Thứ Hai
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Xh
32, 15-24. 30-34
"Dân này đã phạm tội
nặng nề, và họ đúc bò vàng".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê
từ trên núi trở xuống, Tay cầm bia đá có khắc chữ cả hai mặt; và
đó là công trình của Thiên Chúa tác tạo, vì chính Chúa đã khắc
chữ vào hai bia đá đó. Bấy giờ Giosuê nghe tiếng dân chúng la
lối om sòm, nên thưa cùng Môsê rằng: "Có tiếng la giao chiến
trong trại". Môsê đáp: "Ðó không phải là tiếng kêu la giao
chiến, cũng không phải tiếng kêu la thất trận, nhưng tôi nghe
tiếng người ta ca hát". Khi đến gần trại, người thấy con bê đực
và những người múa. Người quá tức giận, liền ném hai bia đá
xuống chân núi và nó bể nát ra. Người đem đốt con bê chúng đã
đúc, rồi tán ra thành tro, bỏ vào nước, bắt con cái Israel phải
uống.
Người nói cùng Aaron rằng:
"Dân này đã nói gì với ông mà ông để nó phạm tội nặng nề như
thế?" Aaron thưa: "Xin ngài chớ tức giận, nào ngài không biết
dân này hay hướng chiều về đàng tội đó sao? Chúng đã nói với tôi
rằng: "Xin ông hãy đúc cho chúng tôi những vị thần để dẫn dắt
chúng tôi đi, vì ông Môsê, người dẫn chúng tôi ra khỏi đất
Ai-cập, chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy đến cho ông". Tôi
liền nói với họ: "Ai trong các ngươi có vàng, hãy mang đến cho
tôi. Họ mang đến, tôi quăng vàng vào lửa và đúc nên con bê này".
Hôm sau Môsê nói với dân:
"Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp lên với
Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!" Môsê
trở lại với Giavê và nói: "Phải! dân này đã phạm một tội rất
lớn, chúng đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ,
ước gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá
con đi khỏi sách Người đã viết".
Giavê phán với Môsê: "Ai
phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây
giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này
thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta,
Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Hãy
ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Xướng: 1) Dân chúng đúc
hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ
đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. -
Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa
là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên
Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và
những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu
diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra
cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. -
Ðáp.
Alleluia: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong
sự thật. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 31-35
"Hạt cải trở thành cây
đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt
cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ
hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi
thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một
dụ ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn
bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà
phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với
họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép
rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí
nhiệm từ lúc dựng nên thế gian".
Ðó là lời Chúa.
sự sống nhỏ mọn nhưng mãnh liệt
Bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay, Thứ Hai Tuần XVII Thường
Niên tiếp tục loạt bài Phúc Âm về các dụ ngôn Nước Trời của Chúa
Giêsu ở đoạn 13.
Dụ
ngôn đầu tiên (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Tư tuần trước) trong loạt dụ ngôn này là dụ ngôn người gieo
giống ra đi gieo giống liên quan đến 4 loại môi trướng tiếp nhận
hạt giống, và dụ ngôn thứ hai (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Bảy tuần trước) cũng về người gieo giống nhưng là giống tốt
trong ruộng của mình liên quan đến cỏ lùng. Dụ ngôn hôm nay, dụ
ngôn thứ ba cũng liên quan đến hạt giống, nhưng là loại hạt
cải, được Chúa Giêsu sử dụng để ám chỉ về Nước Trời như
sau:
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình.
Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn
hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương
náu nơi ngành nó".
Ngoài
ra, song song với dụ ngôn này, như là một cặp dụ ngôn bất
khả phân ly về
Nước Trời, một dụ ngôn được Chúa Giêsu đề cập đến ngay
sau đó, đó là dụ ngôn: "Nước
trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột,
cho đến khi bột dậy men".
Cặp dụ
ngôn hôm nay đây và
cặp
dụ ngôn vào Thứ Tư tuần này về Nước Trời không được Chúa Giêsu
giải thích ý nghĩa ám chỉ của những gì trong dụ ngôn, như
Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 1 (trong bài
Phúc Âm Thứ
Sáu tuần trước) và như
Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 2 (trong bài
Phúc Âm ngày
mai).
Thế
nhưng, không phải vì thế mà 2 cặp dụ ngôn này tự chúng là những
gì dễ hiểu, trái lại, như các dụ ngôn được Người dẫn giải, chúng
vẫn là những điều bí ẩn, sâu nhiệm, như
câu kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy về chung các dụ ngôn:
"Chúa
Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người
không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm
lời tiên tri đã chép rằng: 'Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta
sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian'".
Dầu
sao tính tò mò của con người vẫn muốn biết được ý nghĩa ám chỉ
của các cặp dụ ngôn về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải
thích ấy, không phải chỉ thỏa tính tò mò mà nhất là để nắm
bắt được thực tại của Nước Trời hầu có thể hưởng ứng
và đáp ứng
một
cách xứng đáng.
Trước
hết, "Nước
trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình" - Phải
chăng "hạt cải" ở đây Chúa Giêsu ám chỉ đến mầu nhiệm
nhập thể của Người: "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa
chúng ta" (Gioan 1:14)? "Hạt
ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống" - Phải
chăng, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm khổ giá, ở chỗ Người chẳng
những đã "tự hạ ra như không" (Philiphê 2:6) mà còn "vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá" (xem Philiphê
2:8)? "Nhưng
khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến
nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó"
- Phải
chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm phục sinh và
thăng thiên của Người, ở chỗ "Thiên Chúa đã tôn vinh Người
và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu..."(Philiphê 2:9).
Sau nữa, "Nước
trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba
đấu bột, cho đến khi bột dậy men". Phải
chăng "nắm
men" Chúa
Giêsu muốn ám
chỉ đến sự sống thần linh nói chung và mầu nhiệm Thánh Thể
cùng với các bí tích chất chứa sự sống nói riêng? Phải chăng
"người đàn bà" trong dụ ngôn Người
muốn ám
chỉ đến
Giáo Hội đóng vai trò làm mẹ có nhiệm vụ ban phát sự sống
thần linh này bằng việc ban các bí tích nhất là việc cử hành
Thánh Thể? Phải chăng "ba đấu bột" cần phải "dậy
men" ở đây, tức cần phải "được sống và sống dồi dào
hơn" (Gioan 10:10), Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến đấu
bột thứ nhất là từng
Kitô
hữu,
chi thể
của Chúa Kitô, đấu
bột thứ
hai là chung Giáo
Hội, Nhiệm
Thể Chúa Kitô, và đấu
bột thứ
ba là toàn thể xã
hội loài người?
Nếu
Moisen là nhận vật được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng
dân của Ngài khỏi làm nô lệ ở Ai Cập, nhờ đó Moisen là hình
bóng báo trước một Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải phóng nhân
loại nói chung, trong đó có cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và
sự chết, thì trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy Moisen
có
thể được coi là một "hạt cảI" trong thửa ruộng
cộng đồng dân Do Thái, một con người chẳng là gì trước nhan
Thiên Chúa, nhưng lại vươn lên thành cây vĩ đại cho chim
trời làm tổ, ở chỗ đã trở
thành một con người có thế lực trước Thiên Chúa, với vai
trò đại diện cho dân tộc của mình mà chuyển
cầu để họ khỏi
bị Ngài tiêu diệt bởi tội thờ bỏ vàng của họ:
"Hôm
sau Moisen nói
với dân: 'Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ
ta sắp lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho
các ngươi!' Moisen trở
lại với Giavê và nói: 'Phải! dân này đã phạm một tội rất
lớn, chúng đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây
giờ, ước gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người
hãy xoá con đi khỏi sách Người đã viết'. Giavê
phán với Moisen:
'Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta!
Còn bây giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán
với ngươi! Này thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày
truy phạt của Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng'".
Bài Đáp
Ca hôm nay tóm tắt ý nghĩa của Bài Đọc 1 về tinh thần bất
trung và thái độ thiên về ngẫu tượng tà thần của họ cho dù
họ đã được liên tục chứng
kiến thấy các điềm
thiêng dấu lạ Ngài tỏ ra cho họ, nhưng nhờ có Moisen mà
họ đã được Ngài thương tha:
1) Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng
đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy
hình tượng con bò ăn cỏ.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm
những điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ
diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển
Đỏ.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là
người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài
nguôi giận và đừng tiêu diệt họ.
Cha mẹ của Đức Trinh nữ Maria, tức ông bà ngoại của Chúa Giêsu,
đã không được nêu lên trong Tân Ước, cũng không có trong bản gia
phả của Phúc Âm thánh Mátthêu, cũng như của Thánh Luca.
Danh tánh Gioakim và Anna được gặp thấy lần đầu tiên trong một
tác phẩm ngụy thư được viết để tôn kính Đức Trinh nữ Maria vào
khoảng năm 200. Danh tánh bà Anna (Hanna) gợi cho chúng ta nhớ
đến người mẹ của tiên tri Samuen (x. 1Sm 1); bà được chồng yêu
mến và được Thiên Chúa chúc phúc.
