SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXX Thường Niên 

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Trong Tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Xh 22, 21-27

"Nếu các ngươi hà hiếp các cô nhi quả phụ, Ta sẽ nổi giận các ngươi".

Trích sách Xuất Hành.

Ðây Chúa phán: "Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi.

"Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Ðấng thương xót".

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab

Ðáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 5c-10

"Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa để phụng sự Người và để trông đợi Con của Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em. Và anh em đã noi gương chúng tôi và noi gương Chúa, đã nhận lấy lời rao giảng giữa bao gian truân, với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo trong xứ Macêđônia và Akaia.

Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, "Ðấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại", là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mt 22, 34-40

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Ðó là lời Chúa.

 Samuel De La Rosa on Twitter: "Evangelio (Lc 11, 29-32) "... así como Jonas  fue una señal para los habitantes de Ninive, lo mismo será el Hijo del  hombre para la gente

Suy Nghiệm Lời Chúa:

"Allah Vĩ Đại" chống khủng bố

 

Theo chiều hướng sống đạo của thành phần “những người biệt phái” đặt vấn đề với Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Nhật XXX Thường Niên A, thì họ coi trọng Thiên Chúa hơn con người, nên họ giữ luật Ngài ban một cách kỹ lưỡng và cẩn thận, trong khi đó, họ lại khinh khi người khác, những con người bình dân không biết lề luật Chúa như họ, nhất là thành phần thu thuế và gái điếm sống phản lại với lề luật của Chúa.

Phải chăng đó là lý do, sau khi “nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?’" Dĩ nhiên câu họ mong đợi Chúa Giêsu trả lời cho họ sẽ theo đúng như ý nghĩ của họ, đúng như chủ trương sống đạo của họ, đó là Thiên Chúa trên hết, kiểu “Allah vĩ đại” của tín đồ Hồi giáo nói chung, nhất là của một số thành phần cuồng tín quá khích nói riêng, đến độ dám nhân danh Thiên Chúa để khủng bố, để sát nhân, và trước khi ra tay thì hô vang “Allah vĩ đại”.

Nhưng họ có ngờ đâu, Chúa Giêsu cũng làm cho cả họ nữa tịt ngòi không nói năng gì được nữa, chẳng khác gì “những người Sadốc câm miệng” trước họ, qua những gì Người trả lời cho thành phần không tin chuyện phục sinh về vấn đề người chết sống lại ở đoạn Phúc Âm trước đó mà Giáo Hội không chọn đọc tiếp ngay sau Bài Phúc Âm tuần XXIX Thường Niên Năm A vừa rồi.

Câu trả lời của Chúa Giêsu mà họ không ngờ và cũng để nhắc nhở thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật như họ trong dân chúng bao gồm cả mến Chúa lẫn yêu người, chứ không phải chỉ mến Chúa mà không yêu người, hay trong khi mến Chúa mà lại tỏ ra khinh người, bằng không, mến Chúa một cách bôi bác, què quặt, không thể nào có chuyện mến Chúa như thế, hay có chuyện mến Chúa chân thật ở đây.

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".

Trước khi liên kết bài Phúc Âm với Bài Đọc 1 và Bài Đọc 2 hôm nay cũng như với bài Đáp Ca, chúng ta hãy tìm hiểu cho thật rõ ràng ý nghĩa của hai giới răn được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ đó, chúng ta mới thấy được ý nghĩa của 2 bài Đọc 1 và Bài Đọc 2 hôm nay trong phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung.

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi", nghĩa là yêu Chúa hết mình, và "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", nghĩa là yêu người như mình.

Vậy, thế nào là yêu Chúa hết mình: Nếu không phải là "yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Theo thứ tự thì "hết lòng" trước, rồi mới tới "hết linh hồn" và sau hết là "hết trí khôn". Tại sao không theo thứ tự khác? Như ở Phúc Âm Thánh Luca (10:27) "hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn". Thật ra, cả hai Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Luca đều trích lại từ Sách Đệ Nhị Luật (6:4-5): "hết tấm lòng, hết linh hồn và hết sức lực". Nếu căn cứ vào gốc của câu thì trước tiên là "yêu Chúa hết tấm lòng", sau đó tới "yêu Chúa hết linh hồn" và sau cùng mới đến "yêu Chúa hết sức lực", cả 3 đều phải liên kết với nhau bất khả thiếu và bất khả phân ly. Tại sao?

Có thể suy luận như thế này: "yêu Chúa hết tấm lòng" đây có nghĩa là thật sự cảm nhận được lòng Chúa yêu thương mình, ở chỗ, ý thức về bản thân mình là một tạo vật vô cùng thấp hèn và chẳng có công lênh gì mà được Ngài đoái thương, đó là ý nghĩa "yêu Chúa hết linh hồn", nhờ đó, và chỉ có thế, mới có thể "yêu Chúa hết sức mình" của mình, ở chỗ đáp lại lòng thương yêu nhưng không vô cùng của Chúa đối với mình, bằng cách tuân theo tất cả những gì Chúa muốn nơi mình, và cũng nhờ đó, mà mới có thể "yêu người như bản thân mình".

Và thế nào là yêu người như mình: Nếu "yêu người như bản thân mình" chỉ ở chỗ công bằng: về tiêu cực, mình không muốn người khác làm cho mình điều gì (chẳng hạn không muốn ai nói xấu mình, ăn trộm của mình, sát hại mình v.v.) thì cũng đừng làm cho họ như vậy (theo Khổng giáo), và về phần tích cực, mình muốn muốn người khác làm cho mình điều gì (như thông cảm tha thứ cho mình, hoặc giúp đỡ mình khi cần, giữ lời hứa với mình v.v.) thì hãy làm cho họ như vậy (xem mathêu 7:12), thì thứ luật vàng này vẫn không thể coi ngang hàng với "cũng giống giới răn thứ nhất và trọng nhất" là yêu Chúa hết mình, mà chỉ có tính cách nhân bản và thuần nhân bản, thuộc tầm mứcc loài người với nhau hơn là thần linh cao trọng.

Đúng thế, chỉ khi nào chúng ta cảm nghiệm thấy được tình yêu vô cùng nhân hậu đới với loài người tạo vật thấp hèn xấu xa tội lỗi bất xứng của chúng ta, thì bấy giờ, chúng ta mới có thể "yêu người chính bản thân mình", nghĩa là "như" chúng ta được Chúa yêu, hay nói cách khác, chúng ta được Chúa yêu thương "như" thế nào thì chúng ta cũng yêu thương người khác "như " vậy, dù họ có thể nào chăng nữa, có hèn kém hơn chúng ta, có xấu xa đến mấy, có đáng khinh đến đâu, có là kẻ thù của chúng ta chăng nữa. Vì chúng ta đã để cho tình yêu thương của Chúa đối với chúng ta ấy, từ chúng ta, qua các tác động đức ái trọn hảo của chúng ta, tràn đến tha nhân như thế, mà tình yêu tha nhân của chúng ta mới "trọng nhất".

Chúng ta cứ đọc Bài Đọc 1 - nhấn mạnh đến yêu người, và Bài Đọc 2 - nhấn mạnh đến mến Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra được ý nghĩa thật sự của giới luật "thứ nhất và trọng nhất" liên quan đến phần hai của một giới luật duy nhất "yêu người như chính bản thân mình", ở chỗ, cả 2 Bài đọc đều cho thấy yêu người như mình từ yêu Chúa hết mình.  

Thật vậy, nếu thành phần đặt vấn đề trong bài Phúc Âm hôm nay, một vấn đề mà họ tự cho mình là thành phần thông luật và dạy luật trong dân thì họ phải biết những gì Thiên Chúa đã qui định và nhắc nhủ cha ông họ cũng như cho chính họ trong lề luật của Ngài chứ, điển hình như những gì Ngài phán qua Moisen là vị trung gian của Ngài sai đến cứu dân tộc của họ khỏi thân phận làm tôi bên Ai Cập ở trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều: vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai-cập. Các ngươi đừng làm hại cô nhi quả phụ. Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, họ sẽ kêu thấu đến Ta, và chính Ta đã nghe tiếng họ kêu van. Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa, và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi”.

Ai cho mình là tin Thiên Chúa và “yêu mến Chúa là Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” của mình, nhưng lại không “yêu thương kẻ khác như chính mình” thì kẻ ấy vẫn còn đang lầm lạc, đang vô tình tôn thờ ngẫu tượng mà không biết, chưa thực sự nhận biết Thiên Chúa là ai và như thế nào, tưởng Ngài là một vị Thiên Chúa vô cùng công minh chính trực, chỉ biết giáng phạt, chẳng khác nào như một ác thần hay hung thần, hơn là một vị Thiên Chúa như chính Ngài đã tự nhận trong Bài Đọc 1 hôm nay: “Ta là Đấng Thương Xót”. Nghĩa là chúng ta được Thiên Chúa xót thương thế nào thì hãy thương nhau "như" vậy, và cũng có nghĩa là con người chỉ cảm nghiệm thấy được lòng thương xót Chúa họ mới có thể thương nhau thôi.

Nếu Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái trong going lịch sử cứu độ của họ là một ác thần hay hung thần thì chính dân Do Thái đã bị Ngài tiêu diệt từ lâu rồi, ngay khi họ quay lưng phản bội Ngài bằng việc tôn thờ con bò vàng của họ khi Moisen lên núi lãnh nhận hai bia đá lề luật của Thiên Chúa. Một hung thần hay ác thần lúc nào cũng có thể nổi cơn thịnh nộ trước con người vô cùng hèn yếu, xấu xa tội lỗi và thẳng tay trừng phạt họ thì chẳng bao giờ truyền dạy con người những lời lẽ ở trong Bài Đọc 1 hôm nay:

"Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm, và chớ bắt nó chịu lãi nặng. Nếu ngươi nhận áo sống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn: vì nó chỉ có một áo ấy che thân, và không còn chiếc nào khác mặc để ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, Ta sẽ nhậm lời nó, vì Ta là Ðấng thương xót".

Đó là lý do, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, ở trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở Kitô hữu dân ngoại thành Thessalonica qua Thư Thứ Nhất ngài gửi cho họ về đời sống đạo chân chính của họ như sau: “Anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, ‘Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại’, là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến”.

Sở dĩ  thành phần dân ngoại ở Thessalonica trở thành Kitô hữu sống đạo một cách chân chính như thể là vì  họ đã “noi gương chúng tôi và noi gương Chúa”, một gương mẫu mến Chúa yêu người:  Anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em”, hay đúng hơn một tấm gương vì Chúa mà thương người, nhờ đó, tấm gương này đã trở  nên như hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, và nhờ đó người khác nhận biết Chúa mà trở về với Ngài, như chính vị tông đồ dân ngoại Phaolô, vị đã từng là một biệt phái mến Chúa nhưng không yêu người, ở chỗ, vì chỉ  nhiệt thành hay quá  nhiệt thành với Chúa nên đã đi bách hại Kitô hữu, nay chàng Saolê hung hăng mù quáng ấy lại trở thành nhân chứng trung thực và sống động hơn ai hết của Lòng Thương Xót Chúa giữa muôn dân.

Tuy nhiên, để được như vậy, để có thể “bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật”, không phải là chuyện dễ, con người tự mình mù quáng không thể làm được, nếu không có ơn Chúa, nếu không được Thiên Chúa ra tay cứu độ, điển hình nhất là trường hợp của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô. Bởi thế, Thánh Vịnh 17 ở Bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa những cảm thức đầy xác tín và chí lý sau đây:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca ngợi khen cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.

3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.

 




​​

 

Thứ Hai

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 12-17

"Anh em đã nhận lãnh tinh thần nghĩa tử, trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống.

Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 67, 2 và 4. 6-7ab. 20-21

Ðáp: Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ (c. 21a).

Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. - Ðáp.

2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần. - Ðáp.

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 10-17

"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.

Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".

Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?"

Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.

Ðó là lời Chúa. 

Image result for Lc 13, 10-17

Suy Nghiệm Lời Chúa:

 

Chữa lành hơn là trừ quỉ


m nay, Thứ Hai Tuần XXX Thường Niên, bài Phúc Âm thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho người đàn bà khòm lưng 18 năm trường ở trong hội đường vào một ngày hưu lễ.

"Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".

Sở dĩ người đàn bà này bị khòm lưng 18 năm như vậy không phải là vì bà bị dị tật bẩm sinh ngay từ khi mới sinh, hay vì một chứng bệnh quái lạ nào khác, hoặc vì bị tai nạn vào một lúc nào đó trong đời của bà, mà là vì "bà bị quỷ ám". Chính Chúa Giêsu cũng đã xác định hiện tượng này trong câu Người cảnh giác "viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat" và "tất cả những kẻ chống đối Người": "Người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm naychớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?". 

Trong biến cố chữa lành này, Chúa Giêsu đã tự động ra tay chứ không cần phải chờ cho tới khi nữ nạn nhân khòm lưng 18 năm đáng thương này kêu xin Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: 'Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà'. Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa".

Chắc đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gặp nữ nạn nhân đáng thương này và bà cũng bắt gặp Người lần đầu tiên, trong một hội đường, nơi có thể bà hằng tuần đến nghe lời Chúa, và cũng là nơi có thể Chúa Giêsu mới tới lần đầu. Không biết bà đã nghe ai nói về Người hay chưa, về các phép lạ Người làm, mà bà khi nghe thấy Chúa Giêsu giảng dạy khôn ngoan hơn các luật sĩ và biệt phái như thế mà cũng vô cảm, như không biết Người là ai, trong khi đó người mù ngồi ăn xin ở vệ đường ở thành Giêricô, như trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B cho thấy, đã nhào đến van xin Người chữa lành đôi mắt của anh ta cho bằng được.

Có thể bà cần phải nhìn thấy dung nhan vô cùng hiền hậu và ánh mắt chinh phục của Người nữa bà mới có thể nhận biết Người là ai và như thế nào, trong khi đó, như Phúc Âm thuật lại, "bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được". Ở đây, chúng ta thấy hai hình ảnh rất sâu xa:

Trước hết, vì con người "không thể trông lên được", không biết Chúa là ai, mà Thiên Chúa cần phải đến với con người trước, cần phải đoái trông đến con người, để chính Ngài làm cho họ có thể như nữ nạn nhân khòm lưng "đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa", nghĩa là có thể ngước trông lên Ngài, có thể nhận biết Ngài, có thể theo Ngài, có thể làm cho Ngài được nhận biết và yêu mến.

