SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Lễ Hiển Linh chính yếu được Giáo Hội cử hành vào ngày 6/1 hằng năm, tức 12 ngày sau Lễ Giáng Sinh.
Tuy nhiên, ở các giáo phận, vì lý do mục vụ, thường đuợc dời vào Chúa Nhật,
một là trước ngày 6/1 ngay sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, hai là sau Ngày 6/1:
Trước ngày 6/1 ngay sau Lễ Mẹ Thiên Chúa
như Chúa Nhật ngày 2/1 Năm C 2022
hay như Chúa Nhật ngày 3/1như Năm B 2021
Lễ Hiển Linh Sau ngày 6/1
như Chúa Nhật 7/1 Năm B 2018
hay như Chúa Nhật 8/1 Năm A 2017
Lễ Hiển Linh ngày 2/1/2022
Phụng Vụ Giờ Kinh
Ba hiền sĩ thoạt nhìn Con Trẻ,
Vội cúi mình thi lễ tiến dâng :
Này đây phẩm vật đông phương,
Vàng ròng một dược nhũ hương kính chầu.
Như biểu tượng Vua cao Chúa cả,
Nắm uy quyền nhiệm lạ vô song,
Chúa Cha tiền định cho Con
Thể theo tiến vật mà tuân ý trời.
Vàng rực rỡ soi ngời ngôi vị,
Ngát hương trầm nhủ ý Thiên Vương,
Ra đời gieo vãi tình thương
Liệm thân một dược dọn đường mai sau.
Bê-lem hỡi, ta nào ngờ tới,
Ngươi trở nên vĩ đại đâu bằng !
Nơi Ngôi Thiên Tử cao sang,
Giáng trần cứu thế ngang hàng lê dân.
Đoàn ngôn sứ bao lần tường thuật
Nhiều cớ bằng sự thật hiển nhiên,
Vua Trời kêu gọi chăm chuyên,
Ngõ hầu đạt tới cơ duyên Nước Người.
Nước Trời ấy trải dài muôn vật,
Phủ trăng sao biển đất thinh không,
Cả bình minh lẫn hoàng hôn,
Thiên nhai vời vợi âm cung mịt mù.
Muôn lạy Đức Giê-su trìu mến,
Đã rủ thương tỏ hiện rỡ ràng,
Dâng Ngài hai chữ vinh quang,
Muôn đời hiển trị thiên đàng uy linh.
Chúa làm cho khắp cả hoàn cầu nhận biết ơn cứu độ của Người
(Bài Đọc 2 Giờ Kinh Sách)
Trích bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.
Thiên Chúa quan phòng đầy nhân hậu, vào thời cuối cùng, đã muốn đến cứu thế gian đang hư mất. Người quyết định thực hiện ơn cứu độ cho muôn dân trong Đức Ki-tô.
Chính vì muôn dân mà thánh tổ phụ Áp-ra-ham xưa kia đã nhận được lời hứa : ông sẽ là tổ phụ một dòng dõi đông vô kể được sinh ra không do xác thịt, mà do đức tin. Dòng dõi đông đảo ấy cũng được sánh với sao trên trời, vì người ta trông đợi từ người cha muôn dân phát sinh không phải một miêu duệ trần gian, nhưng một miêu duệ thiên quốc.
Toàn thể các dân tộc hãy tiến vào, hãy gia nhập gia đình các tổ phụ ; các con cháu sinh ra do lời hứa, hãy đón nhận phúc lành dành cho dòng dõi Áp-ra-ham, phúc lành mà con cháu theo huyết tộc đã từ chối. Qua ba nhà chiêm tinh, tất cả các dân tộc hãy thờ lạy Đấng tạo thành vũ trụ. Ước mong Thiên Chúa được mọi người nhận biết không phải chỉ ở xứ Giu-đê, mà còn ở khắp cõi địa cầu, để ở khắp nơi cũng như ở Ít-ra-en, danh Người được tôn vinh.
Anh em thân mến, được biết các mầu nhiệm ân sủng này của Thiên Chúa, chúng ta hãy hân hoan mừng ngày khởi đầu của chúng ta, ngày Chúa bắt đầu kêu gọi các dân tộc. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa nhân hậu, vì theo lời thánh Phao-lô tông đồ, Người đã làm cho chúng ta nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của các thánh trong cõi đầy ánh sáng. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Con yêu quý của Người. Và như ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm, dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng, đám người sống trong vùng bóng tối, nay được một ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Cũng chính ngôn sứ nói thêm cùng Chúa về họ : Các dân tộc trước kia chưa nhận biết Chúa, nay kêu cầu Ngài ; các nước xưa không biết Chúa, nay chạy đến với Ngài.
Ngày đó ông Áp-ra-ham đã thấy và đã vui mừng, vì ông hiểu rằng con cái sinh ra bởi đức tin sẽ nhận được phúc lành nơi dòng dõi của ông, tức là nơi Đức Ki-tô. Đồng thời, vì ông hiểu ra rằng theo đức tin ông sẽ là cha mọi dân nước. Ông dâng lời chúc tụng tôn vinh Thiên Chúa vì biết rất rõ Thiên Chúa có thể thực hiện điều Người đã hứa.
Cũng ngày đó đã được vua Đa-vít ca ngợi trong thánh vịnh rằng : Lạy Chúa, muôn dân chính tay Ngài tạo dựng sẽ về phủ phục trước Thánh Nhan và tôn vinh danh Ngài, và : Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân.
Chúng ta biết rõ rằng những điều nói trên đã được thực hiện khi một ngôi sao dẫn đường cho ba nhà chiêm tinh. Từ nơi xa xôi, các ngài đã được gọi đến nhận biết và thờ lạy Đức Vua cai trị trời đất. Ngôi sao này khích lệ chúng ta noi theo gương vâng phục : tức là nỗ lực sống theo ơn thánh, ơn mời gọi mọi người đến với Đức Ki-tô.
Anh em thân mến, trong cuộc tìm kiếm này, tất cả anh em phải giúp đỡ lẫn nhau để nhờ đức tin chân chính và các việc lành phúc đức mà đạt tới Nước Thiên Chúa, trong đó anh em sẽ rạng rỡ như con cái ánh sáng. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Người hằng sống và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men.
XHôm nay quả là ngày tươi sáng,
ngày xuất hiện Đấng cứu độ trần gian,
Đấng Cứu Độ các ngôn sứ thuở xưa báo trước, và các thiên sứ thờ lạy Đấng Cứu Độ.
ĐThấy ngôi sao của Người xuất hiện,
các hiền sĩ rất đỗi mừng vui, và đem lễ phẩm đến triều bái.
XNgày được Thiên Chúa thánh hiến đã chiếu toả trên chúng ta,
muôn dân hỡi, mau đến thờ lạy Chúa.
ĐThấy ngôi sao của Người xuất hiện, các hiền sĩ rất đỗi mừng vui,
và đem lễ phẩm đến triều bái.
Hỡi các bạn, người đi tìm Chúa,
Ngước mắt lên thẳng ngó trời cao,
Kìa xem điềm lạ ánh sao,
Hào quang rộng toả khắp bầu không trung.
Ngôi sao ấy ngời trong vẻ đẹp,
Ánh trời hồng nối kết trăng thanh,
Báo tin hội lớn hình thành,
Ki-tô Cứu Chúa mặc thân xác người.
Vịnh Ba-tư chân trời ngút mắt,
Bóng tà huy vừa tắt non đoài,
Trán cao biển rộng nhíu mày,
Ba người hiền sĩ tính ngày vua sinh.
Vị vua nào quyền linh cao cả,
Khiến bầu trời run sợ oai nghiêm,
Muôn thiên thể chợt im lìm,
Thinh không ánh sáng dịu mềm nhường tơ ?
Và điềm lạ chúng ta đương thấy,
Dấu miên trường trải mấy thời gian,
Trước hỗn mang trước vũ hoàn,
Cao siêu vô lượng vượt tầm trí khôn.
Đây Thánh Chúa ngàn muôn dân nước,
Đấng Ích-diên những ước cùng mong
Như lời Thượng Đế hứa cùng
Áp-ram với cả giống dòng mai sau.
Quỳ dâng Chúa ngàn câu cảm tạ,
Ôi Giê-su, Ngài đã hiển linh,
Thánh Thần, Thánh Phụ uy danh,
Cùng xin chúc tụng hiển vinh muôn đời.
Vị Cứu Tinh của chúng ta hôm nay xuất hiện cho các hiền sĩ đến tôn thờ. Ta hãy đến thờ lạy, và hoan hỷ thưa cùng Người :
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa xuất hiện như một người phàm, - xin dạy chúng con biết đón nghe lời Chúa và chuyên tâm cầu nguyện để được nên thánh.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa được Thánh Thần minh chứng, - xin giải thoát chúng con khỏi mọi tư tưởng sai lầm.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa cho các thiên thần chiêm ngưỡng, - xin cho chúng con, ngay trên cõi đời này, cũng được hưởng niềm vui thiên quốc.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa được loan truyền giữa muôn dân, - xin dùng sức mạnh của Thánh Thần mà mở rộng tâm hồn người thế.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa được cả hoàn cầu tin kính, - xin ban cho mọi người tín hữu một niềm tin sống động, chân thành.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Ki-tô, Chúa siêu thăng cõi trời vinh hiển, - xin cho chúng con hằng thiết tha đạt tới quê trời.
Chúa là ánh sáng khởi nguyên từ ánh sáng,
xin soi dẫn cuộc đời chúng con.
Hê-rô-đê hỡi, này bạo chúa,
Khi Đức Ki-tô ngự xuống trần,
Vua Cả màng chi ngôi báu nhỏ
Mà ông hoảng sợ với băn khoăn ?
Ba nhà hiền sĩ một đêm sương,
Dõi ánh sao tua đã lên đường
Tìm Đấng tạo thành muôn ánh sáng
Dâng vàng một dược với nhũ hương.
Đấng chẳng hề mang tội nơi mình,
Nhưng vì nghĩa nặng với sinh linh
Nay xin thanh tẩy trong dòng nước
Mà rửa hồn ta sạch tội tình.
Ai không ngưỡng mộ quyền năng Chúa
Khi thấy từng chum nước đổ đầy
Người biến đổi thành – ôi phép lạ
Rượu ngon thiên hạ uống cho say.
Giê-su, lạy Chúa, ngàn vinh phúc,
Xin thượng tiến Ngài, Đấng hiển linh,
Cùng với Thánh Thần và Thánh Phụ
Muôn thu hiển trị cõi thiên đình.
Hôm nay các bậc hiền sĩ đến tôn thờ Đấng cứu chuộc ta. Lòng hân hoan mừng rỡ, ta cùng nhau kính lạy và tha thiết nguyện xin :
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Lạy Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân, Chúa đã mời gọi các hiền sĩ là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Chúa, - xin cho chúng con biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Chúa là Vua vinh hiển, Chúa cứ lẽ công mà xét xử dân Chúa, - xin cho nhân loại được an hưởng thái bình dài lâu.
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Chúa là Vua muôn thuở muôn đời, Đấng trường tồn qua các thế hệ đổi thay, - xin cho lời Chúa thấm vào lòng chúng con như sương sa nội cỏ.
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Chúa là Vua công bình, Chúa đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế, - xin thương xót những người cùng khổ sầu đau.
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Lạy Chúa, danh Chúa đáng chúc tụng muôn đời, - xin cho anh chị em chúng con đã lìa thế được hưởng ơn cứu độ Chúa ban.
Xin thương cứu độ kẻ nghèo hèn.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin rủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
"Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.
Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.
Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.
Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
3) Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 3, 2-3a. 5-6
"Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 2, 2
Alleluia, alleluia! - Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 2, 1-12
"Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta".
Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Đông Phương
Hôm nay, Chúa Nhật sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, tức sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, ở Hoa Kỳ cũng như ở hầu như các giáo phận trên thế giới, vì lý do mục vụ cho nhiều giáo dân có thể tham dự, đều mừng Lễ Hiển Linh, tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh, vào Chúa Nhật này.
Thật vậy, Lễ Hiển Linh là tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh là vì nếu "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Giona 1:14) như một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng Thiên Sai của dân Do Thái đúng như đã được tiên báo trong lịch sử cứu độ của họ, và vì thế Người cũng là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, như đã được Thiên Chúa hứa ban ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15), thì sự kiện ba chiêm vương gia đông phương theo ngôi sao lạ tìm đến với Người sau khi Người giáng sinh đã bắt đầu hiện thực dự án cứu độ của Thiên Chúa.
Đó là một mầu nhiệm không phải ai trong dân Do Thái cũng có thể biết vào thời ấy, một dân tộc vốn coi thường dân ngoại, cho dân ngoại là những loại người tội lỗi xấu xa nhơ nhớp bởi họ tôn thờ những tà thần và ngẫu tượng nhân tạo giả trá, chứ không phải là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất như dân Do Thái, cho dù Thánh Kinh và lịch sử cứu độ của dân Do Thái liên lỉ ám chỉ đến mầu nhiệm cứu độ phổ quát như vậy. Bởi thế, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, trong Thư gửi Giáo đoàn Epheso mới dám nói mà không sợ kiêu ngạo rằng:
"Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần".
Phải, mầu nhiệm ấy là gì, mầu nhiệm được Thánh Thần chẳng những tỏ cho riêng vị tông đồ dân ngoại này mà còn tỏ cho các vị tông đồ của Tân Ước và các vị tiên tri trong Cựu Ước nữa, thành phần được sai đi rao giảng tin mừng cứu độ, nếu không phải, như đã cảm nhận và cũng đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô xác định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia cũng đã nói tiên tri về ơn gọi và vai trò được tuyển chọn của dân Do Thái theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, một dự án cứu độ mà nhờ họ và qua họ Thiên Chúa muốn tỏ mình ra và ban ơn cứu độ cho chung nhân loại:
"Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi. Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi".
Chưa hết, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị ngôn sứ này còn nói rõ hơn nữa về mầu nhiệm cứu độ phổ quát này, như thể ám chỉ đến chính sự kiện ba chiêm vương gia đại diện cho dân ngoại tìm đến bái thờ Hài Nhi Giêsu, qua các hình ảnh ám chỉ như sau:
"Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông. Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa".
Trước mầu nhiệm cứu độ phổ quát tuyệt vời ấy, Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng không thể nào không hân hoan vang tiếng chúc tụng ngợi khen rằng: "Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người".
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay là bài phúc âm duy nhất trong cả 4 phúc âm về biến cố ba chiêm vương gia đông phương tìm "đến để triều bái Người". Thế nhưng, việc tìm kiếm của ba vị chiêm vương gia được bắt đầu từ kiến thức tự nhiên thông thạo của họ về trời đất cùng với lòng khao khát thần linh và tìm chân lý của họ, tự bản chất của những khả năng nhân bản này, tuy tốt lành và cần thiết, vẫn chưa đủ để gặp được Thiên Chúa, nếu không được chính Ngài tỏ mình ra cho, qua Thánh Kinh của người Do Thái.
Bởi thế, mới xẩy ra sự kiện ngôi sao dẫn đường của họ và cho họ, trước khi dẫn họ đến chính chỗ "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1;14) thì đã biến mất ở ngay giáo đô Do Thái giáo là Thành Thánh Giêrusalem, nơi duy nhất có thể cho họ biết được đích xác đích điểm và đối tượng thần linh mà họ đang tìm kiếm. Đó là lý do phần đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay mới có đoạn sau đây:
"Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: 'Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người'. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: 'Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta'".
Thật vậy, sự kiện kiến thức tự nhiên của ba chiêm vương gia này nhận biết các điềm trời đất để tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Đấng Tối Cao của mình chỉ đạt tới một mức độ giới hạn nào đó thôi. Muốn biết một cách đích xác hơn, Thiên Chúa là ai và ở đâu, như thế nào, chính Thiên Chúa cần phải tự tỏ mình ra cho con người, như Ngài đã liên tục tỏ mình ra nơi lịch sử của dân Do Thái, qua các biến cố của họ cũng như qua các vị tiên tri được Ngài sai đến với họ. Nhờ mạc khải thần linh của Thiên Chúa, như là những dấu mốc hay cột mốc chính yếu bất khả thiếu, con người mới có thể gặp được Ngài, như ba chiêm vương gia trong bài Phúc Âm hôm nay, nhờ chỉ dẫn của Thánh Kinh, như Thánh ký Mathêu ghi lại như sau:
"Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: 'Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người'. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình".
Đúng thế, chỉ sau khi được Thánh Kinh chỉ dẫn, ba chiêm vương gia này mới thấy lại ngôi sao lạ, nhờ đó họ đến được tận nơi mà họ muốn tới, hay đúng hơn nơi mà họ được dẫn tới, vì ở nơi đó là một ngôi "nhà" chứ không phải là một dinh thự, chỉ có "Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người", chứ không phải một đức vua uy nghi lẫm liệt ngự trên ngai vàng cùng với hoàng thái hậu bên cạnh.
Ở đây không thấy nói tới Thánh Giuse. Chắc có thể bấy giờ, ngay lúc ba chiêm vương gia này bất ngờ tiến vào nhà thì ngài đi đâu vắng hay bận làm gì đó. Nhưng hình ảnh Mẹ Maria bên cạnh Hài Nhi Giêsu trước mặt ba chiêm vương gia này đã chẳng những cho thấy Lễ Mẹ Thiên Chúa được Giáo Hội có lý để mà sắp xếp (vào ngày 1/1) trước Lễ Hiển Linh (6/1), mà còn ám chỉ công cuộc cứu chuộc trần gian, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, được thực hiện bởi chính Người Con Thần Linh này cùng với sự đồng công cộng tác bất khả thiếu của Người Mẹ.
Tuy chỉ nhìn thấy "Hài Nhi và Mẹ Người" trong một ngôi "nhà" tầm thường, chẳng có gì là uy nghi cao cả, nguy nga lộng lẫy, hùng hậu triều thần v.v. như ở các cung đình khác trên thế gian này, ba chiêm vương gia vẫn tin tưởng Hài Nhi đó chính là "vua Do Thái mới sinh", Đấng mà họ đã bất chấp ngàn dặm xa xôi vất vả (có thể bất chấp cả những lời nhạo báng chê bai của những ai thân quen biết được ý định lên đường mù mịt mơ hồ của họ) để đến "bái thờ" với tất cả lòng thành kính và tin tưởng của mình: "khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược".
Ba chiêm vương gia đông phương này, so với thành phần mục đồng Do Thái cũng đã đến kính viếng Hài Nhi Giêsu trước đó trong chính Đêm Giáng Sinh, là thành phần thuộc hàng trí thức khôn ngoan và vương giả giầu có, mang theo họ những gì quí báu nhất để có thể xứng đáng bài thờ Hài Vương Giêsu, những món quà khác nhau và quí báu nhất của họ là "vàng, nhũ hương và mộc dược", ám chỉ 3 vai trò của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là vương đế (được tiêu biểu nơi "vàng"), tư tế (được tiêu biểu nơi "nhũ hương") và ngôn sứ (được tiêu biểu nơi "mộc dược").
Ba món quà quí giá này còn tiêu biểu cho các nền văn hóa đa dạng của dân ngoại, tuy cao quí và tốt đẹp, nhưng vẫn cần phải được qui về Chúa Kitô là Đấng qui tụ lại hết mọi sự (Epheso 1:10) để được thăng hoa và thánh hóa "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24). Ba món quà này, nếu tiêu biểu cho các nền văn hóa đa diện của các dân ngoại như thế, thì các nền văn hóa tiêu biểu nhất thời bấy giờ bao gồm 3 thứ văn hóa chính yếu khác nhau là: đạo giáo Đông phương (vàng), triết lý Hy Lạp (nhũ hương) và Luật pháp Rôma (mộc dược).
THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
Lúc đó là một giờ đêm. Đầy hoan lạc và mến yêu, các mục tử ra đi lập tức và đến hang đá còn sớm lắm. Họ nhìn nhận ra ngay Hài Nhi Thiên Chúa dưới gương mặt lộng lẫy và ánh nhìn hiền từ của Ngài. Ngài tăng thêm thánh đức cho họ và soi sáng cho họ về mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Vì thế, họ đem hết lòng sùng mộ sấp mình trước mặt Chúa, thờ lạy Ngài là Thiên Chúa làm người. Mẹ Maria lưu tâm đến tất cả những việc họ làm, và cũng hiểu thấu tâm tình họ. Mẹ hiền từ chỉ dẫn cho họ và thúc giục họ bền vững phụng sự Thiên Chúa. Phần họ, họ nói cho Mẹ biết nhiều chi tiết về việc Sứ Thần báo tin mầu nhiệm cho họ. Mẹ suy niệm trong lòng tất cả những việc lạ lùng đó. Sau khi đã đãi các mục tử hảo tâm ấy một bữa ăn thanh đạm, Mẹ để họ ra về vào khoảng giữa trưa. Lòng họ ngập đầy an ủi. Họ cũng còn đến viếng bái Hài Nhi Thiên Chúa, Mẹ Maria và Thánh Giuse mấy lần nữa, dâng cho các ngài một ít tặng vật hợp với cảnh nghèo nàn của họ. Nhưng họ không nói cho ai biết những ơn họ được. Mãi khi Thánh Gia đã đi khỏi rồi, họ mới tiết lộ…
Mẹ Maria đã cầu nguyện cho tất cả những người mà tội lỗi đã làm cho nên bất xứng với ơn Cứu Chuộc, nhưng Mẹ cũng không kém chú ý đến hết mọi nhu cầu của Con chí thánh Mẹ. Mẹ lấy một áo choàng nhỏ làm áo che lạnh cho Con, và luôn luôn Mẹ ủ ấm Con trong vòng tay Mẹ. Nhưng đôi lúc Mẹ cũng trao Con cho Bạn Thánh đồng trinh của Mẹ ẵm, để Thánh Giuse cũng được niềm vui chu toàn nhiệm vụ Người Cha đồng trinh… Ngài quì xuống, vừa run sợ vì tôn kính, vừa khóc lóc vì vui mừng, đón nhận lấy kho tàng trên trời ấy lên tay. Khi bế lại Chúa, Mẹ Maria cũng quì gối xuống, và, từ đó, trước khi Đôi Bạn Thánh trao Con cho nhau bế, thường bái gối ba lần và hôn đất với những tâm tình khiêm nhường thờ lạy rất cao cả. Mẹ cho Chúa Hài Nhi bú sữa mỗi ngày chỉ có ba lần. Đến lúc cho Chúa bú, Mẹ hết sức cung kính xin phép Chúa trước đã, vì, mặc dầu Mẹ phải nuôi dưỡng Hài Nhi Thiên Chúa như Con của lòng mình, song Mẹ cũng luôn luôn nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa thật…. Về giấc ngủ của Mẹ, Mẹ vốn đã ngủ rất ít, từ khi hạ sinh Chúa, Mẹ cứ thức cung kính để trông nom Chúa, cho tới lúc nào Chúa mời, Mẹ mới đi ngủ một chút ít. Để thưởng công lòng nhiệt thành tận tụy của Mẹ, Chúa ban cho Mẹ một giấc ngủ rất lạ lùng, lạ lùng hơn những giấc ngủ trước kia, vì không những tâm hồn Mẹ vẫn tỉnh thức khi ngủ, mà Mẹ dầu ngủ ít vẫn đủ sức để nâng rước, nuôi dưỡng Chúa Hài Nhi.
Từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể, Mẹ Maria vẫn hằng phải chịu một cuộc tử đạo không ngừng khi Mẹ suy niệm về những đau khổ Con chí thánh Mẹ sẽ chịu để cứu rỗi thế gian, nhưng Mẹ không được biết thánh ý Chúa về sự cắt bì phải làm cho Chúa tám ngày sau khi sinh ra. Mẹ biết rõ Con Mẹ xuống thế để tôn trọng và xác nhận lề luật bằng cách tự mình tùy phục lề luật. Nhưng phép cắt bì giả thiết là có nguyên tội là tội mà Hài Nhi Thiên Chúa không thể có, nên Mẹ hoài nghi không biết có phải cho Con chí thánh mình chịu cắt bì hay không, nhất là tình Mẹ yêu Con càng hoài nghi hơn. Dầu sao Mẹ cũng phải chấp nhận một quyết định… Bấy giờ Mẹ nói với Thánh Giuse lấy tiền bà Elisave tặng mà mua một lọ thủy tinh nhỏ, để chứa di tích cắt bì và sắm vải để thấm máu Chúa Hài Nhi sẽ đổ ra cũng như liệu thuốc dấu thông thường để rịt chữa vết thương. Sắm liệu xong rồi, Đôi Bạn Thánh đồng ý đặt tên cho Chúa Hài Nhi là Giêsu; vì cả hai cùng được Trời Cao mạc khải cho là phải đặt danh hiệu ấy. Ở Bêlem có một hội đường, dân chúng thường hội họp để cầu nguyện và nghe giảng nghĩa Thánh Kinh dưới quyền chủ tọa của một tư tế. Các bà mẹ thường kính cẩn đem con mình đến để xin vị tư tế này cắt bì cho, mặc dầu luật không buộc phải có tư tế cũng làm lễ nghi đó được. Mẹ Maria cũng muốn nhờ ông cắt bì cho Chúa Hài Nhi, và Thánh Giuse đến mời ông tới hang đá. Vừa đến thấy hang đá quá nghèo nàn, ông bất bình. Nhưng rồi vì Mẹ Maria khoan từ dịu dàng thưa gửi, và vì nhìn thấy Hài Nhi Mẹ ẵm trên tay, ông đã đổi thái độ gắt gỏng thành cảm phục, và cảm thấy một lòng sốt sắng khác thường. Muốn cho Mẹ khỏi phải nhìn một lễ nghi đẫm máu, ông nói Mẹ tạm lui xa một lát, cứ trao Hài Nhi cho hai vị phụ tá của ông ẵm bế cũng được. Nhưng vì không muốn xa lìa Con, không muốn trao Con cho một ai khác, Mẹ vừa khiêm tốn vừa khôn ngoan nói lên những lời lẽ vừa rất hợp lý vừa rất dịu dàng, nên tư tế đó bằng lòng để Mẹ được ẵm Chúa Hài Nhi khi ông làm nghi thức. Như vậy, vòng tay Mẹ đã là bàn thờ sống động dâng Hy Lễ mới lên Thiên Chúa. Thánh Giuse thắp lên hai cây mến cho thêm vẻ tôn kính trong hang đá nghèo nàn. Mẹ cởi áo cho Con và lấy một tấm khăn đã ủ nóng trên ngực ra, lót xuống phía lưng Con để tiếp nhận di tích và Máu Con khi chịu phép cắt bì. Theo lời Mẹ xin, vị tư tế đã làm nghi thức đó một cách êm nhẹ hết sức có thể… Ngài ôm chặt lấy Mẹ Ngài, Người Mẹ cũng đang khóc với Ngài, xiết chặt Ngài trên ngực Mẹ và, sau khi băng bó vết thương, đã cẩn thận lấy khăn bọc Ngài lại. Khi tư tế hỏi xem tên Hài Nhi là gì để biên vào sổ, Mẹ nhường Thánh Giuse nói, vì Ngài là gia trưởng, nhưng Thánh Cả lại nói danh hiệu khả tôn đó phải do miệng Mẹ nói ra. Trong lúc Đôi Bạn Thánh nhường nhau, Chúa thúc giục cả hai cùng đồng thanh nói lên: “Tên Hài Nhi là GIÊSU”.
Sau khi Chúa Hài Nhi chịu cắt bì, Thánh Giuse đề nghị với Mẹ Maria bỏ hang đá, vì những bất tiện của nó gây cho Chúa và cho chính Mẹ rất nhiều đau khổ. Mẹ đã biết sẽ có ba nhà Đạo sĩ Vương tước đến thờ lạy Chúa tại hang đá. Từng đọc Thánh Kinh và được mạc khải riêng, Mẹ biết rằng những Đạo sĩ đó sắp đến rồi… Gọi ba vị Vương tước đó là Đạo sĩ, vì họ có khá nhiều kiến thức, mà kiến thức cao quí nhất là hiểu biết Thánh Kinh của dân riêng Chúa. Họ nguyên quán ở Ba Tư, Ả Rập và Saba. Môi vị làm vua cai trị một xứ nho nhỏ. Lãnh thổ của họ giáp ranh giới nhau, nên họ thường qua lại thăm viếng nhau, trao đổi đức tính cũng như kiến thức. Họ có một ý niệm xác thực về Đấng Cứu Thế. Khi Ngài hạ sinh tại Bêlem, thiên thần hộ thủ của họ được một thiên thần ở hang đá Bêlem đến báo tin mừng ấy. Thiên thần hộ thủ của họ báo lại tin này cho họ trong một giấc mộng. Họ đã nhận thức một cách rõ ràng Chúa Cứu Thế đã giáng sinh rồi, và thấy mình có trách vụ phải đi thờ lạy Ngài, theo sự hướng dẫn của một ngôi sao mà Balaam đã tiên báo trước kia. Khi thức dậy, họ phủ phục, dâng niềm kính tôn lên Ngôi Lời Nhập Thể. Ngay hôm đó, họ chuẩn bị hành lý và được một ơn soi động, họ mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm tiến lễ. Cũng trong thời gian đó, vị thiên thần ở Bêlem đã dồn không khí lại làm nên một vì sao sáng, tuy không lớn bằng những ngôi sao trên trời. Sao đó ở độ cao vừa tầm để thi hành mục đích của nó. Ánh sáng cũng khác ánh sáng những vì sao khác. Nó làm đuốc soi ban đêm, nhưng ban ngày người ta cũng nhìn thấy nó. Các Đạo sĩ vừa ra khỏi nhà đã nhìn thấy sao lạ ấy. Họ cứ theo sao mà đi và gặp nhau dưới ánh sáng của sao. Sau khi tỏ cho nhau biết ơn soi sáng và ý định của nhau, họ vừa tán tụng Thiên Chúa vừa cùng với nhau chung một đường đi tìm Chúa Hài Nhi Cứu Thế. Sao biến mất ở Giêrusalem, nên ba Đạo sĩ mới ngờ là Đấng Cứu Thế giáng sinh trong thành này… Ra khỏi Giêrusalem, ba Đạo sĩ lại nhìn thấy sao lạ với một niềm hân hoan tận cùng. Ánh sao dẫn họ đến hang đá Bẹlem, rồi hạ thấp dần xuống, thu nhỏ hình lại, băng vào trong hang đá, đỗ trên đầu Chúa Hài Nhi và tỏa ánh sáng rực rỡ che phủ Ngài, rồi tan dần thành không khí như cũ… Khi các Đạo sĩ vừa vào hang, các ông đã phải ngỡ ngàng thán phục khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Đức Mẹ. Họ sấp mình trước mặt Hài Nhi Thiên Chúa mà thờ lạy Ngài là Đấng Cứu Thế…. Cuộc triều bái của họ kéo dài ba giờ rồi, nên họ xin phép Đức Nữ Vương để đi tìm một nơi tạm trú trong thành…. Trong giấc ngủ, các Đạo sĩ được thiên thần đến báo phải đi đường khác mà trở về, đừng quay lại với Hêrôđê nữa. Bình minh hôm sau, họ lại ra hang đá, và qua trung gian Mẹ Maria, họ tiếng dâng Chúa Hài Nhi những lễ vật quí giá xứng với vương quyền Chúa Cứu Thế là: vàng, nhũ hương và mộc dược…. Các Đạo sĩ còn xin Mẹ cho một vật gì làm kỷ niệm. Để an ủi, Mẹ tặng cho họ một vài khăn lót Chúa Giêsu. Trong niềm tri ân hứng thú, họ dâng lên Mẹ một đề nghị, nếu Mẹ muốn ở lại Bêlem, họ xin cúng kinh phí để xây một ngôi nhà và kính biếu tất cả nhu cầu thường nhật. Tất nhiên là Mẹ cảm ơn họ chân thành, nhưng từ chối không nhận đề nghị của họ. Cuối cùng, sau khi xin phép lành của Chúa Giêsu, của Mẹ và của Thánh Cả Giuse, họ giã biệt với biết bao niềm luyến tiếc ái mộ, đến nỗi tâm hồn họ như tan vỡ thành những tiếng xụt xùi và nước mắt. Khi ra khỏi Bêlem, một ngôi sao khác lại dẫn họ theo đường khác cho tới chỗ họ đã gặp nhau lúc ra đi.
Đã tới ngày một bà mẹ sinh con trai đầu lòng phải lên Đền Thờ, theo luật Maisen, để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con mình cho Chúa… Bêlem cách Giêrusalem hai dặm… Chiều hôm ấy Thánh Giuse kín đáo mang những lễ vật của Đạo sĩ vào Đền Thờ. Khi trở về Ngài mua mấy con chim gáy dành cho lễ nghi hôm sau… Sáng hôm sau, Thánh Gia lên đền thờ… Đêm trước, thánh Simêon và thánh nữ tiên tri Anna cũng tiếp nhận được những mạc khải mới và chính xác về những mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc dưới ơn soi sáng của Thiên Chúa, lúc đó, hai vị vào Đền Thờ, kinh ngạc khi nhìn thấy Chúa Hài Nhi và Mẹ Ngài tỏa rực ánh vinh quang, nhưng hai ánh sáng ấy không bằng nhau: Ánh của Con khác hẳn ánh của Mẹ. Thấm nhuần một an ủi từ trời ban, hai vị đến gặp Chúa Hài Nhi và Mẹ. Thượng Tế Simêon xin Mẹ cho ẵm Chúa. Ông ngước mắt lên trời, bồng Chúa Hài Nhi cao lên dâng cho Cha hằng hữu: “Giờ đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa được chết bằng an, vì mắt con đã được nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc mà Chúa đã hứa ban cho chúng con, Đấng Cứu Chuộc mà Chúa định tỏ cho mọi dân tộc, để làm ánh sáng soi cho các dân ngoại và vinh hạnh cho Israel dân riêng Chúa chọn”. Ông chúc lành cho Mẹ Maria và Thánh Giuse. Đôi Bạn Thánh tán tụng Thánh Linh đã ban ơn lạ cho ông. Ông lại nói với Mẹ: “Đức Nữ nên biết rằng Người Con của Đức Nữ đã được tôn lên để Người Israel một số lớn phải điêu đứng, một số lớn được phục hồi, Ngài sẽ là biểu hiệu gây mâu thuẫn. Và tâm hồn Đức Nữ sẽ bị một lưỡi gươm đau khổ xuyên qua”. Lúc ông nói những lời ấy, Hài Nhi Giêsu cúi đầu tỏ dấu thuận vâng thánh ý Cha Ngài, và Mẹ Maria cảm thấy trong lòng lưỡi gươm hành hạ Con Chí Thánh mình. Từ đó, hễ nhìn thấy Con là lòng Mẹ lại nhức nhối thêm một nỗi cảm thương không bờ bến, không lúc nào ngừng.
Các Bài Giảng và Huấn Từ Truyền Tin của ĐTC Phanxicô
ĐTC Phanxicô: Lễ Hiển Linh - Giảng Lễ Thứ Bảy 6/1/2018
"Chúng ta hãy bắt chước các vị Vương Sĩ: hãy ngước nhìn lên cao,
hãy lên đường và hãy nhưng không trao ban các
tặng phẩm của chúng ta".
Có 3 hành động của Các Vị Vương Sĩ giúp cuộc hành trình của chúng ta đến với Chúa, Đấng hôm nay tỏ mình ra như ánh sáng và ơn cứu độ cho muôn dân. Các Vị Vương Sĩ này nhìn thấy ngôi sao, họ lên đường và họ mang theo các tặng vật.
Nhìn thấy ngôi sao. Đó là điểm bắt đầu. Thế nhưng, chúng ta có thể hỏi là tại sao chỉ có các vị Vương Sĩ này thấy được ngôi sao? Có lẽ vì có ít người ngước mắt lên trời. Chúng ta thường thực hiện việc làm bằng cách nhìn xuống đất: chỉ cần có sức khỏe, có chút ít tiền bạc và có một chút vui chơi là đủ. Tôi nghĩ không biết chúng ta có còn biết nhìn lên trời hay chăng. Chúng ta có biết ước mơ, biết trông ngóng Thiên Chúa, biết mong đợi những gì mới mẻ Ngài thực hiện chăng, hay chúng ta để mình bị đời cuốn trôi, như các cành cây khô trước gió thổi vậy? Các vị Vương Sĩ không hài lòng với những gì có được chỉ mang tính cách trôi nổi. Họ đã hiểu được rằng để sống thực sự, chúng ta cần một đích nhắm cao vời và chúng ta cần phải biết nhìn lên.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hỏi tại sao, trong số tất cả những ai nhìn lên trời, rất nhiều người khác không theo ngôi sao ấy, "ngôi sao của Người" (Mathêu 2:2). Có lẽ là vì ngôi sao này không bắt mắt (not eye-catching), không sáng hơn các vì tinh tú khác. Đó là một ngôi sao - Phúc Âm nói với chúng ta - rằng các vị Vương Sĩ đã thấy "mọc lên" (2:9). Ngôi sao của Chúa Giêsu không chói lọi hay áp đảo mà là mời gọi một cách dịu dàng. Chúng ta có thể tự hỏi đâu là ngôi sao chúng ta đã chọn để theo đuổi trong đời sống của mình. Một số vì tinh tú sáng ngời nhưng không soi đường chỉ lối. Bởi vậy nó chỉ liên quan đến những gì là thành đạt, là tiền bạc, là nghề nghiệp, là vinh dự và là khoái lạc khi những thứ ấy làm nên đời sống của chúng ta. Chúng là những ngôi sao băng (meteors): chúng lóe lên trong chốc lát thế rồi vụt tắt và tan biến. Chúng là những ngôi sao bất chợt làm lạc hướng hơn là dẫn lối. Tuy nhiên, ngôi sao của Chúa không bao giờ lại rạng ngời áp đảo, nhưng lúc nào cũng có đó, hằng dịu dàng: nó dẫn dắt anh chị em trong cuộc đời và đồng hành với anh chị em. Nó không hứa hẹn những thứ phần thưởng vật chất, mà bảo toàn bình an và ban tặng, như với các vị Vương Sĩ, "niềm vui dạt dào trọng đại" (2:10). Thế nhưng nó cũng bảo chúng ta phải lên đường nữa.
Lên đường, điều thứ hai được các vị Vương Sĩ làm, là những gì thiết yếu nếu chúng ta cần phải tìm gặp Chúa Giêsu. Ngôi sao của Người đòi phải dứt khoát thực hiện cuộc hành trình và không ngừng tiến bước. Nó đòi chúng ta không bị ràng buộc bởi các thứ gánh vác vô bổ và những thêm thắt bất cần chỉ ngăn đường cản lối, và hãy chấp nhận những chướng ngại bất ngờ dọc theo tấm bản đồ cuộc sống. Chúa Giêsu để cho Người được gặp thấy bởi những ai tìm kiếm Người, thế nhưng để tìm gặp Người chúng ta cần phải đứng lên đi, chứ không ngồi đâu đó mà là dám liều thân, chứ không đứng yên, mà là lên đường. Chúa Giêsu thực hiện những đòi hỏi: Người nói với những ai tìm kiếm Người hãy bỏ lại những gì là tiện nghi thoải mái cùng với những gì là ấm áp an toàn nơi gia đình và nhà cửa. Việc theo Chúa Giêsu không phải là một thứ nghi thức xã giao cần phải tuân giữ, mà là một cuộc hành trình cần phải thực hiện. Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát dân của Ngài trong cuộc xuất hành và đã kêu gọi các dân tộc mới theo ngôi sao của mình, luôn ban tự do và niềm vui chỉ ở trong cuộc hành trình mà thôi. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn gặp thấy Chúa Giêsu, chúng ta cần phải thắng vượt nỗi sợ hãi dám liều mình của chúng ta, thắng vượt cái khoái thú bản thân và thắng vượt việc chúng ta bất cần đến điều gì nữa cho đời sống. Chúng ta cần phải liều mình chỉ để được gặp gỡ một Con Trẻ. Thế nhưng, những cái liều ấy là nỗ lực hết sức xứng đáng, vì trong việc tìm gặp Con Trẻ này, trong việc khám phá thấy niềm êm ái dịu dàng và tình yêu thương của Người, chúng ta mới tái khám phá thấy chính bản thân mình.
Việc lên đường không phải là chuyện dễ. Phúc Âm cho chúng ta thấy điều này bằng một thứ phối trí các nhân vật. Nào là một Hêrôđê, hoảng sợ trước việc hạ sinh của một vị vua đe dọa đến quyền lực của ông. Bởi vậy ông triệu tập các phiên họp và sai người đi thu thập tin tức, thế mà chính ông lại không nhúc nhích gì; ông vẫn cứ giam mình nơi lâu đài của mình. Thậm chí "tất cả Giêrusalem" (câu 3) đều sợ hãi: sợ hãi về những điều mới lạ đang được Thiên Chúa thực hiện. Họ muốn hết mọi sự vẫn cứ thế thôi - tức là cứ theo cách thức bình thường - không ai có can đảm để lìa bỏ. Khuynh hướng của các vị tư tế và luật sĩ mới càng quái dị hơn nữa, ở chỗ, họ biết đich xác nơi chốn để nói cho Hêrôđê biết, trích dẫn lời tên tri xưa. Họ biết đấy, nhưng chính họ lại không đến Bêlem. Khuynh hướng của họ là khuynh hướng của những ai thường là các tín hữu: họ có thể nói nhiều về đức tin mà họ biết rất rõ, thế nhưng họ lại không dám liều mình cho Chúa. Họ nói, nhưng họ không cầu nguyện; họ than trách, nhưng lại không hành thiện gì hết. Các vị Vương Sĩ, trái lại, nói ít hành trình nhiều. Không biết về các chân lý đức tin, họ vẫn đầy lòng mong ngóng và lên đường. Bởi vậy mà Phúc Âm đã nói với chúng ta rằng họ "đã đến bái thờ Người" (câu 2); "họ lên đường; họ bước vào và phục xuống tôn thờ Người; họ trở về" (các câu 9,11,12). Họ cứ luôn di chuyển.
Mang theo các tặng vật. Khi đến với Chúa Giêsu sau một cuộc hành trình dài, các vị Vương Sĩ thực hiện như Người làm, ở chỗ họ mang theo các tặng vật. Chúa Giêsu ở đó để cống hiến sự sống của Người; họ hiến dâng cho Người các tặng phẩm quí giá của họ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Bài Phúc Âm trở nên thực hữu khi cuộc hành trình cuộc sống được kết thúc bằng việc trao ban. Trao ban một cách nhưng không, vì Chúa, mà không mong được đền đáp: đó là một dấu hiệu chắc chắn chứng tỏ chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu. Vì Người phán: "Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy trao ban nhưng không" (Mathêu 10:8). Việc hành thiện mà không tính toán, ngay cả khi không được yêu cầu, ngay cả khi anh chị em không kiếm được gì từ đó, ngay cả khi nó là những gì khó chịu. Đó là những gì Thiên Chúa muốn. Ngài, Đấng đã trở thành nhỏ mọn vì chúng ta, xin chúng ta hãy cống hiến một điều gì đó cho người anh chị em hèn môn nhất của Người. Họ là ai? Họ là những người chẳng có gì để đền đáp, họ là thành phần túng bấn, thành phần đói khổ, thành phần khách lạ, thành phần tù nhân, thành phần nghéo khổ (xem Mathêu 25:31-46). Chúng ta cống hiến một món quà hài lòng Chúa Giêsu khi chúng ta chăm sóc cho một người bệnh, chúng ta bỏ giờ ra với một con người khó tính, chúng ta giúp đáp người đang cần cứu trợ, hay tha thứ cho những ai làm chúng ta nhức nhối. Đó là những tặng ân được trao ban cách nhưng không, những việc không thể nào thiếu vắng trong cuộc đời của Kitô hữu. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng nếu chúng ta chỉ yêu thương những ai thương yêu chúng ta thì chúng ta làm như dân ngoại làm vậy thôi (xem Mathêu 5:46-47). Hôm nay, chúng ta hãy nhìn vào bàn tay của mình, quá thường trống rỗng yêu thương, và chúng ta cố gằng nghĩ về một tặng vật nhưng không nào đó chúng ta có thể cống hiến mà không mong lấy lại gì. Điều ấy sẽ làm hài lòng Chúa. Chúng ta hãy hỏi Người: "Lạy Chúa, xin cho con biết tái khám phá thấy niềm vui của việc trao ban".
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bắt chước các vị Vương Sĩ: hãy ngước nhìn lên cao, hãy lên đường và hãy nhưng không trao ban các tặng phẩm của chúng ta.
"Thái độ vị kỷ có thể dẫn chúng ta đến chỗ
coi việc xuất hiện của Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta là một thứ đe dọa...
khuynh hướng dửng dưng lãnh đạm bao giờ cũng có đó.
Ngay cả khi chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta vẫn thích sống như không có Người..."
Xin chào anh chị em thân mến!
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Linh, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy 3 thái độ trong việc đón nhận sự xuất hiện của Chúa Giêsu và sự tỏ mình ra của Người cho thế giới, đó là thái độ cẩn thận tìm kiếm, thái độ dửng dưng lãnh đạm, thái độ lo âu sợ hãi.
Các vị Vương Sĩ không lưỡng lự trong việc lên đường tìm kiếm Đấng Thiên Sai. Khi họ tiến đến Giêrusalem, họ tìm hỏi: "Vương nhi của người Do Thái ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người mọc lên và đã đến để bái thờ Người". Họ đã thực hiện một cuộc hành trình dài và lúc ấy họ thực hiện một cuôc tìm kiếm thận trọng để có thể khám phá ra nơi ở của vị Vua mới sinh. Ở Giêrusalem, họ tìm đến với Vua Hêrôđê, nhân vật thăm dò các vị trưởng tế và luật sĩ để biết về nơi hạ sinh của Đấng Thiên Sai.
Việc cẩn thận tìm kiếm này của các Vị Vương Sĩ trái ngược với thái dộ dửng dưng lãnh đạm của những vị thượng tế và luật sĩ. Thành phần này biết Thánh Kinh và có thể cống hiến câu trả lời chính xác liên quan đến nơi chốn hạ sinh của Người: "Ở Bêlem Xứ Giuđêa, vì đó là những gì đã được tiên tri ghi chép", thế nhưng họ không thèm đi đến viếng thăm Đấng Thiên Sai. Bêlem chỉ cách có mấy cây số thôi, thế mà họ cũng chẳng nhúc nhích động đậy gì.
Lại càng tiêu cực hơn nữa thái độ của Hêrôđê: ông ta sợ rằng Con Trẻ này sẽ cướp mất quyền lực của mình. Ông gọi các vị Vương Sĩ mà bảo họ nói với ông khi nào ngôi sao xuất hiện thì ông ta để họ đi mà nói: "Hãy đi tìm gặp tất cả những gì về con trẻ này, khi các khanh đã gặp được con trẻ ấy thì cho tôi biết, để tôi cũng đi mà bái thờ ngài". Thực ra Hêrôđê muốn biết con trẻ ở đâu không phải để đến bái thờ mà là để diệt trừ Người, vì ông coi Người là đối phương. Đó, cái sợ hãi là những gì gây ra giả hình. Những kẻ giả hình đều như thế cả, vì họ cảm thấy sợ hãi trong cõi lòng của họ.
Ba thái độ chúng ta thấy trong bài Phúc Âm này là thái độ cẩn thận tìm kiếm, thái độ dửng dưng lãnh đạm, và thái độ lo âu sợ hãi. Chúng ta cần phải chọn một trong ba thái độ này.
Thái độ vị kỷ có thể dẫn chúng ta đến chỗ coi việc xuất hiện của Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta là một thứ đe dọa. Bởi vậy chúng ta cố gắng dập tắt hay bịt lại sứ điệp của Chúa Giêsu. Khi chúng ta theo đuổi các thứ tham vọng trần gian, những chiều hướng thoải mái nhất, những bản năng xấu xa, thì chúng ta coi Chúa Giêsu như là một chướng ngại vật.
Mặt khác, khuynh hướng dửng dưng lãnh đạm bao giờ cũng có đó. Ngay cả khi chúng ta biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta vẫn thích sống như không có Người, ở chỗ, thay vì tác hành một cách gắn bó với đức tin Kitô giáo thì chúng ta lại theo các qui luật của trần gian, những thứ qui luật có khuynh hướng làm thỏa mãn cái bản năng cao ngạo của chúng ta, cái khát vọng quyền lực và tiền tài của chúng ta.
Trái lại, chúng ta được kêu gọi theo gương của các Vị Vương Sĩ, đó là cẩn thận trong việc chúng ta tìm kiếm, sẵn sàng lên đường để gặp gỡ Chúa Giêsu trong đời sống của chúng ta. Việc tìm kiếm Người để tôn thờ Người, để nhận biết rằng Người là Chúa, Đấng cho mình là đường lối chân thật để theo. Nếu chúng ta có được thái độ này thì Chúa Giêsu thực sự cứu độ chúng ta, và chúng ta có thể sống một cuộc đời tuyệt vời, chúng ta có thể tăng trưởng đức tin, đức cậy và đức mến đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em của chúng ta.
Chúng ta hãy nguyện xin Rất Thánh Maria là ngôi sao cho cuộc hành trình của nhân loại trong thời gian chuyển cầu cho chúng ta. Với sự trợ giúp từ mẫu của Mẹ, chớ gì hết mọi người gặp thấy Chúa Kitô là Ánh Sáng Chân Lý, và chớ gì thế giới tiến bước theo đường lối của công lý và hòa bình.
https://zenit.org/articles/ang
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề cùng với những chỗ tự ý nhấn mạnh bằng mầu
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ: GIẢNG LỄ BA VUA NGÀY THỨ SÁU MÙNG 6/1/2017
"Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường.
Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu,
một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến,
họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa".
"Con Trẻ là vua dân Do Thái sinh ra ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người ở Đông phưong và đã đến để tôn thờ Người" (Mathêu 2"2)
Căn cứ vào những lời này thì Ba Vua, tù xa đến, cho chúng ta thấy lý do về cuộc hành trình xa xôi lâu dài của họ: họ đến để tôn thờ Vị Vua mới sinh. Nhìn ngắm và tôn thờ. Hai tác động này là hai tác động nổi bật trong trình thuật Phúc Âm này. Chúng tôi đã thấy và chúng tôi muốn tôn thờ.
Những con người này đã thấy một ngôi sao làm cho họ lên đường. Việc khám phá thấy một điều bất thường ở trên trời đã khơi động lên cả một chuỗi các biến cố. Ngôi sao này không chỉ chiếu sáng cho họ mà thôi, hay họ có di truyền thể (DNA) đặc biệt để có thể thấy được ngôi sao ấy. Như một trong các Thánh Giáo Phụ đã nhận định một cách chính đáng rằng Ba Vua đã không lên đường vì họ đã thấy ngôi sao, mà họ đã thấy ngôi sao bởi họ đã lên đường rồi (xem Saint John Chrysostom). Tấm lòng của họ đã hướng về chân trời và họ có thể thấy những gì trời cao tỏ cho họ, bởi họ được hướng dẫn bởi một thứ khắc khoải nội tâm. Họ đã hướng về một điều gì đó mới mẻ.
Bởi vậy Ba Vua là những vị nhân cách hóa tất cả những ai tin tưởng, tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa, những ai mong mỏi gia cư của mình, quê hương nước trời của mình. Họ phản ánh hình ảnh của những ai trong đời sống của mình không để cho tâm can của họ trở thành tê liệt.
Một niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa vọt lên nơi tâm can của các tín hữu vì họ biết rằng Phúc Âm không phải là một biến cố của qúa khứ mà là của hiện tại. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa giúp chúng ta tỉnh táo trước mọi nỗ lực làm suy yếu và bần cùng hóa cuộc đời của chúng ta. Niềm mong mỏi thánh hảo hướng về Thiên Chúa là việc hồi niệm của đức tin chống lại tất cả những thứ tiên tri u ám. Niềm mong mỏi ấy giữ cho niềm hy vọng cậy trông sống động trong cộng đồng các tín hữu, một cộng đồng tiếp tục van xin từ tuần này đến tuần kia rằng: "Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến".
Cũng với niềm mong mỏi này đã khiến cho vị lão thành Simeon mỗi ngày lên Đền Thờ, tin tưởng rằng đời sống của ông sẽ không kết liễu trước khi ông được ẵm Đấng Cứu Thể trong cánh tay của ông. Niềm mong mỏi này đã khiến cho Đứa Con Hoang Đàng từ bỏ lối sống hủy hoại bản thân mình mà tìm kiếm cái ôm ẵm của cha mình. Đó là niềm mong mỏi mà vị mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc. Maria Mai-Đệ-Liên đã cảm nghiệm cùng một niềm mong mỏi ấy vào sáng Chúa Nhật khi chị chạy đến mồ và gặp vị Sư Phụ phục sinh. Niềm mong mỏi Thiên Chúa kéo chúng ta ra khỏi cái cô lập bọc thép của chúng ta, khiến chúng ta nghĩ rằng chẳng có gì có thể đổi thay. Niềm mong mỏi Thiên Chúa đánh tan những thói lệ buồn tẻ và thôi thúc chúng ta thực hiện những thay đổi chúng ta muốn và cần. Niếm mong mỏi Thiên Chúa có gốc rễ trong quá khứ những không ngưng ở đó; nó vươn tới tương lai. Các tín hữu cảm thấy niềm mong mỏi này được dẫn dắt trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, như Ba Vua đã làm, từ những ngóc ngách xa xôi nhất của lịch sử, vì họ biết rằng Chúa đang đợi chờ họ ở đó. Họ đi đến những vùng ngoại biên, đến những vùng biên cương bờ cõi, đến những nơi chưa được phúc âm hóa, để gặp gỡ Chúa của mình. Họ không làm việc này theo một cảm quan ưu thế nào đó, mà là như những kẻ hành khất không thể bỏ qua những cặp mắt của những ai Tin Mừng vẫn còn là lãnh vực chưa được khai phá.
Một thái độ hoàn toàn khác nhau ngự trị ở cung đình vua Hêrôđê, một khoảng cách ngắn ngủi đối với Belem, nơi không ai nhận ra những gì đang xẩy ra vào lúc bấy giờ. Khi Ba Vua đang hành trình thì Giêrusalem thiếp ngủ. Nó thiếp ngủ để thông đồng với Hêrôđê là kẻ, thay vì tìm kiếm thì cũng thiếp ngủ. Ông ta thiếp ngủ, tê liệt bởi một lương tâm chai cứng. Ông ta bối rối, lo sợ. Chính vì cái bối rối này mà khi giáp mặt với cái mới mẻ làm biến đổi lịch sử này thì thụt vào bản thân mình và vào những thành đạt của mình, vào kiến thức của mình, thành công của mình. Cái bối rối của một kẻ ngồi trên chóp đỉnh giầu sang phú quí của mình nhưng không thể thấy gì ngoài cái giầu sang phú quí ây. Cái bối rối ngự trị trong tâm can của những ai muốn kiểm soát hết mọi sự và hết mọi người. Cái bối rối của những ai đã đắm đuối trong thứ văn hóa thắng cuộc bằng bất cứ giá nào, trong thứ văn hóa chỉ có chỗ duy nhất cho "những kẻ chiến thắng", bất chấp giá phải trả. Một thứ bối rối xuất phát từ nỗi sợ hãi và cái linh tính thấy trước được bất cứ những gì thách đố chúng ta, đặt vấn đề về những gì chúng ta tin tưởng và các sự thật của chúng ta, về cách thức chúng ta liên hệ với thể giới này và với cuộc sống đây. Herôđê đã sợ và nỗi sợ hãi đó đã khiến ông tìm kiếm an toàn bằng tội ác: "Ngươi sát hại những con người bé nhỏ nơi thân thể của họ, vì nỗi sợ hãi đang sát hại ngươi nơi tâm can của ngươi" (SAINT QUODVULTDEUS, Sermon 2 on the Creed: PL 40, 655).
Chúng tôi muốn tôn thờ. Những con người đến từ Đông phương để tôn thờ, và họ đã đến để làm điều ấy ở nơi xứng với một vị vua đó là ở một hoàng cung, giữa một cung đình và tất cả triều thần của nó. Vì đó là dấu hiệu của quyền lực, thành công, của một đời sống thành đạt. Người ta có thể thấy rõ một vị vua cần được tôn kính, được kính sợ và được nịnh bợ. Đúng thế, nhưng không nhất thiết phải được kính mến. Vì đó là những phân loại của trần gian, những thứ ngẫu tượng tầm thường chúng ta trân trọng: việc tôn sùng quyền lực, những dáng vẻ bề ngoài và tính chất ưu thế. Các thứ ngẫu tượng chỉ hứa hẹn những gì là buồn thương và nộ lệ hóa.
Chính nơi đó, ở hoàng cung ấy, mà những con người, từ xa đến, mới bắt đầu cuộc hành trình dài nhất của họ. Ở đó họ bắt đầu một cách kiên trì hơn cuộc hành trình vất vả và phức tạp hơn nữa. Họ cần phải nhận thức điều họ tìm kiếm không phải ở trong một hoàng cung, mà là ở một nơi khác, cả về tính cách hiện hữu cũng như địa dư. Ở đó, nơi hoàng cung, họ không thấy ngôi sao dẫn đường cho họ đến chỗ khám phá ra một Vị Thiên Chúa muốn được yêu mến. Vì chỉ ở dưới lá cờ tự do, chứ không phải chuyên chế, mới có thể nhận thức rằng ánh mắt của vị vua không được biết đến nhưng được mong ước này không khinh thường, nô lệ hóa hay giam nhốt chúng ta. Nhận thức rằng ánh mắt này của Thiên Chúa là những gì nâng cao, tha thứ và chữa lành. Nhận thức rằng Thiên Chúa muốn được hạ sinh ở nơi chúng ta chẳng ngờ nhất, hay có lẽ ít mong muốn nhất, ở một nơi chúng ta rất thường chối bỏ Người. Nhận thức rằng trong ánh mắt của Thiên Chúa bao giờ cũng có chỗ cho những ai bị thương tích, mệt nhọc, bị đối xử tệ bác và bị bỏ rơi. Rằng sức mạnh của Người và quyền năng của Người được gọi là lòng thương xót. Vì đối với một số trong chúng ta Giêrusalem xa cách Bêlem biết bao!
Hêrôđê không thể tôn thờ vì ông ta không thể hay không muốn thay đổi cách nhìn sự việc của ông. Ông không muốn ngưng tôn thờ bản thân mình, tin rằng hết mọi sự phải ở chung quanh ông. Ông không thể tôn thờ, vì mục đích của ông là làm cho kẻ khác tôn thờ ông. Các vị tư tế cũng không tôn thờ, vì cho dù họ đầy những kiến thức và biết được những lời tiên tri, họ cũng không sẵn sàng thực hiện cuộc hành trình và thay đổi đường lối của mình.
Ba Vua đã cảm thấy niềm mong mỏi; họ cảm thấy mệt mỏi bởi cuộc hành trình bình thường. Tất cả họ đều cảm thấy quá quen thuộc với và chán ngán những thứ Hêrôđê trong thời của họ. Thế nhưng, ở Belem, có một hứa hẹn của những gì là mới mẻ, của những gì là nhưng không. Ở đó đang có một cái gì mới mẻ xẩy ra. Ba Vua đã có thể tôn thờ, vì họ đã can đảm lên đường. Và khi họ quì xuống trước một con trẻ nhỏ bé, nghèo hèn và mếm yếu, một Con Trẻ không được trông mong và không được biết đến, họ đã khám phá ra vinh quang của Thiên Chúa.
http://www.news.va/en/news/the-popes-homily-on-the-feast-of-the-epiphany
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ - HUẤN TỪ TRUYỀN TIN LỄ HIỂN LINH THỨ SÁU 6/1/2017
"Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục,
được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua,
cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó".
Xin chào Anh Chị Em thân mến! Hôm nay chúng ta cử hành Lễ Chúa Hiển Linh, tức là việc tỏ mình ra của Chúa Giêsu, Đấng như ánh sáng chiếu soi muôn dân. Biểu hiệu của ánh sáng này, một ánh sáng chiếu soi trên thế giới và muốn chiếu sáng đời sống của từng người, đó là ngôi sao dẫn đường Ba Vua tới Bêlem. Phúc Âm nói rằng họ đã thấy "ngôi sao của Người" (Mathêu 2:2) và họ đã theo ngôi sao ấy: họ đã muốn được ngôi sao của Chúa Giêsu dẫn đường.
Trong đời sống của chúng ta cũng có các ngôi sao khác nhau, có những thứ ánh sáng chiếu soi và hướng dẫn. Tùy chúng ta chọn theo thứ nào. Chẳng hạn, có những thứ ánh sáng gián đoạn, lúc có lúc không, như những thứ thỏa mãn nho nhỏ trong cuộc đời: cho dù là tốt nhưng vẫn chưa đủ vì chúng kéo dài tí chút thôi và không để lại những gì là bình an mà chúng ta muốn tìm kiếm. Thế rồi có những thứ ánh sáng rạng ngời của khấu trường, của tiền tài và thành công, hứa hẹn hết mọi sự ngay lập tức: chúng là những thứ ánh sáng hấp dẫn nhưng bằng mãnh lực của mình chúng làm cho con người trở nên mù quáng và biến họ trải qua từ những mơ mộng vinh quang đến tối tăm mù mịt nhất. Trái lại, Ba Vua mời gọi chúng ta hãy theo một thứ ánh sáng vững bền, một thứ ánh sáng dịu dàng, không tắt, vì nó không thuộc về thế giới này: nó đến từ Trời và chiếu soi... ở đâu? Trong cõi lòng.
Ánh sáng chân thật này là ánh sáng của Chúa, hay đúng hơn, là chính Chúa. Người là ánh sáng của chúng ta: một thứ ánh sáng không làm mù quáng, nhưng hỗ trợ và cống hiến một niềm vui đặc biệt. Ánh sáng này là để cho tất cả mọi người và kêu gọi từng người: vậy chúng ta có thể cảm thấy chúng ta được tiên tri Isaia ngỏ cùng ở lời mời gọi hôm nay: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" (60:1). Tiên tri Isaia đã nói thế, khi nói tiên tri về niềm vui này của hôm nay cho Giêrusalem: "Hãy chỗi dậy, hãy chiếu soi" Chúng ta có thể chấp nhận lời mòi gọi này vào giây phút đầu tiên của mỗi ngày: hãy chỗi dẫy, hãy chiếu soi, hãy theo đuổi hôm nay đây - trong số nhiều ngôi sao rơi rụng trên thế giới này - ngôi sao rạng ngời của Chúa Giêsu! Bằng việc theo đuổi ngôi sao này, chúng ta sẽ có niềm vui, như đã xẩy ra cho Ba Vua, những con người "khi họ thấy ngôi sao họ hết mừng mừng rỡ hân hoan" (Mathêu 2:10); vì Chúa ở đâu thì niềm vui ở đó. Ai gặp gỡ Chúa Giêsu đều cảm nghiệm thấy phép lạ của thứ ánh sáng xua tan tối tăm và biết rằng ánh sáng này đang chiếu soi và sáng tỏ.
Tôi xin trân trọng mời gọi tất cả anh chị em đừng sợ ánh sáng này và hãy cởi mở cho Chúa. Tôi cũng muốn đặc biệt nói với những ai đã mất đi sức mạnh để tìm kiếm, những ai cảm thấy mệt mỏi và bị choáng ngợp bởi những u tối của cuộc đời, những ai có ước muốn tàn tạ: hãy chỗi dậy, hãy can đảm, ánh sáng của Chúa Giêsu có thể khống chế bóng tối đen nhất; hãy chỗi dậy, hãy can trường!
Mà làm thế nào để có thể tìm thấy ánh sáng thần linh này? Chúng ta hãy theo gương Ba Vua, những con người được Phúc Âm diễn ta như thể luôn di chuyển. Thật vậy, ai muốn ánh sáng xuất phát từ mình và tìm kiếm thì họ không khép kín, bất động, nhìn vào những gì đang xẩy ra chung quanh mình, mà là nhập cuộc; ra khỏi bản thân mình. Đời sống Kitô hữu là một cuộc hành trình liên tục, được thực hiện bởi niềm hy vọng và bởi tìm kiếm; một cuộc hành trình, như của Ba Vua, cũng tiếp tục cả khi ngôi sao biến khuất mắt vào một lúc nào đó. Trong cuộc hành trình này cũng có những cạm bẫy cần phải tránh né: lời đồn thổi nông nổi và trần tục làm cản bước chân; những thứ bất chợt liệt bại của cố chấp; những lỗ hổng bi quan yếm thế chộp bắt niềm hy vọng. Những cái cản trở này đã cản ngăn thành phần Luật sĩ được bài Phúc Âm hôm nay nói tới. Họ biết ánh sáng ở nơi đâu nhưng không nhúc nhích gì. Khi Hêrôđê hỏi họ: "Đấng Thiên Sai giáng sinh ở đâu?" - "Ở Bêlem". Họ đã biết ở chỗ nào nhưng họ vẫn không nhúc nhích. Kiến thức chỉ bắng thừa là ở chỗ đó: họ biết nhiều sự nhưng chẳng được gị; hết mọi sự chỉ là không. Biết Chúa giáng sinh thì chưa đủ nếu người ta không sinh Người ra trong lòng mình. Thiên Chúa giáng sinh, đúng thế, nhưng Người có được sinh ra trong lòng của anh chị em hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng tôi hay chăng? Người có được sinh ra trong lòng chúng ta hay chăng? Bởi thế, như Ba Vua, theo ngôi sao chúng ta sẽ thấy Người với Mẹ Maria, Thánh Giuse.
Ba Vua đã thực hiện như thế: đã thấy Con Trẻ: "họ phục xuống thờ lạy Người" (câu 11). Họ không chỉ nhìn Người, họ không chỉ đọc một lời nguyện theo hoàn cảnh rồi đi, không, mà là thờ lạy: họ đã tiến vào một cuộc hiệp thông yêu thương riêng tư với Chúa Giêsu. Sau đó họ đã hiến dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược, hay là những sản vật quí báu nhất của họ. Chúng ta hãy học từ Ba Vua là đừng dâng hiến cho Chúa Giêsu chỉ có khoảnh thời giờ rảnh rỗi của chúng ta và một thoáng nghĩ lúc này lúc nọ, bằng không chúng ta sẽ không có ánh sáng của Người. Như Ba Vua, chúng ta hãy tiến hành, mặc lấy ánh sáng theo ngôi sao của Chúa Giêsu và chúng ta hãy thờ lạy Chúa với tất cả con người của chúng ta.
(Sau Kinh Truyền Tin:)
Ba Vua đã cống hiến cho Chúa Giêsu các tặng vật của mình, thế nhưng, thực ra, Chính Chúa Giêsu là tặng vật thực sự của Thiên Chúa. Người thực sự là Vị Thiên Chúa hiến Mình cho chúng ta. Nơi Người chúng ta thấy dung nhan thương xót của Cha là Đấng đang chờ đợi chúng ta, nhận lãnh chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta; dung nhan của Thiên Chúa là Đấng không bao giờ đối xử với chúng ta theo các việc làm của chúng ta hay theo tội lỗi của chúng ta, mà chỉ theo lòng thương xót vô cùng bất tận của Ngài. Nói về tặng vật, tôi cũng nghĩ đến việc trao tặng cho anh chị em một món quà nhỏ... Tập sách "Icon of Mercy - Hình Tượng của Lòng Thương Xót" Tặng vật của Thiên Chúa là Chúa Giêsu, là lòng thương xót của Cha, và vì thế, để tưởng nhớ đến tặng vật này của Thiên Chúa, tôi sẽ trao tặng cho anh chị em một tặng vật, tặng vật sẽ được phân phối cho anh chị em bởi người nghèo, người vô gia cư và những người tị nạn cùng với các tình nguyện viên và tu sĩ, những anh chị em tôi gửi lời chào nồng nàn và hết lòng cám ơn. Tôi chúc anh chị em một năm sống công lý, tha thứ, bình an nhưng nhất là một năm của lòng thương xót. Đọc tập sách này sẽ có lợi cho anh chị em: nó vừa vặn bỏ trong túi và anh chị em có thể mang theo với mình. Cả anh chị em nữa, xin đừng quên trao tặng cho tội món quà tặng cầu nguyện của anh chị em nhé. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Chúc anh chị em một ngày lễ hạnh phục, một bữa trưa ngon và sớm gặp lại anh chị em!
https://zenit.org/articles/angelus-on-the-feast-of-the-epiphany/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi
tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu
Ngày 2 tháng 1
Thánh Ba-xi-li-ô Cả và thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-en,
giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Thánh Ba-xi-li-ô sinh tại Xê-da-rê miền Ca-pa-đô-xi-a năm 330, trong một gia đình Ki-tô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái A-ri-ô, viết nhiều tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ Đông Phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.
Thánh Ghê-gô-ri-ô cũng sinh năm 330 gần thành Na-di-en. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người đã kết thân với thánh Ba-xi-li-ô, đã chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh mục, rồi được chọn làm giám mục. Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận thành Công-tăng-ti-nô-pô-li ; tuy nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè phái trong địa phận, người lui về thành Na-di-en và qua đời tại đó ngày 25 tháng Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì người vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.
Hai con người, một tâm hồn
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 2/1 - Bài Đọc 2)
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en.
Bấy giờ chúng tôi gặp nhau tại A-ten. Như dòng chảy của con sông, phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất, được phân chia thành nhiều nhánh, thì vì ham học, đức cha Ba-xi-li-ô và tôi đã xa lìa nhau, đi đến những miền khác nhau nhằm mục đích trau dồi kiến thức. Sau đó chúng tôi lại gặp nhau như là do hẹn hò, mà thật ra do Thiên Chúa đã thúc đẩy.
Đức cha Ba-xi-li-ô là người bạn cao quý của tôi, ngài có nếp sống đoan trang, lại hoạt bát khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói, nên đối với ngài, bản thân tôi hết lòng quý trọng. Không những thế, tôi còn cố sao cho những ai chưa có dịp biết ngài cũng có tâm tình đó như tôi. Bấy giờ tiếng tăm ngài đã lừng lẫy khắp nơi, nên được nhiều người kính nể.
Điều này dẫn tới chuyện gì ? Trong số những người đến A-ten để học hỏi, hầu như chỉ có một mình ngài vượt khỏi luật chung, là đã được quý mến hơn tất cả mọi sinh viên mới theo học. Đó là khởi đầu tình bạn giữa chúng tôi, từ đó bùng lên tia lửa liên kết chúng tôi lại, và chúng tôi đã hết sức quý mến nhau.
Một thời gian sau, chúng tôi tỏ cho nhau biết niềm say mê chung của mình, đó là chúng tôi chỉ say mê môn triết học. Từ đó, hai chúng tôi người này sống cho người kia : cùng chung một mái nhà, một bàn ăn, một nếp sống, một cùng đích, và ngày càng nhiệt thành cương quyết cùng chia sẻ với nhau một khát vọng.
Cả hai chúng tôi đều hướng tới một điều đáng mong ước hơn hết mọi sự, đó là sự hiểu biết. Tuy vậy không hề có ganh tị mà chỉ có ganh đua. Cả hai cùng tranh nhau, không phải để tìm phần thắng cho mình, nhưng là để nhường cho người kia. Mỗi người đều coi vinh dự của bạn là của chính mình.
Có thể nói hai chúng tôi chỉ có một tâm hồn, nâng đỡ hai thân xác. Nếu không được tin những kẻ chủ trương rằng tất cả trong tất cả, thì cũng phải tin chúng tôi khi chúng tôi nói về mình rằng người này ở trong người kia, và người này hướng về người kia.
Cả hai chúng tôi chỉ có một mối bận tâm là đi đường nhân đức, và cuộc đời chúng tôi luôn hướng về những thực tại tương lai nhằm chuẩn bị cho mình từ bỏ cõi đời trước khi từ biệt cõi đời. Chúng tôi định hướng cuộc đời và mọi hành động theo viễn tượng đó. Chúng tôi để cho luật Thiên Chúa hướng dẫn mình và khuyến khích nhau yêu chuộng đường nhân đức. Nếu như nói ra không phải là khoe khoang quá đáng thì tôi có thể nói rằng giữa hai chúng tôi, người này đối với người kia là mực thước và khuôn mẫu để phân biệt phải trái.
Mỗi người chúng tôi đều có một thứ biệt danh, hoặc do cha mẹ đặt, hoặc là do người khác, dựa trên sở thích hay công việc riêng của mỗi người chúng tôi. Nhưng đối với chúng tôi, vấn đề đáng quan tâm hơn cả, và danh hiệu cao quý nhất, là được làm Ki-tô hữu, được mang danh hiệu này.
1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Hôm nay Hội thánh cho chúng ta mừng chung hai thánh Basiliô Cả và Grêgoriô Nazianô trong một ngày. Sở dĩ Giáo Hội làm như vậy bởi vì cuộc sống của các ngài có những điểm chung thật thú vị.
Trước hết các ngài đã vào cuộc đời làm người ở cùng một nơi, tại Cappadocia và cha mẹ của các ngài đều là những người thuộc dòng giống quí phái, danh tiếng, có địa vị trong xã hội thời đó.
Các ngài đã được cha mẹ cho học cùng một trường tại kinh thành Athènes nổi tiếng của Hy Lạp rồi sau khi tốt nghiệp các ngài cùng về quê sống chung với nhau trong một tu viện.
Điểm chung cuối cùng rất đáng chúng ta cảm phục là các ngài đã cùng đứng chung trong một trận tuyến khi phải đối đầu với bè rối Ariô để bảo vệ niềm tin trong sáng đối với Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc toàn thể nhân loại chúng ta.
Dù rằng tính khí mỗi người khác nhau, nhưng các ngài đã sống hết sức nghĩa thiết đối với nhau theo gương vị mục tử nhân hậu hiền lành là Thầy Giêsu chí thánh.
Basiliô có tài lãnh đạo, có óc tổ chức, chỉ huy và điều khiển. Còn Grêgôriô Nazianô lại thích chiêm niêm, sống âm thầm và là một tu sĩ sáng ngời các nhân đức.
Cả hai vị thánh đều được chọn làm Giám mục cai quản Giáo Hội.
Thánh Basiliô được đặt làm Giám mục Caesarea Mazaca thuộc vùng Capadocia, Tiểu Á năm 370. Ngài là một mục tử can trường, đầy dũng khí và hiên ngang. Nhờ lòng dũng cảm, lời giảng dạy và nhờ sự tài khéo khéo khi giao tiếp với mọi người mà Ngài đã đem lại chỗ đứng vững chắc cho Giáo Hội thời đó. Dưới sự dẫn dắt của Ngài, thần quyến và thế quyền đã có chỗ đứng riêng tránh được những sự phiền toái làm ảnh hưởng đến tính trong sáng của Tin Mừng. Ngài hết sức lo cho những người nghèo để họ được sống đúng với phẩm giá của mình cũng như bảo vệ họ luôn được đứng vững trong niềm tin trong sáng của Chúa và Giáo Hội.
Ngài đã viết nhiều bài luận về Chúa Thánh Thần, phát triển nền thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cố gắng rất nhiều trong việc hàn gắn những chia rẽ trong Giáo hội.
Trong Giáo Hội Công giáo Rôma, Ngài được công nhận là Tiến sĩ Hội thánh năm 1568 do Đức Giáo hoàng Piô V.
Thánh Grêgôriô Nazianô được tấn phong Giám mục Sasime năm 371, và vào năm 380, thánh nhân được cử làm Giám mục Constantinople giữa lúc bè rối Ariô đang hoành hành gây nên nhiều khó khăn cho Giáo Hội. Nhờ tài hùng biện và sự thánh thiện của Ngài, mà Ngài đã chinh phục được mọi người, đem lại sự bình an cho Giáo Hội lúc đó. Người ta đã phong tặng cho thánh nhân một cái tên hết sức thân thương: “Cha của những kẻ khốn cùng”.
Thánh Basiliô qua đời ngày 01/1/379 và thánh Grêgôriô Nazianô tạ thế ngày 25/1/390.
2. GIÁO HỘI TUNG HÔ CÁC NGÀI
Cả hai vị thánh đã sống đời sống hiền lành, khiêm nhường theo gương Chúa Giêsu Cứu Thế. Cuộc sống của các Ngài đã họa lại bộ mặt đầy yêu thương của Chúa. Thánh Grêgôriô đã để lại câu nói bất hủ: “Nếu vì tôi mà bão táp này (bè rối Ariô) nổi dậy, hãy ném tôi xuống biển, để anh em khỏi bị khổ sở “.
Giáo Hội Chính Thống đã đặt ba vị thánh Basiliô cả, Grêgôriô Nazianô và Gioan Kim Khẩu lên hàng đầu giữa các bậc tiến sĩ trong Giáo Hội Chúa Kitô. Vì những công nghiệp, tài đức và nhân đức của các Ngài, Hội Thánh còn gọi các Ngài bằng tên rất đẹp, ấn tượng và thân thương: “đuốc thiêng của Hội Thánh “
Thánh Basiliô làm việc không biết mệt trong công việc mục vụ, chống chọi lại với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân của hạn hán và đói kém, cố gắng thay đổi hàng giáo sĩ, nhấn mạnh đến tinh thần kỷ luật. Ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi đã thấy, và sẵn sàng ra vạ tuyệt thông cho những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Cappadocia.
Ðức Basiliô nổi tiếng là một nhà diễn thuyết. Các văn bản của ngài, dù thời ấy không được nổi tiếng cho lắm nhưng cũng đã đưa ngài lên hàng các bậc thầy của Giáo Hội. Bảy mươi hai năm sau khi ngài từ trần, Công Ðồng Chalcedoine đã đề cập đến ngài như một con người “vĩ đại, người thừa tác ơn sủng đã dẫn giải chân lý cho toàn thể trái đất.”
Thánh Basiliô cũng còn là một người hết lòng chăm sóc cho những người nghèo. Có lần Ngài đã phát biểu: “Thực phẩm mà bạn không dùng là thực phẩm của người đói; quần áo bạn treo trong tủ là quần áo của người trần truồng; giày dép bạn không dùng là giày dép của người chân không; tiền bạc bạn cất giữ là tiền bạc của người nghèo; hành động bác ái mà bạn không thi hành là những bất công mà bạn đã phạm.”
Riêng cuộc đời của thánh Grêgôriô Nadianô, thì nhờ một số lớn thư từ ngài để lại cũng như những văn kiện trong Giáo Hội nói về ngài chúng ta thấy vào lúc Giáo Hội miền Tiểu Á phải đối phó với những trở ngại và bách hại do lạc giáo Ariô gây nên. Lịch sử kể lại, vừa đặt chân lên đất Constantinople, Ngài đã bị một nhóm dân chúng ném đá, vu oan; họ còn dám tố cáo ngài ở tòa án về tội sát nhân. Các giáo hữu của ngài chia rẽ nhau. Lúc Hoàng đế Valence băng hà và Hoàng đế Thêôdore kế vị, thì những người theo phái Ariô cũng vẫn còn tung hoành, thống trị. Họ tìm cách giết Đức Giám mục Grêgôriô. Chính tên sát nhân được bè rối Ariô sai đến ám sát Ngài, lại quỳ gối xuống trước mặt ngài, thú tội và xin lỗi, vì trước khi hắn định xông vào giết ngài, hắn bỗng cảm thấy bị lương tâm cắn rứt. Có lúc Đức Giám mục Grêgôriô đã tính đến chuyện rút lui khỏi Constantinople, nhưng các tín hữu nài xin ngài ở lại. Dần dà nhờ sự nâng đỡ của Hoàng đế Thêodore, và nhờ hoạt động đi đôi với gương mẫu đời sống hy sinh, khiêm tốn, đạo đức, thánh thiện của Đức Giám mục Grêgôriô, giáo đoàn ngày càng tăng thêm tín hữu và trở nên sầm uất. Nhiều người trở lại với đức tin Công giáo và lạc giáo Ariô cũng giảm sút. Công lao của Đức Giám mục Grêgôriô trong công việc canh tân Giáo phận, thực không phải là nhỏ.
Năm 381, Công đồng chung Constantinople II, họp tại Constantinople, Đức Giám mục Grêgôriô làm chủ tịch Công đồng. Nhưng vì có sự chia rẽ giữa các Giám mục tham dự Công đồng với nhau, Đức Giám mục Grêgôriô đã xin từ chức Giám mục Constantinople. Ngài về Capadocia là quê hương của ngài và coi sóc Giáo phận Nadianô, lúc đó chưa có Giám mục. Khi Giáo phận Nadianô có Giám mục mới, Đức Grêgôriô trở về quê hương ở Nadianô sống ẩn dật và khắc khổ trong những ngày cuối đời, giữa cảnh thanh bình, chỉ còn biết chuyên chú vào việc cầu nguyện tu đức cũng như viết tự thuật và sáng tác thi ca. Năm 389, Ngài qua đời bằng an trong Chúa, để lại cho Giáo Hội một sự nghiệp văn chương và tín lý gồm: 45 bài suy tư thần học, 245 bức thư và một số tập thi ca.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-02-01-thanh-basilio-ca-va-gregorio-naziano-30228
1. Thánh Basiliô Cả, Giám mục, Tiến Sĩ (329-397)
Thánh Basiliô, con người kỳ diệu mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối năm 329 tại Cêsarêa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một gia đình thánh thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ Emelia. Nhưng sinh ra Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng tưởng như đã cất mất mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết quả của lời cầu nguyện mà thôi.
Từ thuở thơ ấu thánh nhân đã đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây, Ngài đã hấp thụ được những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những lời dạy dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn bé thơ của tôi.
Ngay khi tới buổi đi học, cha Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm nhiệm việc dạy dỗ Ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ngài được gửi đi Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng, Ngài đi Athena, kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại đây, Ngài có dịp làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân với nhau và tình bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và tới trường học.
Sau khi hoàn tất các môn học, Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng con người lên trời.
Lúc hai mươi bảy tuổi, Ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành công tưởng đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài là thánh nữ Macrina (trẻ) đã nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng của cả loài người, và về những giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế là thánh nhân quyết từ giã thế gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện bên Đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau Ngài trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các qui luật Ngài soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày nay vẫn còn được áp dụng tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ Byzantin. Chính thánh Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng la Tinh của Ruffinô. Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ngài đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời Ngài.
Năm 370 khi Đức giám mục Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đúng vào phái lạc giáo để bách hại Giáo hội. Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân.
Hắn nói: – Tại sao ông dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.
Thánh nhân trả
lời : – Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.
Modestô vặn lại: – Vậy ông coi chúng tôi là thứ gì chứ?
Thánh nhân trịnh trọng đáp lời: – Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải có những điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:
Modestô liền dở trò đe dọa: – Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của chúng tôi sao?
Nhưng thánh nhân đã khẳng khái trả lời: – Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản thì người không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu đày, bởi vì đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn ông muốn bắt tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá yếu đuối và không đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa tôi về với Thiên Chúa hơn”.
Vị tổng trấn ngạc nhiên: – Tôi chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.
Và thánh
Basiliô bình tĩnh trả lời: – Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục
nào.
Sau cuộc đàm thoai nẩy lửa này, tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của bè rối, hoàng đế Valăng tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trước con ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng đã qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của bè rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục. Lần này, ông vẫn thất bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn thì ấn bị bể nát.
Ngoài sự can trường để bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt hành và giàu lòng bác ái, Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận, Ngài chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu giữ tới ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân còn thương yêu đặc biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà thương, đặt tên là Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.
Thánh nhân đã được sống để chứng kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo Ariô. Nhưng chẳng bao lâu sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng năm 379.
2. Thánh Gregôriô Nazianzênô, Giám Mục, Tiến Sĩ – (329 – 390)
Thánh Grêgôriô Nazianzênô là một trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp và được mệnh danh là thần học vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời khoảng năm 329, trong một gia đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng tên là Grêgôriô, lúc ấy còn là lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ nhân đức siêu vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt đã đưa ông về với Chúa Giêsu.
Thánh Leông (Léonce) giám mục thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi vượt, ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận Nazianze.
Thánh Grêgôriô ra đời như kết quả lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có được người con để phục vụ bàn thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà tặng của trời cao. Được đào tạo trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ngài đã biết quí trọng những nét đẹp của tội thơ vô tội.
Thánh nhân được cử đi học hùng biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua Alexandria và sau cùng tới Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa hùng biện, trên đường tới Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ dội, tưởng chừng như sẽ bị đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được rửa tội và rất lo âu cho phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa thánh cho được sống thêm, để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời. Cơn giông bão chấm dứt và Ngài tới được Athena.
Tại đây thánh Gregorio gặp lại một người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây thân tình giữa các Ngài ngày càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn trưng dẫn hai vị nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng và chân thành nhất. Không thể lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc kết thân nguy hiểm và chỉ giao tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi đôi với việc thực hành các nhân đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các cuộc giải trí có tính cách trần tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và các trường học.
Hoàn tất việc học hành, thánh Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục cai quản giáo phận Nazianze và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được đóng ấn tín thần linh, Ngài coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân phung sự Ngài,
Ngài nói: – “Tôi hiến trọn cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài là phần sản nghiệp của tôi”.
Tình thảo hiếu đã giữ lại bên người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài giúp đỡ cha trong mọi công việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu thích được ẩn dật đã đưa Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu trì. Ngài đã sống xa thế gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của mình. Nhưng thời gian ẩn dật này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào để mà luyến tiếc thôi, người cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều khiển giao phận. Nhận thấy rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con thân yêu của mình, vị thánh giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài ngày 6 tháng 1 năm 362. Lúc ấy thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới càng tăng thêm nhiệt tình của Ngài.
Thánh Basiliô lúc ấy đã làm tổng giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên làm giám mục cai quản điạ phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã không hề tới nhậm điạ phận được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để giúp đỡ người cha mà tuổi tác đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời năm 374 thánh nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận, nhưng không hề muốn làm giám mục của giáo phận này.
Năm 380, tức là khoảng năm năm sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh nhân tới củng cố giáo phận đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông đồ, thánh nhân đã nhận lời. Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu lắm. Trong một thành phố xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người ta đang ngóng đợi một nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh đình. Nhưng người ta đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già yếu, ăn mặc giản dị và lời nói vắn gọn.
Những người theo lạc giáo Ariô chế giễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn vững chắc và hùng hồn, Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ cái sai lầm của lạc giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị tàn phá. Giáo phận không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một ngôi nhà mà Ngài đăt tên là Anastasia.
Hương thơm nhân đức và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe càng thêm đông. Từ trong sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng thuyết. Tuy nhiên bề ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một khó khăn khiến cho địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.
Năm 381, công đồng chung họp tại Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm giám mục chính tòa của giáo phận này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít lâu sau, một số giám mục đã chất vấn tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng những chống đối này, thánh Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các nghị phụ công đồng bằng quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế Têodô (Thésdose) Hoàng đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do sứ ckhỏe mà thôi. Trước khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập với đầy tình yêu quí, Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn từ đặc sắc. Người ta gọi diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).
Lui về Nazianze, thánh Grêgôriô dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để lại cho Giáo hội một kho tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn, 245 bức thư và mấy tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có giá trị văn chương và tín lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.
Người ta còn giữ được bản di chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ thi này là một tóm lược khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như sau: – “Tôi là mục tử không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi chính các mục tử. Tôi để Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như chính Người đã lo cho tôi trong quá khứ”.
(nguồn: gxdaminh.net)
Thứ Hai sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 22 - 4, 6
"Hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, bất cứ điều gì chúng ta xin, thì chúng ta cũng lãnh nhận được nơi Chúa, vì chúng ta giữ các giới răn Người và làm điều đẹp lòng Người. Và đây là giới răn của Người: chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người, là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.
Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi.
Các con thân mến, các con bởi Thiên Chúa mà ra và đã thắng nó, vì Ðấng ở trong các con thì cao trọng hơn kẻ ở trong thế gian. Chúng thuộc về thế gian, nên nói chuyện thế gian, và thế gian nghe theo chúng. Chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra. Ai biết Thiên Chúa, thì nghe chúng ta; còn ai không bởi Thiên Chúa, thì không nghe chúng ta. Do đó mà chúng ta biết được thần trí chân thật và thần trí dối trá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 2, 7-8. 10-11
Ðáp: Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp (c. 8a).
Xướng: 1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài". - Ðáp.
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4,17
Alleluia, alleluia! - Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 4, 12-17. 23-25
"Nước trời đã đến gần".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng:
"Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Sáng Soi
Hôm nay, Thứ Hai sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, và chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh vẫn là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Đó là lý do ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Mathêu đã chẳng những thuật lại sự kiện khách quan về hoạt động của Chúa Giêsu "Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali", mà còn từ đó chứng tỏ những hoạt động của Người hoàn toàn "ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: 'Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết'".
Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu được Giáo Hội cố ý chọn đọc hôm nay là đoạn Phúc Âm Chúa Giêsu bắt đầu xuất đầu lộ diện để tỏ mình ra, sau khi Người lãnh nhận phép rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở Sông Dược Đăng (Jordan) và sau khi Người chay tịnh 40 ngày trong hoang địa.
Và theo bài Phúc Âm này thì nơi đầu tiên Người tỏ mình ra là một địa điểm trong đất Do Thái nhưng đông đảo dân ngoại chung sống, là "thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali", hai địa danh đã được Thánh Kinh cho biết là "của ngoại bang" nên "dân ngồi trong tối tăm", cần phải được ánh sáng rọi chiếu vào, và với sự xuất hiện của "Lời ở cùng chúng ta" nơi họ, họ thật sự "đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Phải chăng chính lúc Chúa Giêsu là "ánh sáng chiếu trong tăm tối' (Gioan 1:5) xuất hiện ở miền đất "dân ngồi trong tối tăm" cũng chính là thời điểm Đấng là ánh sáng này đã làm lu mờ đi ngọn "đèn soi" Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (Gioan 5:35), vị được sai đến trước Người để dọn đường cho Người, với vai trò là một nhân vật "làm chứng cho ánh sáng chứ không phải là ánh sáng" (xem Gioan 1:7-8), mà vì thế thời điểm xuất hiện của Chúa Kitô đã rơi vào trúng thời điểm "Gioan bị giam nhốt".
Thế rồi, từ miền đất dân vẫn còn ngồi trong tăm tối ấy, "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" là "Lời ở cùng chúng ta" ấy bắt đầu lên ngôi, bắt đầu tỏ rạng mỗi ngày một hơn, bằng lời nói đầy thu hút cùng tác động lòng người và việc làm đầy quyền năng chữa lành của Người, như "ánh sáng sự sống" (Gioan 8:12) chan hòa trên nhân linh và nhân sinh, đúng như những gì được phần cuối của Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: 'Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến'. Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan".
Thật vậy, tất cả lời nói và việc làm của "Lời ở giữa chúng ta" đều cho thấy là quả thực "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), ở chỗ Người đã hoàn toàn trọn vẹn mặc lấy nhân tính của loài người, và sống động một cách cụ thể với thân xác của Người, một thân xác được Người sử dụng như một bí tích thông ban sự sống thần linh và như một phương tiện cứu độ trần gian. Bởi thế, những ai tin vào Người là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người, là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", mới được cứu rỗi và mới sống trong sự thật.
Tuy nhiên, không dễ gì nhận ra Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người này đâu. Điển hình là chính các vị tông đồ sống gần gũi thân mật với Người trong 3 năm, ấy thế mà tất cả các vị vẫn bị khủng hoảng đến khiếp đảm trong cuộc Vượt Qua của Người, hay chính thành phần lãnh đạo Do Thái giáo bấy giờ, trong khi tìm Người thì lại chết trong tội của họ là lên án tử cho Người khi vừa biết được tất cả sự thật về Người (xem Gioan 8:21; Mathêu 26:63-66). Đó là lý do Tông Đồ Gioan, trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã khẳng định là cần phải có "thần trí của Thiên Chúa" nữa mới được:
"Các con thân mến, chớ tin bất cứ thần trí nào, nhưng hãy nghiệm xét các
thần trí, coi có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có nhiều tiên tri giả đã
xuất hiện trong thế gian. Do điều này mà các con biết là thần trí của Thiên
Chúa: Thần trí nào tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô đã đến trong xác phàm thì là
bởi Thiên Chúa; còn thần trí nào phủ nhận Chúa Giêsu, thì không bởi Thiên
Chúa mà ra, đó là thần trí của Phản-Kitô; các con nghe nói rằng nó đến, và
hiện giờ nó đã ở trong thế gian rồi".
Không biết trong lịch sử Giáo Hội nói riêng và thế giới nói chung đã có thời nào xuất hiện nhiều tiên tri giả và kitô giả như ngày nay hay chăng? Cộng sản là một thứ tiên tri giả. Khủng bố nhân danh Thiên Chúa là một thứ tiên tri giả. Phá thai để dân số thế giới khỏi bị tăng bội để cho đủ nguồn lương thực là một thứ tiên tri giả. Phá thai để cho thai nhi khỏi bị tật nguyện khi sinh ra và để đỡ gánh nặng cho xã hội là một thứ tiên tri giả. Đồng tính hôn nhân vì đó là quyền làm người là một thứ tiên tri giả. Triệt sinh an tử và triệt sinh trợ tử cho người bệnh khỏi chịu đau khổ nữa là một thứ tiên tri giả. Chủ trương duy thực dụng chỉ nhắm đến cái lợi thực tế trước mắt, bất chấp nguyên tắc luân lý và đạo lý, là một thứ tiên tri giả v.v.
Trong Giáo Hội cũng thế, thành phần kitô giả là thành phần chủ trương không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt: ở chỗ, nhân danh khoa học thực nghiệm họ không tin Chúa Giêsu thực sự hiện diện trong Thánh Thể, hay bất kính hoặc thờ ơ với Chúa Giêsu Thánh Thể; ở chỗ, nhân danh Chúa Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, họ không tôn sùng và cầu khẩn cùng tin tưởng cậy trông Người Mẹ đã sinh ra Người Con Thần Linh Cứu Thế Giêsu Kitô; ở chỗ, nhân danh truyền thống Giáo Hội, họ chống đối, phê bình, chỉ trích, xuyên tạc, chụp mũ, bất tuân Chúa Kitô nơi vị đại diện của Người có xương có thịt là các vị giáo hoàng kế vị Thánh Phêrô không hợp với nhận xét và phán đoán của họ; ở chỗ, nhân danh nhân bản và quyền làm người, họ phò phá thai và đồng tính luyến ái, ủng hộ triệt sinh an tử và trợ tử v.v.
Bởi vậy, là những tâm hồn còn tin vào Chúa Kitô, thậm chí cả những ai đã chẳng may bị lầm lạc cách nào, không tin vào Người nữa, cho mình là thành phần đệ nhất thiên hạ như các bậc "quân vương mặt đất" hãy "giác ngộ", và đáp ứng nhận thức cùng lời kêu gọi của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Ta sẽ tuyên rao thánh chỉ của Chúa: Chúa đã phán bảo cùng Ta: "Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã sinh thành ra Con. Hãy xin Cha và Cha sẽ cho Con được chư dân làm phần sản nghiệp, và cùng kiệt cõi đất làm gia tài".
2) Giờ đây, hỡi các vua, hãy nên hiểu biết; quân vương mặt đất nên giác ngộ. Hãy kính sợ làm tôi Chúa và hân hoan mừng Ngài; hãy khiếp run tỏ bày sự vâng phục Chúa.
Đấng đã muốn sinh ra cho chúng ta,
lại không muốn chúng ta không nhận biết Người
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Hai sau Hiển Linh)
Trích bài giảng của thánh Phê-rô Kim Ngôn, giám mục.
Dù trong chính mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể có những dấu đặc biệt luôn luôn rõ ràng về thần tính, nhưng bằng nhiều cách, ngày lễ Hiển Linh hôm nay cũng tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã đến trong một thân xác phàm nhân. Nhờ vậy, thân phận người phàm mỏng manh vốn đã bị tối tăm vây phủ, không vì ngu muội mà mất đi những gì họ đã được chiếm hữu nhờ ơn thánh. Bởi vì Đấng đã muốn sinh ra cho chúng ta, lại không muốn chúng ta không nhận biết Người. Thế nên Người tỏ cho thấy rằng mầu nhiệm yêu thương cao cả này không được nên cơ hội khiến người ta sai lầm nghiêm trọng.
Hôm nay các nhà chiêm tinh đi tìm Đấng chói loà giữa các vì sao, lại thấy một trẻ thơ khóc oa oa trong máng cỏ. Hôm nay các nhà chiêm tinh ngỡ ngàng thấy Đấng lâu đời chịu sống ẩn dật giữa các vì sao, nay vinh hiển rỡ ràng trong tấm tã.
Hôm nay các nhà chiêm tinh sững sờ kinh ngạc khi thấy điều xảy ra ở đó : trời ở dưới đất, đất ở trên trời, con người trong Thiên Chúa, Thiên Chúa trong con người, Đấng cả thế giới không chứa nổi lại giam mình trong tấm thân nhỏ bé. Thoạt nhìn thấy, các ông dâng tặng phẩm đầy ý nghĩa nhiệm mầu để tuyên xưng mình tin chứ không tranh luận : dâng hương để nhận Người là Chúa, dâng vàng để nhận Người là Vua, và dâng một dược để loan báo Người sẽ chết.
Chính vì vậy mà dân ngoại là những kẻ đến sau cùng lại thành người đến trước hết, vì nhờ đức tin của các nhà chiêm tinh bấy giờ mà niềm tin của lương dân được khai mở.
Hôm nay, Đức Ki-tô, Đấng sẽ tẩy rửa tội lỗi thế gian, đã xuống sông Gio-đan : chính ông Gio-an làm chứng rằng Người đã đến làm công việc đó : Đây là Chiên Thiên Chúa, đây là Đấng xoá bỏ tội trần gian. Hôm nay, tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Ki-tô ; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát.
Hôm nay như ngôn sứ nói : Tiếng Chúa vang trên nước. Tiếng nào ? Đây là Con yêu dấu của Ta ; Ta hài lòng về Người.
Hôm nay, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu bay lượn trên nước, để cũng như bồ câu thời ông Nô-ê báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thì nhờ dấu hiệu này mà biết được thế gian không còn phải chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa. Nhưng bồ câu hôm nay không mang ngành ô-liu như bồ câu xưa, mà đổ trên đầu Vị Thủ Lãnh một lớp dầu mới để ứng nghiệm lời ngôn sứ xưa tiên báo : Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài đã tôn phong Ngài vượt trổi các đồng liêu mà xức cho dầu thơm hoan lạc.
Hôm nay, Đức Ki-tô cho thấy những dấu hiệu đầu tiên của thực tại Nước Trời khi biến nước thành rượu. Nhưng nước phải biến thành bí tích của máu, khi Đức Ki-tô rót thứ rượu nguyên chất từ bình là thân xác Người cho ta uống, để ứng nghiệm lời ngôn sứ : tuyệt diệu thay ly rượu nồng làm con ngây ngất !
Thứ Ba sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 7-10
"Thiên Chúa là Tình Yêu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó. - Ðáp.
3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4,22
Alleluia, alleluia! - Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 34-44
"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều. Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn". Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn". Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá". Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no. Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Sự Sống
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, thời điểm vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn tiếp tục chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), như "sự sống là sự sáng chiếu soi con người" (Gioan 1:4).
Đúng thế, "Lời ở cùng chúng ta" như "sự sống chiếu soi con người" trong Bài Phúc Âm hôm nay là ở chỗ Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi "năm ngàn người" từ "năm ổ bánh và hai con cá", chỉ vì Người "động lòng thương xót họ", thành phần "như chiên không người chăn giữ" và đã vất vả cùng chịu đói khát để đi theo nghe "Người giảng dạy họ nhiều điều".
Ở đây, qua phép lạ bánh hóa ra nhiều, được Chúa Giêsu thương tình thực hiện để nuôi đám dân chúng rất đông đảo theo Người trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu muốn ngầm khẳng định rằng: vẫn biết người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra (xem Mathêu 4:4), người ta cũng không chỉ sống nguyên bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra mà còn phải sống nhờ ở lương thực hằng ngày nuôi sống thân thể nữa, như thể "có thực mới vực được đạo", miễn là đừng vì của ăn phần xác mà quên mất phần hồn, hay coi trọng phần xác hơn phần hồn, nhưng nhờ phần hồn thánh đức và tin tưởng mà phần xác được biến đổi và thánh hóa, ở chỗ sống bác ái yêu thương phục vụ.
Phép lạ bánh hóa ra nhiều đây, chẳng những được bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao gồm cả Thánh ký Marco và Thánh ký Luca thuật lại, mà còn cả Thánh ký Gioan nữa, ở nguyên đoạn thứ 6 của phúc âm thứ tư này. Thế nhưng, trong đoạn thứ 6 của mình, Thánh ký Gioan chẳng những thuật lại biến cố phép lạ bánh hóa ra nhiều mà còn bao gồm cả bài giảng rất quan trọng và cần thiết về Bánh Sự Sống của Chúa Giêsu nữa, để cho những ai ăn bánh được Người hóa ra nhiều nuôi sống phần xác của họ ấy hướng về một thứ bánh thần linh ban sự sống trường sinh bất diệt là chính bản thân Người:
"Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (Gioan 6:47-51).
Thật vậy, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) chẳng khác gì như "bánh từ trời xuống", một thứ bánh không phải để nuôi phần xác của con người mà là nuôi phần hồn của họ, ở chỗ ban cho họ sự sống thần linh, bằng cách Người đã "hiến mạng sống mình vì chiên cho chiên được sự sống và là sự sống viên trọn" (Gioan 10:10), tức là Người lấy chính "thịt" của Người, ám chỉ thân xác tử giá và phục sinh của Người, cho phần rỗi của chung nhân loại, nhất là của riêng những ai tin vào Người, một tác động tin tưởng được biểu hiệu qua cử chỉ họ "ăn bánh này", cử chỉ cho thấy họ chấp nhận Người, chấp nhận Ơn Cứu Độ Người thực hiện cho họ.
Tuy nhiên, muốn được "sự sống và là sự sống viên mãn" nơi Bánh Sự Sống từ trời xuống là bản thân Chúa Giêsu Kitô, "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" đây, không phải chỉ ở chỗ tin tưởng chấp nhận Người, qua tiếng thưa công khai "amen", trước khi rước lấy Thánh Thể của Người lúc hiệp lễ.
Kinh nghiệm sống đạo phũ phàng cho thấy không phải là ít tín hữu Công giáo hằng ngày rước lễ nhưng dường như Thánh Thể là Bánh Sự Sống, Bánh Trường Sinh chẳng có tác dụng thần linh tí nào ở nơi họ, trái lại, Thánh Thể hình như còn làm cho họ càng rước càng bị tẩu hỏa nhập ma nữa. Ở chỗ, họ vẫn cứ đoán xấu cho anh chị em mình, vẫn cứ nói hành nói xấu nhau, vẫn bỏ vạ cáo gian nhau, vẫn giận hờn ghen tức nhau, vẫn oán ghét thù hằn nhau, vẫn chấp nhất không chịu tha cho nhau hay không thể tha cho nhau v.v.
Chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), hay ngược lại, đức ái là hoa trái của đức tin, là chứng cớ hùng hồn nhất về đức tin, mà Thánh ký Gioan trong Thư thứ nhất của mình, ở Bài Đọc 1 hôm nay, mới huấn dụ Kitô hữu của ngài sống yêu thương bác ái như sau:
"Các con thân mến, chúng ta phải thương yêu nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không thương yêu, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Ðiều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu là thế này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta".
Qua đoạn Thư thứ nhất này của mình, Thánh Gioan Tông Đồ đã cho chúng ta biết tất cả lý do sâu xa tại sao chúng ta cần phải yêu thương nhau và phải yêu thương nhau như thế nào.
Trưóc hết, về lý do, đó là "vì Thiên Chúa là tình yêu", Đấng "đã thương yêu chúng ta trước", như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã "động lòng thương" dân chúng và tự động làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ, không đợi họ phải van xin Người, nên chúng ta cũng phải làm sao để có thể đáp ứng tình yêu của Ngài như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Sau nữa, về cách thức yêu thương, nếu "Thiên Chúa là tình yêu... đã yêu chúng ta trước", ở chỗ "Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thế gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống", tức là Ngài "đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta", thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy, "yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con" (Gioan 13:34, 15:12).
Tuy nhiên, chúng ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa như Ngài đã yêu thương chúng ta, thậm chí chúng ta cũng không nào yêu thương nhau như chính Chúa yêu thương chúng ta hay yêu thương anh chị em của chúng ta. Bởi thế, mới có chuyện "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), mặc lấy nhân tính bất toàn, hữu hạn, yếu hèn và tội lỗi của chúng ta, để làm người như chúng ta mà lại có thể yêu mến Thiên Chúa một cách xứng đáng và tương hợp thay cho chúng ta và với chúng ta.
Thánh Tâm Chúa Giêsu không phải chỉ là biểu hiệu cho tình yêu vô biên bất tận của Thiên Chúa đối với loài người vô cùng khốn nạn đáng thương chúng ta, mà còn biểu hiệu cho tình yêu của nhân loại thấp hèn chúng ta đối với tình yêu vô cùng nhân hậu và trọn lành của Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta nữa.
Bởi vậy, cùng với Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, chúng ta hãy hân hoan phấn khởi mà xướng lên rằng:
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.
2) Ước gì núi non đem hòa bình cho dân, và đồi nổng đem lại sự công chính. Người sẽ bênh vực kẻ khiêm tốn trong dân, sẽ cứu thoát con cái người nghèo khó.
3) Sự công chính và nền hòa bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
Nước và Thánh Thần
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Ba sau Hiển Linh)
Trích bài giảng lễ Hiển Linh, được coi là của thánh Hi-pô-ly-tô, linh mục.
Chúa Giê-su đến với ông Gio-an và đón nhận phép rửa của ông. Biến cố thật lạ lùng : con sông vô tận làm hoan hỷ thành đô Thiên Chúa, làm sao con sông ấy lại được thanh tẩy bằng một chút nước thôi ? Ngọn suối khôn dò khôn thấu làm nảy sinh sự sống cho mọi người, ngọn suối vô cùng vô tận, lại được bao phủ bằng một chút nước ít oi, tạm bợ. Đấng có mặt khắp nơi và không vắng mặt nơi nào, Đấng các thiên thần không hiểu thấu và loài người không nhìn thấy được, lại đến lãnh phép rửa, vì Người muốn thế.
Này trời mở ra và có tiếng nói rằng : Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Người là Con yêu dấu nhưng cũng sinh ra tình yêu. Người là ánh sáng vô hình lại sinh ra ánh sáng khôn dò khôn thấu. Người được gọi là con ông Giu-se nhưng cũng được gọi là Con Một của Thiên Chúa theo thần tính : Đây là Con yêu dấu của Ta. Người đói lả lại nuôi cả ngàn người ; Người vất vả mà lại làm cho người vất vả được nghỉ ngơi ; Người không có nơi tựa đầu mà lại nắm mọi sự trong tay ; Người chịu khổ nhưng lại chữa trị mọi khổ đau ; Người ngã vì bị tát mà lại ban tự do cho thế gian ; Người bị đâm thấu cạnh sườn, nhưng lại chữa lành cạnh sườn của A-đam.
Nhưng, thưa anh em, xin anh em chú ý nghe đây, tôi muốn chạy đến nguồn mạch ban sự sống và ngắm nhìn nguồn mạch chữa lành các vết thương.
Chúa Cha, nguồn mạch trường sinh, đã sai Chúa Con bất tử tức Ngôi Lời xuống trần gian ; Người đến với con người, lấy nước và Thần Khí mà thanh tẩy họ, cho họ được tái sinh để hồn xác họ khỏi hư vong. Người thổi sinh khí vào chúng ta và mặc cho chúng ta áo giáp không thể hư hoại.
Vậy nếu con người trở thành bất tử thì cũng trở nên thần minh. Nếu trở thành thần minh nhờ nước và Thần Khí sau khi được tái sinh nhờ phép rửa, thì sau khi được sống lại từ trong kẻ chết, con người cũng đồng thừa kế với Đức Ki-tô.
Vì vậy, tôi long trọng tuyên bố : Hỡi mọi chi tộc trong khắp chư dân, hãy đến lãnh phép rửa mang lại ơn bất tử. Đó là nước kết hợp với Thần Khí tưới gội vườn địa đàng, làm cho đất ra màu mỡ, cây cối mọc lên, sinh vật lan tràn. Tắt một lời, nhờ nước, con người được tái sinh và được sống, trong nước, Chúa Ki-tô lãnh phép rửa, và trên nước, Thánh Thần lấy hình bồ câu ngự xuống.
Ai tin mà lãnh phép rửa ban ơn tái sinh này thì từ bỏ ma quỷ và kết hợp với Đức Ki-tô ; người ấy chối bỏ địch thù mà tuyên xưng Đức Ki-tô là Thiên Chúa, cởi bỏ ách nô lệ mà mặc lấy ơn làm nghĩa tử. Sau khi lãnh phép rửa, người ấy rạng rỡ như mặt trời, phản ánh đức công chính. Nhưng điều lớn lao nhất là họ trở thành con Thiên Chúa và đồng thừa kế với Đức Ki-tô, Đấng đầy vinh hiển quyền năng cùng với Chúa Thánh Thần chí thánh, nhân hậu và ban sự sống, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Thứ Tư sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 11-18
"Nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, nếu Thiên Chúa thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau. Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong chúng ta là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa đã trọn vẹn đối với chúng ta, để chúng ta tin tưởng trong ngày phán xét, vì Người thế nào, thì chúng ta cũng thế ấy ở thế gian này. Nơi tình thương không có sự sợ hãi, nhưng tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 10. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (c. 11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Các vua xứ Tác-xi và quần đảo sẽ mang lễ vật đến, các vua xứ Ả-rập và Saba sẽ đem triều cống lễ vật. - Ðáp.
3) Vì Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã sai tôi đi rao giảng tin mừng cho hạng nghèo khó, báo tin cho tù nhân được phóng thích. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 45-52
"Họ thấy Người đi trên mặt biển".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: "Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ". Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Quyền Năng
Hôm nay, Thứ Tư sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, chủ đề cho riêng Mùa Giáng Sinh, một thời điểm kéo dài cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, vẫn là "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14), vẫn tiếp tục phản ảnh nơi phụng vụ Lời Chúa của ngày này.
Bài Phúc Âm hôm nay được tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Bài Phúc Âm hôm qua được Thánh ký Marco trình thuật về sự kiện Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng 5 ngàn người theo Người để nghe lời Người. Bài Phúc Âm hôm nay, vị thánh ký này thuật lại biến cố Chúa Giêsu dẹp yên sóng gió cho các tông đồ:
"Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện. Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất. Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: 'Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ'. Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối".
Việc Chúa Giêsu ra tay dẹp yên sóng gió cho các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay là một trong những cơ hội chứng tỏ "Lời ở cùng chúng ta", chứ không bỏ mặc chung con người và riêng những ai thuộc về Người bị chìm đắm hư vong.
Sự kiện được thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay về sóng gió bất ngờ nổi lên khiến các tông đồ, dù có nhiều vị chuyên nghiệp đánh cá, cũng "khó nhọc chèo chống vì ngược gió" có thể tiêu biểu cho gian nan khốn khó thử thách trong đời sống của con người nói chung và Kitô hữu thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói riêng.
Đời sống con người trên trần gian này nói chung không thể nào không có gian nan khốn khó, nhưng chính nhờ gian nan khốn khó như "lửa thử vàng" mà con người mới có thể trở nên cứng cát và trưởng thành như "cái khó bó cái khôn" thế nào, thì trong đời sống tu đức, đời sống đạo, càng cần hơn nữa để đức tin trở nên sâu xa vững chắc hơn.
Bởi vì, nhờ gian nan thử thách, con người mới có thể và mới dễ cảm thấy mình hèn yếu và bất lực mà tin tưởng cậy trông vào Đấng duy nhất có thể cứu thoát họ là Thiên Chúa, Đấng cũng có ý để xẩy ra gian nan thử thách như vậy để nhờ đó có thể tỏ mình ra cho họ, và nhờ đó họ có thể nhận biết Ngài hơn.
Thiên Chúa thường sử dụng gian nan thử thách để tăng thêm đức tin cho các tông đồ, thành phần đã từng xin Ngài tăng thêm đức tin yếu kém của các vị lên (xem Luca 17:5), chứ Ngài không làm ảo thuật một cách thiêng liêng là ban sẵn cho các tông đồ, không cần luyện tập, tự nhiên cũng có được một thứ nội công thần linh thâm hậu, đến độ không gì có thể đánh gục các vị.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy dường như Chúa Giêsu cố ý để gian nan thử thánh xẩy ra cho các tông đồ, (như không cùng đi với các vị sang bên kia bờ, lại còn thanh thản lên núi cầu nguyện nữa, như quên hẳn các môn đệ của Người đang lẻ loi với nhau lênh đênh trên biển hồ bao rộng, và cứ phải chờ cho tới đêm tối mịt mù cùng với sóng gió nổi lên mới chịu xuất hiện), để Người có thể tỏ mình ra cho các vị, nhờ đó các vị luôn tin tưởng và càng tin tưởng rằng "Lời ở cùng chúng ta", và các vị sẽ không còn lo, còn sợ, còn hoảng nữa, vì Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được sai đến không phải để luận phạt mà là để cứu độ (xem Gioan 3:17).
Như thế, theo đường lối thần linh huyền diệu của Vị Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng, thì mỗi khi xẩy ra gian nan khốn khó, khiến con người cảm thấy đêm tối và bão tố kinh hoàng, là thời điểm Thiên Chúa đang ở gần nạn nhân nhất, và là chính dấu báo Thiên Chúa sắp sửa tỏ mình ra cho nạn nhân để cứu nạn nhân: "Người lên thuyền họ, và gió im lặng".
Thực tế sống đạo cho thấy, chính trong lúc bị gian nan thử thách đầy tối tăm mù mịt và sóng gió biến động trong đời, chúng ta thường cảm thấy lo âu sợ hãi, hoảng loạn và cuống lên, đến độ bấy giờ chúng ta cảm thấy "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24), Đấng đang hiện diện bên chúng ta và đang đến cứu chúng ta, nghĩa là đang muốn tỏ mình ra cho chúng ta mà chúng ta lại "tưởng là ma", lại sợ Ngài hơn là mừng vì thấy Ngài đang ở gần ngay bên mình.
Bởi vậy, để có thể khỏi bị nhầm "tưởng là ma" đối với "Lời ở cùng chúng ta", trước hết và trên hết, Kitô hữu cần phải hết sức thâm tín, như Thánh Gioan Tông đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở, rằng: "Chúa Cha đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta".
Phải, tin tưởng vào Thiên Chúa đây chính là tin tưởng vào tình yêu thương của Ngài, Đấng chỉ vì yêu thương và chính vì yêu thương "đã sai Con Mình làm Ðấng Cứu Thế", thì không thể nào lại bỏ mặc chúng ta cho tử thần, và vui thích khi chúng ta bị gian nan khốn khó, bị hư vong.
Trái lại, chắc chắn Ngài sẽ cứu chúng ta, không sớm thì muộn, không trước thì sau, bằng không, Ngài tự mẫu thuẫn, ở chỗ, một đàng, theo lý thuyết, Ngài cứu chúng ta nơi Con của Ngài, nhưng trên thực tế, Ngài lại đang tâm để cho chúng ta bị hư đi, như thể Ngài không coi trọng Ơn Cứu Độ vô giá được Con Ngài vô cùng khốn khổ lập công chuộc tội cho chúng ta, như thể chúng ta là đồ bỏ, chẳng là gì trước nhan Ngài.
Thậm chí kể cả những con người cao ngạo, kiêu căng tự phụ, coi Ngài chẳng là gì, không cần đến Ngài, truất phế Ngài bằng những luật pháp vô luân và phi nhân, thay thế Ngài bằng những ngẫu tượng duy nhân bản, tôn sùng con người như một thần linh trên hết, muốn làm gì thì làm, quyết định mọi sự lành dữ theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình, Ngài vẫn chờ đợi họ, thông cảm với những gì họ làm mà không biết việc sai lầm mình làm (xem Luca 23:34), cho đến khi Ngài làm cho họ mở mắt ra mà hoán cải trở về với Ngài.
Chính vì Thiên Chúa đã làm tất cả mọi sự để con người có thể tin vào Ngài (xem Gioan 5:17), mà một khi đã tin vào Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa cứu độ nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta", Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta "đến không tiếc Con Một của Ngài" (Roma 8:32), thì chúng ta đừng sợ, vì, như Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "tình thương trọn lành thì loại bỏ sợ hãi ra ngoài, vì sợ hãi mang theo hình phạt, và người nào sợ hãi thì không hoàn hảo trong tình thương".
Vậy, cùng với niềm xác tín và tâm tình tin tưởng của Bài Đáp Ca hôm nay, những ai đã tin tưởng, hay đang bị thử thách, hoặc cần được cứu giúp, hãy xướng lên theo câu 3 rằng: "Người sẽ cứu thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ".
Thánh hoá nước
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Tư sau Hiển Linh)
Trích bài giảng của thánh Pơ-róc-lô, giám mục Công-tăn-ti-nốp.
Đức Ki-tô đã tỏ mình ra cho thế gian ; Người đã tái lập trật tự trong một thế giới hỗn loạn, và làm cho thế giới nên vui tươi rực rỡ. Người đã gánh tội thế gian và tống khứ thù địch của thế gian đi. Người thánh hoá nguồn suối nước và chiếu soi tâm hồn nhân loại, Người đã làm thêm nhiều phép lạ lớn lao hơn trước.
Quả vậy, ngày hôm nay đất và biển chia nhau ơn của Đấng Cứu Độ và cả thế gian tràn ngập vui mừng. Ngày lễ hôm nay cho thấy nhiều điều lạ lùng hơn ngày lễ trước.
Trong ngày lễ trước, cõi đất hân hoan mừng ngày Đấng Cứu Độ giáng sinh vì được mang Chúa trong máng cỏ, nhưng trong ngày Chúa Hiển Linh hôm nay, biển hân hoan tưng bừng ; biển hân hoan vì nhận được phép lành thánh hoá nhờ sông Gio-đan.
Ngày lễ trước cho ta thấy một trẻ thơ hèn yếu biểu lộ tính yếu hèn của chúng ta ; ngày lễ hôm nay cho thấy trẻ thơ đã đạt tới mức hoàn hảo và có ý ám chỉ Người là Đấng hoàn hảo phát xuất từ Đấng hoàn hảo. Là Vua, Người đã mặc lấy thân xác làm cẩm bào ; là mạch suối, Người đang để cho nước sông bao bọc.
Vậy, nào anh em, chúng ta hãy nhìn xem những điều kỳ diệu mới mẻ này : mặt trời công chính tắm trong sông Gio-đan, lửa dìm trong nước, và Thiên Chúa để cho con người thánh hoá.
Ngày hôm nay vạn vật vang lời ca hát tung hô rằng : Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa. Vạn phúc Đấng ngự đến trong mọi thời, vì hôm nay không phải là lần đầu tiên Người đến.
Người là ai vậy, xin thánh vương Đa-vít nói rõ cho chúng tôi. Đức Chúa là Thượng Đế, Người giãi sáng trên ta. Không phải một mình ngôn sứ Đa-vít đã nói điều đó mà cả tông đồ Phao-lô cũng đồng ý chứng nhận như sau : Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người ; ân sủng đó dạy dỗ chúng ta. Ân sủng đó không phải được biểu lộ cho một số người thôi, nhưng là cho tất cả mọi người. Quả thật là cho mọi người, vì Chúa ban ơn cứu độ cho cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp, khi đem phép rửa tặng làm ân huệ chung cho hết thảy.
Nào, anh em hãy nhìn xem trận hồng thuỷ vừa mới, vừa lạ này, trận hồng thuỷ có ảnh hưởng lớn lao rộng rãi hơn trận hồng thuỷ thời ông Nô-ê. Xưa kia, nước hồng thuỷ đã giết chết loài người ; hôm nay nước thanh tẩy, nhờ quyền năng của Đấng chịu thanh tẩy, đã đưa kẻ chết về cõi sống. Xưa kia, chim bồ câu ngậm cành ô-liu ám chỉ hương thơm của Đức Ki-tô, còn hôm nay, Thánh Thần hiện đến dưới hình bồ câu cho thấy Người là Chúa nhân từ.
Lễ ngày 5/1
Những vị thánh ở Hoa Kỳ
Giáo Hội Công Giáo có cả chục ngàn vị thánh, nhưng những vị thánh ở Hoa Kỳ cho tới nay mới chỉ có 11 vị, hầu hết là thành phần di dân, chứ không phải chính gốc Mỹ quốc, chỉ trừ 3 vị được sinh tại Hoa Kỳ: trước hết là Thánh Kateri Tekawitha, sinh năm 1656, một người dân bản xứ duy nhất được sinh ra tại Hoa Kỳ, ở Iroquois mà nay là Auriesville Bang New York, sau là 2 vị thuộc gia đình di dân những sinh tại Hoa Kỳ là Thánh Elizabeth Ann Seton ở New York City ngày 28/8/1774, và Thánh Katherine Drexel ở Philadelphia ngày 28/11/1858, và hầu hết các vị thánh ở Hoa Kỳ này, theo niên lịch phụng vụ ghi chú rõ chỉ ở U.S, nghĩa là chỉ được tưởng nhớ ở Hoa Kỳ thôi, chứ không phải trong Giáo Hội hoàn vũ, (như một số lễ về Đức Mẹ chỉ cử hành ở địa phương), ngoại trừ 2 vị thánh trong số 11 vị thánh ở Hoa Kỳ được cả Giáo Hội hoàn vũ tưởng nhó, đó là Thánh Gioan Neumann lễ ngày 5/1 và Thánh Damien lễ ngày 10/5.
Sau đây là danh sách toàn bộ 11 vị thánh ở Hoa Kỳ, trong đó có 7 nữ và 4 nam, 1 giám mục, và 1 giáo dân, còn toàn là tu sĩ, 3 vị thánh nữ lập dòng, 3 sinh ở Hoa Kỳ, 1 ở Tiệp Khắc, 1 ở Đức, 1 ở Bỉ, 1 ở Tây Ban Nha, 1 ở Ý và 3 ở Pháp, vị thánh nào cũng bao gồm 5 chi tiết chính yếu liên quan đến các vị: 1- quốc tịch, 2- ngày sinh tử, 3- vai trò của từng vị trong Giáo Hội, 4- ngày được Giáo Hội tuyên phong hiển thánh và 5- ngày lễ trong phụng niên.
· Thánh Elizabeth Ann Seton:
Sinh ngày 28/8/1774 ở New York City, qua đời ngày 4/1/1821
Lập dòng Chị Em Bác Ái Thánh Giuse / The Sisters of Charity of St. Joseph (S.C.), và được coi là vị sáng lập hệ thống trường Công Giáo ở Hoa Kỳ,
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 14/9/1975 bởi ĐTC Phaolô VI
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 4/1.
· Thánh John Neumann:
Sinh ngày 28/3/1811 ở Tiệp Khắc, qua đời ngày 5/1/1860
Thụ phong Linh mục ở GP New York, nhập dòng Chúa Cứu Thế / Congregatio Sanctissimi Redemptoris (CSsR) và là vị Giám Mục thứ 4 ở Philadelphia, vị sáng lập hệ thống trường Công Giáo cấp giáo phận tiên khởi ở Hoa Kỳ,
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh năm 1977 bởi ĐTC Phaolô VI
Lễ nhớ trong Giáo Hội hoàn vũ hằng năm vào ngày 5/1
· Thánh Marianne Cope:
Sinh ngày 23/1/1838 ở Đức quốc, qua đời ngày 9/8/1818
Dòng Thánh Phanxicô O.S.F (Order of Saint Francis) Thừa sai phục vụ người phong cùi ở Molokai Hawaii
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 21/10/2012 bởi ĐTC Biển Đức XVI
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 23/1
· Thánh Katharine Drexel:
Sinh ngày 26/11/1858 ở Philadelphia Hoa Kỳ, qua đời ngày 3/3/1955
Lập dòng Chị Em Bí Tích Thánh S.B.S (Sisters of Blessed Sacrament) cho những người dân Da Đỏ và Da Mầu,
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 2/12/ 2014 bởi ĐTC Phanxicô
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm
vào ngày 3/3
· Thánh Damien de Veuster of Molokai:
Sinh ngày 3/3/1840 ở Bí, qua đời ngày 15/4/1889
Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria SS.CC (Sacrorum Cordium) - Thừa sai phục vụ người phong cùi ở Molokai Hawaii
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 11/10/ 2009 bởi ĐTC Biển Đức XVI
Lễ nhớ trong Giáo Hội hoàn vũ hằng năm vào ngày 10/5
· Thánh Junipero Serra:
Sinh ngày 24/11/1713 ở Tây Ban Nha, qua đời ngày 28/8/1784
Dòng Anh Em Hèn Mọn Thánh Phanxicô, O.F.M. (Order of Friar Minor), thành lập các khu truyền giáo ở California
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 23/9/2015 bởi ĐTC Phanxicô
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm
vào ngày 1/7
Thánh Kateri Tekakwitha:
Người bản xứ duy nhất trong 11 thánh ở Hoa Kỳ, sinh năm 1656 ở xứ Iroquois mà nay là Auriesville Bang New York, qua đời ngày 17/4/1680
Sống đời trinh nữ thánh hiến consecrated virgin
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 21/10/2012 bởi ĐTC Biển Đức XVI
Lễ
nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 14/7
· Thánh Mother Theodore Guerin:
Sinh ngày 2/10/1798 ở Pháp, qua đời ngày 14/5/1856
Nhà thừa sai kiêm lập dòng Chị Em Chúa Quan Phòng của Thánh Mary the Woods / The Sisters of Providence of St. Mary-of-the-Woods (S.P.)
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 15/10/2006 bởi ĐTC Biển Đức XVI
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 3/10
· Thánh Issac Jogues:
Sinh ngày 10/1/1607 ở Pháp, qua đời ngày 18/10/1646
Linh mục Dòng Tên / Society of Jesus (S.J), một vị thừa sai và tử đạo ở Bắc Mỹ
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh năm 1930 bởi ĐTC Piô XI
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 19/10
· Thánh Frances Xavier Cabrini:
Sinh ngày 15/7/1850 ở Ý, qua đời ngày 22/12/1917
Nhà thừa sai kiêm lập dòng Chị Em Thừa Sai Thánh Tâm Chúa Giêsu / The Missionary Sisters of the Sacred Heart of Jesus (M.S.C)
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh năm 1946 by Pope Pius XII
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 13/11
· Thánh Rose Philippine Duchesne:
Sinh ngày 29/8/1769 ở Pháp, qua đời ngày 18/11/1852
Hội Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu R.S.C.J. (Religiosae Sanctissimi Cordis Jesu), Thừa sai truyền giáo cho người dân bản xứ Mỹ
Giáo Hội tuyên phong hiển thánh ngày 3/7/1988 bởi ĐTC Gioan Phaolô II
Lễ nhớ ở Hoa Kỳ hằng năm vào ngày 18/11
Thánh Gioan Neumann
Ngài là Giám mục Philadelphia, sinh tại Prachatitz, Bohemia thuộc nước cộng hòa Tiệp Khắc ngày 28 tháng 3 năm 1811, con ông Philip Neumann và bà Agnes Lebis. Không chỉ là một người lặng lẽ, Gioan Neumann còn là người lùn, chỉ cao khoảng 1,52 mét. Tuy nhiên, Gioan Neumann có đôi mắt rất dễ thương và hay cười. Gioan Neumann có bốn chị gái và một em trai.
Sau khi tốt nghiệp đại học ở Budweis và vào chủng viện năm 1831. Hai năm sau, ngài học thần học tại đại học Charles Ferdinand ở Prague. Năm 1835, ngài hân hoan mong chờ được trao sứ vụ linh mục. Tới ngày thụ phong linh mục, Đức Giám mục bị lâm bệnh. Và thế là ngày thụ phong ấy đã không bao giờ được ấn định nữa vì lúc đó Bôhêmia đã có đủ số linh mục. Đây thật là điều khó tưởng tượng đối với chúng ta bây giờ, nhưng Bohemia khi ấy đã tràn ngập linh mục. Gio-an viết thư đến các giám mục khắp châu Âu, nhưng đây là tình trạng chung ở khắp nơi, chẳng ai muốn có thêm giám mục nữa. Gio-an chắc chắn mình có ơn gọi linh mục nhưng dường như mọi cánh cửa dẫn đến đó đều đóng trước mặt ngài.
Không bỏ cuộc. Ngài học tiếng Anh bằng cách làm việc trong một nhà máy có công nhân nói tiếng Anh để có thể viết thư cho các giám mục ở Mỹ. Từ khi Gioan Neumann tìm hiểu về những hoạt động truyền giáo bên Hoa Kỳ, ngài quyết định trẩy sang nơi đây để xin được thụ phong. Gioan Neumann đã đi bộ hầu hết đoạn đường tới Pháp rồi lên tàu mang tên “Europa” để sang Mỹ châu. Cuối cùng, giám mục New York đồng ý phong chức cho ngài. Để bước theo tiếng gọi của Thiên Chúa trong chức linh mục, Gio-an phải rời bỏ quê hương mãi mãi, vượt đại dương đến một vùng đất mới đầy gian khó.
Ngày 9 tháng Sáu năm 1836, Gioan Neumann đến Manhattan. Đức Giám mục Gioan Đuyboa rất vui mừng khi gặp ngài. Hiện chỉ mới có ba mươi sáu linh mục giúp cho hai trăm ngàn tín hữu Công giáo sống ở bang Niu Gioóc và một phần ở bang Niu Jessi. Và chỉ trong vòng mười sáu ngày sau khi đến, Gioan được thụ phong linh mục và được gởi tới Buffalô. Ở đó, ngài phụ giúp cha Pax trông coi xứ đạo rộng khoảng 1400 km vuông. Cha Pax cho Gioan được tự do lựa chọn sống ở thành phố Buffalô hoặc vùng thôn quê. Lúc này chí khí anh hùng của Gioan bắt đầu thể hiện. Ngài đã chọn điều khó khăn hơn: ở thôn quê.
Ngài quyết định lưu lại trong một thị trấn nhỏ có ngôi thánh đường chưa được xây xong. Ngay khi vừa khánh thành ngôi thánh đường này, Gioan lại chuyển tới một thị trấn khác nơi có một ngôi thánh đường được làm bằng những khúc cây. Ở đó, Gioan đã dựng một túp lều nhỏ bằng gỗ. Ngài hầu như không sử dụng lửa và thường sống nhờ bánh mì với nước lã. Mