Suy Nghiệm Lời Chúa
Chủ đề
"sự sống" trong Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp
tục với Phụng Vụ Lời Chúa
của Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm B hôm nay, cũng như của 3 tuần sau này,
liên quan đến đề tài Bánh Hằng Sống được Thánh Ký Gioan thuật lại.
Thật
vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, như bài
Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước thuật lại, Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm
nay, bắt đầu dẫn nhập vào đề tài Bánh Hằng Sống của Người. Ở chỗ nào? Ở chỗ
Người đã khôn khéo gợi ý để họ đi từ thắc mắc và yêu cầu đến
tự động ngỏ ý xin Người ban cho họ Bánh Hằng Sống là chính bản thân của
Người. Thứ tự như sau:
Trước hết, Người
gợi ý về việc họ cần
phải tìm kiếm hay làm việc cho được sự sống
bất diệt đời đời
chứ đừng tìm kiếm hay làm
việc chỉ cho sự sống tạm
bợ phai tàn ở đời
này mà thôi:
"Khi
gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đến đây
bao giờ?' Chúa Giê-su đáp: 'Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta,
không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn
bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát,
nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ
ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu'".
Sau nữa, Người
chẳng những trả
lời thắc mắc của họ về vấn đề "làm việc của Thiên Chúa" mà còn giải
quyết yêu cầu của họ về "dấu lạ" Người cần phải làm để nhờ đó họ
có thể tin
vào Người:
"Họ liền thưa lại rằng: 'Chúng tôi phải làm gì để gọi là
làm việc của Thiên Chúa?' Chúa Giêsu đáp: 'Đây là công việc của Thiên Chúa
là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến'. Họ thưa Chúa Giêsu: 'Ngài sẽ
làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông
chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: Người đã ban cho họ ăn
bánh bởi trời. Chúa Giêsu đáp: 'Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê
đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi
bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống,
và ban sự sống cho thế gian'".
Sau hết, để đáp
lại những gì chính họ tự động ngỏ ý xin Người liên quan đến thứ "bánh bởi
trời... ban sự sống cho thế gian" được Người nói đến, dù họ chưa nắm
bắt được tất cả ý nghĩa của thứ bánh này, như người phụ nữ ngoại lai
Samaritanô ở bờ giếng Giacóp đã xin Người "nước... không còn bao giờ khát
nữa", dù nàng chưa hề biết nước ấy là gì và như thế nào (xem
Gioan 4:14-15), Người đã
tỏ mình ra cho dân chúng bằng lời tuyên bố về Người như
sau:
"Họ liền thưa Người rằng: 'Thưa Ngài, xin cho chúng tôi
bánh đó luôn mãi'. Chúa Giêsu nói: 'Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với
Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ'".
Trong 3 bài
Phúc Âm tới đây ở Chúa
Nhật XIX, XX và XXI Năm
B, chúng ta sẽ thấy tất cả những gì liên quan đến mạc khải thần linh về mầu
nhiệm Bánh Hằng Sống liên quan trực tiếp đến bản thân của Chúa Kitô, đúng
như lời tuyên bố của
Người ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Chính
Tôi là
bánh ban sự sống".
Hình ảnh
manna nuôi dân
Do Thái trong suốt cuộc
hành trình 40 năm họ băng
qua sa mạc để tiến
về Đất Hứa chỉ là những
gì ám
chỉ về Bánh Hằng Sống là
Chúa Kitô sẽ ban cho những ai tin vào Người, những ai tìm kiếm và làm việc
của Thiên Chúa là Đấng luôn tỏ mình ra cho họ qua Chúa Kitô Con của Ngài để
làm cho họ tin mà được sự sống đời đời.
Bài Đọc 1 hôm nay được Sách Xuất
Hành cho thấy Thiên Chúa đã đáp ứng nhu cầu sinh sống hằng ngày của dân Do
Thái, thành phần dân được Ngài tuyển chọn để chẳng những giải thoát họ khỏi
bị làm nô lệ bên Ai Cập mà còn mang họ vào Đất Hứa là nơi tràn đầy sự sống
qua hình ảnh chảy sữa và mật, chứ
không phải để họ chỉ sống
trong sa mạc là nơi tiểu biểu cho khô cằn và chết chóc, bằng
cách, trong suốt cuộc hành trình 40 năm như thể "vượt qua sự chết mà vào sự
sống"(Gioan 5:24) này, Ngài đã ban lương thực hằng ngày cho họ là manna như
bánh ăn làm món chính cho họ và còn kèm
theo cả thịt
chim cút nữa:
"Đây Ta sẽ cho bánh từ
trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử
coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của
con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: 'Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt,
và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên
Chúa các ngươi'". Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và
sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất,
thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất.
Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: 'Manhu', có nghĩa là: 'Cái gì
vậy?' vì họ không biết là thứ gì. Moisen liền nói với họ: 'Đó là bánh do
Chúa ban cho anh em ăn'".
Việc
Thiên Chúa nuôi
dân Do Thái bằng manna và chim cút trong suốt cuộc hành trình 40 năm băng
qua sa
mạc của họ không phải
chỉ để bảo tồn sự sống thể lý của họ, mà nhất là để nhờ đó họ có thể nhận
biết Ngài là Thiên Chúa của họ: "như
thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi", và
việc
nhận biết Thiên
Chúa của họ được thể hiện bằng
việc họ "tuân
giữ lề luật của Ta". Có
thể
nói cuộc hành
trình 40 năm băng qua sa mạc của dân Do Thái tiến về Đất Hứa là một cuộc
hành trình đức tin, ở chỗ từ bỏ con người cũ để xứng đáng được hưởng sự sống
dồi dào trong
mảnh Đất
Hứa chảy sữa và mật.
Trong cuộc hành trình đức tin
của Kitô hữu là thành phần dân Tân Ước được tuyển chọn của Thiên Chúa cũng
thế, một thành phần cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa nhưng vẫn còn nơi bản
thân mình đam mê nhục dục và tính mê nết xấu là những gì thuộc về con người
cũ mà họ cần phải cởi bỏ và thắng vượt để sống con người mới trong Chúa Kitô
và như Chúa Kitô. Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã
khuyên giáo đoàn Êphêsô đừng ăn ở như dân ngoại, trái lại, hãy cởi bỏ con
người cũ mà mặc lấy con người mới, như sau:
"Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng
thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá
của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Đức Kitô như thế đâu,
nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự
chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy
lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên
mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo
thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật".
Bài Đáp
Ca hôm nay bao gồm tâm tình của thành phần hậu thế Do Thái, thành phần cho
dù chỉ nghe "thuật lại" những kỳ công Thiên Chúa "quyền năng"
đã làm cho cha ông của họ (câu 1), trong đó có cả
manna như thứ "bánh bởi trời" được Ngài
ban cho cha ông của họ (câu 2), một
thứ bánh đặc biệt để nhờ đó họ tin vào Ngài như thể "Người đưa
họ vào nơi thánh địa của Người"
(câu 3):
1) Điều mà chúng tôi đã
nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại
cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa.
2) Nhưng Người đã ra lệnh cho
ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm
mưa manna xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời.
3) Con người được ăn bánh của
những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ
vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm.
Thánh Anphongso Ligouri, Giám Mục Tiến Sĩ - Sáng Lập Dòng Chúa Cứu
Thế
ĐTC Biển Đức XVI về
Thánh Alphonsus of Ligouri
ThanhAnphongso.mp3
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
11, 4b-15
"Một mình tôi không mang nổi
dân này".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, con cái
Israel nói rằng: "Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn
ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải,
hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó
lại chỉ thấy manna".
Manna hình giống hạt ngò, sắc
giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay
hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như
bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng
rơi xuống.
Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà
nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình.
Ông thưa cùng Chúa rằng: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không
được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có
cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: "Hãy ẵm
nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa
ban cho tổ tiên nó?" Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ
kêu khóc với con rằng: "Hãy cho chúng tôi ăn thịt". Một mình con không
mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với
con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo
con phải khốn cực dường này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80,
12-13. 14-15. 16-17
Ðáp: Hãy reo
mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Dân tộc của Ta chẳng có
nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho
chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết
nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta
sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ
trở tay. - Ðáp.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng
tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh
hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. -
Ðáp.
Alleluia: Mt 4,
4b
Alleluia, alleluia! - Người ta
sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14,
13-21
"Mọi người đều ăn no".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan
Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang
địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người.
Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa
những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa
Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải
tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông
rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại
rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo
các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng
ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên
trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân
phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười
hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn
ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
xin Thầy
giải tán dân chúng </> các
con hãy cho họ ăn
Bài Phúc Âm
cho Thứ Hai
Tuần XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại về biến cố
phép lạ bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh
ra nhiều lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh
ký Gioan thuật lại trong Chúa
Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước.
Trong bài Phúc Âm được Thánh
ký Gioan thuật lại về
biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa
Giêsu đóng vai
chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các ông trước và đích thân
Người phân phát bánh cùng cá cho dân chúng.
Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất
đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh
cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người
đã biết việc Người sắp làm".
Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân:
"Bấy
giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Trong khi đó, ở
bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả
về việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng.
Các tông đồ quan
tâm đến dân chúng: "Chiều
tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ
đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua
thức ăn'".
Các tông đồ phân
phát cho dân chúng: "Khi
Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh
và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho
các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".
Tuy nhiên, việc các tông đồ
quan tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích
cực. Ở chỗ các
vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách
thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy
quá sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị
không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana
mà nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân
chúng đang đói kìa!"
Cho dù các tông đồ
không tích cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn
của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình
như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi
các vị trước khi ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:
"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần
phải đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con
chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem
lại cho Thầy'".
Thật
sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi
là các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các
vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy
đem lại cho Thầy".
Căn cứ vào chi tiết
nho nhỏ này thì có
thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương
thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như
chẳng mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh
và 2 con cá.
Thấy tình hình như thế nên
các vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng
không ngờ lý lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các
tông đồ, ở chỗ, không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình
trạng đói ăn của họ mà ngược lại: "Họ chẳng
cần phải đi, các con hãy cho họ ăn".
Có những giải thích phép lạ Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể
cố ý hay tìm cách xuyên tạc phép lạ Chúa
Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối bỏ các phép lạ
của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ giải thích
rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động lòng nên
ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống, nên
ai cũng ăn no.
Vậy thì "12 thúng đầy"
dư ở đâu mà ra, dư từ
5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đồ ăn của
dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu
thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân
chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con
cá hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và
trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng
cần phải đi, các
con hãy cho họ ăn"
phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người
làm phép lạ hóa ra nhiều hay
từ những gì của dân chúng mang theo??
Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã
được báo trước qua hình ảnh manna được Thiên Chúa hằng ngày ban cho dân
Do Thái trong thời gian 40 năm hành trình băng qua sa mạc từ Biển Đỏ về
Đất Hứa, một thứ lương thực mà họ được hưởng một cách nhưng không, và vì thế họ
cũng tưởng là "bởi trời" như Bánh Sự Sống là chính Chúa Kitô khi Người
giảng cho họ nghe về Bánh Sự Sống này ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 6. Sách
Dân Số ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả manna như thế này: "Manna
hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt,
rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu
thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa
xuống trại thì manna cũng rơi xuống".
Nếu các tông đồ ở trong bài Phúc Âm hôm nay không biết giải quyết thế
nào khi được Chúa Kitô bảo các vị rằng: "Họ
chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'", sau khi các
vị cảm thấy gánh nặng phải lo cho dân chúng quá ư là đông đảo đã ngỏ ý
cùng Người "xin
Thầy giải tán dân chúng", thì
trong Bài Đọc 1 hôm nay, Moisen cũng cảm thấy gánh nặng đến độ muốn hoàn
toàn trút bỏ như sau: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa?
Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân
này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa
bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào
đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?'".
Tâm trạng của Moisen chán nản đến tột cùng, như ông van xin Chúa cũng
trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Một mình con không mang nổi dân này
vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì
xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực
dường này", xét về phương diện loài người, như phản
ảnh tâm trạng của Thiên Chúa trước dân của Ngài, một tâm trạng được
Thánh Vịnh 80 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy như sau:
1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn
bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ
theo sở thích.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường
lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để
đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng
sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho
chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.
Thánh
Eusebio Vercelli Giám Mục, và Thánh Phêrô Eymard, Linh mục (2/8)
Thánh Eusêbiô sinh tại Sardinia trong một gia đình quí phái. Nhưng
trổi vượt sự sao sang giàu có trần thế. Ngài được vinh dự là con của
một người cha chịu chết vì đức tin dưới thời Diôclêtianô. Mẹ Ngài đã
đưa hai người con về sống tại Roma. Ngài được Đức giáo hoàng Eusêbiô
rửa tội và lấy chính tên mình đặt cho con trẻ.
Eusêbiô được nuôi dưỡng trong bầu khí đạo đức, Ngài theo học văn
chương và nghệ thuật. Gia nhập hàng giáo sĩ, Ngài được phong chức
đọc sách.
Ngài được sai đi Vercelli và năm 345 được chọn làm giám mục tiên
khởi của giáo phận này. Xét rằng phương cách hữu hiệu nhất để thánh
hóa các linh hồn là phải có một hàng giáo sĩ được huấn luyện tử tế,
Ngài thiết lập một trường đào tạo linh mục. Cùng với nhóm môn sinh,
Ngài sống đời ẩn tu ngay giữa thành phố. Nhưng lời khuyên dạy đầy
cảm kích đã làm cho Vercellêsi thay đồi hẳn. Các tội nhân tìm về
lãnh nhận các bí tích và nhiệt thành phụng sự Chúa.
Chịu bách hại vì đạo, cuộc đời Eusêbiô đã đạt tới vinh quang cao cả.
Khi ấy bè rối Ariô bành trướng mạnh mẽ, với sự bảo trợ của hoàng đế
Constantino. Eusêbiô mãnh liệt chống lại và đức tin không thể lay
chuyển của Ngài mang lại niềm an ủi cho Đức giáo hoàng chỉ định dẫn
dầu phái đoàn các giám mục đến gặp hoàng đế để bênh vực đức tin. Đầy
nhiệt tâm Ngài thuyết phục được hoàng đế triệu tập một công đồng.
Năm sau công đồng khai diễn tại Milan. Tại công đồng, hoàng đế thúc
bách các giám mục phải để cho Eusêbiô tham dự. Nhưng những người
theo bè rối Ariô ngăn cản. Cuối cùng Ngài được tham dự. Thấy phần
đông theo lạc giáo, Ngài trình biểu thức đức tin của công đồng
Nicea, đòi mọi người ký nhận trước khi bàn đến điều gì khác nữa. Bọn
lạc giáo tức giận. Ngược lại, Ngài cương quyết không chịu ký vào văn
bản lên án thánh Athanasiô, vị giám mục chúng sợ nhất. Tức giận
chúng vận động hoàng đế đẩy Ngài đi Palestina.
Nơi lưu đầy, Eusêbiô chịu không biết bao nhiêu là điều cực khổ bởi
cách đối xử dã man của các địch thù, Ngài bị giam trong phòng tối,
bị bỏ đói. Khi biết rằng không thể bắt phục được con người sắt đá
này, chúng còn trói chân Ngài lại và lôi kéo Ngài qua các bậc thang
nhiều lần. Theo lời thánh Hiêrônimô kể lại, thánh nhân còn bị gởi đi
Cappadocia và tới miền thượng Thébaide bên Ai cập. Tại những nơi nầy
thánh nhân còn chịu muôn vàn cực hình cho đến khi hoàng đế
Constantiô băng hà và được hồi hương.
Dầu vậy trên đường về theo lệnh Đức giáo hoàng, thánh Eusêbiô còn
phải ghé nhiều giáo đoàn để an ủi khích lệ các giáo hữu bị đau khổ
bởi những tàn phá của phái Ariô để lại, dàn xếp những tranh chấp nội
bộ của một số giáo đoàn.
Trở về Vercelli, thánh Eusêbiô được tiếp đón nồng nhiệt như một vị
anh hùng. Già cả và yếu sức, Ngài vẫn tận tụy phục vụ giáo phận cho
đến khi qua đời năm 371. Người ta tôn kính Ngài như vị thánh tử đạo,
vì những đau khổ mà Ngài đã chịu suốt những ngày lưu đày.
http://conggiao.info/thanh-eusebio-vercellesi-giam-muc-371-d-17540
Thứ Tư 17/10/2007 – Bài Giáo Lý 54 - Thánh giáo phụ Eusebius of
Verceili
Thánh Phêrô
Eymard, Linh mục
THÁNH TỔ PHỤ PHÊRÔ GIULIANÔ EMA - ĐẤNG SÁNG LẬP ...
Mười Điểm Đặc Biệt Trong Cuộc Đời Thánh Phêrô Giulianô ...
Thứ Ba
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
12, 1-13
"Môsê không như tiên tri
khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Maria và
Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói:
"Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán
cùng chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người
hiền lành nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và
Maria rằng: "Cả ba hãy đến nhà xếp giao ước".
Khi cả ba ra đi, thì Chúa ngự
xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria.
Hai người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu
trong các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng
người ấy trong thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc
mộng. Nhưng Môsê tôi tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành
trong cả nhà Ta. Ta trực tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy
Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là hình bóng. Vậy sao các ngươi dám
chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây
trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như
tuyết.
Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã
bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng
tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ
sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát".
Môsê kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà
ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13
Ðáp: Lạy
Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội
(c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện
thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ
bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. -
Ðáp.
2) Vì sự lỗi con thực là con
biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng
một Thiên Chúa. - Ðáp.
3) Con thi hành điều ác trước
thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã
chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho
con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người
con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần
Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
14, 22-36
"Xin truyền cho con đi trên
mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập
tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi
cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền
thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên
mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông
hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.
Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây,
đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy
đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa
Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên
rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy
ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên
thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy
Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
{Khi
đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra
Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và
người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ
rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được
chữa lành}.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm:
Chúa thích chơi trò ma quái
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba
Tuần XVIII Thường Niên
hôm nay thuật
lại một biến
cố xẩy ra sau
phép lạ bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy
ra thứ tự 4 phần
như sau:
Phần nhất: "Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền
mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải
tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn
ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập
chờn vì ngược gió".
Ở đây
chúng ta thấy chính Chúa
Giêsu giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm
một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ
của Người. Người đích
thân
làm
việc này có thể là vì "Người
lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó
Người đã "giục
môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con
thuyền mà Thày trò đã sử dụng để
tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì
một mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến
chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị
sóng đánh chập chờn vì ngược gió".
Phần hai: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi
trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ
hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy
yên tâm. Thầy đây, đừng sợ'".
Phải, ở đây
chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra
giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi
Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ
không xuất hiện với các vị khi
trời còn sáng và vào lúc
không có sóng gió gì, khiến
các ông bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà
nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên
Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được
Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ
mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào
Ngài: "Hãy
yên tâm. Thầy đây, đừng sợ".
Phần
ba: "Phêrô
thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy
gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy,
xin cứu con'. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người
hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió
liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng:
'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày
của mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm
thấy hết sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng:
"Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước
mà đến cùng Thầy". Chúng
ta thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày
mà là xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến"
ngài liền "xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".
Về
sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng
thế, người ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì
gọi là phép lạ của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy
giờ là mùa đông nên nước bị đông cứng nên Chúa Giêsu đã bước đi trên
tảng băng chứ không phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con,
chỉ đánh lừa được những ai không cẩn thận đọc Thánh Kinh.
Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất không
bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị đóng
băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à? Thật
là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.
Chúng ta không biết được
từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến với thuyền
của các
tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng
không còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn
thấy được Người và còn có thể nghe được
tiếng của Người giữa sóng
gió ào ào. Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể
suy đoán rằng Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút
thì đã cảm thấy chới với: "Khi
thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy
Thầy, xin cứu con'".
Tất
nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết
chìm: "Lập
tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao
lại nghi ngờ?'". Đúng thế,
chỉ vì "nghi ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái
lại, nếu sóng gió càng mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng
Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin
tưởng tuyệt đối vào Thày, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là
chính mục tiêu tiến đến của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được
Người trong chính sóng gió và giữa đêm tối.
Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được
mục đích của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan
khốn khó đầy hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người:
"Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong
thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
"Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có
nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp
xếp xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào
trong thuyền của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận
biết Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên
Chúa!'"
Điều tích
cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta
hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ Phêrô, vị tông đồ một khi
hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi cuồng phong nên bị chìm xuống thế
nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt đức tin của chúng
ta vào Chúa, mà chỉ vào những sự kiện hay con người gây khốn cho
mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể nào không
tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm xuống
dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không vượt
trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của
mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ
Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con
với".
Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị
quáng gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao?
Tại vì hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho
mắt con người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị
sóng sánh, bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không
còn làm chủ được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để bị tình
trạng quáng gà đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ
nhìn thẳng vào đối tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu.
Tâm trạng đột nhiên hoảng hốt của tông đồ
Phêrô nên vị tông đồ đang tin tưởng đi trên nước đến với Thày mình
thì bị chìm ngay xuống nước trong bài Phúc Âm hôm nay, được phản ảnh
phần nào nơi trường hợp của Maria và Aaron là anh chị em ruột thịt
của Moisen trực tiếp "nói
xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: 'Thiên
Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng
chúng ta như thế sao?'", mà
chính là gián tiếp trách móc Thiên Chúa như thể cho Ngài là thiên
vị, nên đã phạm đến cả Thiên Chúa, đến độ, sau khi Chúa tỏ cho 2 vị
này biết về Moisen ở trong "nhà xếp giao ước", thì "Chúa
nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là
Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết. Maria
bị phung cùi, mình trắng như tuyết".
Sau khi "Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói
với Môsê rằng: 'Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội.
Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa
thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát'. Môsê kêu van cùng Chúa
rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy'", một
tiếng kêu van thay cho chính phạm nhân Maria, một người chị em của
ông chắc chắn đã nhận biết lỗi lầm của mình, khi bị Chúa trừng phạt
nhãn tiền như thế, để cảnh tỉnh bà và giúp cho bà nhờ đó sống tốt
lành hơn nhờ biết mình và tin vào Ngài hơn, bằng tất cả tâm hồn
thiống hối ăn năn như tâm trình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm
nay:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch
lâng tội ác. .
2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn.
Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa.
3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình
khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã
hoài thai con.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh
thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa,
chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Thứ Tư
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35
"Ðất ngon lành họ đã không
thèm" (Tv 77, 24)
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán
cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông,
mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem
đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".
Sau bốn mươi ngày, những người
dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về.
{Họ
đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc
Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng
đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói:
"Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất
chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân
cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi
đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân
Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển
và bờ sông Giođan".
Bấy giờ Caleb truyền cho dân
nín bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng
nổi nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên
đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con
cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: "Ðất chúng tôi đã băng qua
để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng
tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy
ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng
lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu,
và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó".
Và toàn thể cộng đồng kêu la;
họ lên tiếng},
và đêm ấy toàn dân la lối khóc
lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng
tôi chết quách ở trong sa mạc này!").
Chúa phán cùng Môsê và Aaron
rằng: "Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng
kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa
phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm
cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng
này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu
trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một
năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác
các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì
Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao
mòn và chết trên rừng vắng này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng con đã phạm
tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở
bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét
những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.
2) Nhưng họ đã mau quên công
việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định
kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách
Thiên Chúa trong cõi cô liêu. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng
đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh
ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện
tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra
cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.
Alleluia: 1
Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời
ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh
tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu
lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy
đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương
xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một
lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy
về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ
được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà
nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh
của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó
con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời
cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được
vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ
Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng
ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ
Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có
một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì được
nấy".
Thế nhưng, để có
một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang
Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng
khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên
quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.
Cuộc thử thách đức
tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các
môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà
cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến
cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu
trả lời cho các môn đệ này,
Chúa Giêsu như muốn
nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ
là đồ thứ
yếu, không đáng
chú trọng cho bằng dân Do Thái.
Cuộc thử thách đức tin
liên quan đến phẩm giá làm người
của người đàn bà
Canaan: "Nhưng
bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người
đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây,
bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai
còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình
như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ
như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những
gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc
cần ông".
Thế nhưng, cho
dù người đàn
bà Canaan bị
một độc chưởng
vô cùng lợi hại
chỉ từ
chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì,
trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu
vô cùng ngoạn mục: "Vâng,
lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi
xuống", một
tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua
bà lập tức: "Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy".
Điều duy nhất người đàn bà ngoại
bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị
quỷ ám khốn cực lắm", đến độ,
bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như
là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ
không phải là đứa con gái của bà: "Lạy
Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để
rồi, nhờ đức
tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay
lúc đó, con gái bà đã được lành".
Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm qua
thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi
vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là
một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy
bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào
Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải
chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn
bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh
thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ
trong bài Phúc Âm hôm qua.
Nếu đức tin của người đàn bà ngoại bang Canaan trong
Bài Phúc Âm hôm nay phi thường như thế nào thì đức tin của dân Chúa
trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Dân Số, cho thấy quá ư
là yếu tin, cho dù đã thấy được biết bao nhiêu là dấu lạ và phép lạ
Thiên Chúa tỏ mình ra trong thời gian 40 năm trong sa mạc, đến độ
Thiên Chúa, sau lần họ đúc bò vàng để thờ như một vị cứu chúa của họ
khi họ mới băng qua Biển Đỏ chẳng được bao lâu, lại muốn hủy diệt họ
đi một lần nữa ngay trước khi họ sắp vào được Đất Hứa,
"Chúa phán cùng Môsê
và Aaron rằng: 'Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã
nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng
rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên
Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên
rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều
đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày,
(thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của
sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán
thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như
vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này'".
Tuy nhiên, mỗi lần cảm thấy Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhất là khi
bị Ngài trừng phạt xứng với tội của mình, thì dân Ngài lại ăn năn
thống hối, bởi Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, biết được lý do
chính yếu mà dân Ngài cứ tiếp tục cứng lòng tin là bởi khuynh hướng
hãy quên việc Ngài làm cho họ,
như Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm
điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên
Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân
Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng
ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ
họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là
Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi
giận và đừng tiêu diệt họ.
Ngày 4 tháng 8
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết bao khó khăn gian
khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ
Ác-xơ thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu :
hoàn toàn lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện
và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường,
nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết
lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm
1859.
Các con thân mến, kho tàng của người Ki-tô hữu không phải ở
dưới đất, nhưng ở trên trời. Thế thì lòng trí chúng ta phải
hướng đến nơi có kho tàng của chúng ta.
Con người có một bổn phận cao đẹp là cầu nguyện và yêu
mến... Các con cầu nguyện, các con yêu mến : đó là hạnh phúc
của con người trên trần gian.
Cầu nguyện không gì khác hơn là kết hợp với Thiên Chúa. Khi
có tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi
mình một thứ hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh
sáng rực rỡ chói chang. Trong mối kết hợp mật thiết này,
Thiên Chúa và linh hồn tựa hai khối sáp nóng chảy hoà vào
nhau, không thể tách rời nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với
thụ tạo bé nhỏ của Người : đẹp đẽ biết bao ! Hạnh phúc này,
không sao hiểu thấu.
Xưa kia chúng ta chẳng xứng đáng cầu nguyện, nhưng Thiên
Chúa đã thương cho chúng ta được thưa chuyện với Người. Lời
cầu nguyện của chúng ta là làn hương thơm rất đẹp lòng
Người.
Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu
nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa...
Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc
lộc thiên đàng tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không
thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên
êm ái ngọt ngào. Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu
nguyện sốt sắng, tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời.
Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú,
khiến ta không cảm thấy lâu. Đúng vậy : hồi các cha sở vùng
Bơ-rét-xơ bị bệnh hầu hết, cha phải đi khắp vùng. Cha vừa đi
vừa cầu nguyện với Thiên Chúa nhân lành. Nói thật với các
con là cha chẳng thấy lâu gì cả.
Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá
trong nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không
bị chia trí. Ôi, cha mến những tâm hồn quảng đại này quá !
Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Co-lê-ta trông thấy Chúa
và chuyện vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với
nhau. Còn chúng ta, biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà
chẳng biết mình đến để làm gì, cũng chẳng biết mình muốn xin
gì ! Thế mà khi đến nhà ai thì ta lại biết rõ mình đến để
làm gì... Có những người như muốn nói với Thiên Chúa nhân
lành rằng : “Con đến nói mấy câu cho xong chuyện với Chúa
đây...” Cha thường nghĩ rằng : Khi đến tôn thờ Chúa, chúng
ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện là lời cầu
xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và một tấm
lòng thật trong trắng.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh
linh mục Gio-an Ma-ri-a nên một tấm gương tuyệt vời về lòng
tận tuỵ hy sinh của người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay
nguyện giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của
người mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Ki-tô, để muôn
đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Chúng con cầu xin
ThanhGioanVianney.mp3
Thứ Năm
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
20, 1-13
"Xin Chúa mở kho tàng châu
báu của Chúa là mạch nước hằng sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, vào tháng
Giêng, con cái Israel và toàn thể cộng đồng đến rừng Sim. Dân chúng
định cư ở Cađê. Tại đây bà Maria đã qua đời và được chôn cất.
Và khi dân chúng thiếu nước,
họ toa rập nhau chống đối Môsê và Aaron. Họ công kích Môsê rằng:
"Phải chi chúng tôi chết đi như anh em chúng tôi đã chết trước mặt
Chúa. Tại sao các ông dẫn cộng đoàn của Chúa vào rừng vắng này, để
chúng tôi lẫn súc vật chúng tôi phải chết? Tại sao bắt chúng tôi bỏ
Ai-cập mà dẫn lên chỗ rất xấu xa này, chẳng cày cấy được, chẳng sinh
quả vả, nho lựu, hơn nữa không có nước mà uống".
Môsê và Aaron lánh mặt khỏi
dân chúng và vào nhà xếp giao ước. Hai ông sấp mình xuống đất, kêu
van cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin nghe tiếng dân này
kêu van, và xin mở cho họ kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước
hằng sống, để họ uống no đầy mà hết kêu trách".
Sự vinh quang của Chúa hiện ra
trên họ. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy cầm lấy gậy và tập họp
dân chúng lại, ngươi và Aaron khiến hòn đá, trước mắt họ, và đá liền
chảy nước. Khi ngươi làm cho nước từ hòn đá này chảy ra, thì toàn
dân và súc vật sẽ được uống".
Môsê cầm lấy cây gậy để trước
mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến
trước hòn đá, ông bảo họ rằng: "Hỡi bọn người phản loạn và cứng
lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy
ra cho các ngươi được không?" Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá
hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống.
Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: "Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta
trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào
Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó".
Ðây là nước mâu thuẫn nơi con
cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94,
1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta
hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước
thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
- Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái
và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính
Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn
chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn
nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa,
trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã
thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Alleluia: Tv
144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa
trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc
Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
16, 13-23
"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho
con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con
Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì
bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó".
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì
chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha
Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên
đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không
thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm
buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới
đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ
đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu
tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều
đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày
thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng:
"Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy
đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra
đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết
những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về
loài người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu
Nazarét
Bài
Phúc Âm hôm
nay, Thứ
Năm Tuần
XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện
tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô,
tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một
Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người
trên nền tảng đức tin của vị
tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật
quân sự tối quan hệ về Người.
Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng
thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô:
"Khi Đức Giê-su đến vùng
kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng:
'Người ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là
ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho
là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại
hỏi: 'Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô
thưa: 'Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'".
Chúa
Kitô đã thiết
lập Giáo Hội của Người trên nền
tảng đức tin của vị
tông đồ này:
"Đức Giêsu nói với ông:
'Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì
không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha
của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh
biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy
sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới
đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như
vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo
cởi như vậy".
Chúa
Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một bí mật quân sự tối quan
hệ về Người:
"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ
biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do
các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng
Người ra và bắt đầu trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng
để Thầy gặp phải chuyện ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo
ông Phê-rô: 'Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy,
vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa,
mà là của loài người'".
Qua bài
Phúc Âm hôm nay, chúng
ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi
các tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các
tông đồ nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu
căn tính của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho
thấy: "Người
cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng
Kitô"?
Phải
chăng Người chỉ có ý
muốn trắc
nghiệm xem kiến
thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị
như thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần
chúng? Căn cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì
Chúa Kitô không phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức
tin của các
tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao
rồi, chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật
hết sức phũ phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các
tông đồ không thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên
xưng hết sức chính xác về Người đi chăng nữa.
Thật thế, điều tối mật về
Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục
sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đức
Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng
thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống"
(qua mầu nhiệm phục sinh), chứ
không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua
tông đồ Phêrô, hiểu
theo kiểu trần gian, ở
chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì
Người không thể nào lại chết được.
Nếu chung các tông đồ và
riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể
nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người,
như một tông đồ
Giuđa Íchca,
hay đã trắng
trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó
cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ
hãi trong
căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi.
Đó còn là lý do khi nhận
biết tất cả sự
thật về một
Chúa Kitô Phục Sinh,
tông đồ
Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi"
(Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã
chết nhưng đã sống
lại". Bởi
vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có
chết cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người
chết, để chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt.
Lời
tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể lập lại lời tuyên
xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống".
Sự kiện tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác về căn tính của "Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống" Thày của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng sau
đó, vị tông đồ này đã có một cảm nghiệm đức tin hoàn toàn không thích
hợp với sự thật thần linh về mạc khải thần linh vừa được ngài tuyên
xưng, nên ngài đã bị Vị Sư Phụ đáng tôn kính quí yêu thậm tệ quở trách.
Sách Dân Số cũng thuật lại nhân vật Moisen hằng tin tưởng vào Thiên Chúa
của mình, bằng không ông đã không dấn thân gánh vác sứ vụ giải phóng dân
Chúa ra khỏi Ai Cập vô cùng khó khăn và đau khổ, thế mà cũng có lúc
không đẹp lòng Chúa, như trường hợp ông theo lệnh Chúa dùng gậy khiến
nước chảy ra từ tảng đá, được ghi nhận ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy
ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: 'Hỡi bọn
người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho
nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?' Môsê giơ tay cầm
gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật
được uống. Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Vì các ngươi
không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì
các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó'".
Nếu "đó là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách
Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người", như
câu kết của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết, thì phải chăng ám chỉ đến Chúa
Kitô là tảng đá bị bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường (xem
Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42) ban nước hằng sống, nhưng chỉ cho những
ai tin vào Người mà thôi. Bởi thế mà bài DaĐp Ca hôm nay, trích từ Thánh
Vịnh 94, mới có những lời kêu gọi thích đáng như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca
để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan
Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là
dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở
Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi
đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Ngày 05: Cung hiến đền thờ Ðức Bà cả
Thứ Sáu
Ngày 6 tháng 8
CHÚA HIỂN DUNG
lễ kính
Phụng Vụ Giờ Kinh
Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho
các tín hữu nhớ rằng Chúa Ki-tô đã muốn “chuẩn bị tâm hồn các
môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá”. Nhưng đồng thời lễ
này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con
cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giê-su, và loan báo
ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể
nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Muôn lạy Đức Giê-su Cứu Chúa
Là Hào Quang phát tự Hào Quang,
Xin thương ghé mắt dịu dàng,
Nhậm lời cầu khẩn hát mừng thiết tha.
Dung nhan Chúa vượt xa chính ngọ,
Áo trắng như tuyết phủ non ngàn,
Hiển dung trên đỉnh thiên san
Để cho các vị chứng nhân ngắm nhìn.
Này ngôn sứ kề bên môn đệ,
Cựu tân hai thế hệ khác nhau,
Giờ đây ý hợp tâm đầu,
Tin Ngài Con Đấng Tối Cao giáng trần.
Lời Thánh Phụ vang ngân trong gió,
Gọi Ngài là Thánh Tử dấu yêu,
Chúng con xưng tụng hoà theo :
Ngài là Vua Cả thiên triều muôn năm.
Xưa đã mặc xác phàm yếu đuối,
Cứu loài người thoát khỏi hư vong,
Giờ xin biến đổi chúng con
Thành phần thân thể oai phong của Ngài.
Xin dâng Chúa đôi lời tán tụng,
Ôi Giê-su cao cả vinh quang,
Thánh Linh, Thánh Phụ chứng rằng :
Ngài là Thánh Tử Cha hằng yêu thương.
Đức Giê-su đã bày tỏ mầu nhiệm này cho các môn đệ trên núi
Ta-bo. Đang khi cùng đi đường, Người đã chuyện trò với các
ông về Nước Trời và về cuộc quang lâm của Người. Có lẽ các
ông chưa xác tín những điều Người tiên báo về Nước Trời, nên
Người muốn cho các ông thâm tín tận đáy lòng và từ những
việc hiện tại, các ông có thể tin vào những việc tương lai.
Vì thế, trên núi Ta-bo, Người đã cho các ông thấy một quang
cảnh thần diệu như hình ảnh báo trước về Nước Trời. Dường
như Người muốn nói với các ông : “Để anh em khỏi mất lòng
tin trong khi còn phải chờ đợi, thì ngay bây giờ, Thầy
bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ
sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển
trị trong vinh quang của Cha Người.”
Để chứng tỏ Đức Ki-tô muốn thế nào thì có quyền làm như thế,
tác giả sách Tin Mừng thêm : Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an
là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng
ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và
kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với
Người.
Đó là những điều kỳ diệu của ngày đại lễ hôm nay ; đó là mầu
nhiệm đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, mầu nhiệm đang được
thực hiện trên núi vào chính lúc này. Quả thế, cả sự chết
lẫn vinh quang của Đức Ki-tô đang quy tụ chúng ta. Vậy chúng
ta sẽ đi sâu vào những mầu nhiệm thánh thiêng khôn tả này
cùng với những người Đức Ki-tô đã tuyển chọn trong số môn đệ
được Thiên Chúa dẫn lối soi đường. Để được như thế, chúng ta
hãy lắng nghe tiếng nói thánh thiêng của Thiên Chúa. Từ đỉnh
núi cao, Người đang khẩn thiết kêu mời chúng ta.
Tôi dám nói là chúng ta phải mau chân tìm đến đó như Đức
Giê-su. Giờ đây, trên trời, Người vẫn đưa đường dẫn lối cho
chúng ta. Cùng với Người, chúng ta sẽ rực sáng, và chỉ những
ai có đức tin mới nhận ra, vì một cách nào đó, khuôn mặt tâm
linh của chúng ta được đổi mới, được nên đồng hình đồng dạng
với Người, và cũng như chính Người, chúng ta không ngừng
được biến đổi hình dạng, được thông phần bản tính thần linh
và sẵn sàng để được đưa về trời.
Chúng ta hãy chạy đến đó, phấn khởi hân hoan ; hãy vào sâu
trong đám mây, như các ông Mô-sê và Ê-li-a hay các ông
Gia-cô-bê và Gio-an. Như ông Phê-rô, hãy say sưa chiêm ngắm
cảnh tượng thần thiêng, hãy để cho cuộc biến đổi hình dạng
vinh quang của Chúa biến đổi con người bạn, giúp bạn siêu
thoát cõi đời và xa rời trần thế. Hãy từ bỏ xác thịt, lìa xa
thụ tạo và quay về với Tạo Hoá, với Đấng mà trong phút xuất
thần, ông Phê-rô đã thưa lên : Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật hay quá.
Hẳn rồi, lạy thánh Phê-rô, ở
đây với Đức Giê-su và ở đây mãi mãi thì thật
hay quá. Còn gì hạnh phúc hơn, còn gì cao cả và quý báu
hơn là được ở với Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng
với Người và được chan hoà ánh sáng ? Hẳn rồi, mỗi chúng ta
khi có Thiên Chúa ở trong mình và được biến đổi nên hình ảnh
thần thiêng của Người, thì phải vui mừng kêu lên : Ở
đây thật hay quá, vì ở đây, mọi sự đều sáng ngời rực rỡ
; ở đây, có niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào ; ở đây, lòng ta
được hoàn toàn bình an, thanh tĩnh và êm đềm ; ở đây, ta
được nhìn thấy Đức Ki-tô ; Người chọn chỗ này làm nơi cư ngụ
cùng với Chúa Cha. Vừa bước vào, Người đã nói : Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này ; ở đây,
có Đức Ki-tô là có những kho tàng chất chứa phúc lộc đời đời
; ở đây những hoa trái đầu mùa và những hình ảnh tiên báo
đời sau được mô tả như đang hiển hiện trong một tấm gương
vậy.
Hôm nay Thiên Chúa muốn cho Đức Ki-tô tỏ vinh quang mình cho ba
môn đệ được thấy. Ta hãy tôn vinh Người và thiết tha cầu nguyện
:
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã cho ba môn đệ được nhìn
ngắm vinh quang của Thánh Tử Giê-su, và được nghe tiếng Chúa
phán dạy phải vâng nghe lời Người, - xin cho chúng con cũng biết
vâng phục Người luôn mãi.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Chúa đã ban phúc lộc đầy dư cho những người Chúa chọn, - xin cho
chúng con biết tìm đến Đức Ki-tô là mạch suối trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Trong những giờ đen tối, xin cho chúng con được soi sáng nhờ ánh
vinh quang Chúa tỏ hiện nơi dung nhan Đức Ki-tô, - và cho chúng
con hằng tha thiết chiêm ngưỡng thánh nhan Người.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô hiển dung, Chúa kêu gọi chúng con đổi
mới cuộc đời, - xin cho mọi người trên thế giới được nhờ ánh
sáng Tin Mừng mà đạt tới phúc trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Vì yêu thương, Chúa đã cho chúng con được trở thành con cái
Chúa, - xin làm cho chúng con thật nên giống Thánh Tử Giê-su khi
Người quang lâm.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Con Một Chúa biểu lộ dung
nhan vinh hiển Người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông
Mô-sê và ông Ê-li-a, để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu
nhiệm cứu độ, và báo trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban là nhận
chúng con làm nghĩa tử. Xin cho chúng con nghe lời Con Một Chúa,
để mai sau được chung hưởng gia nghiệp với Người. Người là Thiên
Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh
Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: Ðn 7, 9-10. 13-14
"Áo Người trắng như
tuyết".
Trích sách Tiên tri
Ðaniel.
Tôi ngắm nhìn cho đến khi
đặt ngai toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người
trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh
xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người.
Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người.
Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều mở ra.
Trong một thị kiến ban
đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong
đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài
đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự
và vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều
phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không
khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không khi nào bị phá
huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 96, 1-2. 5-6. 9
Ðáp: Chúa
hiển trị, Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị,
địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói
và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê
ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu
sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái
đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được
thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, vì Ngài là
Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn
chúa tể. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 2 Pr 1, 16-19
"Chúng tôi đã nghe
tiếng ấy từ trời phán xuống".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, chúng tôi
không theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em
biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của
Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi
có lời từ sự vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: "Này là
Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời
Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc chúng
tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc
chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó,
nó như ngọn đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông
và sao mai mọc lên trong lòng anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 17, 5c
Alleluia, alleluia! - Này
là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.
- Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 9, 1-9
"Ðây là Con Ta yêu
dấu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa
Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và
Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi
trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể
giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với
Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng
thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt
lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và
một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng
sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng
phán rằng: "Ðây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời
Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác,
chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi
đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho
ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống
lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ
trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Ðó là lời Chúa.
LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong
loạt 33 bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)
1- Trong
Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày
trọng đại duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp
Phục Sinh: “Chúa Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời
loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất
cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình
trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc
biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và
Gioan thấy phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng
tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).
Vào
ngày lễ Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn
vẹn thực tại của chúng. Người
Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn,
đã sống lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng
của Người, tín hữu chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ
của Giáo Hội Đông Phương xướng lên, “được Thần Linh phục sinh,
chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh
Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một tấm lòng tràn
đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên
ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở
chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục
Sinh.
2- Chúa
Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai
chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung
gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần
tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ
hiện bởi những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu
diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng
tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở
nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào
trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây
trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của
dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước
(x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).
Vào
Buổi Sáng ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên
rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng
Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm
nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là
Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.
3- Bản
văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình
trên núi của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi
tiếng nói phát ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn
ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi biến cố biến hình
song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng,
lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10).
Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha
cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là
“thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).
Bởi
vậy, chúng ta có thể leo lên
ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm
ánh sáng của Thiên Chúa. Tabo
tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên
Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình ảnh so sánh này. Một
bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện
cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các
dân, hãy đến mà theo tôi!
Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của
chúng ta hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy
tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần
được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the
conclusion of the Canon of St John Damascene).
4- Nơi
Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm
Thiên Chúa, đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta
còn được mời gọi để lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta
nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi Moisen cũng như
ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha
có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như
Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi
dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn
mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu
Kitô “đã nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và
có một tiếng nói đã phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao
cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’;
chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng
tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững
vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý
tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày
rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).
Chúng
ta hãy chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.
5- Bởi
vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối
dẫn chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh
quang của Chúa Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước
việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân
xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của
Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng
nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới
được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)”
(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556).
Như
linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến
Hình cho thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô,
Giacôbê và Gioan, những vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như
ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90),
phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công, ngợi
khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương
sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi
người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).
Giớ
đây chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những
lời của Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô:
“Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng lòng khao khát Chúa, và
đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa hãy thiêu đốt
tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái thương
làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở,
con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san
L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)
LeChuaGiesuBienHinh.mp3
Phụng
Vụ Lời Chúa
(theo ngày trong tuần)
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
4, 32-40
"Người đã yêu thương cha
ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng
rằng: "Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi
Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến
chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng?
Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng?
Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra
như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự
thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh
mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc
giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất
cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả
những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết
rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào
khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới
đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa
đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha
ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã
dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi
trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc
lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban
đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện
nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng
rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có
Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính
ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau
được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ
ban cho các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
76, 12-13. 14-15. 16 và 21
Ðáp: Tôi
hồi tưởng lại những việc làm của Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Tôi hồi tưởng lại
những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước
của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về
những đại sự của Ngài. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối
của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng
tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ
quyền năng ở giữa chư dân. - Ðáp.
3) Ngài đã ra tay thục mạng
dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và
Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi
hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
16, 24-28
"Người ta sẽ lấy gì mà đổi
được sự sống mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và
vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình
thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự
sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì
được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi vì Con Người sẽ đến trong
vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy
giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật,
Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không
nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cộng =
Trừ và Trừ
= Cộng
Hôm
nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật
về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở
chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
thì Người đồng thời
cũng phải là
một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới
chứng thực Người
quả là
"Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
Chúa Kitô, trong bài
Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối
sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là
một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu
ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo
Thầy".