Sau nữa, hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, do ma quỉ là "tên sát nhân ngay từ ban đầu" (Gioan 8:44), cho dù họ có được thánh tẩy bởi Phép Rửa, cũng vẫn đầy những mầm mống tội lỗi và đam mê nết xấu, liên lỉ xu hướng về tội lỗi ("khòm lưng" luôn chúi đầu và chúi mặt xuống đất), có thể vấp ngã bất cứ lúc nào (người khòm lưng, chứ không phải gù lưng, rất dễ ngã xuống đất, nếu nhỡ có một ai đó đụng vào sau lưng, như thể bị ma quỉ cám dỗ xúi bậy).  

Tại sao trong trường hợp này Chúa Giêsu không trừ quỉ cho người đàn bà khòm lưng 18 năm này, mà lại chữa lành cho bà thôi, không như trường hợp Người đã trừ quỉ cho một người bị câm do quỉ ám (xem Mathêu 9:32-33)? Thật ra, chữa lành cho nữ nạn nhân cho khỏi bị khòm lưng này cũng là cách gián tiếp trừ quỉ, là cách "tháo xiềng xích" mà satan đã "cột trói" bà, bởi vì nếu quỉ không bị Người khu trừ khỏi bà thì bà vẫn còn bị khòm lưng như thường. 

Trường hợp không trừ quỉ mà chỉ chữa lành này cũng tương tự như trường hợp Người đã chữa lành cho một người bất toại là để chứng tỏ Người có quyền tha tội của Người, một quyền hành Người thực sự có mà nếu Người quả thực không tha được tội cho người bất toại là nguyên nhân gây ra hậu quả tật nguyện của người này, thì Người cũng không chữa lành cho nạn nhân bất toại ấy được (xem Mathêu 9:1-8). 

Hình ảnh người đàn bà "khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được đây", gây ra bởi bị quỉ ám, như trên đã cảm nhận, là hình ảnh con người nói chung đã vướng mắc nguyên tội, nên luôn sống theo xác thịt, luôn hướng hạ ("khòm lưng" - một tật nguyền khiến con người không bao giờ thấy trời, ám chỉ họ không thể nào hướng thượng, mà chỉ thấy đất, chỉ luôn hướng hạ, hướng về trần tục tầm thường, chiều theo xác thịt hèn hạ, có thể sa ngã bất cứ lúc nào). Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã khuyên nhủ Kitô hữu Rôma đừng sống theo xác thịt chết chóc mà hãy sống theo thần trí sự sống như sau:

"Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống. Những ai sống theo Thánh Thần Thiên Chúa, thì là con cái Thiên Chúa. Vì không phải anh em đã nhận tinh thần nô lệ trong sợ hãi nữa, nhưng đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: "Abba, lạy Cha". Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự: nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Ðức Kitô, vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người".

Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy một vị Thiên Chúa cứu độ, một khi Ngài "đứng lên", như hành động tự ý chữ lành của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, thì không một quyền lực nào có thể chống lại được Ngài, trái lại, còn làm cho "quân thù của Ngài tan rã" nữa, như tên quỉ ám ác độc trong bài Phúc Âm hôm nay, vì Ngài "là Cha kẻ mồ côi", không thể nào không "bênh vực người quả phụ", như trường hợp của người đàn bà khòm lưng 18 năm trong bài Phúc Âm hôm nay. 

1) Thiên Chúa đứng lên, quân thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Nhưng người hiền đức mừng rỡ hỉ hoan, trước nhan Thiên Chúa, họ mừng vui sung sướng. 

2) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt. 

3) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày kia! Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Người vác đỡ gánh nặng chúng tôi. Thiên Chúa chúng tôi là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay tử thần.

 

 

 

Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 18-25

"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa.

Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta.

Vì chưng nhờ niềm cậy trông mà chúng ta được cứu độ. Nhưng hễ nhìn thấy điều mình hy vọng thì không phải là hy vọng nữa. Vì ai đã thấy điều gì rồi, đâu còn hy vọng nó nữa? Nhưng nếu chúng ta hy vọng điều chúng ta không trông thấy, chúng ta sẽ kiên tâm trông đợi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi (c. 3a).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 34

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 18-21

"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 18-21

Suy Nghiệm Lời Chúa:


Nước Thiên Chúa là một sự sống phát triển


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Ba Tuần XXX Thường Niên, thuật lại 2 dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để sánh ví về "Nước Thiên Chúa" như sau:

Dụ ngôn thứ nhất: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Dụ ngôn thứ hai: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".

Trong cả hai dụ ngôn này đều cho thấy sự sống của "Nước Thiên Chúa", được tỏ hiện qua sự phát triển của sự sống siêu nhiên và thiêng liêng này, một sự sống thần linh, trước hết, bắt nguồn chỉ là một cái mầm, nhỏ như là một "hạt cải", nhưng sau đó đã "mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Phải chăng "hạt cải" đây ám chỉ đức tin, "người kia" đây ám chỉ Chúa Kitô, "gieo" đây ám chỉ việc Chúa Kitô tỏ mình ra, nhất là qua cuộc Vượt Qua của Người, "trong ruộng mình" đây ám chỉ trên thế gian này? Nếu những diễn giải theo suy đoán này không sai thì ý nghĩa của dụ ngôn này có thể hiểu là Nước Trời giống như đức tin cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trên thế gian này vậy. 

Chính đức tin cứu độ này, một khi "mọc lên", hình ảnh ám chỉ một Chúa Kitô Phục Sinh, thì sẽ "trở thành một cây to" ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô, một cộng đồng đức tin, đồng thời cũng là một bí tích cứu độ trần gian của Người và với người, một phương tiện cứu độ các linh hồn như "chim trời đến nương náu trên ngành nó".

Sự phát triển tiêu biểu cho sự sống thần linh này còn được ví như "tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men". 

Phải chăng "tấm men" đây ám chỉ lời Chúa hay Phúc Âm và bí tích thánh (Phụng Vụ Thánh Thể); "người đàn bà kia" ám chỉ Giáo Hội; "bỏ vào" ám chỉ áp dụng, cử hành, ban phát; "ba đấu bột" ám chỉ 3 thành phần làm nên cộng đồng dân Chúa, cộng đồng đức tin, đó là giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ (tất nhiên giáo sĩ bao gồm cả hàng giáo phẩm); "đều dậy men" ám chỉ các phần tử của Giáo Hội được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô để sinh muôn vàn hoa trái thiêng liêng?

Đến đây, nếu các dẫn giải vừa được suy diễn không sai, thì chúng ta thấy 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" này, một liên quan đến "hạt cải" và một liên quan đến "tấm men" liên hệ với nhau. Ở chỗ, một dụ ngôn liên quan đến sứ vụ của Chúa Kitô ("người kia", rõ hơn là "người đàn ông kia - a man") trong công cuộc gieo vãi đức tin cứu độ ("hạt cải") trên thế gian, và một dụ ngôn liên quan đến vai trò của Giáo Hội ("người đàn bà kia") trong việc làm cho 3 thành phần chính yếu của Giáo Hội được thấm nhuần tinh thần và sự sống của Chúa Kitô. 

Đức tin cứu độ và Giáo Hội Chúa Kitô dường như được Chúa Kitô ám chỉ trong 2 dụ ngôn về "Nước Thiên Chúa" trong bài Phúc Âm hôm nay chính là những yếu tố chính yếu bất khả thiếu cho tình trạng phục hồi của tất cả thiên nhiên tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên cho con người nhưng vì tội lỗi của con người mà "rên siết và đau đớn" nên vẫn hằng "ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa", như Thánh Tông Đồ Phaolô cảm nhận, xác tín và khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:

"Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt chúng phải tùng phục, với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta nữa, là những kẻ đã được hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa và ơn cứu độ thân xác chúng ta".

Bài Đáp Ca hôm nay, cũng y hệt bài Đáp Ca Chúa Nhật XXX Thường Niên đầu tuần, nhưng hôm nay phản ảnh tình trạng của "Các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa" trong Bài Đọc 2 cho năm lẻ hôm nay:

1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. 

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. 

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận của tôi, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. 

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo; họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. 

 

 

Thứ Tư

 

 

Ngày 1 tháng 11

Lễ Các Thánh Nam Nữ

Lễ Trọng

 

 

Đại Lễ kính toàn thể Các Thánh Nam Nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những người đã được Chúa Ki-tô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.

 

Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Mai)

 

Quỳ lạy Đấng Cứu Tinh cao cả,
Xin cứu dân Ngài đã chuộc về,
Cậy trông Thánh Mẫu quyền uy
Ra tay tế độ phù trì chúng sinh.

Xin toàn thể đạo binh thiên sứ,
Và ngàn muôn tổ phụ bao đời
Hợp cùng ngôn sứ muôn nơi
Chuyển cầu cho hết mọi người trần gian.

Khấn nguyện thánh Gio-an Tẩy Giả,
Thánh Phê-rô giữ cửa thiên đàng,
Bậc tông đồ Chúa cao sang,
Xích xiềng tội lỗi xin thương giải trừ.

Hàng tử đạo năm châu bốn bể,
Và chư huynh tư tế hiển vinh,
Cùng bao liệt nữ trung trinh,
Xin mau rửa sạch tội tình chúng tôi.

Mong các thánh sống đời ẩn sĩ,
Cùng chư tôn liệt vị Nước Trời
Cầu thay nguyện giúp chúng tôi,
Đáng cho Chúa thưởng cuộc đời kiên trung.

Lời vinh chúc tán dương cảm tạ,
Dâng Ba Ngôi một Chúa thiên đình
Hằng ban phúc lộc trường sinh
Cho hàng thần thánh hiển vinh muôn đời.

 

Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14

"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel.

Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".

Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng: "Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen". Rồi một trong các trưởng lão lên tiếng hỏi rằng: "Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu mà đến?" Tôi đáp lại rằng: "Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người bảo tôi rằng: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Ðáp.

2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong thánh điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng xuôi theo sự giả trá. - Ðáp.

3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa, Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan Thiên Chúa của Giacóp. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3

"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".

Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người. Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Mc 11, 28

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Chúng ta hãy mau đến với các anh em đang chờ đợi chúng ta

(Giờ Kinh Sách Phụng Vụ 1-11)

Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ.

Chúng ta ca ngợi các thánh để làm gì ? Chúng ta tôn vinh các thánh để làm gì ? Chúng ta mừng ngày đại lễ này để làm gì ? Những vinh dự trần gian ích gì cho các ngài, một khi Chúa Cha trên trời tôn vinh các ngài đúng như lời Chúa Con đã hứa ? Lời tán dương của chúng ta ích gì cho các ngài ? Các thánh không cần chúng ta tôn vinh và lòng tôn kính của chúng ta cũng chẳng thêm gì cho các ngài. Thật ra, chúng ta kính nhớ các ngài thì ích lợi cho chúng ta chứ không phải cho các ngài. Phần tôi, tôi phải thú thật là khi tưởng nhớ các ngài, tôi cảm thấy bừng lên trong tôi một khát vọng mãnh liệt.

Thật vậy, việc kính nhớ các thánh hoặc khơi lên hoặc thôi thúc mãnh liệt hơn trong ta niềm khát vọng đầu tiên này : đó là mong được họp đoàn với các ngài, được xứng đáng làm người đồng hương và làm bạn hữu với các thánh, được liên kết với chư vị tổ phụ, với hàng ngôn sứ, với bậc tông đồ, với hàng hàng lớp lớp các vị tử đạo, với cộng đoàn các vị tuyên xưng đức tin, với đoàn trinh nữ. Tóm lại, chúng ta được hân hoan sum họp trong mối dây hiệp thông với toàn thể các thánh. Cộng đoàn các con đầu lòng của Thiên Chúa đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn vô tình ! Các thánh đang mong chúng ta, thế mà chúng ta lại coi thường ! Các bậc công chính đang đợi chúng ta, thế mà chúng ta vẫn hờ hững !

Cuối cùng, thưa anh em, chúng ta hãy thức dậy, hãy trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô. Chúng ta hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Chúng ta hãy mong những người đang mong chúng ta, hãy mau đến với những người đang đợi chúng ta, hãy hết lòng ước nguyện tiến đến với những người đang chờ chúng ta. Không những chúng ta phải ao ước được hợp đoàn với các thánh, mà còn phải ao ước được chia sẻ hạnh phúc với các ngài, để khi chúng ta mong được ở với các ngài, thì chúng ta cũng nóng lòng ôm ấp tham vọng được chia sẻ vinh quang với các ngài. Quả vậy, ôm ấp tham vọng như thế chẳng có chi là xấu xa, khao khát được vinh quang như thế không có gì là nguy hiểm.

Việc kính nhớ các thánh đốt lên trong chúng ta khát vọng thứ hai : đó là mong mỏi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta, xuất hiện cho các thánh thế nào thì Người cũng xuất hiện cho chúng ta như thế, và chúng ta cũng được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang. Trong khi chờ đợi, hẳn nhiên Người tỏ mình ra cho chúng ta không phải theo bản chất thường hằng của Người, nhưng theo thân phận Người đã đón nhận vì chúng ta : Người cho thấy Người là đầu của chúng ta, nhưng không phải là đầu đội triều thiên vinh quang, mà là đầu cuốn vòng gai vì tội lỗi chúng ta. Thật đáng xấu hổ khi đầu đội vòng gai mà một chi thể lại theo đuổi lạc thú, vì toàn thể chiếc áo đỏ thẫm khoác trên mình Người chưa phải là áo vinh dự cho bằng là áo nhạo cười. Sẽ có ngày Đức Ki-tô ngự đến, và ngày đó không còn phải loan báo về cái chết của Người nữa, để chúng ta biết rằng chính chúng ta cũng đã chết và sự sống của chúng ta hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô. Đầu hiển vinh sẽ xuất hiện và, cùng với đầu, các chi thể đã được tôn vinh sẽ chiếu sáng, khi Người biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống đầu vinh hiển là chính Người.

Vậy chúng ta hãy hết lòng bền chí khát khao vinh quang ấy. Và để chúng ta có quyền hy vọng đạt tới vinh quang ấy, có quyền hướng tới hạnh phúc lớn lao chừng ấy, chúng ta cũng phải hết sức ước ao được các thánh cầu nguyện cho, ngõ hầu những gì tự sức chúng ta không xin được, thì nhờ lời chuyển cầu của các ngài, Chúa sẽ ban cho chúng ta.

 

 

 Đức Thánh Cha Phanxicô - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Các Thánh 1/11/2015   

"Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền 'ấn tín' ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị 'thấy Thiên Chúa như Ngài là'".

 

Xin chào Anh Chị Em thân mến và chúc mừng ngày quan thày!


