đó chính là ơn ông được chính Thiên
Chúa, qua trung gian của thiên sứ Raphael của Ngài, chữa lành đôi mắt bị
mù lòa của ông, khiến ông đã dâng lên Ngài lời tri ân chúc tụng như sau:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, tôi chúc tụng Chúa, vì Chúa sửa phạt
tôi, và lại cứu chữa tôi; đây chính tôi đang nhìn thấy Tobia con trai
của tôi".
Phải chăng nhân vật Tobia con, vừa là con của
Tobia bố vừa là tác nhân được Thiên Chúa sử dụng chữa lành cho bố, như "Đấng
Cứu Thế là con vua Đavít" theo nhân tính, nhưng lại
là "Chúa tôi" của vua?! Nhưng dù là Tobia bố, hay Tobia con,
hoặc người vợ lắm mồm cay nghiệt của ông, thậm chí cả những ai thân quen
của ông,
qua sự kiện ông được Thiên Chúa chữa lành, đã như Bài Đọc 1
cho biết: "Rồi ông, vợ ông và những người
quen thuộc ca tụng Chúa", những lời ca tụng chắc hẳn đã phản
ảnh Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa suốt cả
cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa.
2) Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui
mù.
3) Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa
yêu quý các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi, quả phụ và làm rối loạn đường
nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa
của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Ngày 2/6
Dường như không
có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai Thánh Tử đạo
Marcellino và Phêrô cả. Lịch sử chép rất vắn tắt về đời sống hai
Thánh Marcellino và Phêrô Tử đạo. Các ngài được phúc Tử đạo dưới
thời hoàng đế Diocletiano.
Theo truyền thuyết, Marcellino là một Linh mục chuyên lo việc dạy
giáo lý và Rửa tội cho tân tòng. Ngài nhiệt thành dạy đạo và đem
nhiều người trở lại với Chúa, nên bị những kẻ thờ thần ganh ghét, tố
cáo.
Còn Phêrô là một người trừ quỷ nổi tiếng ở La Mã. Thánh nhân đã cứu
nhiều người khỏi ma quỷ ám hại, do đó, họ tin theo Chúa.
Nhờ được ơn trừ quỷ, Thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược
lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Những
người phù thủy ghen tương vì bị mất quyền lợi. Thế là cả hai vị
Thánh đều bị tố giác, dưới thời hoàng đế Diocletiano bắt đạo. Tỉnh
trưởng Serene ra lệnh tống giám Ngài. Bạn ông là Antemi có đứa con
gái bị quỷ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỷ, ông giới thiệu bạn
mình tới ngục thất để gặp Thánh nhân. Gặp ông, Thánh nhân khuyên nhủ
ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho
rằng Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao Thánh nhân cứu nổi con ông
được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ
thì Thánh nhân đã có mặt ở nhà Antemi. Cả gia đình Antemi bỡ ngỡ và
xin theo đạo. Paulina, con gái Antemi được lành bệnh. Từ đó gia đình
Antemi thành nơi tụ tập của các tín hữu, Phêrô thường hay lui tới
dạy đạo và Rửa tội cho các tân tòng.
Tức giận, Sereno ra lệnh hành hạ hai Thánh nhân một cách dã man rồi
giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các ngài cho chết.
Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các ngài trong một tuần lễ để lo
cho các dự tòng được chịu phép Rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi
lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sereno ra lệnh giết cả gia đình
ông.
Các ngài chịu thống khổ vì Chúa bao nhiêu, thì cũng được an ủi, được
phần thưởng lớn lao bấy nhiêu, như Linh mục Origene xác quyết: “các
sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng ta thế nào, thì nhờ Đức
Kitô, sự an ủi chúng tôi cũng được tràn đầy thế ấy. Nếu vậy, thì
chúng ta hãy hăm hở nhận lấy những sự thống khổ của Đức Kitô; và ước
gì chúng tràn đến trên chúng ta, nếu chúng ta muốn được đầy tràn an
ủi, bởi vì ai khóc lóc sẽ được an ủi, nhưng không bằng nhau cho hết
mọi người đâu. Bởi vì, nếu sự an ủi bằng nhau cho hết mọi người thì
đã không có lời chép rằng: Các sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến
chúng tôi thế nào thì sự an ủi chúng tôi cũng được đầy tràn thế ấy.
Sự chia sẻ những thống khổ của Đức Kitô thì tương đương với sự thống
khổ mà họ chịu với Người. Điều này bạn hãy nghe Đấng đã nói rất tin
tưởng rằng: chúng tôi biết rằng anh em đã thông phần thống khổ thế
nào, thì cũng được thông phần an ủi thế ấy.