Sau đó,
Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống
như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy,
hay đúng hơn cần
phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không
thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh
ký Luca: "Ai
không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27).
Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:
"Vì chưng, ai muốn
cứu sự sống
mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống
mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt
hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được
sự sống mình?"
Câu
tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo
trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc
cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp
bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn
chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay
sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì
nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì
còn mạng.
Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn
Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các
môn đệ của Người rằng nếu mắt của các
con hay tay của các con mà nên
cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt
nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn
nguyên toàn
thân lại bị
quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).
"Sự
sống mình"
mà Chúa bảo cần
phải mất đi để "được sự sống" đây
là gì, nếu không phải nếu "sự sống"
họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan
11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con
người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ
chính bản thân mình đi
- must deny his very self".
Việc
"phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này
không phải là việc họ tự hủy diệt bản
thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân
vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng
cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân
mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là
Chúa Kitô trong
thửa ruộng
thế gian thì đã
bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để
mua lấy thửa ruộng có kho tàng được
chôn giấu ấy
vậy (xem Mathêu 13:44).
Chúa
Kitô là "sự
sống" của
thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân
mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có
Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã
khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu
ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc
người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?".
Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự
chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết hết sức tầm
thường này để theo
Người cho tới cùng thì sau này sẽ được
phần thưởng xứng đáng bất diệt đời
sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con
Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của
Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo
việc họ làm".
Thế
nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người
cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ
theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những
bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử
thách để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên
một với Người là "sự sống" của họ mỗi
ngày một hơn.
Đúng thế, không có đức tin con người không thể nào bỏ mình và vác thập
giá mà theo Chúa được. Thế nhưng, con người cũng không thể nào tin vào
Thiên Chúa được nếu chính bản thân họ không được Ngài tỏ mình ra cho, để
qua đó họ có thể tin vào Ngài mỗi ngày một hơn đúng như mạc khải thần
linh của Ngài. Và đó là lý do những gì được nhân vật Moisen nhắc lại cho
dân Chúa nghe trong Bài Đọc 1 hôm nay, từ Sách Đệ Nhị Luật, đều là để
giúp cho dân Chúa nhớ lại và tái nhận thức về Vị Thiên Chúa chân thật
duy nhất của mình mà tin vào Ngài hơn, qua việc tuân giữ lề luật Ngài
ban như dấu hiệu trung thành với Ngài.
"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên
Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời
nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ
người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một
dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã
nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ,
điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến
khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như
Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các
ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các
ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài
Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe
tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của
Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã
yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông
ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao
cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân
tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban
đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện
nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng:
Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào
khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền
dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc,
và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Thánh Vịnh 76 ở bài Đáp Ca hôm nay đã tỏ ra tích cực đáp ứng lời kêu gọi
của ông Moisen trong Bài Đọc 1 hôm nay, với những nhận thức và tâm tình
đầy tin tưởng và xác tín như sau:
1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những
điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của
Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào
vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều
kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân.
3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp
và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn
chiên.
Thứ Bảy
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
6, 4-13
"Hãy yêu mến Chúa ngươi hết
lòng ngươi".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Hỡi
Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức
ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.
Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi
ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi
dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như
một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi.
"Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn
ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và
Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi
không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra,
những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi
không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã
dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa
là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà
thề".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17,
2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab
Ðáp: Lạy Chúa
là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực
con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh. -
Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn
động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ
phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát
khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá
Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho
vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của
Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv
129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng
rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17,
14-19
"Nếu các con có lòng tin, thì
chẳng có gì các con không làm được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ
gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai
tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa
và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng
các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng
tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu
đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu
quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc
ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con
không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu
lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt
cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi
kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ
Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài
Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà
là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ
câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu
1 đến 13 mở đầu đoạn
17 là bài Phúc Âm về
biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử
hành hôm Thứ Năm vừa rồi
(là ngày
6/8 trong tháng như năm
2015).
Bài Phúc Âm được Giáo
Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về
sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến
xin Người, vì môn đệ
của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:
"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói
rằng: 'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong
và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước.
Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó
được'".
Chính
các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các
vị không
trừ được quỉ, và đã được
Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy
giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không
thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng
tin!'"
Đó là lý do sau khi nghe ông
bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không
trừ được quỉ ra khỏi con ông ta,
Chúa Giêsu đã không than
trách chung dân chúng
và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho
bằng chính các
môn đệ của Người, thành
phần đã được Người ban cho quyền trừ
quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước
kia (xem
Mathêu 10:1) mà quyền
trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp
này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi
thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta
còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"
Như
thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu,
nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh
bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền
năng chiến
thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không
có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc
quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội.
Nếu "Con Thiên
Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8)
thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin
rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài
Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay
sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"
(Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị
Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan"
(Mathêu 16:23), vì
ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là
theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!
Trái lại, nếu các
tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn
làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp
của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa
Giêsu khẳng định
kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy
bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con
có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền
đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
"Nếu các con có
lòng tin lớn bằng hạt cải" đây
nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải
(xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám
chỉ Chúa
Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ
nhất) và phục sinh thăng thiên (cây
lớn nhất), thì "lòng
tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa
là "lòng
tin" của
các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng
tin" của
các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa
Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động
của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ
và qua họ.
Nếu "đức tin tỏ hiện
qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào
Chúa Kitô cũng được
hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình
yêu là thế, như trên vừa cảm nhận.
Đối với dân Do Thái thì đức tin của họ đưoọc tỏ hiện bằng việc họ kính
mến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, được thể hiện cụ thể qua
lòng tri ân của họ ở chỗ luôn nhớ đến những gì Ngài làm cho họ chỉ vì
thương yêu tuyển chọn họ. Và đó là lý do Moisen, trong Sách Nhị Luật ở
Bài Đọc 1 hôm nay, đã căn dặn và huấn dụ thành phần dân được ông theo
lệnh Chúa dẫn họ ra khỏi Ai Cập như sau:
"Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc
nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết
sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào
lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời
ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi
chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán
như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi."Khi Chúa là Thiên
Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là
Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và
phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà
ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và
vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ,
đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ.
Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người
và lấy danh Người mà thề".
Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 17, đã
chất chứa những tâm tình tin tưởng và kính mến Thiên Chúa như sau:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng,
chiến lũy, và cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên
thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu
cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ
bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.
Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần
thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học
thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi
các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ,
họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất
cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách
rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm
đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 —
không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập
Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận
tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ
côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ
ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ
chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập
một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm
sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu
anh hùng.
Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo
phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông
đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố
gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích
này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc
mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục
vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu
hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và
giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như
lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng
bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên
chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, “Chúa Cứu Thế chết trên thập giá.
Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố gắng phục
vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện,
chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài.”