Trong việc cử hành hôm nay, Lễ Các Thánh, chúng ta cảm thấy thực tại Các Thánh Thông Công đặc biệt trở nên sống động, tức là đại gia đình của chúng ta, được làm nên bởi tất cả mọi phần tử của Giáo Hội, có thành phần chúng ta còn đang h
ành trình trên trần gian, có những người - đông đảo hơn - đã ra khỏi trần gian và đã về Trời. Tất cả chúng ta đều được hiệp nhất, được gọi là "Các Thánh Thông Công", tức là cộng đồng của tất cả những ai đã lãnh nhận Phép Rửa. 


Trong phụng vụ, Sách Khải Huyền nhắc nhở chúng ta một đặc tính thiết yếu của các thánh như thế này: các vị là những con người h
oàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Cuốn Sách này cho thấy các vị là một đám đông "được tuyển chọn", mặc áo trắng và có in "ấn tín của Thiên Chúa" (7:2-4,9-14). Qua cái cá biệt cuối cùng này, được nhấn mạnh bằng thứ ngôn từ bóng bẩy, cho thấy các thánh thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn và chuyên biệt; các vị là tài sản của Ngài. Mang ấn tín của Thiên Chúa trong đời sống của mình và nơi con người của mình nghĩa là gì? Tông Đồ Gioan cũng cho biết rằng nó có nghĩa là trong Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa (xem 1Gioan 3:1-3). 


Chúng ta có nhận thức được đại tặng ân này hay chăng? Chúng ta có nhớ rằng nơi Phép Rửa chúng ta đã được Cha Trên Trời "niêm ấn" và đã trở nên con cái của Ngài hay chăng? Nói đơn giản là 
chúng ta mang tên họ của Thiên Chúa, tên họ của chúng ta là Thiên Chúa, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Đây là gốc gác của ơn gọi nên thánh! Các thánh chúng ta tưởng nhớ hôm nay chính là những ai sống trong ân sủng của Bí Tích Rửa Tội các vị lãnh nhận, các vị giữ nguyên tuyền "ấn tín" ấy, tác hành như là thành phần con cái của Thiên Chúa, tìm cách noi gương bắt chước Chúa Giêsu, và giờ đây các vị đã đạt tới đích điểm của các vị ở chỗ cuối cùng các vị "thấy Thiên Chúa như Ngài là".


Đặc tính thứ hai thích đáng với các thánh đó là 
các vị trở nên những tấm gương để bắt chước. Chúng ta hãy lưu ý nhé: chẳng những các vị Thánh được tôn phong mà có thể nói cả những vị Thánh "ở bên cạnh" chúng ta, những vị nhờ ơn Chúa đã nỗ lực thực hành Phúc Âm nơi những cái thường tình trong đời sống của họ. Chúng ta cũng đã gặp những vị Thánh này: có lẽ chúng ta đã có một ai đó trong gia đình của chúng ta, hay trong số bạn bè quen biết của chúng ta. Chúng ta cần phải biết ơn họ và nhất là cần phải tạ ơn Chúa là Đấng đã ban họ cho chúng ta, Đấng đặt họ gần chúng ta, như là những tấm gương sống động và lây lan về cách sống chết trung thành với Chúa Giêsu cũng như với Phúc Âm của Người. Biết bao người tốt lành chúng ta đã biết đến và đang biết đến và chúng ta nói rằng: "Người này là một vị Thánh!", chúng ta nói như thế một cách bộc phát. Đó là những vị Thánh kề bên chúng ta, những vị chưa được tôn phong nhưng đang sống với chúng ta.


Để bắt chước các hành vi cử chỉ yêu thương và nhân hậu của họ là một cái gì đó như thể kéo dài sự hiện diện của họ trên thế gian này. Thật vậy, 
những hành vi cử chỉ phúc âm ấy là những hành vi cử chỉ duy nhất chống lại cái hủy hoại của sự chết: một hành động êm ái dịu dàng, một hành động quảng đại giúp đáp, giành thời gian lắng nghe, một cuộc viếng thăm, một lời nói tử tế, một nụ cười tươi... Những hành vi cử chỉ này có vẻ tầm thường chẳng là gì trước con mắt của chúng ta, thế nhưng trước con mắt của Thiên Chúa chúng lại là những gì thường hằng, vì tình yêu và lòng thương cảm mạnh hơn cả sự chết. 


Chớ gì Trinh Nữ Maria, Nữ Vương Các Thánh, giúp chúng ta tin tưởng hơn nữa vào ân sủng của Thiên Chúa, tiến bước nhanh chóng
 trên đường thánh thiện. Chúng ta hãy ký thác cho Người Mẹ của chúng ta nỗ lực hằng ngày của chúng ta, và chúng ta cũng nguyện cầu cùng Mẹ cho kẻ chết của chúng ta với niềm hy vọng sâu xa rằng chúng ta sẽ được gặp lại họ một ngày kia tất cả cùng nhau ở trong mối hiệp thông vinh hiển trên Thiên Đàng.  

http://www.zenit.org/en/articles/full-text-pope-s-angelus-address--3

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)

 

ĐTC PHANXICÔ: HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ CÁC THÁNH THỨ TƯ NGÀY 1-11-2017

"Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm"

 

Xin chào và mừng lễ Anh Chị Em thân mến!

Lễ Trọng Các Thánh là lễ của "chúng ta", không phải vì chúng ta tốt lành mà vì sự thánh thiện của Thiên Chúa đã đụng chạm tới chúng ta. Các Thánh không phải là những mẫu gương mô phạm hoàn hảo, mà là những con người được Thiên Chúa đụng chạm. Chúng ta có thể so sánh các vị với những cửa sổ ở các nhà thờ, nơi ánh sáng lọt qua bằng các bóng mầu khác nhau. Các Thánh là những người anh chị em của chúng ta, thành phần đã lãnh nhận ánh sáng của Thiên Chúa nơi tâm hồn của mình và truyền đạt ánh sáng này cho thế giới, mỗi vị theo cái bóng của mình. Tuy nhiên, tất cả các vị đều trong sáng; các vị đã chiến đấu để loài bỏ đi các dấu vết và bóng tối của tội lỗi, để cho ánh sáng tốt lành của Thiên Chúa chiếu qua. Đó là mục đích của đời sống: để cho ánh sáng của Thiên Chúa chiếu qua nhờ đó đời sống của chúng ta cũng mới có mục đích.

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu hướng về thành phần của Người, về tất cả chúng ta, mà nói với chúng ta rằng "Phúc thay - Blessed" (Mathêu 5:3). Người đã mở đầu việc giảng dạy của Người bằng lời ấy, có nghĩa là "Phúc Âm - Gospel", là Tin Mừng - Good News, vì đó là lối sống hạnh phúc. Ai ở với Chúa Giêsu thì có phúc - blessed, thì hạnh phúc - happy. Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Hạnh phúc không phải là ở chỗ có một cái gì đó hay trở nên một ai đó, không phải thế. Hạnh phúc thật là ở với Chúa và sống cho tình yêu. Anh chị em có tin như thế chăng? Chúng ta cần phải tiến tới chỗ tin như thế. Bấy giờ các thứ yếu tố làm thành một đời sống hạnh phúc mới được gọi là các mối Phúc Đức - Beatitudes: phúc cho ai đơn sơ, cho ai khiêm hạ biết giành chỗ cho Thiên Chúa, những người có thể khóc thương kẻ khác và khóc vì lầm lỗi của mình, những người hiền lành, chiến đấu cho công lý, biết thương xót tất cả mọi người, biết canh giữ tính chất tinh tuyền của tâm can, luôn hoạt động cho hòa bình và sống hân hoan; họ không biết thù ghét, thậm chí ngay cả khi chịu khổ đau, họ đáp lại sự dữ bằng sự lành.

Đó là những mối Phúc Đức. Chúng không đòi hỏi những cử chỉ hào nhoáng; chúng không giành cho thánh phần siêu việt - supermen, mà là cho những ai sống các thứ thách đố và khốn khó hằng ngày, mà là cho chúng ta. Các Thánh là như thế đó: như tất cả chúng ta, các vị hít thở bầu khí phóng uế của sự dữ xầy ra trên thế giới này; tuy nhiên, trong cuộc hành trình các vị vẫn không bao giờ lạc mất dấu vết của Chúa Giêsu - Jesus' trace, được nói đến trong các mối Phúc Đức, như tấm bản đồ của đời sống Kitô hữu. Hôm nay là lễ của những ai đã đạt tới đích điểm được phác họa nơi tấm bản đồ ấy: không những của các Thánh nhân theo niên lịch, mà còn cả của rất nhiều anh chị em "cận kề" chúng ta nữa, những con người có lẽ chúng ta đã gặp gỡ và biết đến. Đó là một lễ của gia đình - a family feast, của nhiều con người đơn sơ và kín đáo thực sự giúp Thiên Chúa trong việc đẩy mạnh thế giới này. Có rất nhiều người hôm nay đây! Rất nhiều. Xin cám ơn những người anh chị em ẩn danh đang giúp Thiên Chúa đẩy mạnh thế giới này, những con người sống giữa chúng ta. Chúng ta chào họ bằng một tràng pháo tay nhiệt liệt!

Trước hết - hãy nói đến mối Phúc Đức thứ nhất - họ là những người "có tinh thần nghèo khó" (Mathêu 5:3). Nghĩa là gì? Nghĩa là họ không sống vì thành đạt, quyền năng và tiền của; họ biết rằng ai tích lũy giầu sang phú quí cho bản thân mình thì không làm giầu trước nhan Thiên Chúa (xem Luca 12:21). Trái lại, họ tin rằng Chúa mới là kho tàng của đời sống, tình yêu thương tha nhân là nguồn lợi tức duy nhất thực sự. Đôi khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc về một cái gì đó chúng ta đang thiếu hay quan tâm, một khi chúng ta không được cứu xét đến như chúng ta mong muốn; chúng ta hãy nhớ rằng mối Phúc Đức của chúng ta không ở trên đời này, mà là ở trong Chúa và nơi tình yêu thương: con người thực sự có phúc chỉ khi nào ở với Người, chỉ ở chỗ yêu thương mà thôi.

Sau hết, tôi muốn nói đến một mối Phúc Đức khác, mối phúc đức không có trong Phúc Âm mà là ở cuối cuốn Thánh Kinh, mối phúc đức về việc kết thúc đời sống: "Phúc cho thành phần chết trong Chúa" (Khải Huyền 14:13). Ngày mai chúng ta sẽ được kêu gọi hỗ trợ người chết của chúng ta bằng việc cầu nguyện, nhờ đó họ được hoan hỉ muôn đời trong Chúa. Chúng ta hãy tưởng nhớ đến những người thân yêu của chúng ta bằng tấm lòng tri ân và chúng ta hãy nguyện cầu cho họ.

Xin Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Các Thánh và là Cửa Thiên Đàng, chuyển cầu cho cuộc hành trình nên thánh của chúng ta và cho những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và giờ đây đang ở quê hương thiên đình.

https://zenit.org/articles/angelus-address-solemnity-of-all-saints/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu 

Thiên Chúa ngự giữa triều thần thánh. Chúng ta hãy vui sướng cầu xin :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Lạy Chúa, cùng với các thiên thần, các tổ phụ và ngôn sứ, chúng con xin dâng lời ca tụng :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Thân Mẫu Chúa Cứu Thế, chúng con xin khen ngợi suy tôn :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các Tông Đồ và môn đệ Chúa Giê-su, cùng với các tác giả Sách Tin Mừng, chúng con xin chân thành cảm tạ :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các nhân chứng của Đức Ki-tô, chúng con xin dâng cả xác hồn làm lễ tế :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Cùng với các thánh nam nữ, thành phần của Giáo Hội, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Chúa :

Vinh danh Thiên Chúa trên trời !

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin

 

 


Thứ Tư

 

(Nếu ngày này không trùng với và bị át đi bởi Lễ Trọng Kính Các Thánh trên đây)


Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 26-30

"Những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa.

Nhưng chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa, thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 12, 4-5. 6

Ðáp: Lạy Chúa, con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa (c. 6a).

Xướng: 1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã. - Ðáp.

2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! - Xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 13, 22-30

"Người ta sẽ từ đông sang tây đến dự tiệc trong nước Chúa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem. Có kẻ hỏi Người rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được. Khi chủ nhà đã vào đóng cửa lại, thì lúc đó các ngươi đứng ngoài mới gõ cửa mà rằng: "Thưa ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu tới". Bấy giờ các ngươi mới nói rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi". Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta".

Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa. Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết, và những người trước hết sẽ nên sau hết".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 22-30

Suy Nghiệm Lời Chúa:

                                                                                    Cứu độ: ân sủng không phải công lênh

 

Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXX Thường Niên, trong bài Phúc Âm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta về vấn nạn số người được cứu độ, một vấn nạn bất chợt được đặt ra cho Chúa Giêsu khi Người đang "rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem", đích điểm mà Người phải đến để hoàn tất ơn cứu độ - Vậy Người đã trả lời ra sao?

Để hiểu được câu trả lời của Chúa Giêsu, cần phải biết nguyên văn câu hỏi từ một người nào đó trong đám đông đi theo Người bấy giờ"Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?Đây là một câu vừa nghi vấn "phải chăng", vừa khẳng định "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ", một câu hỏi chỉ muốn người trả lời xác nhận theo đúng ý của người hỏi, chẳng hạn: "Đúng thế, chỉ có một số ít sẽ được cứu độ mà thôi!"

Sở dĩ người đặt ra câu hỏi này chủ trương "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vì người này cho rằng chỉ có dân Do Thái là dân của Chúa mới là dân thánh, mới được cứu độ, ngoài ra, tất cả dân ngoại đều tội lỗi, xấu xa, đáng ghê tởm, không bao giờ được cứu độ. Chưa hết, ngay cả trong chính dân Do Thái của họ, thì thành phần thu thuế và đĩ điếm được liệt vào hạng tội nhân, cũng chẳng được cứu độ. Thế nên, "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" là vậy.

Nếu thế thì vấn nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay, tiêu biểu cho chung dân Do Thái và cho riêng thành phần biệt phái cùng luật sĩ này cho rằng việc cứu độ chỉ giành cho những ai tuân giữ luật Chúa, và cứu độ không phải là một "ơn", được gọi là "ơn cứu độ", mà là việc cứu độ liên quan đến việc tuân giữ luật của họ. Ngoài ra, chủ trương việc cứu độ hơn là "ơn cứu độ" này còn ngầm cho rằng không có vấn đề thống hối ăn năn, một khi con người đã sa ngã phạm tội thì kể không được cứu độ nữa. 