Các ngài bị hành hình khổ sở và giam
trong ngục tối. Cuối cùng, khoảng năm 304, hai Thánh Marcellino và
Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án quyết, đao phủ Dorote đã
thấy linh hồn hai ngài bay về trời. Quá xúc động ông đã xin tòng
giáo và qua đời cách lành Thánh. Còn xác hai Thánh nhân được chôn
cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi Giáo Hội được sống trong an bình, hoàng đế Constantin cho xây
trên mộ hai ngài một đại Thánh Đường rất nguy nga trên con đường Via
Merulana, nằm giữa đại Thánh Đường Đức Bà Cả và Đền Thờ Laterano.
Chính nơi đây hoàng đế đã cho chôn cất mẹ ngài. Tên hai Thánh nhân
đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.
Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cùng
anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng:
Chúa hằng gìn giữ che chở Giáo Hội. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô,
Chúa chúng con. Amen.
Nguồn: Hạnh Các Thánh
https://danchuahiepthong.wordpress.com/2017/06/02/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304/
Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo
Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời
Diocletianô.
Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược
lại cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh
trưởng Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con
gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giới thiệu bạn
mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ
ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho
rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con
ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm
vụ thì thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ
và xin theo đạo. Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia
đình Antêmi thành nơi tụ tập thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội
cho các tân tòng.
Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi
giam ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết.
Tuy nhiên Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo
cho các dự tòng được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi
lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình
ông.
Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi
thi hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về
trời. Quá xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh.
Còn xác hai thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros
đường Labicana.
Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai
Ngài một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc
đến trong lễ quy Roma.
http://conggiao.info/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304-d-16084
Ca hiệp lễ,
lễ chung các thánh tử đạo có ghi:” Anh em đã một lòng gắn bó với
Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ
ban quyền cai trị cho anh em, để anh em được đồng bàn
ăn uống với Thầy, trên vương quốc của Thầy”( Lc 22,
28-30 ). Thánh Marcellinô và Phêrô là những chứng nhân cho Chúa, đã
đổ máu đào để minh chứng cho tình yêu của Chúa.
THÁNH MARCELLINÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ:
Lịch sử không
ghi lại nhiều về hai thánh này, người ta chỉ biết rõ rằng thánh
Phêrô được đặc ân Chúa ban cho trừ quỉ, Ngài đã làm nhiều phép lạ do
tình thương của Chúa, xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người bị chúng ám
hại. Tiếng tăm của Ngài được loan truyền khắp nơi, Ngài đã thu hút
được nhiều thành phần trong xã hội, có nhiều người mộ mến Ngài,
nhưng cũng lắm kẻ ghen ghét, ganh tỵ, hận thù Ngài vì Ngài được
nhiều người quí mến, yêu chuộng. Thánh nhân đã sống đúng lời Chúa:”
Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được
mạng sống ấy” ( Mc 8, 35 ). Chính vì Ngài có ảnh hưởng
rộng lớn và lôi cuốn được nhiều người theo Chúa. Viên
tỉnh trưởng Sérène bắt Ngài và ra lệnh tống ngục Ngài. Trong tù,
thánh nhân đã làm gương sáng: sống hiền lành, khiêm nhượng, làm phép
lạ và đời thánh thiện của Ngài đã làm cho cả gia đình Antêmi trở lại
theo Chúa do phép lạ thánh nhân đã chữa khỏi bệnh cho con gái
Antêmi.
Thánh
Marcellinô cũng bị tống ngục vì tội rao giảng và tội làm phép lạ,
tội rửa tội cho nhiều tân tòng. Thánh nhân dù bị tù tội, dù bị tra
tấn dã man vẫn một lòng kiên trung rao giảng, dậy giáo lý và tiếp
tục rửa tội cho nhiều người. Tỉnh trưởng Sérène quá
bực tức vì tinh thần kiên cường của hai thánh nhân, nên đã dùng
nhiều cực hình dã man nhất, tàn bạo nhất hầu làm nhụt chí hai vị,
nhưng” vàng thử lửa, gian nan thử đức”. Hai vi thánh vẫn kiên trì
theo Chúa và không hề nản lòng, nhụt chí. Chúa đã sai các thiên thần
ban đêm đến giải cứu các Ngài để các Ngài củng cố niềm tin cho các
tân tòng. Tỉnh trưởng Sérène nghi ngờ Antêmi đã tiếp tay để thánh
Phêrô và Marcellinô trốn ngục, nên đã hạ lệnh giết cả gia đình của
Antêmi.
CHÚA THƯỞNG CÔNG HAI THÁNH
MARCELLINÔ và PHÊRÔ:
Thánh vịnh 33, 18 có viết:” Người công chính kêu xin, và Chúa đã
nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn”. Thánh Marcellinô và
Phêrô đã được phúc tử đạo vào năm 304. Khi chém đầu các Ngài, tên
đao phủ Đôrôtê đã trông thấy linh hồn các Ngài bay về thiên quốc.