Thánh Anna được Giáo Hội Đông Phương tôn kính từ thế kỷ thứ V;
và hiện tại, người Hy Lạp hằng năm vẫn kính nhớ trong 3 ngày lễ.
Lễ kính thánh Anna được phổ biến ở Giáo Hội Tây Phương vào thế
kỷ thứ X. Thánh Gioakim thì mãi đến thế kỷ XVI mới thấy xuất
hiện. Dù vậy, có một sự lên xuống trong thánh lễ mừng kính hai
vị thánh này:
- Đức
Thánh Cha Piô V (+ 1572) loại bỏ thánh lễ kính thánh Anna;
- Đức
Thánh Cha Giêgôriô XIII (+1585) cho tái lập lại;
- Đức
Thánh Cha Giêgôriô XV (+ 1623) lại loại bỏ;
- Đức
Thánh Cha Lêô XIII (+ 1903) cho tái lập và nâng lên bậc II;
Từ đó phụng vụ có:
- Ngày
26 tháng 7 mừng lễ thánh Anna.
- Ngày
16 tháng 8 mừng lễ thánh Gioakim.
Đức Thánh Cha Phaolô VI (+ 1978) canh tân phụng vụ, từ đó hai vị
thánh được mừng chung vào ngày hôm nay: Ngày 26/07 hàng năm.
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh
Nguồn: TGP. Sài Gòn
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/ngay-26-07-thanh-gioakim-va-thanh-anna-32938
Sau Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 26/7/2020, Đức Thánh Cha nhắc
đến hôm nay là lễ thánh Gioakim và Anna, là ông bà của Chúa
Giêsu. Ngài mời các bạn trẻ thể hiện một cử chỉ yêu mến đối với
người già, đặc biệt là những người cô đơn nhất, những người
không gặp được người thân trong nhiều tháng.
Đức Thánh Cha nói: Các bạn trẻ thân mến, mỗi người lớn tuổi này
là ông bà của các bạn! Đừng để họ một mình! Hãy tưởng tượng để
có những sáng kiến của tình yêu, gọi điện, video, tin nhắn, lắng
nghe họ và, nếu có thể tuân thủ các biện pháp bảo vệ sức khỏe
thì đi đến gặp họ. Họ là nguồn gốc của các bạn. Một cây tách rời
khỏi rễ thì không mọc được, không sinh hoa kết quả. Đây là lý do
tại sao sự liên kết với gốc rễ của các bạn là quan trọng. Đức
Thánh Cha trích lời của một nhà thơ ở quê hương của ngài: “Những
gì cây cho hoa đều đến từ dưới đất.” Đức Thánh Cha mời: “Vì điều
này, tôi mời tất cả mọi người vỗ một tràng pháo tay lớn dành cho
ông bà của chúng ta!”
Thứ Ba
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Xh
33, 7-11; 34, 5b-9. 28
"Chúa đối diện nói
chuyện với Môsê".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê
hạ nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là
"nhà xếp giao ước". Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến
nhà xếp ở ngoài trại.
Khi ông Môsê đi đến nhà
xếp, thì toàn dân chỗi dậy, ai nấy ra đứng trước cửa trại mình
nhìn theo ông Môsê, cho đến khi ông vào nhà xếp. Khi ông đã vào
nhà xếp giao ước, thì có một cột mây rơi xuống, và dừng lại tại
cửa, và Chúa đàm đạo cùng Môsê; mọi người trông thấy cột mây
dừng lại trước cửa nhà xếp. Họ đứng nơi cửa nhà xếp mình và sấp
mình thờ lạy. Chúa đàm đạo cùng Môsê diện đối diện, như người ta
quen đàm đạo với bạn hữu mình. Khi ông trở về trại, thì người
hầu cận ông là Giosuê, con ông Nun, còn trẻ tuổi, không rời khỏi
nhà xếp.
Ông Môsê đứng trước mặt
Chúa mà khẩn cầu danh Người. Chúa đi ngang qua trước mặt ông và
hô lên: "Ðức Chúa! Ðức Chúa! Ðấng cai trị mọi sự, là Ðấng từ bi,
nhân hậu, nhẫn nại, đầy lân tuất và chân chính. Chúa xót thương
đến ngàn đời, tha thứ gian ác, độc dữ và tội lỗi; (nhưng) trước
mặt Chúa không ai coi mình là vô tội. Sự gian ác tổ tiên đã
phạm, Chúa phạt con cháu đến ba bốn đời". Ông Môsê vội vã sấp
mình xuống đất thờ lạy Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con
được ơn nghĩa trước mặt Chúa, thì xin Chúa đi với chúng con, (vì
dân này là dân cứng đầu), và xin Chúa tha thứ sự gian ác và tội
lỗi chúng con. Xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Chúa". Vậy
ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không
uống nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia đá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 102, 6-7. 8-9. 10-11. 12-13
Ðáp: Chúa
là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa thi hành
những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị
ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho
con cái Israel. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng từ bi và
hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không
chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.
3) Người không xử với
chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan
trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên mặt đất,
lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. -
Ðáp.
4) Cũng như từ đông sang
tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như
người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ
Người. - Ðáp.
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! - Lời
Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và là
ý muốn của tâm hồn. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 36-43
"Cũng như người ta thu
lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế
cũng sẽ xảy ra như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, sau khi giải tán
dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và
thưa rằng: "Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho
chúng con nghe". Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con
Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước
Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ.
Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng như
người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì
ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên
thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi
nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc
nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong
nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Ðó là lời Chúa.
Cánh chung: Từ thời điểm viên trọn tới thời điểm chung
cuộc
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên hôm nay chất
chứa những lời Chúa Giêsu dẫn giải về dụ ngôn người gieo giống
tốt trong thửa ruộng của mình trong bài
Phúc Âm hôm Thứ Bảy tuần trước, để đáp
lại lời yêu cầu của các môn đệ: "Khi
ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn
đệ đến gặp Người và thưa rằng: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ
lùng trong ruộng cho chúng con nghe'".
Theo thứ
tự các hình ảnh trong dụ ngôn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của
từng hình ảnh hay sự việc được Người ám chỉ trong dụ ngôn này
như sau:
"Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống
tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù
gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các
thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt
trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con
Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ
làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở
đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói
như mặt trời trong nước của Cha mình".
Ở đây chúng
ta thấy những điều cần chú ý sau đây:
1- Nếu "Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống
tốt là con cái Nước Trời" thì
có nghĩa là Chúa Kitô Thiên Sai đã cứu độ thế gian hay cứu độ loài
người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của Người,
nhờ đó Người đã ban cho họ sự sống thần linh, như
thể Người đã gieo giống tốt trong thửa ruộng thế gian của Người,
nơi Người đã hóa thân làm người để nhờ Người mà thế gian được
cứu độ (xem Gioan 3:16-17).
2- Nếu "Cỏ
lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ" thì
có nghĩa là Satan và bọn ngụy thần của hắn nhất định tàn phá
công nghiệp của Chúa Kitô nơi các tâm hồn nói riêng và Giáo Hội
nói chung. Bởi thế, chúng ta không lạ gì Giáo Hội của Chúa Kitô
liên lỉ trở thành mục tiêu tấn công của thần dữ suốt giòng lịch
sử của Giáo Hội, và thành phần Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội
luôn bị bách hại và sát hại, càng ngày càng dữ dội hơn.
3- Nếu "Mùa
gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" thì
có nghĩa là tất cả sẽ có cùng, và mọi sự sẽ được giải quyết công
minh đúng như dự án thần linh của Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng
Thần Linh làm chủ lịch sử loài người, cho dù trong thời
gian hiện tại thành phần kẻ lành lúa
tốt chỉ
là một thiểu số và bao giờ cũng chịu
thua thiệt tất cả mọi sự trước áp lực hung hăng tàn bạo của
thành phần kẻ dữ lùng vực hầu
như bất khả khống chế.
Có một chi tiết hơi kỳ lạ trong dụ ngôn được Chúa Kitô đề cập
tới, đó là chi tiết: "Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu
tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi
ném tất cả chúng vào lửa". Chi tiết kỳ lạ này
là "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác
khỏi nước Chúa", nghĩa là trong "nước
Chúa" đã có hay đã bao gồm "tất
cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác" rồi
phải không nên sau cùng mới bị loại ra. Như thế nghĩa là gì? "Nước
Chúa", nếu hiểu là thiên đàng, là mối hiệp thông thần linh
với Thiên Chúa, cũng có cái xấu và sự dữ hay sao?