Đó là lý do khi được Chúa Giêsu nhắc nhở "ai trong các người không có tội thì cứ ném đá chị ta đi (người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình)" (Gioan 8:7), họ mới chẳng những chợt hổ thẹn bỏ đi từ người lớn tuổi hơn (xem Gioan 8:8), mà còn được nhắc nhở rằng ai cũng có tội, cần phải ăn năn thống hối, chứ đừng lên án và sát phạt người khác làm như thể mình chẳng có tội và chẳng đáng bị ném đá.

Phần Chúa Giêsu, Người đã không trả lời dứt khoát với vấn nạn nhân này rằng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" như họ mong đợi, hay là "sẽ có nhiều người được cứu độ". Người chỉ nói đến điều kiện để được cứu độ mà thôi: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp". Đồng thời Người cũng thòng thêm một câu ngay sau đó, một câu như thể Người tỏ ra đồng ý và chấp nhận chiều hướng "sẽ có một số ít sẽ được cứu độ" của người đặt vấn đề với Người, và câu được Người bồi thêm là: "Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được".

Như thế, nếu muốn được cứu độ, tức muốn được lên trời, con người cần phải "vào qua cửa hẹp", trong khi đó, thực tế cho thấy "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được" thì đúng là phải kết luận rằng: "chỉ có một số ít sẽ được cứu độ" mà thôi. 

Tại sao thế? Tại sao lại xẩy ra chuyện kỳ quặc như thế: "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được"? Chẳng lẽ người ta muốn được cứu rỗi mà cũng không được hay sao, mà cũng không đúng như ý Chúa muốn cứu độ họ hay sao? Trái lại, cuối cùng còn bị Ngài phủ nhận và chối bỏ một cách phũ phàng cùng nghiêm thẳng xua đuổi nữa: "Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta". Cho dù họ có tự biện minh và bào chữa hợp tình hợp lý rằng: "Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi".

Chính những lời họ tự bào chữa và biện minh này đã thực sự chứng tỏ họ là một trong "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được", cho dù họ "đã ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi", tương tự như tín hữu Công giáo sau này ra trước tòa phán xét có chuyện gì không may thì viện lẽ mình đã tham dự Thánh Lễ, một cử hành phụng vụ bao gồm phần phụng vụ lời Chúa ("Ngài đã giảng dạy giữa các công trường của chúng tôi") và phần phụng vụ Thánh Thể ("ăn uống trước mặt Ngài"), nhưng vẫn bị hư đi!

Những lời họ tự bào chữa và biện minh này còn cho thấy họ quả thực đã chủ trương do các việc họ làm mà họ được cứu độ, hơn là "ơn" cứu độ Chúa ban. Và vì thế, họ ở vào số "nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được". Trong khi đó, thành phần dân ngoại mà họ cho là chắc chắn hư đi, không được rỗi như họ, thì lại được "ơn" cứu độ Chúa ban, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người tiên báo cho họ biết rằng: "Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa". Và Người kết luận: "Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết (như thành phần dân ngoại), và những người trước hết sẽ nên sau hết (như thành phần dân Do Thái)".

Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ đã cho chúng ta thấy con người được "ơn" cứu độ hơn là do việc làm của họ. Trước hết, ở chỗ con người yếu đuối cần đến Thánh Thần của Thiên Chúa là Đấng giúp con người sống đúng ý muốn của Thiên Chúa để được cứu độ:

"Anh em thân mến, có Thánh Thần nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Vì chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho xứng hợp. Nhưng chính Thánh Thần cầu xin cho chúng ta bằng những tiếng than khôn tả. Mà Ðấng thấu suốt tâm hồn, thì biết điều Thánh Thần ước muốn. Bởi vì Thánh Thần cầu xin cho các thánh theo ý Thiên Chúa".

Sau nữa, ở chỗ chính Thiên Chúa chủ động, chứ không phải con người, trong việc cứu độ con người, từ đầu cho đến cuối: "Những kẻ Thiên Chúa đã biết trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên hình ảnh giống Con Người, để Người trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Ngài đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; mà những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho họ được vinh quang".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng bày tỏ cảm nhận về "ơn Ngài cứu độ", theo chiều hướng của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm và Thánh Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay, chứ hoàn toàn không phải về việc con người làm là những gì sẽ giúp họ được cứu độ, như chủ trương của vấn nạn nhân trong Bài Phúc Âm hôm nay:


1) Xin đoái xem, nhậm lời con, lạy Chúa, lạy Thiên Chúa. Xin soi sáng mắt con, kẻo con thiếp ngủ trong tay tử thần, đừng để tên thù con nói được: "Ta đã thắng nó". Xin chớ để kẻ thù con hân hoan vì con quỵ ngã.

2) Bởi con đã tin cậy vào đức từ bi của Chúa. Xin cho lòng con hân hoan vì ơn Ngài cứu độ, con sẽ hát mừng Chúa, vì Ngài ban ân huệ cho con. 

 


 

Thứ Năm

Ngày 2 tháng 11

Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời

Lễ Nhớ

 

Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cũng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.

Này tang tóc gieo u sầu ảm đạm,
Con nhìn Ngài mà lòng những xôn xao,
Ôi Giê-su, nguồn hy vọng dạt dào,
Chúa là sự phục sinh, là sức sống !

Xưa Ngài cũng trải qua cơn dao động,
Từng băn khoăn đau đớn bởi tử thần,
Rồi gục đầu trước Thánh Phụ từ nhân
Mà kính cẩn trao dâng luồng sinh khí.

Tật nguyền của chúng con, Ngài chia sẻ,
Ôi tấm lòng Mục Tử lớn lao thay,
Muốn chúng con cùng đau khổ với Ngài,
Cùng an nghỉ ngay trong lòng Thánh Phụ !

Trên thập giá, đôi tay Ngài rộng mở
Như đón chờ để ấp ủ vào tim
Hết những ai vì bệnh hoạn ưu phiền
Còn khắc khoải chưa yên mà nhắm mắt.

Ngài phá vỡ cửa âm ty ngục thất,
Đầy chiến công, lên mở cửa Nước Trời,
Nỗi sầu này : xin cho đổi niềm vui,
Và chết đoạn, được trường sinh vĩnh cửu.

Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.

 

 

Tâu Vua Cả Ki-tô đầy uy dũng
Đã đập tan xiềng xích của tử thần,
Quả thật Ngài làm rạng rỡ Phụ Thân,
Trả vinh dự cho loài người hèn yếu.

Tật nguyền của chúng con, Ngài gánh chịu,
Quyết dấn thân vào cuộc chiến phi thường,
Hầu đập tan mãnh lực của xà vương,
Ngài thắng trận khi cam lòng chịu chết.

Rồi hùng dũng ra khỏi mồ oanh liệt,
Để muôn người nhờ mầu nhiệm Phục Sinh,
Dẫu bao phen từng chết bởi tội tình,
Vẫn được hưởng ơn Ngài thương cứu sống.

Xin ban tặng chuỗi ngày đầy ân sủng,
Đợi Ngài về mời ăn cưới nửa đêm,
Đoàn chúng con đã chuẩn bị dầu đèn,
Đáng dự tiệc trên quê trời mãi mãi.

Xin Thẩm Phán thương mở lòng từ ái,
Đón nhận vào nguồn ánh sáng thiên cung.
Chúng con đây tin cậy mến một lòng,
Hằng gắn bó cùng Ba Ngôi vĩnh cửu.

Mong toàn thể người thân yêu bạn hữu
Đã ly trần, nay nghỉ giấc bình an,
Được Ngài thương cho hưởng phúc thiên đàng,
Hầu ca tụng tán dương Ngài muôn thuở.

 

Lễ Nhất

Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9

"Chúng ta phải sống đời sống mới".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.

Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).

Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 11, 25-26

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Nhì

Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9

"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).

Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.

3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a

Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43

"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Ba

Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11

"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.

4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 39

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 24-26

"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

ĐTC Biển Đức XVI - Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật XXXI Thường Niên 5/11/2006 về Ý Nghĩa Sự Chết

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Trong những ngày theo sau việc phụng vụ tưởng nhở đến kẻ chết, nhiều giáo xứ cử hành một tuần bát nhật cho người chết, một cơ hội thuận lợi để tưởng nhớ nguyện cầu cho những người thân yêu cũng như để suy niệm về thực tại của sự chết, một thực tại bị “thứ văn minh của tiện nghi” thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm vào những bận bịu lo âu thường nhật.

 

Thật vậy, chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa. Cho dù có xẩy ra đủ mọi thứ phân tâm đi chăng nữa, việc mất mát đi một người thân yêu cũng là những gì giúp cho chúng ta nhận thức được ‘cái trục trặc’ này, khiến chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta.

 

Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết. Người đã làm như thế bằng giáo huấn của Người, nhất là bằng việc đích thân đương đầu với sự chết. Phụng vụ mùa Phục Sinh xướng lên rằng: ‘Người chết để hủy diệt sự chết’. Một vị Giáo Phụ đã viết ‘Nhờ vị Thần Linh bất tử, Chúa Kitô đã đánh bại sử chết là những gì đã sát hại con người’ (Melito of Sardis, "On Easter," 66). Nhờ đó, Con Thiên Chúa đã muốn chia sẻ thân phận loài người của chúng ta, hướng nó đến chân trời hy vọng. Thật ra Người đã được sinh ra để có thể chết đi và nhờ đó giải thoát chúng ta khỏi làm tôi cho sự chết. Thư gửi giáo đoàn Do Thái đã viết: ‘Bằng ân sủng của Thiên Chúa Người đã nếm trải sự chết cho hết mọi người’ (2:9).

 

Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó. Tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương tác động nơi Chúa Giêsu, đã cống hiến một ý nghĩa mới cho tất cả cuộc sống của con người, nhờ đó cũng đã biến đổi chính sự chết. Nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ này vậy.

 

Những ai dấn thân sống như Người đều được thoát khỏi nỗi hãi sợ sự chết, họ không còn nở ra nụ cười châm biếm của một kẻ thù nữa, mà là tỏ ra một dung mạo thân tình của ‘người chị em’, như Thánh Phanxicô đã viết trong bài ‘Ca Vịnh Tạo Sinh’. Nhờ đó, Thiên Chúa vì thế được chúc tụng ngợi khen: ‘Lạy Chúa, chúc tụng Chúa về người Chị Em Tử Thần Về Xác Thân của chúng con’. Đức tin nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi.

 

Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật vậy, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình khỏi Vương Quốc của sự sống vậy.

 

Nhờ lời chuyển cầu của Rất Thánh Nữ Maria và Thánh Giuse, chúng ta hãy nguyện cầu cùng Chúa ban cho chúng ta ơn biết nghiêm chỉnh dọn mình ra khỏi đời này vào lúc Ngài gọi chúng ta, với niềm hy vọng được đời đời ở cùng Ngài, cùng với các thánh và những người quá cố thân yêu của chúng ta.

 

(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói tiếp bằng tiếng Ý liên quan tới tình hình Thánh Địa:)

 

Tôi hết sức lo âu theo dõi tin tức về tình hình suy thoái ở Giải Gaza, nên tôi muốn bày tỏ với thành phần dân chúng ở đó việc tôi lưu ý tới nỗi khổ đau họ chịu gây ra bởi bạo lực.

 

Tôi xin anh chị em hãy cùng tôi cầu nguyện xin Thiên Chúa Tòan Năng và Nhân Hậu sáng soi thành phần thẩm quyền Do Thái và Palestine, cũng như những quốc gia có trách nhiệm đặc biệt ở miền này, để họ quyết tâm ngăn chặn tình trạng đổ máu, gia tăng những hoạt động trợ giúp nhân đạo, và cổ võ việc tái diễn ngay một cuộc thương thảo nghiêm chỉnh và cụ thể.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/11/2006 

 

Năm điểm chính yếu trong bài huấn từ truyền tin 5/11/2006 ngắn gọn về sự chết của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh, BVL

        

Qua bài huấn từ truyền tin ngắn gọn về sự chết trên đây của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, không biết chúng ta có cảm thấy hết sức thấm thía về 5 điểm chính yếu sau đây hay chăng?

 

Thứ nhất, ngài nhận định rằng thế giới văn minh ngày nay hầu như quên đi hay không muốn nghĩ tới sự chết. Ngài nói: “Sự chết là một thực tại bị ‘thứ văn minh của tiện nghi’ thường cố gắng loại bỏ khỏi tâm thức của con người, nhận chìm nó vào những bận bịu lo âu thường nhật”.

 

Thứ hai, ngài còn cảm nhận rằng “chết là những gì thuộc về cuộc sống, và không phải chỉ là cái kết thúc cuộc sống mà, nếu chúng ta chú ý, nó còn ở hết mọi lúc trong cuộc đời nữa”. Tại sao thế? Ngài đã tiếp tục diễn giải cái lý do của nó là vì, ngài nói: “chúng ta cảm thấy sự chết như là một sự hiện diện hoàn toàn đối địch với ơn gọi tự nhiên muốn sống và hạnh phúc của chúng ta”.

 

Thứ ba, thế nhưng, theo niềm tin Kitô Giáo được ngài xác tín rằng: “Chúa Giêsu đã làm đảo lộn ý nghĩa của sự chết bằng việc đích thân đương đầu với sự chết”. Đó là lý do, cũng theo niềm tin Kitô Giáo, ngài đã tuyên xưng rằng: “Từ đó, sự chết không còn như trước nữa: Nó thực sự đã bị tước đoạt đi cái ‘nọc độc’ của nó”.

 

Thứ bốn, nếu sự chết đã được hoàn toàn biến đổi như thế thì tự nhiên phát sinh ra hai hệ quả, hệ quả trước nhất ở ngay chính ý nghĩa tích cực của sự chết – chết là về cùng Cha, như ngài cảm nhận: “nếu nơi Chúa Kitô, sự sống của con người là ‘việc lìa bỏ’ thế gian về nhà Cha’ (Jn 13:1) thế nào, thì giờ chết chính là giây phút diễn ra một cách cụ thể và cuối cùng việc lìa bỏ thế gian này vậy”; và hệ quả thứ hai xẩy ra nơi tâm trạng có tính cách tích cực của người chết, như ngài khẳng định: “chúng ta không được sợ hãi sự chết, vì nó chỉ là một giấc mơ mà vào một ngày kia chúng ta tỉnh giấc thôi”.