Ông đã hối hận, xin trở lại, chịu phép rửa và chết bình an trong tay
Chúa.
“Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai thánh tử đạo Marcellinô và Phêrô cùng
anh dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy
rằng:” Chúa luôn gìn giữ chở che Giáo Hội”. Vì lời hai thánh nguyện
giúp cầu thay, xin cho chúng con được bắt chước các Ngài luôn giữ
vững niềm tin như thế “( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Marcellinô và
Phêrô tử đạo ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay2.htm
Thứ
Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Tob
12, 1-5.20
"Tôi phải trở về cùng Ðấng đã sai
tôi; còn các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa".
Bài trích sách Tobia.
Trong những ngày ấy, Tobia kêu con
trai lại và hỏi rằng: "Chúng ta phải tặng cái gì cho người thánh thiện đi
với con?"
Rồi cả hai cha con gọi thiên thần đến
và đưa người ra chỗ riêng và xin người vui lòng nhận một nửa những gì đã
mang về.
Bấy giờ người bảo nhỏ hai cha con
rằng: "Các người hãy chúc tụng Chúa trời, và tuyên xưng Người trước mặt mọi
sinh vật, vì người tỏ lòng từ bi đối với các người.
Bởi chưng, giữ kín sự bí mật của nhà
vua là một việc tốt, nhưng công bố và tuyên xưng các kỳ công của Thiên Chúa
là một vinh dự, cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho
vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và
sự sống đời đời.
Còn những ai phạm tội và làm điều gian
ác, thì là thù địch của linh hồn mình.
Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự
thật, và không giữ kín câu chuyện bí mật với các người nữa: Khi ông than
khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết
trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn, chính tôi đã dâng lời nguyện của ông
lên cùng Chúa.
Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên
cần phải có thử thách để thanh luyện ông.
Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và
cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ.
Vì tôi là thiên thần Raphael, một
trong bảy thiên thần chầu chực trước mặt Chúa.
Vậy đã đến lúc tôi phải trở về cùng
Ðấng đã sai tôi; còn các người hãy chúc tụng Thiên Chúa và cao rao mọi việc
kỳ diệu của Người".
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tob 13, 2,
6, 7, 8
Ðáp: Lạy Chúa,
Chúa cao cả muôn đời. (1b)
Xướng 1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại
tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại đem ra; và không một ai thoát khỏi
tay Chúa. - Ðáp.
2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm
cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn
vua muôn đời trong những việc làm của các ngươi. - Ðáp.
3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu
đày, vì Người tỏ ra uy quyền trước dân phạm tội. - Ðáp.
4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn,
hãy thực hiện sự công chính trước mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng
từ bi với các ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15,
15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy,
thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12,
38-44
"Bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn
hết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói cùng dân chúng
trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi
lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế
nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt
hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Chúa Giêsu
ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm
người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là
một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các
con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn
hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng
thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
tận
cùng sự sống
Suy Niệm
Phụng
vụ Lời Chúa cho Thứ
Bảy Tuần IX Thường Niên hôm nay với bài Phúc Âm cuối cùng của Thánh ký Marco
(12:38-44) là Phúc Âm có 16 đoạn được Giáo Hội chọn đọc cho 9 tuần đầu của
Mùa Thường Niên, và cũng là đoạn áp cuối của Sách
Tobia (12:1-5,20) ở Bài Đọc 1. Chưa hết, hôm nay bài Đáp Ca không được trích
từ Thánh Vịnh như thường thấy mà lại được trích từ đoạn cuối cùng của chính
Sách Tobia.
Trước hết,
bài Phúc Âm được Thánh ký Marcô thuật lại nhận định
của Chúa Giêsu cho dân chúng biết về thành phần "luật sĩ" và lời khuyên dạy
của Người giành cho "các môn đệ" về hành động dâng cúng chẳng là gì của một
bà góa.
Đây là một cảnh
tượng trái nghịch nhau được Thánh ký Marco ghép lại từ hai
trường hợp
hoàn toàn tương phản nhau, giữa thành phần luật sĩ thông thái và bà góa đơn
nghèo quê mùa.
Trước
hết Chúa
Giêsu đã nặng lời chê trách và cảnh báo thành phần thông luật trước mặt công
chúng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ.
Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm
những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh
dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn". Trong
phán quyết này của
Chúa Giêsu, chúng ta thấy Người có nhắc đến thành phần "các bà góa",
trong đó có một bà góa được Người sử dụng để khuyên dạy các môn đệ của
Người:
"Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng
bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá
nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu. Người liền gọi các môn đệ và
bảo: 'Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bá
goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết. Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư
thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi
sống'".