Ở đây, theo kẻ chia sẻ suy niệm lời Chúa hiểu, thì "Nước Chúa"
trên thế gian này có thể hiểu là chính mạc khải thần linh của
Thiên Chúa, một mạc khải được tỏ ra cho tất cả mọi người, như
hạt giống được gieo cả vào vệ đường, sỏi đá và bụi gai nữa, chứ
không phải chỉ vào đất tốt, và vì thế ai không chấp nhận mạc
khải thần linh của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, là ơn cứu độ của
Người, là Lòng Thương Xót Chúa, thì kể như họ không chấp nhận
Lòng Thương Xót Chúa, không chấp nhận ơn cứu độ của Ngài, do đó
tự họ loại mình ra khỏi "Nước Chúa".
Như
thế, dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình đây
bao gồm từ "thời điểm viên trọn"(Galata 4:4) của Chúa
Kitô Thiên Sai, qua suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Chúa Kitô,
cho đến tận thế là thời điểm chung cuộc. Dụ ngôn cỏ lùng trong
ruộng này là một dụ ngôn Chúa dẫn giải chẳng những để giúp
cho chúng ta hiểu
biết về thực tại Nước Trời mà còn khuyến dụ chúng ta hãy sống
thực
tại Nước Trời này nữa, ở chỗ hãy nhẫn
nhục chịu đựng gian nan khốn khó trong cuộc hành trình đức tin
của mình và luôn chờ đợi
bằng lòng tin
tưởng vào Đấng "sẽ
xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha
mong đợi Người"
(Do Thái 9:28).
Dụ ngôn
này đồng thời cũng cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa nhẫn nại
cho tới cùng, đối với cả kẻ dữ, và làm tất cả mọi sự cho lợi ích
của kẻ lành là lúa tốt, thậm chí bằng chính kẻ dữ là cỏ lùng.
Chính tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài cuối cùng sẽ thắng
vượt tất
cả trong Chúa Kitô
Thiên Sai, Đấng đã
vượt qua từ khổ giá đến phục sinh, và nếu kẻ dữ bị trừng phạt
xứng với tội ác của họ thì không phải là Ngài ra tay, cho bằng chính
họ
bị day dứt quằn quại trước tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài.
Trong Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy một Moisen, hình bóng của một Đức
Kitô Thiên sai giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết
mà đem vào đất hứa sự sống viên mãn, đang đóng vai trò là người gieo
lúa tốt trong thửa ruộng dân Chúa của mình, đồng
thời qua Moisen cũng cho thấy một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu
xót thương, ở
chỗ:
1- Di
chuyển nhà xếp giao ước cho lợi ích của dân:
"Trong những ngày ấy, Moisen hạ
nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là 'nhà
xếp giao ước'. Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp
ở ngoài trại".
2- Có
một hầu cận là mầm mống thừa kế của mình: "Chúa
đàm đạo cùng Moisen diện đối diện, như người ta quen đàm đạo với
bạn hữu mình. Khi ông trở về trại, thì người hầu cận ông là
Gioduệ,
con ông Nun, còn trẻ tuổi, không rời khỏi nhà xếp".
3- Cầu
khẩn cùng Chúa cho dân: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại,
đầy lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha
thứ gian ác, độc dữ và tội lỗi; trước mặt Chúa không ai coi mình
là vô tội. Sự gian ác tổ tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu đến ba
bốn đời".
4- Nhận
lãnh bia đá thập giới (lần hai) từ Thiên Chúa để trao lại cho
dân: "Vậy
ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không
uống nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia đá".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa một cảm nghiệm thần linh về một vị Thiên
Chúa chẳng những tỏ mình ra bề ngoài có vẻ uy nghi lừng lẫy mà
còn có một tấm lòng vô cùng nhân hậu xót thương đúng như những
gì Moisen đã cảm nhận trong Bài Đọc 1: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại,
đầy lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha
thứ gian ác, độc dữ và tội lỗi":
1) Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi
cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ
công cuộc Người cho con cái Israel.
2) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết
sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời
đời giữ thế căm hờn.
3) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không
trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh
vượt cao trên mặt đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế
trên kẻ kính sợ Người.
4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi
xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa
yêu thương những ai kính sợ Người.
Thứ Tư
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Xh
34, 29-35
"Thấy mặt ông Môsê, họ
sợ không dám đến gần".
Trích sách Xuất Hành.
Khi ông Môsê từ trên núi
Sinai đi xuống, ông mang hai bia đá chứng từ; và ông không biết
do sự đàm đạo với Chúa, mặt ông sáng láng rực rỡ. Nhưng ông
Aaron và con cái Israel thấy mặt ông Môsê sáng láng rực rỡ, thì
sợ không dám đến gần. Ông Môsê gọi họ, thì cả Aaron lẫn các thủ
lãnh hội đường mới quay lại. Sau khi ông nói chuyện với họ, tất
cả con cái Israel mới đến gần ông. Ông truyền lại cho họ tất cả
những điều ông đã nghe Chúa phán trên núi Sinai. Nói xong, ông
lấy khăn che mặt mình. Khi ông vào trước mặt Chúa và đàm đạo với
Người, thì ông cất khăn cho đến lúc ông trở ra và bấy giờ ông
thuật lại cho con cái Israel những điều Chúa đã truyền dạy ông.
Lúc ông Môsê ra đi, họ thấy mặt ông sáng láng rực rỡ; nhưng khi
ông nói với họ, ông che mặt ông lại.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 98, 5. 6. 7. 9
Ðáp: Thiên
Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh (c. 9c).
Xướng: 1) Hãy cao rao Chúa
là Thiên Chúa chúng ta. Hãy sấp mình dưới bệ kê chân Người; đây
là bệ ngọc chí thánh. - Ðáp.
2) Trong hàng tư tế của
Người có Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh
Người. Các ông kêu cầu Chúa và chính Người nhậm lời các ông. -
Ðáp.
3) Trong cột mây, bấy giờ
Người phán bảo; các ông đã nghe những huấn lệnh của Người, và
chỉ thị Người đã truyền cho các ông giữ. - Ðáp.
4) Hãy cao rao Chúa là
Thiên Chúng chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Người: vì
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 44-46
"Anh bán tất cả những gì
anh có mà mua thửa ruộng đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu
trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng
trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước
trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một
viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
Ðó là lời Chúa.
Kho tàng ơn gọi và viên ngọc đẫm máu
Hôm
nay, Thứ Tư Tuần
XVIIThường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu tiếp tục ghi
lại một cặp dụ ngôn nữa về Nước Trời được Chúa Kitô diễn tả để
mạc khải cho dân Do Thái nói chung và cho các môn đệ của Người
nói riêng biết.
"Nước
Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người
kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả
những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy".
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm
ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả
những gì mình có mà mua viên ngọc ấy".
Hai dụ ngôn về Nước Trời này có liên hệ hết sức mật thiết với
nhau bất khả phân ly, có
tính cách tu đức hơn là thần học. Ở
chỗ, một đàng thì "kho
báu trong ruộng" được
tìm thấy,
một đàng thì đi tìm
được: "viên ngọc quí". Một đàng
thụ động: "kho
báu trong ruộng" và một đàng chủ động: "đi
tìm ngọc đẹp".
Cặp dụ
ngôn thứ hai về Nước Trời này, như cặp dụ ngôn thứ nhất trong
bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, không được Chúa Giêsu giải thích
cho biết. Tuy nhiên, căn cứ vào đường lối suy diễn như ở cặp dụ
ngôn thứ nhất, nhờ căn cứ vào Chúa
Kitô như là chính Nước Trời thì cặp dụ
ngôn thứ hai về Nước Trời hay về Chúa Kitô có thể suy diễn như
sau.
Dầu sao cũng cần
phải nhớ rằng cặp dụ ngôn thứ hai này Chúa Giêsu nói riêng với
các tông đồ chứ không phải chung cho dân chúng như cặp dụ ngôn
thứ nhất. Vì Người nói ngày sau khi dẫn
giải dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng lúa tốt cho các môn đệ là thành
phần xin Người giải thích "sau khi giải
tán dân chúng, Người đã về
nhà...".
Trước hết, "Nước Trời giống như chuyện kho báu
chôn giấu trong ruộng" - Phải chăng Chúa Giêsu có ý nói rằng
Người chính là kho báu được chôn giấu trong ruộng, mà "ruộng
là thế gian" (theo chính lời Chúa Giêsu giải thích trong
bài Phúc Âm hôm qua), nên Chúa Giêsu vẫn là những gì quí báu
nhất trên trần gian này mà ít người biết tới như thể kho tàng
quí báu ấy bị chôn giấu
đi vậy?
"Có
người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán
tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy"
- Nghĩa là cho dù kho tàng ấy ít ai
biết đến như bị che giấu đi như thế,
ai mà gặp
được, chẳng hạn thành phần bé mọn được Cha
tỏ ra cho (xem Mathêu 11:25), thì họ chẳng còn tiếc gì nữa, sẵn
sàng từ bỏ mọi sự mà mua thửa ruộng có kho
tàng này, chứ không phải
mua chính kho tàng, vì mua cả thửa ruộng
thì tất nhiên có được kho báu trong đó nữa.