 

Thứ năm, cái làm cho con người sợ chết là trọng tội, là ở trong tình trạng liều mất linh hồn, và tình trạng chết về phần hồn này, tình trạng chết hoàn toàn mất Ơn Nghĩa Chúa này mới là những gì đáng sợ và đáng tránh, vì nó là cái chết thứ hai, cái chết đời đời, không còn bao giờ được cứu độ nữa. Đức Thánh Cha đã cảnh báo như sau: “Cái chết thực sự mà người ta cần phải sợ đó là sự chết về phần linh hồn, một sự chết được Sách Khải Huyền gọi là ‘cái chết thứ hai’ (x 20:14-15, 21:8). Thật thế, người nào chết trong tình trạng có tội trọng mà không chịu ăn năn thống hối, cứ nhất định ngạo mạn phủ nhận tình yêu thương của Thiên Chúa, là người tự loại mình ra khỏi Vương Quốc của sự sống vậy”.

 

Chúng tôi mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên A ngày 7/11/2020)

Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về khía cạnh tốt lành của sự chết.

Thánh Phao-lô tông đồ nói : Thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian. Sau đó, để chúng ta biết rằng sống trên cõi đời này, người ta phải chết, nhưng cũng có cái chết tốt lành, thánh nhân khuyên chúng ta hãy mang trong thân mình sự chết của Đức Giê-su ; vì ai có sự chết của Đức Giê-su nơi mình, thì cũng có sự sống của Đức Giê-su nơi thân xác mình nữa.

Vậy ước gì sự chết hoạt động trong chúng ta để sự sống cũng hoạt động nữa. Có chết mới được sống tốt đẹp, nghĩa là có chiến thắng mới được sống tốt đẹp. Chúng ta chỉ được sống tốt đẹp khi cuộc chiến đã ngừng hẳn, khi luật xác thịt không thể chống lại luật tinh thần nữa, khi không còn một cuộc đối đầu nào nữa với thân xác phải chết của chúng ta, và nơi thân xác phải chết này chỉ còn chiến thắng thôi. Chính tôi cũng không biết sự chết ấy có mạnh hơn sự sống không. Chắc một điều là tôi xúc động trước lời đầy thế giá của thánh Phao-lô tông đồ : Sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì hoạt động nơi anh em. Cái chết của một người duy nhất đem lại sự sống cho biết bao dân tộc ! Vì thế, thánh Phao-lô dạy những ai đang sống trên đời này hãy ước ao được chết như vậy, để cái chết của Đức Ki-tô rực sáng lên nơi thân xác chúng ta. Đó là cái chết hồng phúc khiến con người bên ngoài của chúng ta tiêu tan đi và con người bên trong được đổi mới, ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất bị phá huỷ và ngôi nhà trên trời mở rộng cửa đón chúng ta.

Ai từ khước không chịu hiệp thông với xác thịt này, ai cởi bỏ những xiềng xích trói buộc, người ấy được coi như đã chết. Chúa đã nói với bạn về những xiềng xích đó qua lời ngôn sứ I-sai-a : Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm.

Chúa đã cam lòng chịu chết để chấm dứt tội lỗi ; muốn cho cái chết không phải là giới hạn cuối cùng của con người, Chúa đã cho kẻ chết sống lại. Như vậy, nhờ cái chết mà tội lỗi bị huỷ diệt, và nhờ sự sống mà con người được tồn tại mãi.

Bởi đó, chết là cửa ngõ mọi người phải đi qua. Bạn phải kiên trì mà đi qua : đi từ mục nát qua bất hoại, từ thân phận phải chết qua tình trạng bất tử, từ hỗn loạn qua an bình. Vậy bạn đừng nao núng khi nghe nói đến cái chết, nhưng hãy vui mừng vì những lợi ích do cuộc vượt qua lành thánh đem lại. Bởi vì, chết là gì nếu không phải là chôn vùi thói hư và làm nảy sinh nhân đức ? Do đó có câu : Ước chi tôi được chết cái chết của người công chính, nghĩa là cùng được mai táng với họ để cởi bỏ tính hư tật xấu của mình, mặc lấy ân sủng Chúa ban cho họ, những người đã từng mang trong linh hồn và thân xác mình cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô.

 

ĐTC Phanxicô - Giảng Lễ Các Đẳng Linh Hồn ở Hầm Mộ Pricislla Roma 2019

 


Chia sẻ Suy Niệm:

sự sống chưa trọn


Giáo Hội cố ý đặt Lễ Các Đẳng (2/11) ngay sau Lễ Các Thánh (1/11) hằng năm như có ý nhấn mạnh đến mầu nhiệm các thánh thông công. 

Các Thánh là những vị đã được hưởng phúc trên thiên đàng, đã đạt đến cùng đích của mình, đã được hiệp thông thần linh viên mãn trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa, còn Các Đẳng là những vị tuy đã được rỗi nhưng chưa hoàn toàn được hưởng vinh phúc như Các Thánh, chưa được hoàn toàn chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa vô cùng uy nghi và toàn thiện, bởi hậu quả gây ra bởi tội lỗi của các vị khi còn sống trên trần gian này.

Các Đẳng ở dưới luyện ngục không phải để đền tội lỗi của mình cho bằng để đền bù những hậu quả do tội gây ra. Mà hậu quả do tội lỗi gây ra không phải chỉ là đau khổ và chết chóc như trên thế gian này khi con người còn sống, mà còn là và nhất là ở chỗ do tội lỗi họ phạm trên trần gian mà mối liên hệ giữa họ và Thiên Chúa bị gián đoạn, bị hư hoại. Bởi thế, cái đau khổ nhất của các linh hồn trong luyện ngục là chưa được chiêm ngưỡng dung nhan Thiên Chúa, chưa được tận hưởng hiệp thông thần linh với Ngài là cùng đích của các vị.

Vấn đề được đặt ra ở đây là như thế thì chẳng lẽ ở đời sau, hay nói đúng hơn ở trong luyện ngục, (trừ thiên đàng và hỏa ngục), cũng có "thời gian" hay sao hay cũng còn "thời gian" hay sao? Vì các linh hồn ở đó "vẫn chưa" được hoàn toàn chiêm ngưỡng Thánh Nhan Thiên Chúa, nghĩa là "vẫn còn" trông đợi một "tương lai vĩnh phúc" sau khi họ đã chết và ra khỏi trần gian, ra khỏi phạm trù không gian và thời gian. 

Đúng thế, nếu xét về thứ không gian và thời gian theo thể lý của ngày tạo dựng thứ tư (xem Khởi Nguyên 1:14-19), mà bất cứ loài tạo vật hay sinh vật hữu hình nào ở trên trái đất này cũng bị chi phối và lệ thuộc, thì các linh hồn ở trong luyện ngục quả thực không còn "thời gian" nữa. 

Như thế, nói chung, đối với các sinh vật hữu hình sống trong thời gian và không gian, cách riêng với loài linh ư vạn vật là con người, thì quả thực "chết là hết" - "hết thời" hay "hết thời gian", chứ không phải chỉ là hiện tượng và tình trạng linh hồn ra khỏi thân xác, hay nói cách khác, chính vì "hết thời" mà linh hồn ra khỏi xác, mà con người ta lìa đời: "Mọi sự đều có thời của mình trên trần gian này... có thời sinh ra và có thời chết đi..." (xem Giảng Viên 3:2).

Chính vì thế mà bản thân của họ không còn thời gian, không còn cơ hội để lập công đền tội trong thân xác của họ nữa, cần phải có người nào còn sống trong thân xác ở trên trần gian này, nghĩa là còn sống trong thời gian để lập công đền tội thay cho họ. 

Thời gian ở trên trần gian này quí như vậy, qua đi không bao giờ trở lại nữa, mà con người ta đã lãng phí vào bao nhiêu là những gì chẳng đáng trên đời này, như thể không có đời sau, không có vĩnh cửu, trong khi đó họ vẫn sợ chết, nghĩa là vẫn muốn được sống mãi mãi, vẫn muốn được sống trường sinh bất tử. Vậy nếu họ tin có đời sau thì họ đang tìm gì ở trên đời này vậy?! Các Đẳng trong luyện ngục rất mong được có thời gian vô cùng quí báu như khi còn sống trên đời này mà chẳng bao giờ được nữa. Đã muộn rồi. Đã hết thời nơi họ rồi. 

Thế nhưng, cho dù không còn thời gian để tự lập công nữa, Các Đẳng vẫn có thể nhận công bởi những người còn thời gian, còn sống trên trần gian này, mà luyện ngục, ở một nghĩa nào đó, dường như vẫn còn liên hệ với thời gian, vẫn là một thực tại linh thiêng chưa tuyệt đối như thiên đàng hay hỏa ngục, vẫn còn có thể đổi thay, vẫn chưa viên mãn vì các linh hồn ở đó chưa đạt được cùng đích tối hậu của mình, vẫn còn mong đợi. 

Đó là lý do, như ngục tổ tông xưa là một thực tại linh thiêng vô hình để trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Chuộc Nhân Trần thế nào, cho đến khi "Người xuống ngục tổ tông" đưa các thánh lên mới không còn ngục tổ tông này nữa, thì cũng có thể nói luyện ngục là một thực tại linh thiêng vô hình chỉ tồn tại cho đến tận thế là thời điểm Chúa Kitô đến lần thứ hai, sau đó không bao giờ còn luyện ngục nữa. 

Cả lâm bô (limbo) là "nơi" chúng ta vẫn tin rằng vô thưởng vô phạt cho những linh hồn chết đi chưa kịp được nhận Phép Rửa tha nguyên tội mà cũng chưa kịp phạm bất cứ một cá tội nào cũng thế. Nếu Thiên Chúa dựng nên con người là để cho họ được hạnh phúc đời đời, được hiệp thông thần linh với Ngài trong cõi vĩnh phúc: "Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (Timôthêu 2:4), thì lâm bô không thể nào tồn tại đời đời, trái lại, chỉ có thể tồn tại cho đến khi Chúa Kitô đến lần thứ hai "để mang ơn cứu rỗi cho những ai thiết tha trông đời Người" (Do Thái 9:28). 

Mà các linh hồn ở trong lâm bô, cũng như trong luyện tội cho tới khi Chúa Kitô đến lần cuối cùng, như trường hợp của Amélia được Đức Mẹ trả lời cho em Lucia vào lần hiện ra thứ nhất ở Fatima ngày 13/5/1917 rằng "nó sẽ phải ở trong luyện tội cho tới tận thế", đều hết sức trông mong được tận hưởng vinh phúc trong tình trạng hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là cùng đích của họ, thì phải kết luận là hai thực tại lâm bô và luyện ngục chỉ tồn tại tạm thời thôi.

(Về trường hợp của thiếu nữ mười tám đôi mươi Amélia này, lời Mẹ Maria nói đến số phận của cô phải ở trong luyện ngục cho tới tận thế, thì một là Mẹ ngầm báo rằng sắp sửa đến tận thế rồi đấy, bằng không biết cô thiếu nữ trẻ trung nhỏ tuổi quê mùa vào năm 1917 này đã phạm những tội gì mà bị phạt lâu dài đến thế? Nếu thế thì tội lỗi của con người ta vô cùng khủng khiếp ghê sợ chưa từng có hiện nay còn đáng bị trừng phạt khủng khiếp đến chừng nào ch)

Vậy nếu ngục tổ tông chỉ tồn tại cho tới khi Chúa Kitô đến trần gian lần thứ nhất và luyện ngục chỉ tồn tại cho đến khi Người đến thế gian lần thứ hai, cả lâm bô cũng thế, thì ba thực tại này chỉ là những thực tại linh thiêng tạm thời, một thực tại chuyển tiếp, một thực tại vẫn hướng về "thời gian viên trọn" (Galata 4:4) của Chúa Kitô, Đấng đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Người bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhưng qua Giáo Hội, Người vẫn tiếp tục công việc cứu chuộc của Người cho đến tận thế, bao gồm cả việc cứu những linh hồn ở trong luyện ngục cho khỏi hình phạt họ phải chịu nữa cũng như cứu các linh hồn ở trong lâm bô vô thưởng vô phạt cũng trông mong được đời đời cứu độ.

Đó là lý do, cho dù không tự mình lập công đền tội, các linh hồn trong luyện ngục vẫn có thể tiếp tục hưởng Ơn Toàn Xá cũng gọi là Ơn Đại Xá, ơn tha hết mọi hình phạt gây ra bởi tội lỗi, do một người nào đó hoàn tất có ý chỉ cho họ, nhờ công nghiệp vô cùng châu báu của Chúa Giêsu Kitô là những gì vẫn còn tác hiệu trong thời gian cho tới khi Người lại đến, nhờ đó họ lập tức được tha thứ hết mọi hình phạt bởi tội lỗi của họ gây ra mà được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. 

Nếu nói rằng luyện ngục là "nơi" các linh hồn bị giam cầm để đền bù hậu quả của tội lỗi khi vấp phạm trên đời, thì luyện ngục là một "nơi" khổ chứ không sướng như thiên đường. Nhưng tình trạng "khổ" liên quan đến hình phạt ở trong luyện ngục đây không như ở trong hỏa ngục, vì tình trạng "khổ" ở luyện ngục chỉ tạm thời trong một "thời gian" chứ không vô cùng bất tận như trong hỏa ngục.

Tình trạng "khổ" ở trong luyện ngục là ở chỗ dù con người đã chết nhưng hồn thiêng bất tử của con người vẫn chưa đạt được cùng đích của mình là Thiên Chúa, nghĩa là chưa được hoàn toàn và trọn vẹn hiệp thông thần linh với Ngài. Và vì chưa đạt được cùng đích của mình nên linh hồn trong luyện ngục vẫn thao thức mong chờ cho tới khi được hoàn toàn mãn nguyện, nghĩa là được "lên" thiên đàng, được "vào nơi" muôn đời vinh phúc, hay nói đúng hơn, được "ở trong " hay được tham hưởng sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi và với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Tuy chưa được hoàn toàn và trọn vẹn tham hưởng sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi và với Thiên Chúa Ba Ngôi, Các Đẳng trong luyện ngục cũng đã được cứu độ rồi, nghĩa là cũng được tham hưởng "một phần nào" sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Thiên Chúa, tuy chưa hoàn toàn và trọn vẹn như Các Thánh ở trên trời, nghĩa là họ được tham hưởng sự sống thần linh này tùy theo mức độ tội trạng của họ trước kia, tức tùy theo tình trạng xa cách Thiên Chúa của họ gây ra bởi tội lỗi họ phạm khi còn sống trên trần gian, hay tùy theo mức độ liên hệ của họ với Ngài khi còn sống, cũng như tùy theo "thời gian" bao lâu họ đã ở trong luyện ngục, nhờ đó mỗi ngày họ càng gần Chúa hơn, càng hưởng Chúa hơn.

Nếu còn sống trên trần gian thành phần Kitô hữu đang hành trình đức tin chỉ thấy Thiên Chúa như qua tấm gương thì trên thiên đàng Các Thánh được thấy Thiên Chúa nhãn tiền, diện đối diện, một cách như Ngài là (xem 1Corinto 13:12), và nhờ đó Các Thánh được trở nên giống như Thiên Chúa, phản ảnh Thiên Chúa, như Bài Đọc 2 cho Lễ Các Thánh hôm qua cho biết: "hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra thì chúng ta sẽ giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài là" (1Gioan 3:2).

Và như thế, Các Đẳng trong luyện ngục, nếu đã được cứu độ, tức nếu đã được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, chưa hoàn toàn và trọn vẹn, thì Các Đẳng cũng đang ở trong tiến trình nên "giống như Ngài" và đang từ từ "sẽ thấy Ngài như Ngài là" cho đến "khi được tỏ ra", nghĩa là cho đến khi Thiên Chúa trở nên trọn vẹn nơi các vị "như Ngài là" mà khi còn sống trên thế gian họ còn thiếu sót trong việc nhận biết "Ngài như Ngài là"

Đó là lý do khi còn sống trên trần gian này, càng nhận biết Thiên Chúa bao nhiêu, ở chỗ càng hiệp nhất nên một với Ý Muốn của Ngài bằng đức tin tuân phc bao nhiêu cũng như bằng đức ái trọn hảo hiện thực hóa đức tin (xem Galata 5:6) bao nhiêu, thì càng được hoan hưởng Thiên Chúa nhanh bấy nhiêu và nhiều bấy nhiêu, như Các Thánh nói chung trên thiên đàng, nhất là như Mẹ Maria đầy ơn phúc, một đệ nhất tạo vật về ân sủng

Trường hợp của những linh hồn được lên thiên đàng ngay sau khi lãnh nhận Phép Rửa, dù là mới sinh hay người lớn, là những trường hợp đốt giai đoạn được hưởng Nước Trời nhanh nhất, như người trộm bị đóng đanh bên phải Chúa Kitô (xem Luca 23:40-43), nhưng không thể nào được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa bằng Các Thánh hay như Mẹ Maria là những hạt giống sinh 30, 60 hay 100 (xem Mathêu 13:23).

Vấn đề được thông hiệp thần linh với Thiên Chúa trên thiên đàng nhiều hay ít hoàn toàn không phải là do con người khi còn sống trên gian này "lập công" nhiều hay ít, mà hoàn toàn do Công Nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, được con người chấp nhận khi lãnh nhận Phép Rửa, bằng nước hay máu hoặc lửa, và tiếp tục trung thành đáp ứng ơn cứu độ này cũng như cộng tác với ơn cứu độ này cho phần rỗi các linh hồn khác.

Trong khi các linh hồn ở lâm bô không thể chuyển cầu cho người thế, vì các linh hồn này không có "công" gì và đang ở trong tình trạng vô thưởng vô phạt, thì Các Đẳng ở trong luyện ngục, tùy theo mức độ "được tỏ ra" của Thiên Chúa nơi các vị, nghĩa là tùy theo mức độ các vị được hiệp thông thần linh với Ngài bao nhiêu và tới đâu, các vị cũng có thể xứng đáng chuyển cầu cho những ai còn sống trên trần gian, nhất là những ai nhớ đến các vị để giúp các vị mau chóng được hoàn toàn và trọn vẹn hiệp thông thần linh đời đời với Thiên Chúa trên thiên đàng như Các Thánh. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

 

      Hôm nay, 2/11, Giáo Hội tưởng nhớ đến và cầu nguyện cho Các Linh Hồn Tín Hữu đã Qua Đời còn ở trong Luyện Ngục, một ngày lễ bao gồm nhiều ý nghĩa Giáo Hội muốn nhắc nhở con cái của mình như sau:

1- Có đời sau, có cõi vĩnh hằng bất biến, chứ không phải chỉ có đời này mà thôi, chết là hết;

2- Linh hồn của con người bất tử, không chết như thân xác của họ sau thời gian sống tạm gửi trên trần gian hữu hình và hữu hạn này;

3- Quê hương đích thực của con người tạo vật được Thiên Chúa dựng nên trên đời này là Thiên đàng, một thực tại hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi toàn thiện và toàn ái là Cha và Con và Thánh Thần;

4- Muốn được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi trên Thiên Đàng, linh hồn của con người cần phải tuyệt đối tinh tuyền thánh hảo, xứng đáng với Vị Thiên Chúa Chí Thánh Chí Tôn;

5- Được Thiên Chúa cứu chuộc toàn thể bản tính của mình, nên cả thân xác của con người nữa, cuối cùng cũng sẽ phục sinh, để cùng với linh hồn thiêng liêng bất tử, được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa trên Thiên Đàng sau cuộc Chung Thẩm của Chúa Kitô Vượt Qua, Đấng sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Với niềm tin tưởng như Giáo Hội trong Ngày Lễ Cầu Hồn Cho Các Tín Hữu đã Qua Đời 2/11 hằng năm này, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm một chút, và vấn đề trên hết và trước hết, vấn đề then chốt nhất cần phải đặt ra ở đây hôm nay đó là:

1- Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

2- Nếu chúng ta tin thế gian này chỉ là tạm bợ mau qua, Thiên Đàng mới là quê hương vĩnh hằng vinh phúc của chúng ta thì chúng ta đã sẵn lòng về với Chúa bất cứ lúc nào Ngài gọi chúng ta chưa??

3- Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết mọi sự hay chăng??? (Mt 6:33)

Tất cả những gì chúng ta làm trên trần gian này đều chứng thực cho chúng ta thấy chúng ta có thực sự đang tìm kiếm những gì trên trần gian này, có thực sự tìm Nước Chúa trước hết và trên hết hay chăng! Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ,  trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27). 

     Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự. 

     Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.  

     Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa  Đấng vô cùng toàn thiện chí ái chưa đủ, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.

     Thế thì:

     1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?  

     Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).

     2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi của "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?   

       Nếu chúng ta đã không sợ đau khổ, trái lại, còn như Thánh Phaolô, coi Thánh Giá Chúa Kitô là vinh dự của chúng ta (xem Galata 6:14), thì tại sao chúng ta không xin Chúa cho chúng ta được chết vì Chúa và như Chúa cho phần rỗi của anh chị em chúng ta, một cái chết vô cùng ý nghĩa và vô giá, vì được diễm phúc nên giống Chúa Kitô, và được như Mẹ Maria vô nhiễm đồng công với Người cứu các linh hồn, được trở thành sự sống đời đời cho các linh hồn cần đến LTXC hơn, được LTXC tỏ hiện rạng ngời nhất qua cái chết như Chúa và với Chúa của chúng ta.

      3- Về Đức Ái: Tất cả mọi sự trên đời này rồi cũng qua đi, kể cả đức tin bất khả thiếu để được cứu độ, chỉ duy đức ái là không qua đi, trái lại, đức ái sẽ tồn tại muôn đời, và chỉ có đức ái mới làm nên ý nghĩa và giá trị của cuộc đời, đến độ, không có đức ái chỉ toàn là thù hằn, bất an, đau khổ, trái lại, với đức ái con người luôn sống trong bình an, bất chấp mọi khổ đau gây ra cho mình bởi bất cứ ai, thậm chí còn dám chịu khổ với tha nhân, như tha nhân và cho tha nhân nữa, và chính đức ái là hoa trái thực sự của đức tin, một mầm mống sự sống nhỏ như hạt cải nhưng đã biến thành một cây vĩ đại đức ái, đến độ chim trời là các linh hồn đến làm tổ cứu độ nơi đức ái là chính Thiên Chúa này. Đức ái quả thực chính là thiên đàng trần thế vậy, và ai sống đức ái là hoan hưởng niềm vui bất diệt Thiên Đàng ngay trên trần gian này.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Thiên Chúa là Cha toàn năng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô sống lại từ cõi chết, và sẽ cho thân xác yếu hèn của chúng ta được phục sinh. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Lạy Chúa là Cha chí thánh, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng con đã cùng chết, cùng được mai táng với Đức Ki-tô, và cùng sống lại với Người, - xin cho chúng con bước vào đời sống mới, để sau khi chết, chúng con được sống mãi với Người.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa nuôi sống chúng con bằng bánh bởi trời, - xin cho chúng con nhờ đó mà tìm được sức sống, và đến ngày sau hết được phục sinh vinh hiển.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa đã sai thiên thần đến an ủi Đức Ki-tô khi Người hấp hối, - xin cho chúng con vững lòng trông cậy trong giờ phút lâm chung.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Xưa Chúa đã giải thoát ba thiếu niên khỏi lửa hồng thiêu đốt, - xin đừng chấp tội anh chị em chúng con đã qua đời.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Chúa là Thiên Chúa kẻ sống và người chết, đã cho Đức Giê-su sống lại, - xin cho những ai đã qua đời được phục sinh, và cho chúng con được cùng họ hưởng vinh quang muôn đời.

Xin Chúa cho chúng con được thông phần sự sống của Đức Ki-tô.

Đức Ki-tô sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. Vì thế, ta hãy thiết tha cầu nguyện :

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Con Đức Chúa Trời hằng sống, Chúa đã làm cho bạn của Chúa là ông La-da-rô được sống lại, - xin cho những người đã được Chúa đổ máu ra cứu chuộc cũng được sống lại hiển vinh.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng an ủi kẻ ưu phiền, Chúa đã lau sạch nước mắt cho những kẻ thương khóc người thân, - xin nâng đỡ anh chị em chúng con đang phải ưu phiền vì tang tóc.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chiến thắng tử thần, Chúa đã chết để đập tan quyền lực tội lỗi đang hoành hành nơi thân xác chúng con, - xin cứu chúng con khỏi chết muôn đời, và cho chúng con được hưởng phúc trường sinh với Chúa.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng Cứu Thế, xin nhớ đến những người chưa biết Chúa, và sống không hy vọng, - xin cho họ tin rằng có một Đấng đã phục sinh, và có một cuộc đời bất tận.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là Đấng chúng con hằng trông đợi, khi Chúa gọi chúng con từ giã cuộc đời chóng qua này, - xin dẫn đưa chúng con vào quê trời vĩnh cửu.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

Lạy Chúa Ki-tô là ánh sáng của trần gian, Chúa đã mở mắt cho người mù được thấy, - xin cho anh chị em chúng con đã qua đời được vui hưởng ánh sáng ngàn thu.

Chúa chính là nguồn sống và là ơn phục sinh của chúng con.

 

Lạy Chúa, Con Một Chúa từ cõi chết sống lại đã tăng cường niềm tin của chúng con. Giờ đây, xin Chúa thương nhậm lời chúng con khẩn nguyện mà làm cho lòng chúng con luôn trông cậy vững vàng : Chính Đức Giê-su sẽ cho các tín hữu đã lìa cõi thế được phục sinh vinh hiển. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

 

 

 

 

 

 

Thứ Năm

 

(Nếu ngày này không trùng với và bị át đi bởi Lễ nhớ Các Đẳng Linh Hồn trên đây)

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 31b-39

"Không một tạo vật nào có thể tách biệt chúng ta khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Chúa chúng ta".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa cũng đang biện hộ cho chúng ta?

Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao? (Như có lời chép rằng: "Vì Chúa mà thâu ngày chúng tôi bị tử hình. Chúng tôi bị coi như con chiên đem đi giết"). Nhưng chúng ta vượt thắng được trong tất cả những sự ấy vì Ðấng đã yêu thương chúng ta. Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 108, 21-22. 26-27. 30-31

Ðáp: Lạy Chúa, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa (c. 26b).

Xướng: 1) Nhưng phần Ngài, lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người con tâm can quằn quại! - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này. - Ðáp.

3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án. - Ðáp. 

Alleluia: x. Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã soi lòng trí để chúng ta biết thế nào là sự cậy trông Chúa kêu gọi chúng ta. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 13, 31-35

"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy". Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".

"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!"

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 13, 31-35

Suy Nghiệm Lời Chúa:
 

Bất chấp con cáo Hêrôđê


Hôm nay, Thứ Năm Tuần XXX Thường Niên, Phúc Âm của Thánh ký Luca thuật lại lời Chúa Giêsu, Đấng đang tiến về giáo đô Giêrusalem, đích điểm của cuộc hành trình cứu độ của Người với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, tiên báo cho những người biệt phái biết, (chứ không phải là các môn đệ của Người biết), lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người ở Giêrusalem.

"Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: 'Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy'. Người trả lời: 'Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: Ðây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem'".

Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên Chúa Giêsu ngấm ngầm báo trước về cuộc tử nạn của Người với những người ngoài thành phần môn đệ của Người. Nhưng quả thật là lần đầu tiên với nhóm biệt phái. Ngoài ra, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, ngay từ đầu, Người cũng đã báo trước với chung dân Do Thái nữa ở ngay tại Đền Thờ Giêrusalem, khi Người thách họ "hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại nó" (Gioan 2:19). 

Chưa hết, theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, gần đến giờ của mình, tức là sau khi Người đã vinh quang vào Thánh Giêrusalem và đã thanh tẩy Đền Thờ, Người còn nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái nữa, qua dụ ngôn người con duy nhất của chủ vườn nho là chính bản thân Người bị bọn tá điền sát hại để chiếm gia nghiệp của người con này nữa (xem Mathêu 21:23,37-38).

Ở đây, trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, không biết những người biệt phái báo tin cho Người về âm mưu của quận vương Hêrôđê có hiểu được những gì Người nói liên quan đến cuộc tử nạn của Người sẽ xẩy ra ở giáo đô Giêrusalem hay chăng, tuy nhiên, thành phần biệt phái vẫn âm mưu hại Người nay có một số trong họ lại muốn cứu Người thì phải kể là sự lạ. 

Hơn thế nữa, có người trong họ cũng đã mời Người đến nhà dùng bữa, như nhân vật tên Simon (xem Luca 7:36,40) hay nhân vật thủ lãnh nhóm này ở bài Phúc Âm ngày mai (xem Luca 14:1). Thậm chí có nhân vật biệt phái trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái là Nicôđêmô đã lén lút đến gặp Người ban đêm nữa (xem Gioan 3:1). Chính Chúa Giêsu đã chọn một pharisiêu để làm tông đồ cho dân ngoại là chàng Saulê (xem Tông Vụ 23:6). Như thế đủ cho thấy chúng ta đừng bao giờ "vơ đũa cả nắm" theo thành kiến về cá nhân nào hay về một nhóm nào có "con sâu làm rầu nồi canh"

Về phần Chúa Giêsu, khi nghe tin báo nguy hiểm cho bản thân mình như thế từ những người biệt phái, Người vẫn không hề tỏ ra lo âu sợ hãi và vội vàng tìm cách trốn tránh, trái lại, Người còn bảo những người báo tin ấy hãy đi nói lại với vị quận vương tinh quái như "con cáo" ấy về những gì Người vẫn tiếp tục cần làm và phải làm: "trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai", cho tới khi hoàn tất sứ vụ của Người: "rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời". 

Thậm chí Người cũng chẳng ngần ngại công khai cho biết Người trong thời gian ấy đang ở đâu nữa, cứ việc tìm đến với Người nếu muốn, không hề sợ bị bại lộ tông tích: "Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường" để tiến về Giêrusalem và chỗ đó mới là nơi định mệnh của Người: "vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem hay sao". 

Nếu Đền Thờ Giêrusalem biểu hiệu cho sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa thì Thành Giêrusalem biểu hiệu cho dân Chúa, nơi Thiên Chúa muốn ở giữa họ (xem Khải Huyền 21:1-3) như là một Emmanuel - Thiên Chúa ở giữa chúng ta (xem Mathêu 1:23 và Gioan 1:14). 

Thế nhưng, cho dù Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ luôn ở với họ vẫn liên lỉ ngoại tình bằng việc hiến mình tôn thờ các ngẫu tượng của họ và các thần ngoại bang, bất chấp thành phần được Thiên Chúa sai đến nhắc nhở họ, bao gồm cả chính Con của Ngài, và vì thế họ sẽ phải hứng chịu hậu quả tương xứng cho tới khi họ nhận biết Người là Đấng Thiên Sai của họ, như Chúa Giêsu đã báo trước ở cuối bài Phúc Âm hôm nay:

"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: 'Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến!'"

Sự kiện Chúa Giêsu Kitô thực sự đã chịu khổ nạn và tử giá ở Giêrusalem, nghĩa là ở giữa dân Do Thái, do dân Do Thái và cho dân Do Thái, không phải là vì quyền lực sự dữ thắng thế trên Người, hay là vì Người không thể xuống khỏi thập giá như dân này thách thức Người, cho bằng vì Người đã tự hiến (xem Gioan 10:17-18,17:19) theo đúng ý Cha của Người là Đấng đã sai Người, đến độ Ngài đã, như Thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay: "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta". Bởi Chúa Giêsu Kitô không phải chỉ là Đấng Thiên sai của dân Do Thái mà còn là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại "chúng tanữa.

Chính vì thế, chính vì Thiên Chúa đã "không dung tha chính Con Mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta", mà Con của Ngài là những gì quí nhất của Ngài, là chính bản thân Ngài (xem Do Thái 1:3), mà Thánh Phaolô đã trấn an và phấn khích chúng ta, trước hết, hãy tin tưởng cậy trông tất cả mọi sự nơi Thiên Chúa là Đấng: "lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao?", sau nữa, hãy yêu mến trung kiên với Thiên Chúa cho đến cùng:

"Ai sẽ tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Ðức Kitô được? Hay là gian truân, buồn sầu, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo sao?... Tôi chắc chắn rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay các bậc quyền quý, tài sức, dù những sự hiện tại hay tương lai, hoặc sức mạnh, dù cao hay sâu, dù tạo vật nào khác, cũng không có thể tách biệt chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

Bài Đáp Ca hôm nay chẳng những phản ảnh tâm tình của một Chúa Kitô khổ nạn và tử giá trong Bài Phúc Âm hôm nay mà còn của thành phần Kitô hữu tin tưởng trung kiên với tình yêu của Thiên Chúa bất chấp mọi gian nan thử thách cho đến cùng trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:

1) Nhưng phần Ngài, lạy Chúa, xin cùng con hành động vì danh Ngài, xin cứu sống con, bởi lòng Ngài từ bi nhân hậu! Bởi vì tấm thân con đau khổ và cơ hàn, và trong người con tâm can quằn quại! 

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin giúp đỡ con, xin cứu sống con theo lượng từ bi của Chúa! để thiên hạ biết rằng đó là bàn tay của Chúa, và lạy Chúa, họ biết rằng Chúa đã làm những chuyện này. 

3) Con sẽ hết lời ca tụng Chúa, và con sẽ ngợi khen Ngài ở giữa chúng nhân. Vì Ngài đứng bên hữu kẻ cơ hàn, để cứu sống họ khỏi bọn người lên án. 

 

 

 



Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 9, 1-5

"Tôi đã ước ao được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác. Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20

Ðáp: Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! (c. 12a).

Xướng: 1) Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.

2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 36a và 29b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 1-6

"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 14, 1-6

Suy Nghiệm Lời Chúa:


Bất chấp cả Ngày Hưu Lễ


Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXX Thường Niên, trình thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành ở ngay trong nhà của một vị thủ lãnh nhóm biệt phái vào ngày hưu lễ, nguyên văn như sau:

"Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh. Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".

Bài Phúc Âm này cho thấy Chúa Giêsu tấn công địch ngay trong lòng địch, đó là ở ngay trong nhà của một thủ lĩnh biệt phái Người đã chữa lành vào ngay ngày hưu lễ, thành phần biệt phái vẫn hay theo dõi Người để bắt bẻ Người và mưu đồ hại Người, một cuộc tấn công Người cố ý làm, cho dù có đụng đến chủ trương duy luật của thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong dân chúng ấy.

Thế nhưng, họ thông luật ở chỗ thuộc nhiều luật lệ hơn dân chúng, bao gồm cả việc giữ luật hơn dân chúng, thế nhưng họ lại dẫn giải luật một cách thiển cận và theo thiên kiến vị kỷ, bởi thế, họ không thấy được đâu là tinh thần thực sự của luật và mục đích chính yếu của những gì được gọi là luật, của những gì tự bản chất chỉ là phương tiện giúp con người đạt được cứu cánh của họ hơn là cùng đích của họ. 

Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn lợi dụng việc chữa lành cho "một người mắc bệnh thủy thũng" vào ngày hưu lễ ở trong chính nhà của một người lãnh đạo biệt phái để nhờ đó có thể soi sáng cho họ biết những gì họ chủ trương là lệch lạc, là sai lầm, cần phải chỉnh đốn lại:

"Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: 'Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?' Các ông ấy làm thinh... Ðoạn Người bảo các ông rằng: 'Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?' Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy".

Sở dĩ thành phần biệt phái thông luật này tỏ thái độ "làm thinh" trước hai câu hỏi tối căn bản được Chúa Giêsu đặt ra gợi ý cho họ suy nghĩ và tự vấn không phải là vì họ chịu thua, hay đang cần giờ để tìm thêm được lý mạnh hầu phản công lại Người, hoặc vì nể mặt Người, mà chính là vì họ "không thể trả lời câu hỏi ấy". 

Nếu "im lặng là đồng lõa" thì phải chăng những người biệt phái chứng kiến thấy việc Chúa Giêsu ngang nhiên chữa lành trong ngày hưu lễ ở ngay nhà của họ, nhất là "không thể trả lời câu hỏi" được Người đặt ra cho họđã hoàn toàn chấp nhận những gì Chúa Giêsu nói là chí lý, là chính xác, là chân thực, cần phải áp dụng thi hành? 

Cũng có thể, nếu họ có thiện chí và tinh thần cởi mở. Bằng không, trái lại, với tinh thần cực đoan và bảo thủ, kèm theo tự ái về thế giá thông luật của mình, họ sẽ vẫn tiếp tục đường lối sai lầm của họ, với những biện minh và dẫn giải chủ quan phi chân lý. Nếu xẩy ra trường hợp đáng tiếc này thì cũng dễ hiểu. Vì bình thường con người ta vẫn hay cố chấp cho dù thực sự biết mình sai, để bảo vệ tiếng tăm mặt mũi của mình. Do đó, họ vẫn tiếp tục ngoan cố làm sai, bất chấp hậu quả gây ra cho bản thân họ cũng như cho những ai được họ dẫn dắt!

Thế nhưng, dầu sao, đối với Chúa Giêsu Kitô "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29) những con người đáng thương ấy vẫn "nhầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), vẫn đáng tha thứ. Chính vì cảm nghiệm được tình yêu vô cùng nhân hậu này của Thiên Chúa qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, mà nhân vật biệt phái chính qui Saulê đã hết lòng thông cảm với dân của mình, đến độ, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, ngài đã dám liều mất phần rỗi của mình cho phần rỗi của họ:

"Anh em thân mến, tôi xin nói thật trong Ðức Kitô, tôi không nói dối: lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Thánh Thần, là tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn luôn. Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích anh em của tôi, là những thân nhân của tôi về phần xác".

Tuy nhiên, theo vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô này, thì dân của ngài ấy chắc chắn không bị Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất lãng quên và loại bỏ, cho dù họ có ngoan cố đến đâu chăng nữa, bởi vì chính Thiên Chúa đã tự chọn dân tộc bẩm sinh ngoan cố này cho Ngài, để tỏ ra quyền năng đầy khôn ngoan và nhân hậu của Ngài trong việc thực hiện dự án cứu độ của Ngài cho chung nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, Đấng đã xuất phát từ giòng dõi dân Do TháiĐó là lỳ do vị tông đồ này đã viết:

"Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luầt, việc phượng tự và lời hứa; các tổ phụ cũng là của họ, và bởi các đấng ấy mà Ðức Kitô sinh ra phần xác, Người là Thiên Chúa trên hết mọi sự, đáng chúc tụng muôn đời. Amen".

Nếu cảm nhận được đặc ân tuyển chọn của mình trong dự án cứu độ của Thiên Chúa như thế, dân Do Thái không thể nào không vang lên những cảm nhận và tâm tình của mình như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Hỡi Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa ngươi; Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. 

2) Người giữ cho mọi bờ cõi ngươi được bình an, Người dưỡng nuôi ngươi bằng tinh hoa của lúa mì. Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. 

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. 

 


Kính Thánh Martin de porres - Tướng tiên phong đức ...

(03/11)



Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa 


Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 11, 1-2a. 11-12. 25-29

"Nếu sự bỏ rơi người Do-thái là sự giao hoà của thế giới, thì đâu là cái lợi, nếu không phải là sự sống lại từ cõi chết?"

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chớ thì Thiên Chúa đã bỏ rơi dân Người rồi sao? Hẳn là không. Vì chính tôi cũng là người Israel, miêu duệ của Abraham, thuộc chi họ Bengiamin. Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước.

Vậy tôi xin hỏi: Chớ thì họ đã vấp chân đến nỗi ngã xuống rồi sao? Hẳn là không. Nhưng vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ, để họ ganh đua với những kẻ ấy. Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ, như có lời chép rằng: "Từ Sion có Ðấng Cứu độ sẽ đến mà cất sự vô đạo khỏi Giacóp. Và đó là giao ước Ta ký kết với họ, khi Ta xoá bỏ tội lỗi của họ".

Xét theo Tin Mừng thì họ thật là kẻ thù nghịch vì anh em, nhưng xét theo kén chọn, thì họ là những người rất được yêu thương vì các tổ phụ. Bởi vì Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 17-18

Ðáp: Chúa sẽ không loại trừ dân tộc của Chúa (c. 14a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.

3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. - Ðáp. 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 14, 1. 7-11

"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc.

"Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 14, 1. 7-11

Suy Nghiệm Lời Chúa:

Biết thân biết phận thì chỉ đáp ứng hơn là chọn lựa

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXX Thường Niên, tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Đúng hơn, cả hai bài Phúc Âm hôm qua và hôm nay là một, vì khung cảnh diễn ra đều ở trong cùng một địa điểm là "nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa", nhưng về nội dung thì được Giáo Hội cắt ra làm hai, vì ở nơi đây Chúa đã dạy hai bài học cho thành phần biệt phái đang ăn uống với Người bấy giờ. 

Bài học thứ nhất đã được Chúa Giêsu huấn dụ trong bài Phúc Âm hôm qua về tinh thần và mục đích của lề luật liên quan đến sự kiện Người chữa lành cho người bị bệnh thủy thủng vào ngày hưu lễ. Bài học thứ hai được Người huấn dụ họ sau khi "Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:  

"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".

Bài học thứ hai này trong Phúc Âm hôm nay Chúa Giêsu dạy đó là "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết", một thái độ khôn ngoan nhất, một chọn lựa tốt lành nhất. Không phải để, về phần tiêu cực, tránh được bẽ mặt khi "ngồi vào chỗ nhất", chỗ mà có thể "có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: 'Xin ông nhường chỗ cho người này', bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết". Cũng không phải để, về phần tích cực, được vẻ vang hơn khi "Người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: 'Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên', bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc". 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong các cuộc hội họp, hay ngay cả trong nhà thờ, giáo dân Việt Nam nói riêng thường thích ngồi ở dưới hơn là ngồi ở trên. Cho dù có mời lên chỗ trống còn nhiều ở trên cũng không chịu. Có thể là vì họ sợ ngủ gật. Có thể là vì họ muốn ngồi đấy để chuồn ra ngoài cho dễ, hay biến cho nhanh dù chưa xong lễ. Có thể là vì bạn bè cùng tham dự không chịu thay đổi chỗ ngồi nên ngồi với nhau cho vui. Có thể là vì họ không muốn bị ai dòm ngó đằng sau. Có thể là vì họ có con nhỏ quấy phá muốn tránh chia trí cho mọi người. Có thể là vì họ cảm thấy mình hèn hạ tội lỗi bất xứng chỉ đáng ngồi cuối cùng v.v.

Ai cũng có lý do chính đáng để cứ ngồi ở chỗ cuối. Thế nhưng, chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" Chúa Giêsu huấn dụ những người biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, cũng để huấn dụ cả chúng ta nữa, chúng ta mới thấy đó là một nguyên tắc sống đức tin và đồng thời cũng là một linh đạo rất thiết thực, cần thiết, hữu dụng và không thể không áp dụng để có thể sống bình an và nên trọn lành. 

Thật vậy, vấn đề then chốt ở câu "hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết" này đó là thái độ đáp ứng tuân theo hơn là chủ động chọn lựa. Bởi thế, Chúa Giêsu không bảo rằng "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", mà là "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng". Tại sao thế? Tại vì nếu chúng ta mà "chọn" tức là chúng ta có quyền, chúng ta làm chủ, chúng ta làm theo ý muốn của chúng ta, làm theo ý nghĩ, ý thích, ý riêng của chúng ta, và sẽ chẳng bao giờ vừa với lòng tham vô đáy của chúng ta, không bao giờ hợp với tính hay thay đổi theo cảm giác cảm tình của chúng ta v.v.

Trong đời sống tu đức cũng thế. Bao lâu chúng ta còn làm chủ, còn tự tin, còn cậy mình v.v. thì bấy lâu chúng ta còn xa Chúa, chưa trọn lành, cho đến khi, qua những đau thương thử thách Chúa gửi đến cho chúng ta để thanh tẩy chúng ta, để kéo chúng ta ra khỏi thế gian, chúng ta bấy giờ mới chỉ còn biết bám lấy Chúa, chỉ còn biết tin tưởng vào Ngài và phó thác cho Ngài, nghĩa là bấy giờ nhờ được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt và ngự trị, chúng ta mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), mới có thể "thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), mới có thể "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12).

Đó là lý do chúng ta thấy trong Biến Cố Truyền Tin, Mẹ Maria đầy ân phúc đã không "chọn" chỗ cuối cùng, mà là chấp nhận, là "đi ngồi vào chỗ cuối cùng" của Mẹ đó là thân phận của một nữ tỳ xin vâng (xem Luca 1:38), là chỗ Chúa chọn cho Mẹ - Phải chăng vì thế mà Mẹ đã không hề lên tiếng chối từ cho dù được chọn làm Mẹ Thiên Chúa!?! 

Đó là lý do chúng ta còn thấy chỉ khi nào Tông Đồ Phêrô không còn tự mình đi đây đi đó nữa, mà trái lại, ngài còn bị dẫn đi đến nơi ngài không muốn, hoàn toàn trái ý của ngài, ở trong thế bị động hơn là chủ động như trước, ngài mới có thể thực sự "theo Thày", tức mới thực sự nên giống Đấng chịu đóng đinh là Thày của ngài (xem Gioan 21:18-19). 

Đó cũng là lý do tại sao kẻ lớn nhất trên Nước Trời là kẻ "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), như tâm hồn của người nam cao trọng nhất được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11), đến chỉ để tỏ cho dân chúng biết Đấng đến sau mình (xem Gioan 1:31,27): "Người cần được gia tăng, còn tôi cần bị giảm xuống" (Gioan 3:30).

Trường hợp của dân Do Thái thì sao - họ có "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" hay chăng, hay là, đúng như Chúa Giêsu nhận thấy họ trong bài Phúc Âm hôm nay rõ ràng là "những kẻ được mời chọn chỗ nhất"? 

Quả thực đúng như thế. Ở chỗ, Thiên Chúa đã kén chọn dân Do Thái giữa các dân tộc trên thế giới này, nhưng thực tế cho thấy, qua giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, họ đã không sống đúng với ơn gọi chuyên biệt này của họ, không "đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" được Thiên Chúa chọn cho ấy, trái lại, họ đã tự "chọn chỗ cuối cùng mà ngồi" cho họ, đó là một "chỗ" vời vợi xa cách Thiên Chúa của họ hơn bao giờ hết và hơn ai hết, "chỗ" ngoại tình với tà thần và sấp mình tôn thờ ngẫu tượng, trắng trợn loại bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ.

Thế nhưng, "chỗ cuối cùng" mà Thiên Chúa đã chọn cho dân Do Thái vẫn còn đấy, vì như Thánh Phaolô Tông Đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay khẳng định: "Thiên Chúa không từ bỏ dân Người mà Người đã chiếu cố trước....Thiên Chúa ban ân huệ và kêu gọi ai, Người không hề hối tiếc". 

Hơn thế nữa, chính nhờ họ tạm thời bỏ trống "chỗ cuối cùng" tuyệt vời của họ mà dân ngoại mới được ngồi ké nữa, như vị tông đồ dân ngoại này nhận định trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay: "vì lỗi lầm của họ mà Dân ngoại được ơn cứu độ... Nếu lỗi lầm của họ làm cho thế giới nên giàu có, và sự thiếu thốn của họ làm cho Dân ngoại được phú túc, thì sự dư đầy của họ còn lợi nhiều hơn biết bao".

Đó là một "mầu nhiệm", mầu nhiệm cứu độ theo dự án vô cùng khôn ngoan huyền diệu của Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn cho dân ngoại biết, qua Kitô hữu giáo đoàn Rôma, trong Bài Đọc 1 hôm nay, để thành phần dân ngoại này không bị ảo tưởng và vênh vang tự phụ: 

"Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết mầu nhiệm này (để anh em không tự cho mình là những kẻ khôn ngoan): là một phần dân Israel cứng lòng mãi cho đến khi toàn thể Dân ngoại nhập giáo, và bấy giờ toàn thể Israel cũng sẽ được cứu độ".

Trong giòng Lịch Sử Cứu Độ của mình, chính Dân Do Thái cũng đã cảm nghiệm được Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ không bao giờ bỏ họ, cho dù họ có thế nào chăng nữa, đến độ, có những lúc họ cảm thấy không thể nào thiếu Ngài, như những tâm thức của Bài Đáp Ca hôm nay: 

1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hóa theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. 

2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. 

3) Nếu như Chúa chẳng phù trợ con, trong giây phút hồn con sẽ ở nơi yên lặng. Ðang lúc con nghĩ rằng "Chân con xiêu té", thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. 

 

  

Ngày 04 tháng 11

Thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.

(Phụng Vụ Giờ Kinh 4/11)

Ngày 04.11 Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Giám Mục (1538 – 1584) | Giáo Phận Bà Rịa

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Bôrômêô chào đời tại Milan ngày mồng 2 tháng 10 năm 1538. Song thân ngài là ông Bôrômêô Arôma và bà Magatita Mêđixê, chị ruột của Đức Giáo Hoàng Piô IV. Hai ông bà thuộc dòng quý tộc và có lòng đạo đức, ngay nên ngay khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gởi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa đúng 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh hai cấp bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật một trật qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Anxia, một giảng sư về luật nổi tiếng lúc ấy.

Theo tục lệ thời bấy giờ người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ ngay từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được thâu nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức là một năm sau ngày lấy hai bằng tiến sĩ, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma. Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, Đức Giáo Hoàng đã đặt ngài làm làm Hồng y -Phó tế” và Quản trị Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một  giáo dân và một sinh viên. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm Quốc Vụ Khanh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định làm linh mục, mặc dù họ hàng ngài muốn ngài phải kết hôn. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.

Tên của Thánh Carôlô Borrômêô đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã đóng góp trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô. 

Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Thời gian này, ngài phụ giúp Đức Piô IV hoàn tất một cách tốt đẹp Công đồng Triđentinô đã được khai mạc vào năm 1545 dưới triều Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Ngài giữ vai trò điều phối chương trình làm việc của các nghị phụ, thu thập tài liệu, đúc kết ý kiến và viết dự thảo nghị quyết của Công đồng. "Ngài làm việc có khi thâu đêm suốt sáng để soạn lại các báo cáo khắp nơi gởi về, lãnh ý kiến và thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha. Đúng ra ngài là người chấp hành sự vụ hơn là thực hiện chức vụ của một vị một cố vấn".

Do mắc cộng việc tại công đồng Triđentinô, nên ngài không được phép cư trú tại Milan, cho tới khi công đồng bế mạc. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn công việc giao dịch thư tín. Trong thời gian công đồng, ngài cũng được phép lo công việc cuả Tổng Giáo Phận Milan là nơi mà bức tranh tôn giáo và luân lý không sáng sủa lắm. Công đồng kết thúc, ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565, ngài mới được Đức Giáo Hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa Đấng kế vị là Đức Giáo Hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.Chỉ sau lễ an táng người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và sau cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Tổng Giám mục mới trở về phục vụ giáo phận Milan, một giáo phận rộng lớn nhất nhì của Giáo Hội. 18 năm trời phục vụ giáo phận Milan đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, nhưng lại thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhất.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng Giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị Giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân Công đồng Triđentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành Giám mục "kiểu mới" của Công đồng Triđentinô, ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo Hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác ngài đã chuyển các sắc lệnh của Công đồng ra hành động trong Giáo Hội Công giáo, ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị Giáo tỉnh và mười một hội nghị Giáo phận.
 
Ngài kiên trì viếng thăm toàn Giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo Công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của ngài đã là ảnh hưởng quyết định của ngài, ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi ngài đang cầu nguyện năm 1569.
 
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường Công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
 
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của ngài, ngài đã hiến mình làm hiến tế, bố thí tất cả những gì ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính ngài cũng ngủ trên sàn nhà, ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
 
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức Tổng Giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng : dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
 
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho ngài.
 
Chính Thánh Carôlô tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.

Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức các linh mục triều, gồm Các người Tận hiến của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Người tận Hiến của thánh Carôlô Borrômêô), đồng thời ngài tích cực rao giảng, chống lại sự xâm nhập của giới Tin Lành Cải cách, và đưa những người Công Giáo bỏ đạo trở về với Giáo Hội. Ngài gặp sự chống đối từ mọi phía trong các nỗ lực của ngài nhằm cải tổ con người cùng các cơ chế. Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói : "Kìa cơn mê của Giám mục thánh Modèna".
 
Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, ngài cười khi người ta khuyên ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, ngài lịm vào trong sự tôn thờ. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi. Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làm cho cả Milan đau đớn. Sử gia viết truyện đời ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được".
 
Đức Phaolô V đã phong thánh cho ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

2. Bài học

Mỗi vị thánh có một nét đặc biệt. Có thánh nổi bật về sự khó nghèo, có thánh lưu tâm hơn về sự vâng phục, có thánh lại say mê việc truyền giáo. Và tất cả các ngài là những người đã sống những nhân đức anh hùng, đến nỗi các ngài trở thành những đóa hoa đẹp tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội.

Nhìn lại cuộc đời của thánh Carôlô chúng ta thấy nổi bật lên một vài đức tính đặc biệt. Đó là lòng nhiệt thành và một ước vọng muốn luôn thăng tiến.

Chính lòng nhiệt thành và ước muốn luôn thăng tiến này đã khiên ngài không quản ngại những hy sinh vất vả để phục vụ Giáo Hội và đoàn chiên Chúa trao cho ngài dẫn dắt.

Làm sao người ta có thể quên được những đóng góp của ngài và sự thành công của công đồng Triđentinô và những thành quả sau 18 năm trời phục vụ Giáo phận Milan, một Giáo phận có tầm cỡ, có lẽ chỉ kém Giáo phận Roma mà thôi.

Lịch sử còn ghi lại việc ngài cải tổ canh tân đời sống linh mục và tu sĩ theo sự chỉ dẫn của Công đồng Triđentinô. Làm sao mà ngài có thể thản nhiên trước việc một số tu sĩ và linh mục không còn giữ được phẩm chất của đời sống dâng hiến. Chính vì thế mà ngài đã ra công bỏ sức ra để hướng dẫn, giúp đỡ giúp các linh mục tu sĩ tìm lại được đời sống đạo đức của mình.

Chúng ta hãy nghe một đoạn bài giảng trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng:

"Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng: không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói: Con đàn hát và nguyện chủ tâm.

Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Kitô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác."

Lịch sử cũng còn ghi lại những đóng góp của ngài trước biến cố đau thương  xảy đến cho con cái ngài. Làm sao người ta có thể quên được đại họa dịch tả và nạn đói kém xảy ra tại Milan vào hai năm 1576 và 1577. Thị trấn Locarnô, một thắng cảnh du lịch ở ngay dưới đãy núi Alpe, với dân số 4.800 chỉ còn lại 700  người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục đã không từ bỏ một sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ đạc trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn quên ngủ để lo thăm viếng và giúp đỡ các bệnh nhân dọn mình chết. Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy cùng với nỗi vất vả của việc mục vụ và tông đồ trong gần hai mươi năm trời, khiến ngài kiệt sức rồi ngã bệnh nặng. Và chiều ngày thứ bảy, mùng 3 tháng 11 năm 1584 ngài đã ra đi thanh thản và bình an ở tuổi 47 tuổi tại Milan.

Với những công nghiệp lớn lao và những nhân đức hết sức anh hùng của một Hòng Y Giám mục, Chúa đã thưởng công cho ngài. Ðức Thánh Cha Phaolô V đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1610.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp

Bạn đừng nói một đàng làm một nẻo

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 4/11)

Trích bài giảng của thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng.

Tôi nhìn nhận rằng hết thảy chúng ta đều là những con người yếu đuối, nhưng Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta những phương tiện giúp chúng ta dễ dàng hành động, nếu chúng ta muốn. Linh mục nọ muốn có một đời sống tinh tuyền theo lương tâm đòi hỏi, muốn sống tiết độ và có phong cách của bậc thiên thần : đó là điều hợp lý ; nhưng vị ấy lại không quyết tâm dùng những phương tiện cần thiết là : ăn chay, cầu nguyện, tránh tiếp xúc với những người xấu, tránh những cuộc giao du thân mật nguy hại.

Vị linh mục đó phàn nàn rằng mỗi khi vào nhà nguyện để đọc thần vụ hay đi dâng thánh lễ, thì tức khắc cả trăm ngàn chuyện nảy ra trong tâm trí, làm cho mình lo ra, không thể hướng lòng về Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi : trước khi vào nhà nguyện hoặc đi dâng thánh lễ, vị đó đã làm gì trong phòng thánh, đã chuẩn bị tâm hồn như thế nào, đã sử dụng những phương thế nào để hồi tâm ?

Có phải bạn muốn tôi dạy bạn làm sao để tiến tới trên đường nhân đức, và nếu trong nhà nguyện, bạn đã cầm trí được rồi thì làm thế nào lần sau bạn cầm trí hơn nữa, và lời cầu nguyện của bạn cũng đẹp lòng Thiên Chúa hơn ? Hãy nghe tôi đây. Nếu bạn đã có được một chút lửa tình yêu bốc cháy trong lòng, thì đừng vội trưng ra, đừng phơi ra trước gió. Hãy giữ lò lửa cho kín, kẻo nó nguội đi và mất sức nóng ; hãy loại bỏ những sự chia trí, hãy hồi tâm kết hợp với Thiên Chúa và tránh những cuộc chuyện trò vô ích.

Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư ? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp ; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư ? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng : không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện ; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói : Con đàn hát và nguyện chủ tâm. Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm ; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng ; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì ; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào ; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Ki-tô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác.

Lạy Chúa, xin hằng ban ơn Thánh Thần cho Giáo Hội, như xưa Chúa đã ban cho thánh giám mục Ca-rô-lô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.