Quả
thật là
thế, sở dĩ bà góa được Chúa Giêsu nói đến và khen tặng như một tấm gương
sáng cho các môn đệ "bỏ nhiều hơn hết", hơn cả "lắm người giầu
bỏ nhiều tiền" hơn bà nữa, là vì trong khi các người khác, nhất là các
người giầu "bỏ của mình dư thừa", thì người đàn bá góa ấy lại "đang
túng thiếu", nhưng
bất chấp túng thiếu, thậm chí chẳng cần khôn ngoan, hành động đến như điên
dại, ở chỗ bà "đã
bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống".
Tinh thần và hành động
của bà góa này đúng là anh hùng trước nhan Chúa hơn là trước mặt người đời,
nhất là trước mặt thành phần giầu sang phú quí, thành
phần có thể còn tỏ ra khinh bỉ bà nữa là đằng khác. Bà
góa này vốn nghèo còn có thể càng nghèo hơn nữa bởi sự bóc lột của thành
phần luật sĩ bị Chúa Giêsu vạch mặt trong bài Phúc Âm: "Họ
giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá".
Thế
nhưng, trước nhan
Chúa, bà lại giầu sang hơn ai hết, vì bà có một sự sống nội tại siêu việt
trên cả thành
phần thông luật Chúa hơn bà, thành phần có
thể đã bóc lột tiền
bạc ngặt nghèo của bà.
Chính đức tin của bà và
lòng trông cậy hoàn toàn vào Chúa của bà đã khiến bà có những hành động phi
thường trổi vượt đáng khâm phục. Bà đã
biết lợi dụng tiền bạc chẳng là bao của mình để trả về cho Chúa tất
cả những
gì Ngài ban cho bà. Sự
sống của bà do Chúa ban không thể lệ thuộc vào tiền bạc để sống hơn là vào
chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bà và ban sự sống cho bà.
Cảm Nghiệm
Trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo lối sống giả hình của thành
phần luật sĩ là những kẻ đóng vai thày dạy của dân chúng, và đã lên tiếng
khen bà góa bỏ tiền vào đền thờ với tất cả tấm lòng chân tình của mình đối
với Thiên Chúa. Bài Đọc 1 hôm nay cũng chứng thực những gì Chúa Giêsu đã tỏ
ra với cả thành phần luật sĩ giả hình cùng tham lam lẫn bà góa đầy lòng tin
tưởng và quảng đại, ở câu được vị thiên sứ Raphael nói riêng với 2 cha con
Tobia thế này: "Cầu nguyện, ăn chay, bố thí, thì tốt hơn là cất giấu kho
vàng, vì việc bố thí cứu khỏi chết, tẩy sạch tội lỗi, mang lại lòng từ bi và
sự sống đời đời".
Chính vì bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay tin tưởng vào Chúa đến độ ký
thác cả sự sống của mình cho Ngài, và Tobia bố cũng hoàn toàn tin tưởng
vào Thiên Chúa, đến độ bất chấp nguy hiểm với bản thân mình trong việc
bác ái chôn cát kẻ chết đồng hương không thể không làm, mà cả hai đã trở
nên cao trọng trước nhan Thiên Chúa, nghĩa là đã được Ngài nâng lên. Nếu
bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay đã trở nên cao trọng trước nhan Thiên
Chúa là Chúa Giêsu Kitô bấy giờ, và đã được Ngài, qua Con của Ngài, nâng
lên làm gương cho cả thành phần môn đệ của Người vồn hơn bà về vai trò
và quyền thế của các vị, thì nhân vật Tobia cha cũng thế, như lơờ thiên
sứ Rapheal đã tiết lộ cho ông biết chính vị ông đẹp lòng Thiên Chúa mà
Ngài đã thanh luyện ông để ông sinh hoa trái hơn, nơi nhận thức mới của
vợ ông về ông, nơi cả lời cầu của con dâu ông, bao gồm cả con trai ông
lấy được vợ theo ý Chúa:
"Vậy tôi tiết lộ cho các người biết sự thật, và không giữ kín câu chuyện
bí mật với các người nữa: Khi ông than khóc cầu nguyện, chôn xác kẻ chết, bỏ
cơm trưa, và ban ngày giấu xác chết trong nhà, rồi ban đêm mang đi chôn,
chính tôi đã dâng lời nguyện của ông lên cùng Chúa. Và vì ông đã được đẹp lòng Chúa, nên
cần phải có thử thách để thanh luyện ông. Nay Chúa sai tôi đến để chữa ông và
cứu Sara con dâu của ông khỏi ma quỷ".
Tâm tình đầy xác tín của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ chính sách Tobia,
và cũng chính là lời nguyện của nhân vật Tobia bố dâng lên Thiên Chúa, thật
là thấm thía, hết sức đáng cho chúng ta suy nghĩ, chấp nhận và noi gương bắt
chước ông để suốt cuộc hành trình đực tin trần thế của Kitô hữu chúng ta bao
giờ cũng thế:
"Thiên
Chúa không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống", như
Chúa Kitô đã mạc khải trong Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này.
1) Chúa trừng phạt, rồi Chúa lại tha thứ; Chúa đẩy xuống âm phủ, rồi lại
đem ra; và không một ai thoát khỏi tay Chúa.
2) Hãy ngắm nhìn những việc Chúa làm cho chúng ta, hãy tuyên xưng Người
với lòng cung kính và run sợ, hãy suy tôn vua muôn đời trong những việc làm
của các ngươi.
3) Tôi tuyên xưng Người nơi tôi bị lưu đày, vì Người tỏ ra uy quyền
trước dân phạm tội.
4) Hỡi tội nhân, hãy sám hối ăn năn, hãy thực hiện sự công chính trước
mặt Thiên Chúa, hãy tin rằng Người tỏ lòng từ bi với các ngươi.
Ngày 3 tháng 6
Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng
Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó
chỉ mới là Ki-tô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được thánh
Ca-rô-lô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị
bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (năm 1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu
đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.
Các vị tử đạo Phi Châu này đã thêm một trang mới vào Danh Bộ Các
Thánh Tử Đạo, vào cuốn sổ ghi tên những người chiến thắng. Trang
sách đó cho thấy những sự việc vừa bi thảm, lại vừa cao đẹp.
Chúng tôi coi đó là trang sử xứng đáng tiếp nối những bài tường
thuật hiển hách về Châu Phi ngày xưa. Chúng ta, những con người
của thời đại hôm nay, những người kém lòng tin, chúng ta vẫn
tưởng rằng sẽ không bao giờ lại có những trang sử hùng tráng như
xưa.
Thánh Âu-tinh và nhà thơ Pơ-ru-đen-xi-ô đã kể lại những thành
tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở Si-li-um, ở Các-tha-gô, và
của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng thành U-ti-ca” (300 vị
chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gio-an Kim Khẩu thì hết lời
tán dương các vị tử đạo Ai-cập. Những thành tích của tất cả các
vị vừa được nhắc đến cùng với thành tích của các vị tử đạo trong
cuộc bách hại của những người Văng-đan xưa, ai có thể ngờ rằng
thời nay lại được tiếp nối bởi những câu chuyện mới không kém
nét hào hùng, không kém phần hiển hách.
Phi Châu ngày xưa có các vị đại tử đạo và các bậc chứng nhân đức
tin, những nhân vật nghìn năm không quên như thánh Síp-ri-a-nô,
thánh Phê-li-xi-ta, thánh Pe-pê-tu-a, và nhất là thánh cả
Âu-tinh. Trước đây, ai có thể tiên đoán rằng sau các vị đó sẽ có
ngày chúng ta còn được kể thêm danh tánh rất thân thương của
thánh Ca-rô-lô Loan-ga, thánh Mát-thi-a Mu-lum-ba, thánh
Ca-lem-ba và hai mươi đồng bạn tử đạo. Cả những vị thuộc Giáo
Hội Anh Giáo đã chịu chết vì danh Đức Ki-tô cũng cần phải được
nêu danh nữa.
Các thánh tử đạo Phi Châu nói đây đã mở đầu một kỷ nguyên mới,
không phải là kỷ nguyên bách hại và tranh chấp, nhưng là kỷ
nguyên tái sinh về cả hai mặt đạo cũng như đời.
Phi Châu đã được tưới gội bằng máu của các vị tử đạo mới này,
những vị tử đạo đầu tiên trong kỷ nguyên chúng ta -ước chi cũng
là những vị cuối cùng, vì lễ toàn thiêu của các ngài cao quý và
đắt giá biết bao !- Phi châu đã được tự do và độc lập. Quả thật,
Phi châu đang tái sinh.
Người ta đã nghiền nát các ngài một cách tàn bạo. Thật khủng
khiếp, nhưng cũng đầy ý nghĩa, vì sự tàn bạo đó ai cũng thấy là
đã làm phát sinh những động lực mạnh mẽ khiến hình thành một dân
mới -mới về phương diện đạo đức-. Một nếp sống tinh thần mới
phải được kiến tạo để truyền lại cho hậu thế. Nếp sống đó phải
là một biểu tượng nói lên sự chuyển biến và phải chuyển biến
thật sự. Trước đây là một lối sống đơn sơ mộc mạc, tuy không
thiếu những giá trị nhân bản đáng quý, nhưng người ta lại bị
ràng buộc trong tình trạng nô lệ chính mình, khiến cho lối sống
đó không còn đáng trọng, không đứng vững được nữa. Nay phải bước
qua một nền văn minh hướng tới những biểu lộ cao quý nhất của
tinh thần con người, tới những hình thái thượng đẳng của cuộc
sống xã hội.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Ki-tô
hữu, xin cho máu của thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã tưới
xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào.
Chúng con cầu xin
THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO, (St. Charles Lwanga)
Ngày 03/6
Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền
bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu
sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước
hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng. Vua
Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực
mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của
ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ.
Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích
các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm
thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham
của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá.
Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử
trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm
người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong
lên bậc hiển thánh.
Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính
yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua
Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho
gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu
đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình
và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không
cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh
vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật
rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú
bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất
trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng
ham muốn dâm dật của vua Mwanga.
Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng
ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi
chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các
ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu
đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy
chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê
Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị
tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm
1964.
Carôlô
Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn
tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã
là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô
Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng
ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.
http://giaophanvinhlong.net/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao.html
Dân da đen sống ở miền Ouganda, Trung Phi
thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỷ còn thống trị họ với mọi
thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị
bỏ rơi. Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát
hại theo sở thích của đàn ông.
Ngày kia hai cha thừa sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một
cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của
ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục vụ.
Dân da đen đã không bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai
nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một người cha trên trời
đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến cứu chuộc
họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với
Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại
Người trong hạnh phúc bất tận sao? Để được như vậy, họ quyết yêu
thương nhau theo luật Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép
Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào trong lòng họ và kết hợp
với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể.
Nhà Vua cũng rất thích điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao
giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập buôn người giận dữ.
Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa tội và
đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã
đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với
một số trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ
phía nam, là nơi bệnh đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông
trẻ em sắp chết đều được rửa tội.
Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu
chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được làm con Thiên Chúa,
con không sợ chết nữa.
Được ba năm, nhà vua qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng
mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội cho nhiều người khác nữa.
Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân vương đã gieo nghi
ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với Giuse
Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của
ông. Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ
thủy bảo rằng bọn khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu
sống. Lý hình muốn trói Ngài lại nhưng Ngài nói: – Tôi chết vì đạo
mà lại tìm cách thoát thân sao? Một Kitô hữu không có sợ chết đâu.
Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái
lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu
đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo với một
thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:
Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả? Và ông dùng lưỡi dao tẩm
thuốc độc hạ sát Denis.
Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả? –
Phải.
Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân
tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông thúc trống tập họp
các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được thoát
khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên.
Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho
em bé Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách
thánh thiện.
Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu
nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn khoản xin em trốn đi,
nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: – Con lên trời
và cầu nguyện cho Đức Vua.
Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao
phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không?
Vừa trả lời "biết" Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói:
– Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho chúng ta được can đảm chịu
chết.
Các vị tử đạo bị kềm cứng trong gông cùm trong khi người con của đao
phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu ngày để chuẩn bị giàn
thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại pháp trường,
các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy
Thiên Chúa.
Các Ngài bị đặt trên các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta
đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các
Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng cầu nguyện.
Một phù thủy nói với các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các
Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt cháy linh hồn chúng tôi
được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng.
Giàn thiêu được đốt lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt
trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa.
Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng các Ngài
cầu nguyện.
Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng
dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda
có hơn nửa triệu tín hữu.
“ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc,
dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34
).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda
càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên
trên trời.
HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và
CÁC BẠN TỬ ĐẠO:
“ Máu của các
Kitô hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của
các Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn
kiên cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng
sống của mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị
như Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn
hơn từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của
mình, đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình
yêu như Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày,
đòn vọt, gông cùm, xiềng xích không làm chùn bước các Ngài. Các
Ngài đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến
chuyện gì khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng
đinh vào thập giá”( 1Co 2, 2 ) . Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda
trong đó có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động
viên, dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo.
Hội Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu
của các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả
cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ).
Thánh Carôlô Lwanga và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh
triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế
tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh
thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn
đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”(
Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).
https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao-0306.html
Gương thánh nhân: Năm 1880, giữa lúc
dân nước U-găn-đa còn sống trong lầm lạc, thờ lạy bụt thần, thánh
Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã đem đạo Chúa đến cho họ.
Lúc đầu, nhà vua rất vui mừng đón tiếp và sẵn sàng ủng hộ ngài. Nhờ đó,
thánh nhân được tự do đi khắp nơi rao giảng cho mọi người biết Chúa. Dân
chúng rất cảm kích khi nghe Ngài nói đến sự thương khó và cuộc tử nạn
của Chúa Giêsu. Họ không thể tưởng tượng được một vị Chúa cả vì thương
họ đã bỏ trời sinh xuống làm người nghèo khổ như họ, và chịu chết đóng
đinh khổ nục trên thập giá để cứu rỗi họ, đem hạnh phúc đến cho họ. Từ
đó họ hết lòng thương mến Chúa và xin lãnh nhận bí tích rửa tội, để thờ
kính Đấng đã hết lòng thương mến họ.
Thấy thế, các thầy phù thuỷ và
buôn bán nô lệ ghen tức, vì họ bị mất ảnh hưởng, quyền lợi. Họ tố cáo
với nhà vua là những người theo đạo Thiên Chúa mưu phản. Sẵn lúc đó, nhà
vua đang bực tức vì những người có đạo chỉ trích đời sống vô luân của
ông ta. Thế nên ông ta ra lệnh bắt Ca-rô-lô và 18 người Công giáo. Và để
cho dân chúng khiếp sợ không còn ai dám theo đạo nữa, ông ta kết án
thiêu sống thánh nhân cùng với những người bị bắt. Nhưng thay vì làm cho
đạo Chúa bị bế tắc, ông đã giúp cho Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới:”
Kỳ nguyên tái sinh về phương diện Tôn giáo
và xã hội”, như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì máu các thánh tử
đạo là hạt giống sinh ra người có đạo. Chúng ta hãy nghe
lời Đức Giáo Hoàng nói, trong dịp lễ phong thánh cho thánh Ca-rô-lo-
Loan-ga và các bạn của Ngài:
“Ai có thể đoán được rằng tiếp theo các thánh tử đạo và tu sĩ thời danh
ngày xưa ơ Phi châu như: Síp-ri-a-nô, Fê-li-xi-ta và Pê-pê-tu-a, nhất là
thánh Aâu-tinh, ngày nay lại có những vị thời danh như Ca-rô-lô-
Loan-ga, Mát-thi-a Mô-lum-ba, Ca-len-ba cùng với 20 đồng bạn tử đạo
người công giáo. Ta cũng không thể quên những vị khác thuộc Anh giáo đã
dám bỏ mạng mình vì danh Chúa Kitô. Các vị tử đạo này của Châu Phi mở ra
một kỷ nguyên mới…dĩ nhiên không nên nghĩ là kỷ nguyên cấm đạo và đàn áp
tôn giáo mà là kỷ nguyên tái sinh về phương diện tôn giáo và xã hội.
Được tưới gội bằng máu của các thánh tử đạo mới này, những tử đạo đầu
tiên của thời đại mới ( và ước gí là những tử đạo cuối cùng, vì lẽ, lễ
hy sinh của các Ngài thật cao quý! ) một Phi Châu tự do và độc lập đang
được tái sinh.
Sự chết bi thảm của các ngài thật quá lạ lùng
và ý nghĩa, đến nỗi có thể tìm thấy ở đó đủ những bài học, để kiến tạo
một dân mới
về lòng đạo đức: xây dựng một truyền thống tinh thần mới để truyền lại
cho hậu thế, một truyền thống đủ khả năng tượng trưng diễn tả và đem lại
một tiến bộ cho dân tộc, đi từ một nền vănhoá thô
sơ có nhiều giá trị nhân bản cao quý, nhưng cũng không tránh khỏi còn
hoen ố nhược điểm và phần nào đang đóng kín, hẹp hòi, để tiến tới một
nếp sống chân chính cởi mở, thuận lợi cho tinh thần con người có được
những bộc lộ cao thượng hơn, và cuộc sống xã hội có được những hình thức
cao cấp hơn.”
Quyết tâm:Noi
gương thánh Ca-rô-lôLoan-ga, tôi sẵn sàng chịu gian nan khốn khó, để đem
Chúa đến cho những người chưa biết Chúa và để làm chứng đạo Chúa là đạo
thật.
Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho máu
thánh tử đạo làm nảy sinh nhiều Kitô hữu, xin cho máu thánh Loan-ga và
các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi
dào.
http://giaoxutanviet.com/ngay-3-thang-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao/
1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ
Người ta ấn định ngày này để nhớ đến 22 vị thánh tử đạo Châu Phi da
đen, bị giết tại Ouganda giữa 26 tháng 5; 3 tháng 6 năm 1886; và 27
tháng 1 năm 1887. Ngày 3 tháng 6 nhắc lại cuộc tử đạo của Thánh
Charles Lwanga và 12 bạn chịu thiêu sống sau khi chịu nhiều cực hình
khủng khiếp, tại Rubaga (03.06.1886). Các ngài là những của lễ hy tế
đầu tiên trong cuộc bách hại do Mwanga chủ xướng. Ông là vị vua thâm
độc và khát máu trong miền Đại Hồ (Grands Lacs). Các ngài được Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XV phong chân phước năm 1920 và được Đức Phaolô
VI phong hiển thánh năm 1964, nhân chuyến viếng thăm của ngài tại
Châu Phi.
Ouganda trước tiên được các linh mục Hội truyền giáo Châu Phi (Pères
Blancs) rao giảng Tin Mừng năm 1879. Năm 1882, họ bị đuổi khỏi nơi
này, nhưng hai năm sau họ trở lại theo lời yêu cầu của vua Mwanga.