Đúng thế, nếu Chúa Kitô đã cứu chuộc thế gian
thì ai tìm gặp Người
cũng quí chuộng ơn cứu chuộc của Người và tìm hết cách để
cứu lấy thế gian, và khi họ đã dám hy sinh tất cả mọi
sự của họ cho phần
rỗi của tha
nhân trên thế gian này là
họ có được tất cả Chúa Kitô là kho
tàng chôn trong thửa ruộng được họ tậu lấy vậy. Theo ý
nghĩa ấy thì quả thực dụ ngôn kho tàng trong ruộng này liên
quan đến ơn gọi theo Chúa của các tông đồ, thành phần môn đệ
chứng nhân tiên khởi của
Người.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi
tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán
tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy". Phải chăng
"một thương gia đi tìm ngọc đẹp" đây chính là Chúa
Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư
hoại" (Luca 19:10), nhưng đối với Người "những gì hư
hoại" ấy, như con chiên lạc thứ 100 hay đồng tiền thất
lạc (xem Luca 15:4,8) lại rất quí báu, đến độ Người đã phải
từ trời xuống thế để tìm kiếm.
Như thế có nghĩa là con người ta là "một viên ngọc quí"
đã được Thiên Chúa tìm thấy và đã thực sự "mua viên ngọc
ấy" bằng
chính máu thánh vô giá của Người, bằng chính sự sống hy hiến
của Người (xem Gioan 17:19; Mathêu 20:28)? Dụ ngôn này cũng
liên quan đến vai trò của các tông đồ chẳng những trong sứ
vụ thừa sai nhân chứng mà còn trong cả thừa tác vụ ban
phát ân sủng và sự sống thần linh cho các linh hồn nữa.
Cặp dụ ngôn về "kho tàng chôn giấu trong ruộng" và
"viên ngọc quí" được thương gia tìm thấy đây như
thế có thể hiểu "kho tàng" là chính Ơn Cứu Độ vô
cùng quí giá của Chúa Kitô, và "viên ngọc quí"
chính là phần rỗi vô cùng quan trọng của các linh hồn. Cả "kho
tàng" Ơn Cứu Độ và "viên ngọc"
Phần Rỗi này đều phải được đánh đổi bằng tất cả những gì có
được của những ai được kêu gọi làm chứng nhân tông đồ của
Chúa Kitô như Kitô hữu chúng ta.
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy "rằng
da mặt Moisen sáng
chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa... Con
cái Israel nhìn mặt ông Moisen thấy
da mặt ông sáng chói; ông Moisen lại lấy khăn che mặt, cho
đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa".
Nội
dung của Bài Đọc 1 này có liên hệ gì với cặp dụ ngôn trong
bài Phúc Âm hôm nay hay chăng? Xin thưa, tất nhiên là có. Ở
chỗ nào? Ở chỗ khi được gần gũi với "Thiên Chúa là ánh
sáng" (1Gioan 1:5), con người cần phải trở thành
phản ánh của Ngài, như Chúa Kitô "là phản ánh vinh hiển
của Cha" (Do Thái 1:3).
Như thế, một khi kho tàng
thần linh trong thửa ruộng thế gian là Chúa Kitô thuộc về
ai, có nghĩa là họ được hiệp nhất nên một với Người, thì
tất cả đời sống và con người của họ trở thành phản ảnh
Người, (như
mặt Moisen phản ảnh vinh quang Thiên Chúa nhờ gặp gỡ Thiên
Chúa), bởi họ đã
dám hy
sinh tất cả để mua lấy tất cả thuở ruộng thế gian đã được Người
cứu
chuộc, đến độ Chúa Kitô sống trong họ để tiếp tục công cuộc
cứu chuộc của Người cho đến tận thế, cho đến khi Người
lại đến trong vinh quang.
Nhờ đó,
họ phản ảnh một Chúa
Kitô nhân
hậu đi tìm kiếm viên
ngọc quí là
phần rỗi của các linh hồn, qua sứ vụ chứng
nhân và
tinh thần tông đồ truyền giáo của họ như
Chúa Kitô.
Bài Đáp
Ca hôm nay bao gồm nhận thức thần linh về Vị Thiên Chúa
Thánh Hảo, Đấng tỏ mình ra cho những ai cầu khẩn Danh Ngài
và tuân hành các thánh chỉ của Ngài, vì Ngài là Đấng Thánh:
1- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, phủ phục trước bệ
rồng, bởi Người là Đấng Thánh.
2- Moisen cùng Aaron trong hàng tư tế Chúa, cũng như Samuel
trong số người cầu khẩn Thánh Danh! Các ngài cầu khẩn Chúa, Chúa
thương đáp lại.
3- Từ cột mây, Chúa phán dạy các ngài, các ngài đã tuân hành
thánh ý, và chiếu chỉ Người ban.
4- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hướng về núi thánh
mà phủ phục, vì Chúa, Thiên Chúa ta thờ, quả thật là Đấng Thánh.
Thứ Năm
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Xh
40, 14-19. 32-36
"Một đám mây che phủ
nhà xếp chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê
thi hành tất cả những điều Chúa đã truyền dạy. Vậy ngày mùng một
tháng Giêng năm thứ hai, đã dựng nhà xếp xong. Ông Môsê đã dựng
nhà xếp, lắp ván, đặt trụ, xà ngang và dựng cột, rồi căng mái
nhà xếp và màn che trên mái như Chúa đã truyền dạy. Ông đặt bia
chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán dạy
trên hòm. Khi đã rước hòm bia vào nhà xếp, ông treo màn trước
hòm để hoàn tất lời Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi việc đã hoàn
tất, thì có một đám mây bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh quang
của Chúa tràn ngập nhà xếp.
Vì mây che phủ nhà xếp, và
uy linh Chúa sáng rực trong nhà, nên ông Môsê không thể vào
trong nhà giao ước, vì có đám mây che phủ mọi sự. Hễ mây lên
khỏi nhà xếp, thì con cái Israel kéo nhau đi từng đám, còn khi
mây che phủ nhà xếp, thì họ ở lại tại chỗ. Vì ban ngày, đám mây
của Chúa che phủ nhà xếp, và ban đêm, có lửa trong mây, nên toàn
dân Israel trông thấy suốt thời gian xuất hành của họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 83, 3. 4. 5-6a và 8a. 11
Ðáp: Ôi
Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn con
khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm
thần và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
- Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn
kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con
mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi
Ðại vương là Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức
ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc
thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng
hái. - Ðáp.
4) Thực một ngày sống
trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác.
Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư ngụ trong lều bọn
ác nhân. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 47-53
"Người ta lựa cá tốt bỏ
vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới
biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi
ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném
ra ngoài. Ðến ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến
mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào
lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu
những điều đó không?" Họ thưa: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi
thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như
chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi
Chúa Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
Ðó là lời Chúa.
thế gian biển cả - thừa sai mạng lưới
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XVII
Thường Niên hôm nay ghi lại dụ ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu về
Nước Trời trong Phúc Âm Thánh Ký Mathêu ở đoạn 13.
"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ
cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá
tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận
thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra
khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải
khóc lóc nghiến răng".
Cũng như
cặp dụ ngôn thứ hai trong bài Phúc Âm hôm qua, dụ ngôn cuối cùng
về Nước Trời này cũng không được Chúa Giêsu giải thích gì hết về
những hình ảnh Người sử dụng. Lý do Người không giải thích gì
hết là vì các môn đệ của Người không yêu cầu Người giải thích
như ở dụ ngôn người gieo giống ra đi gieo giống và người gieo
giống tốt
trong ruộng của mình. Thậm chí khi được Người hỏi: "'Các
con có hiểu những điều đó không?' Họ thưa: 'Có'".
Sở
dĩ các môn đệ nói "có" hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước
Trời này có thể là vì nội dung của dụ ngôn này cũng giống như dụ
ngôn cỏ lùng trong ruộng. Đúng thế, dụ ngôn cuối cùng về Nước
Trời này
cũng
liên quan đến hai loại tốt và xấu. Nếu dụ ngôn người gieo giống
tốt trong ruộng của mình bao gồm lúa tốt và cỏ xấu, thì dụ ngôn
cuối cùng này liên
quan đến cá tốt và cá xấu.
Tuy nhiên, không biết các môn đệ của Chúa Giêsu bấy giờ đã hiểu
dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này như thế nào, chẳng hạn "lưới
thả dưới biển" ám chỉ những gì, và ý nghĩa chính yếu của dụ
ngôn này là chi, phần chúng ta, vẫn cần tìm hiểu xem những gì
còn mập mờ trong dụ ngôn này. Vậy, dựa
theo đường hướng Nước Trời ám chỉ Chúa Kitô, và dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn được Thánh ký Mathêu ghi lại ở Đoạn 13 này
là dụ ngôn Chúa Giêsu nói riêng với các môn đệ thì chúng ta có
thể suy diễn như sau:
"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá".
Nếu đây là
dụ ngôn cuối cùng trong loạt dụ ngôn về Nước Trời được Thánh ký
Mathêu thuật lại ở đoạn 13, và cũng là dụ ngôn được Chúa Giêsu
nói riêng với các tông đồ, thì dụ ngôn này gợi lại hình ảnh 7
tông đồ đi đánh cá ở Biển Hồ Tibêria sau 2 lần Chúa Kitô Phục
Sinh đã hiện ra với các vị (xem Gioan 21:1-14).
Nếu "ruộng"
là nơi có cả "lúa tốt" lẫn "cỏ lùng" trong
dụ ngôn "người gieo giống tốt trong ruộng của mình" là "thế
gian" thì "biển" trong dụ ngôn này cũng có thể ám chỉ
"thế gian", nơi có cả "cá tốt" là
"người lành" lẫn
"cá xấu" là
"kẻ dữ".
Vậy
"lưới thả dưới biển" đây phải chăng chính là thành phần
thừa sai được Chúa
Kitô Phục
Sinh truyền lệnh: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất.
Bởi vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân
nước. Hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Hãy
dạy cho họ thi hành tất cả những gì Thày đã truyền cho các con"
(Mathêu 28:19)?
"Lưới
đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì
bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Nếu "lưới
thả dưới biển" đây ám chỉ thành phần thừa sai truyền
giáo của Giáo Hội Chúa Kitô, tức là liên quan đặc biệt đến
dân ngoại, thành phần chính yếu làm nên Giáo Hội Chúa Kitô,
không phải dân Do Thái, thì "lưới đầy" ở đây
phải chăng có nghĩa là "đủ số dân ngoại" (Roma
11:25), và chỉ khi nào "đủ số dân ngoại" bấy giờ mới
có chuyện "người
ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào
giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài", đúng
như ấn định
cứu độ của Chúa Kitô: "Các
con hãy đi khắp thế gian mà loan báo tin mừng cho tất cả mọi
tạo vật. Ai chấp nhận tin
mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ; người nào không chấp
nhận tin mừng thì sẽ bị luận phạt"
(Marco 16:15-16).
"Đến
ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ
dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ
phải khóc lóc nghiến răng".
Như thế thì
vấn đề "đủ số dân ngoại" là dấu hiệu ngày cùng tháng tận,
là dấu hiệu "đến
ngày tận thế", thời điểm
chung thẩm cho số phận đời đời giữa chiên và dê (xem Mathêu
25:31-46), thời điểm "các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném
những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng", cũng
như các vị ở trong dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng đã làm vậy: "Thợ
gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi
thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như
vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và
mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào
lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng
chói như mặt trời trong nước của Cha mình".
Đúng thế,
việc thanh lọc cuối cùng chính yếu là để "tách
biệt kẻ dữ ra khỏi người lành", nhờ đó,
thành phần đã từng là nạn nhân của kẻ dữ, đã trải qua gian nan
khốn khó trên đời "bấy
giờ sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", thành
phần ngay trong cuộc hành trình đức tin của họ đã phản ảnh được
Vị Thiên Chúa là Đấng luôn ở cùng họ, và họ đã trở thành nơi tỏ
hiện vinh quang của Thiên Chúa, như nhà xếp trong Bài Đọc 1.
Phải, Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến việc thiết dựng
nhà xếp, nơi Moisen "đặt
bia chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán
dạy trên hòm",
và
cũng là nơi tỏ hiện vinh quang của một Vị Thiên
Chúa ẩn ngự: "Khi
đã rước hòm bia vào nhà xếp, ông treo màn trước hòm để hoàn tất
lời Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, thì có một
đám mây bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn
ngập nhà xếp".
Cảm nghiệm
thần linh của
kẻ
lành lúc nào cũng cảm thấy khao khát thần linh và mong được ở
với Đấng duy nhất có thể thỏa đáng lòng của họ, được diễn tả qua
Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà
Chúa. Tâm thần và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa
trường sinh.
2) Đến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ
ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là
Thiên Chúa thiên binh, ôi Đại vương là Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen
ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ
tiến lên ngày càng thêm hăng hái.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn
ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa,
hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân.
Ngày 29 tháng 7
Thánh nữ Mác-ta
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Mác-ta là chị của cô Ma-ri-a và ông La-da-rô ở
Bê-ta-ni-a. Trong sách Tin Mừng, thánh nữ xuất hiện ba lần :
lần thứ nhất trong bữa ăn ở Bê-ta-ni-a, khi cùng với cô em
là Ma-ri-a tiếp đãi Đức Giê-su ; lần thứ hai khi ông
La-da-rô được Chúa cho phục sinh, lúc đó thánh nữ đã tuyên
xưng lòng tin vào Chúa Giê-su ; và lần cuối trong bữa tiệc
đãi Chúa Giê-su sáu ngày trước lễ Vượt Qua. Trong cả ba câu
chuyện, ta luôn thấy thánh nữ đóng vai trò chủ nhà.
Bài đọc 2
Lời Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, nhắc nhở chúng ta
phải hướng về một mục đích, khi gánh vác trăm công ngàn
việc ở đời này. Chúng ta hướng về đó bao lâu còn là lữ
khách, chứ chưa phải là cư dân, bao lâu còn ở trên
đường, chứ chưa vào quê thật, bao lâu còn đang phải ước
ao, chứ chưa được vui hưởng. Thế nên chúng ta phải hướng
về đó, hướng về đó mà không lơ là và cũng không ngơi, để
ngày kia chúng ta đạt tới đích.
Cô Mác-ta và cô Ma-ri-a là hai chị em, chẳng những là
chị em về huyết nhục, mà còn là chị em trong đức tin. Cả
hai đều khắng khít với Chúa ; cả hai đều một lòng phục
vụ Chúa lúc Người còn sống trong xác phàm. Cô Mác-ta đón
tiếp Người như người ta quen đón tiếp lữ khách. Nhưng
đây là nữ tỳ đón tiếp Chúa, người bệnh nhân đón tiếp
Đấng Cứu Chữa, thụ tạo đón tiếp Đấng Tạo Thành. Cô lấy
cơm bánh để phục vụ Đấng sẽ lấy Thần Khí mà nuôi cô. Vì
Chúa đã muốn nhận lấy thân phận tôi đòi, và một khi đã
nhận lấy thân phận tôi đòi, thì Người muốn được các tôi
tớ nuôi dưỡng không phải vì địa vị, nhưng là vì tình
thương. Bởi chưng chấp nhận cho người ta nuôi dưỡng
mình, đó là yêu thương. Chúa mang xác phàm, nên Người
biết đói biết khát.
Thế là Chúa được đón tiếp như khách quý. Người
đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận ;
còn những ai đón nhận, thì Người cho họ quyền trở nên
con Thiên Chúa. Người đón nhận tôi tớ khiến họ thành
anh em, Người cứu chuộc kẻ tù đày, cho họ được đồng thừa
tự. Thế nhưng, đừng có ai trong anh em lại nói : Phúc
thay ai được đón Chúa Ki-tô vào nhà mình. Bạn chớ
buồn phiền, đừng than vãn vì bạn được sinh ra vào thời
mà bạn không nhìn thấy Chúa trong xác phàm. Người không
để bạn mất vinh dự ấy đâu. Người nói : Mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta
vậy.
Thưa chị Mác-ta, xin cho phép tôi nói, chị được chúc
phúc vì đã tận tâm phục vụ. Phần thưởng chị tìm cho công
khó của chị là được nghỉ ngơi. Bây giờ chị lo toan đủ
điều, chị muốn nuôi dưỡng các thân xác phải chết, cho dù
là của các vị thánh. Nhưng ngày kia, khi chị vào được
quê trời, liệu chị có còn gặp người lữ khách nào để đón
tiếp, người đói nào để bẻ bánh cho ăn, người khát nào để
cho uống, người bệnh nào để thăm nom, người tranh chấp
nào để hoà giải, người chết nào để chôn cất không ?
Trên quê trời, sẽ chẳng còn bất cứ sự gì như thế, nhưng
sẽ có gì ? Thưa có điều cô Ma-ri-a đã chọn. Ở đó, chúng
ta được nuôi, chứ không phải nuôi người khác. Vì vậy,
trên quê trời, điều cô Ma-ri-a đã chọn sẽ viên mãn và
thành toàn : từ bàn tiệc thịnh soạn của lời Chúa, cô đã
từng thu lượm những mảnh vụn. Vậy bạn có muốn biết điều
gì sẽ xảy ra trên quê trời không ? Chính Chúa đã nói về
các tôi tớ của Người rằng : Thầy
bảo thật anh em, chủ sẽ đưa họ vào bàn ăn, và đến bên
từng người mà phục vụ.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xưa Con Một Chúa đã
nhậm lời mời và đến trú ngụ tại nhà thánh nữ Mác-ta. Nhờ
lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng
con hết tình phục vụ Đức Ki-tô hiện diện trong mọi
người, để mai sau được Chúa đón nhận vào nhà Chúa. Chúng
con cầu xin
Lễ Thánh Nữ Matta, chị của Maria và
Ladarô, được cử hành tám ngày sau lễ kính Thánh Nữ
Maria Mađalêna và đã phổ biến dưới thời Trung Cổ do
ảnh hưởng cuốn Các truyền thuyết ở Pronvence. Tuy
nhiên thật đáng tiếc vì không có một lễ chung kính
ba vị thánh của Bêtania như trong phụng vụ dòng Phan
Sinh ở thế kỷ XVIII và trong niên lịch dòng Biển Đức
vốn vẫn thường mừng vào ngày 2 tháng Chín. Cho đến
ngày 2/2/2021, ĐTC Phanxicô đã biến lễ nhớ Thánh
Matta hằng năm ngày 29/7 thành lễ 3 vị thánh chị em
Matta, Maria và Lazarô:
Decree on the Celebration
of Saints Martha, Mary and Lazarus in the General
Roman Calendar (26 January 2021)
/
pope-francis-adds-feast-of-martha-mary-and-lazarus-to-church-calendar
Quyển Cuộc đời Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII)
có kể lại một truyền thuyết rằng ba chị em Matta,
Maria, Ladarô đã bị người Do Thái tống xuống một
chiếc thuyền nhỏ không buồm, nhưng đã lên bờ được ở
Marseille và tại đây bà Matta được đặc biệt kính
trọng. Còn theo những truyền thuyết khác thì Thánh
Nữ Matta đã truyền giáo ở miền Provence và đã giải
thoát miền này khỏi một con quái vật tên là
Tarasque. Người ta thấy sự tích đó được khắc trong
Nhà thờ Thánh Nữ Matta (thế kỷ XII) ở Tarascon.
Thứ Sáu
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Lv
23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
"Các ngươi phải kể
những ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày
thánh".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng:
"Ðây là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong
thời gian của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua
của Chúa; và ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men
của Chúa: Các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày
thứ nhất, các ngươi phải kể là ngày rất trọng thể, và là ngày
thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy".
Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy lễ dâng lên Chúa. Ngày
thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh hơn, các ngươi không
làm việc xác nào trong ngày ấy".
Chúa lại phán cùng Môsê
rằng: "Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các
ngươi đã tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi
gặt lúa, thì phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ
giơ bó lúa lên trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin
Chúa chấp nhận cho các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy
tính từ hôm sau ngày sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa
đầu mùa, các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối
tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày, thì các ngươi phải dâng của
lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười tháng Bảy, là ngày đền tội rất
trọng thể, gọi là ngày thánh: trong ngày đó, các ngươi phải hãm
dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa. Từ ngày mười
lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa trong bảy ngày. Ngày
thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất thánh, các ngươi
không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong bảy ngày, các
ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ tám cũng
rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn
thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không
nên làm mọi việc xác trong ngày ấy.
"Ðó là những ngày lễ của
Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất
thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật,
của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
Ðáp: Hãy
reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Hãy hoà nhạc và
đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy
rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày
đại lễ của chúng ta. - Ðáp.
2) Vì đó là điều đã thiết
lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người
đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa
xa Ai-cập. - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một
chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai:
vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài
Ai-cập. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 13, 54-58
"Nào ông chẳng phải là
con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về
quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến
người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn
ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con
bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê,
Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông,
nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông
được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng
họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê
quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ
chẳng có lòng tin.
Ðó là lời Chúa.
Loại đồng hương hạt giống bụi gai
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, được
Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện: "Chúa
Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội
đường, khiến người ta ngạc nhiên".
Thế
nhưng, cái ngạc nhiên của họ mang tích cách tiêu cực (ngờ vực) hơn
là tính
cách tích
cực (nhận
biết), bởi thế, họ đã tỏ ra hết sức thắc mắc với đầy những nghi
vấn như sau:
"'Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như
vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng
phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là
anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi
chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?' Và họ vấp phạm
đến Người".
Thái độ
tiêu cực gần
như tẩy chay Chúa Giêsu của
dân làng Người cũng là chuyện dễ hiểu theo tâm lý tự nhiên, vì
họ đã từng biết Người từ hồi còn nhỏ, một con người ra sao trong
làng, có cha mẹ và thân thuộc như thế nào. Bởi thế, "Chúa
Giêsu phán cùng họ rằng: 'Không tiên tri nào mà không được vinh
dự, trừ nơi quê quán và nhà mình'".
Nếu
căn cứ vào 1 trong 4 loại môi trường ở dụ ngôn "người gieo
giống ra đi gieo giống" nơi Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước
(xem Mathêu 13:18-23), thì dân làng của Người không thuộc
loại "hạt rơi trên
vệ đường",
vì họ cũng hào hứng nghe Người chứ không đến nỗi hững hờ
chẳng để ý hay thiết tha gì; họ cũng không phải là "hạt rơi
trên đá
sỏi"
vì
họ đâu có
chấp nhận Người
nên không đâm rễ tí nào hết, mà là "hạt rơi vào bụi gai" đã
bị chết nghẹt gây ra bởi các lo âu ngờ vực của họ. Do đó bài
Phúc Âm mới kết luận: "Người
không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin".
Thật
ra, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan thì "là ánh sáng
thế gian" (8:12) mà đã là ánh sáng thì không thể không soi
chiếu mà còn là ánh sáng, Chúa
Kitô cần
phải tự động tỏ
mình ra để
nhờ đó người ta mới có thể nhận biết người và tin
tưởng Người,
hơn là cứ phải có đức tin mới làm phép lạ, mới tỏ mình ra sau.
Tuy nhiên,
trong trường hợp dân làng của Người trong bài Phúc Âm hôm
nay đã được Người tỏ mình ra cho họ rồi, đến nỗi đã khiến họ
phải bàng hoàng ngỡ ngàng: "Bởi
đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?", thế
mà họ vẫn không tin. Chính thành kiến tự nhiên về Người đã
là một trở ngại khổng lồ chắn lối đức tin của
dân làng Người.
Bài Đọc
1 cho năm
lẻ hôm
nay được trích từ Sách Lêvi, bởi vì nội dung của bài đọc liên
quan đến các ngày lễ trong năm được coi là ngày thánh mà
Dân Do Thái cần phải cẩn
thận cử
hành theo qui định
của Thiên Chúa, đặc biệt và chính yếu nhất là Lễ Vượt Qua, "ngày
mười bốn tháng Giêng", sau đó,
theo thời gian trong năm, đến Ngày Lễ Ngũ Tuần:
"từ
hôm sau ngày sabbat,... các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày
hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày", tới
Lễ Đền Tội "ngày
mùng mười tháng Bảy",
và
sau cùng là Lễ Lều Tạm (Nhà Xếp) "ngày
mười lăm tháng Bảy": "Đó
là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất
trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng
lên Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của
mỗi ngày".
Bài Đọc
1 về các ngày lễ của dân Do Thái và
Bài Phúc Âm về
sự kiện dân làng của Chúa Kitô không tin tưởng vào Người có liên
hệ gì tới nhau hay chăng? Nếu không - tại sao? Nếu có - ở chỗ
nào?
Nếu tất cả
mọi ngày lễ của Dân Do Thái là để họ tưởng nhớ đến Thiên
Chúa, Đấng đã tuyển chọn họ và hằng tỏ mình ra cho họ vào những
thời điểm đặc biệt trong giòng lịch sử cứu độ của họ, cho tới "thời điểm
viên trọn, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh hạ bởi một người nữ,
sinh ra theo lề luật"
(Galata 4:4), nghĩa
là tất cả lịch sử cứu độ đều
hướng về Chúa Kitô và về
"thời điểm
viên
trọn" của
Người, thì
dân của Ngài cần phải tin vào Con Ngài mới được cứu độ, thế
nhưng họ đã không tin, hay đúng hơn chưa tin Người được, chỉ vì
Con của Ngài, của một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả và toàn
hảo, lại được "sinh hạ bởi
một
người nữ"
ngay trong làng của họ.
Tuy nhiên,
không phải bị dân làng tẩy chay bất chấp mà Chúa Kitô không phải
là Con Thiên Chúa nữa, không còn là Đấng Thiên Sai nữa, Đấng duy
nhất có thể cứu họ cùng toàn thể nhân loại khỏi tội lỗi và sự
chết, Đấng một khi được nhận biết thì Người chính là một tin
mừng cần phải được đón nhận, và là một đại lễ cần phải hân hoan
long trọng cử hành của mình thì dân Do Thái sẽ
không thể nào không cảm
thấy hớn hở như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1) Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng
với thất huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong
buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng ta.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của
Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse,
khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng
thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của
ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.
THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN, GIÁM MỤC TIẾN SĨ
(30/7)
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Phêrô có biệt hiệu là Chrysôlôgô (nghĩa là kim ngôn). Lý
do bởi vì ngài có biệt tài hết sức nổi tiếng về hùng biện trong
việc rao giảng Lời Chúa.