Sau đó, chính ông lại bách hại các Kitô hữu hết sức tàn bạo.
Để trả thù, một viên chức bị bắt trong khi âm mưu chống vua Mwanga
đã thúc đẩy vua trước hết giết một số Kitô hữu và giám mục Anh Giáo
Hannington (1885), bị cáo gian làm gián điệp. Sau đó vua sai chém
đầu Joseph Mukusu, trưởng đội những người phục vụ. Họ bị cáo là “những
người cầu nguyện”
(17 tháng 11 năm 1885).
Charles Lwanga là người đầu bếp mới của triều đình, đã chuẩn bị cho
mười hai bạn được phúc tử đạo. Sau khi bị kết án tử hình, các ngài
bị dẫn đến địa điểm hành hình ở Kampala. Trong lúc đó, người bạn của
vua là André Kagwa, bị chặt đầu rồi hỏa thiêu. Hôm sau, một nhân vật
nổi tiếng khác cũng bị giết cách tàn bạo, đó là Matthias K.Mulumba.
Các văn kiện của vụ án phong thánh đều ví Matthias K. Mulumba như “đoá
hoa đẹp nhất trên chiếc triều thiên”
của các thánh tử đạo này.
Sau khi trở lại đạo và chịu phép thánh tẩy, ngài không còn quan tâm
đến các danh vọng bổng lộc ban cho ngài với tư cách là nhân vật cao
cấp trong triều, ngài nói: “Tôi không phải là một người nô lệ, nô lệ
của Đức Giêsu Kitô sao ?”
Sau vài ngày cần thiết chờ đợi để chuẩn bị ra pháp trường và trong
khi vài kiếm đồng đã bị giết chết dọc đường, người ta xiềng xích các
tù nhân. Người đầu tiên phải lên giàn hỏa thiêu là Charles Lwanga.
Rồi những người khác, lần lượt bị thiêu sống. Trong nhóm họ có con
trai của người trưởng toán lý hình. Anh không chấp nhận được tha
bổng và trả lời cha: “Vua
đã ra lệnh cho cha phải giết con. Con muốn chết vì Đức Giêsu Kitô”.
Jean-Marie Jamari được mệnh danh là bậc “tiền
bối” do
bởi dáng vẻ oai nghi trang trọng và luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân
cận, hai năm sau cũng bước theo các bạn tử đạo của mình; ngài bị
nhấn chìm trong hồ ngày 27 tháng 1 năm 1887.
Do đó, thật xứng đáng khi Đức Piô XI công bố Charles Lwanga là thánh
Bảo Trợ cho Công Giáo Tiến Hành và giới trẻ châu Phi.
2- Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện trong ngày lễ được mở đầu bởi câu nói danh tiếng của
Tertullien, cũng là một giáo dân châu Phi: “Lạy
Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Kitô hữu...”
và lời nguyện tiếp theo:
“Xin cho máu của thánh Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội
thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”.
Nhân chuyến hành hương sang châu Phi năm 1964, Đức Phaolô VI đã cử
hành Thánh lễ phong thánh trên các hũ đựng di hài các thánh tử đạo.
Như thế Ngài lặp lại truyền thống của thánh Cyprien là cử hành hy tế
Tạ Ơn trên các mộ thánh tử đạo thành Carthage. Như để nhấn mạnh câu
nói danh tiếng của Tertullien, Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng các tân
thánh tử đạo này của châu Phi như thêm một mắc xích mới vào chuỗi
các vị tử đạo của châu Phi xưa: “Thánh Augustinô và nhà thơ Prudence
đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở
Scillium, ở Carthage, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng
thành Utique” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gioan Kim
Khẩu hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập, cùng với thành tích của
các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Vandales xưa…”
b. Lời nguyện trên lễ vật gợi lại việc các thánh tử đạo trẻ tuổi đã
từ chối và chống lại những lời khiếm nhã của Đức vua, họ thà chết
hơn là phạm tội. Như thế, họ làm sống dậy các hành vi và cử chỉ của
các thánh tử đạo vào những thế kỷ đầu tiên trong lòng Giáo hội trẻ
trung vừa được rao giảng Tin Mừng từ thế kỷ XIX.
c. Lời nguyện hiệp lễ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa hiện thực của
ngày lễ nhớ các thánh tử đạo Ouganda. “Chính
trong hy lễ Tạ Ơn mà các ngài đã tìm được sự dũng cảm để chịu đựng
các nỗi cực hình”.
Chúng ta cũng thế, giữa muôn vàn thử thách, chúng ta sẽ nhận lấy,
trong mầu nhiệm hy lễ Tạ Ơn, một niềm tin và lòng bác ái tinh tuyền,
không khiếm khuyết.
Enzo Lodi
Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/11592-ngay-03-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao-1886-1887.html