Ngài sinh vào khoảng năm 405, tại miền Imola, nước Ý. Đức Giám
mục giáo phận Imola là Cornêliô phong chức phó tế cho Ngài. Dưới
sự hướng dẫn của Đức giám mục, Ngài thực hiện những bước tiến lạ
lùng trên con đường trong tu viện.
Năm 430, Đức tổng giám mục Gioan của giáo phận Ravenna từ trần.
Trong khi tìm vị chủ chăn mới, hàng giáo sĩ và giáo dân đã xin
Đức giám mục Iomola nhập đoàn phải họ để đi Roma yết kiến Đức
giáo hoàng Sixtô III coi Phêrô như người được tiền cử để làm
giám mục Ravenna. Ngài liền đặt Phêrô làm giám mục Ravenna, kế
vị Đức giám mục Gioan năm 433. Các đại biểu của Giáo phận này
lúc đầu tỏ ý bất bình, nhưng rồi đã đổi thái độ khi được đức
giáo hoàng Sixtô III cho biết thị kiến của mình.
Vâng theo ý Chúa, Phêrô thụ phong giám mục và trở về Ravenna.
Trong bầu khí tiếp đón nồng nhiệt, Ngài nói:
- Tôi đến với anh chị em như một y sĩ đến chữa trị, như một mục
tử để dẫn dắt, như một người mẹ để nuôi dưỡng, như một người cha
để bảo vệ và chăm sóc phần rỗi đời đời của anh chị em. Vậy anh
chị em hãy mau mắn vâng phục cách thích đáng đối với tác vụ rất
thánh của tôi.
Đầy nhiệt thành bứng rễ các việc thờ ngẫu tượng còn rớt lại,
cũng như lên án sự giả hình của giáo dân. Trong một cuộc lễ vào
đầu năm, Ngài đã phá những cuộc diễn hành không được lành mạnh
trên đường phố:
- Ai muốn vui chơi với ma quỉ thì không thể vui hưởng với Chúa
Kitô.
Ngài đã nhiệt tâm rao giảng.
Ngày nay chúng ta còn giữ lại được khoảng 180 bài giảng của
Ngài. Lời lẽ đơn sơ nhưng đầy nhiệt huyết. Người ta không thể
quên được những lời như:
- Nằm trong thói hư tật xấu, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chúng ta
sẽ thực sự đứng thẳng khi biết chỗi dậy để tiến thẳng tới bằng
các việc lành.
- Ai biết tìm kiếm trong đức tin, sẽ thấy ngay rằng là Cha đang
ở đó, vì họ.
- Mọi sự dữ cha mẹ làm cho con cái, Thiên Chúa là Cha hết người
sẽ trả lại cho họ.
- Các tiền nhân sống cho chúng ta. Chúng ta sống cho thế hệ mai
sau. Không ai sống cho mình cả.
Người ta cũng còn nhớ lời Ngài kêu gọi sống bác ái:
- Biết nói sao về niềm tin lễ Giáng sinh, nếu người nghèo than
khóc tù nhân rên siết, dân tị nạn than thở, người lưu đày thổn
thức, người Do thái mừng lễ bằng thuế thập phân, còn người Kitô
hữu nghĩ sao khi họ không mừng bằng một phần trăm của cải ? Tôi
đau buồn, phải, tôi đau buồn vì các đạo sĩ trải vàng trên nôi
Chúa Kitô trong khi các Kitô hữu để cho thân thể Chúa Kitô trống
trải, khi mà những người nghèo than khóc. Đừng nói rằng tôi
không có gì. Thiên Chúa muốn xin cái anh em có chứ không phải
cái anh chị em không có, khi mà Ngài thương nhận hai đồng tiền
của bà góa. Hãy tận tâm với Đấng tạo thành và tạo vật cũng sẽ
tận tâm với anh chị em.
Thánh Phêrô Chrysôlôgô đã trở thành danh tiếng, đến nỗi Đức giáo
hoàng Lêô I đã trao cho Ngài đọc tại công đồng Chalcedonia một
luận án chống lại lạc thuyết của Eutychèr, Ngài cũng còn viết
một bức thư cho kẻ lạc giáo này để khuyên ông ta vâng phục Giáo
hội.
Sau cùng, sau khi cai quản giáo phận Ravenna trong 18 năm, thánh
giám mục biết rằng mình sắp tới hồi kết thúc các nỗ lực. Ngài
muốn lui về Imola để dọn mình chết. Ngày 3 tháng 12 năm 450 Ngài
đã từ trần và năm 1729 được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh.
II. BÀI HỌC
Khi bắt đầu cuộc đời Giám Mục thánh Phêrô Kim Ngôn đã rất
thẳng thắn chia sẻ với giáo dân của ngài những lời rất chân
thành và cảm động như sau:
“Tôi đến với anh chị em như một y sĩ đến chữa trị, như một
mục tử để dẫn dắt, như một người mẹ để nuôi dưỡng, như một
người cha để bảo vệ và chăm sóc phần rỗi đời đời của anh chị
em”
Chúng ta có thể coi đây là châm
ngôn hay đường lối của
ngài trong mối tương quan đối với mọi người và quả thực ngài
đã luôn sống như thế. Ngài không đến để cai trị, để thống
trị nhưng đến để phục
vụ như
một y sĩ, như một mục tử, như một người mẹ như một người cha
Công việc phục vụ là chữa
trị, là dẫn dắt, là nuôi dưỡng là chăm sóc bảo vệ. Toàn
là nhưng công việc vất vả. Thế nhưng đó là công việc làm nên
vinh quang cho người môn đệ của Thầy Chí thánh Giêsu.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-30-07-thanh-phero-kim-ngongiam-muc-tien-si-hoi-thanh-36360
Thánh vịnh 36 có đoạn viết rằng: “Miệng người
công chính niệm lẽ khôn ngoan và lưỡi họ nói lên
điều chính trực: luật Thiên Chúa họ ghi tạc vào
lòng” (Tv 36. 30-31). Thánh Phêrô Kim Ngôn được
Thiên Chúa tuyển chọn lên hàng giám mục. Ngài đã
sống hết mình cho Chúa và các linh hồn.
ĐỜI THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN:
Thánh Phêrô Kim Ngôn sinh tại Forum Cornelii
miền Emilia nước Ý năm 405 trong một gia đình
giầu sang phú quí và đầy thế giá. Chúa đã chọn
Ngài như lời sách Thánh nói: “Chúa đã cho người
lên tiếng giữa cộng đoàn, ban cho người đầy tinh
thần khôn ngoan minh mẫn và mặc cho người áo
vinh quang” (Hc 15, 5). Thánh nhân đã có lòng
đạo đức và thực tập các nhân đức ngay từ khi còn
nhỏ. Ngài đã trao dồi kiến thức triết học thần
học và kiến thức thánh. Năm 433, thánh nhân được
cắt đặt làm tổng giám mục Ravenne. Thánh nhân có
tài hùng biện, có khoa ăn nói rất thuyết phục,
nên nhiều người đã ghép thêm cho Ngài Chrysôlôgô
để tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục Ngài. Lời của
Ngài nói ra có giá trị như vàng và Ngài rất có
uy tín đối với mọi người vì các lời nói đầy vẻ
thuyết phục và lôi cuốn con người tới với Thiên
Chúa. Thánh nhân có lòng cương quyết đối với sự
giữ đạo bề ngoài và giả dối của nhiều giáo dân.
Thánh nhân đã để lại 180 bài giảng thuyết rất có
giá trị với lời văn đơn sơ, nhẹ nhàng. Đây là
những bài huấn đức gọn dựa trên nền tảng Thánh
Kinh và phụng vụ giúp con người sống phù hợp với
Tin Mừng. Thánh nhân đã không dùng những từ ngữ
cao sâu như thánh Augustinô, như
Toma hay như thánh Lêô. Ngài đã viết có tính
cách đại đồnng cho mọi người, khiến ai đọc cũng
có thể hiểu cách dễ dàng. Thánh nhân đã thường
nói: “Lời lẽ của tôi đã được chôn vùi với Đức
Kitô”.
THÁNH PHÊRÔ KIM NGÔN RA ĐI VỀ VỚI CHÚA:
Với nhiều nỗ lực cho cuộc sống và sống chết cho
sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình. Thánh nhân
đã xin về hưu dưỡng tại quê nhà của mình để dọn
mình chết lành. Thánh nhân đã ra đi bình an
trong tay Chúa vào ngày 2 tháng 12 năm 450. Chúa
đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Hội Thánh đã
đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh.
Lạy Chúa, Chúa đã làm cho thánh giám mục Phêrô
Kim Ngôn trở nên nhà giảng thuyết đại tài về
Ngôi Lời nhập thể. Vì lời thánh nhân cầu thay
nguyện giúp, xin cho chúng con hằng suy niệm
trong lòng những mầu nhiệm cứu độ và trung thành
sống những mầu nhiệm ấy” (Lời nguyện nhập lễ, lễ
thánh Phêrô Kim Ngôn, giám mục, tiến sĩ Hội
Thánh).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
https://dcvxuanloc.net/thanh-phero-kim-ngon-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-ngay-307/
Thứ Bảy
sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc
I: (Năm
I) Lv
25, 1. 8-17
"Trong năm toàn xá,
người ta làm chủ lại cơ nghiệp mình".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê trên
núi Sinai rằng: "Ngươi cũng phải tính bảy tuần năm, tức là bảy
lần bảy, cộng chung là bốn mươi chín năm: Ngày mồng mười tháng
bảy, ngươi hãy thổi kèn trong thời gian đền tội trong toàn lãnh
thổ ngươi. Ngươi hãy làm cho năm thứ năm mươi nên năm thánh và
hãy kể là năm tha tội cho mọi người cư ngụ trong nước ngươi, vì
đó là năm toàn xá. Người ta sẽ làm chủ lại cơ nghiệp mình, và ai
nấy đều được trở về gia đình cũ của mình, vì năm toàn xá là năm
thứ năm mươi. Các ngươi đừng cày cấy, đừng gặt hái hoa màu tự
nhiên phát sinh trong đồng ruộng, và đừng hái nho đầu mùa, vì
phải kể năm toàn xá là năm thánh, và các ngươi được ăn hoa màu
tự nhiên phát sinh.
"Trong năm toàn xá, mọi
người nhận lại cơ nghiệp của mình. Khi ngươi mua bán vật gì với
người đồng hương, ngươi chớ làm phiền lòng người anh em, nhưng
hãy mua theo số năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số hoa
lợi của nó. Số các năm sau năm toàn xá càng nhiều thì giá càng
cao, và số năm càng ít, thì giá mua càng hạ, vì nó tính mùa hoa
lợi mà bán cho ngươi. Các ngươi chớ hà hiếp những người cùng một
chi tộc với các ngươi: nhưng mỗi người hãy kính sợ Thiên Chúa
mình, vì Ta là Thiên Chúa các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 66, 2-3. 5. 7-8
Ðáp: Chư
dân hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca
tụng Ngài (c. 4).
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa
xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin tỏ ra cho chúng
con thấy long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn
biết đường lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài
cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy mừng
vui và khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai
quản các nước địa cầu. - Ðáp.
3) Ðất đã cho chúng tôi
hoa trái. Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi, đã chúc phúc lành cho
chúng tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho
khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 14, 1-12
"Hêrôđê sai người đi
chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa
Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy quận vương Hêrôđê
nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng:
"Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới
làm được các phép lạ như vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà
vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua
rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết
Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri.
Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước
mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề
hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước,
nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho
con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người
đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người đi chặt
đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô
gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy
và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Hêrôđê - Một con cáo già, vừa đánh
trống vừa ăn cướp
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XVII Thường
Niên, Thánh Ký Mathêu ghi lại một sự kiện đó là "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với
những kẻ hầu cận rằng: 'Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ
cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ".
Sau đó
vị thánh ký đã thuật lại lý do tại sao đã thúc đẩy vị
tiểu vương này đã ra tay sát hại nhân vật mà ông cho là đã sống
lại từ
cõi chết và đang sống động nơi
Chúa Giêsu Kitô:
"Số là vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà
Hêrôđia, vợ ông Philípphê, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với
vua: 'Ngài không được phép lấy bà ấy'. Vua muốn giết ông Gioan,
nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày
sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái bà Hêrôđia đã biểu diễn một
điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó,
vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo,
cô thưa rằng: 'Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông
Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm'. Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã
trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho
cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu
ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. Môn
đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo cho Đức
Giêsu".
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao vị quận vương
này cho rằng nhân vật Gioan
Tẩy Giả có thể tự mình sống lại cho dù
bị ông ta sát hại, và tại sao ông ta lại ghép việc sống lại của
vì Tẩy Giả này vào trường hợp của Chúa Giêsu, bởi nghe thấy
Người "có
quyền năng làm phép lạ"? Ông
ta có ý nghĩ Gioan Tẩy Giả có thể sống lại trước khi ông ta ra
lệnh lấu đầu của ngài,
hay sau khi nghe thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ mới có ý nghĩ
Gioan sống
lại như vậy?
Phải
chăng vị quận vương này có ý muốn nói rằng chính nhờ ông ta hành
quyết Gioan Tẩy Giả mà Chúa Giêsu mới có quyền năng làm phép lạ
như thế, bằng không Người không thể nào có thể làm phép lạ như
vậy? Qua câu nói này của ông ta, cũng có thể là ông ta đã
bị ám ảnh về cái chết của nhân vật Gioan Tẩy Giả là nhân vật ông
rất kính nể nhưng đã ra lệnh hành quyết bởi lỡ miệng hứa với đứa
con gái của người vợ bất chính và muốn giữ thể diện của mình
trước mặt bá quan văn võ trong triều đình
của ông
bấy giờ?
Có nghĩa là ông ta đang tìm
cách vừa đánh trống vừa ăn cướp, ở chỗ muốn
xoa dịu lương tâm bị áy náy của
mình là người đã lỡ sát hại một kẻ công chính, bằng
cách
gán ghép quyền năng làm phép lạ của
Chúa Giêsu cho nạn nhân của
mình là kẻ đã bị mình hành quyết, nhờ đó mình chẳng những vô tội
mà còn nổi tiếng nữa qua các phép lạ Chúa Giêsu làm. Nếu vậy thì
vị quận vương này đúng là một thứ cáo già, gian manh không thể
nào tượng tưởng nổi!
Không biết có phải vì thế
mà ít lâu sau, khi gặp lại ông ta trong thân phận của một
tử tội được Tổng Trấn Philatô chuyển đến cho thẩm
quyền của ông ta,
Chúa Giêsu đã không hề lên tiếng nói gì với ông ta (xem Luca
23:9). Chắc
chắn thái độ im lặng của Chúa Giêsu không phải là thái độ coi
thường thẩm quyền của ông ta hay khinh bỉ con người tồi bại
của ông ta, cho bằng Người muốn tỏ ra thái độ nhẫn nhục
nhân ái với con người đầy gian ác
hết
sức đáng
thương ấy,
một con người chỉ biết có quyền lực, và chỉ mong gặp Chúa
Giêsu để xem
Người làm phép
lạ (xem Luca 23:8) mà không được toại nguyện, vì Chúa Giêsu đến
thế gian này không phải như một cứu tinh xuất chúng về quyền lực
nhưng là để giải thoát con người, điển hình là vị quận vương
Hêrôđê này, khỏi
tội lỗi và sự chết.
Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến năm toàn xá là thời điểm 50
năm một lần trong dân Do Thái, một "năm thánh", bao gồm,
trước hết là việc
nghỉ ngơi cho chính con người cũng như cho thiên nhiên vạn vật:
"Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ
tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối
với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các
ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về
dòng họ của mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là
thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt
lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt
tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các
ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng".
Sau nữa, "năm
thánh" không
phải chỉ liên
quan đến việc nghỉ ngơi của con người và thiên nhiên tạo
vật, mà còn liên quan nhất là với tha nhân nữa, qua các việc
bác ái yêu thương không gây thiệt hại cho người khác, như
sau:
"Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở
hữu của mình. Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào
hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt
hại người anh em mình. Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo
số năm sau năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm
thu hoạch. Còn nhiều năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm
thì ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm thu
hoạch. Không ai trong các ngươi được làm thiệt hại người
đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa của
(các) ngươi, vì Ta là Chúa,
Thiên Chúa của (các) ngươi. Thiên Chúa bảo đảm về năm
sabát".
Mối
liên
hệ giữa Bài Phúc Âm về ý nghĩ của quận vương Hêrôđê về quyền
năng của Chúa Giêsu và Bài Đọc 1 hôm nay về năm thánh 50 năm
một lần của dân Do Thái liên
quan đến bác ái yêu thương, là ở chỗ
Chúa
Giêsu là hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa, và vì
thế sứ vụ của Người đó là công bố Năm Thánh cũng là năm
hồng ân của Thiên Chúa (xem Isaia 61:2; Luca 4:19) cho cả
nhân loại, không trừ một ai, "nhất là những linh hồn cần đến
LTXC hơn" như quận vương Hêrôđê, cùng tất cả mọi tạo
vật (xem Marco 16:15; Roma 8:21).
Bởi
thế, trước tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng chẳng những
dựng nên tất cả mọi sự, mà còn quan phòng chăm sóc cho những
gì Ngài dựng nên, để làm cho chúng được nên thánh hảo theo ý
muốn của Ngài, mà con người cần phải có tâm tình như các
câu Đáp ca hôm nay:
1- Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho
cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn
cứu độ của Ngài.
2- Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả
hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo
đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.
3- Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa
chúng ta, đã ban phúc lộc. Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc
cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!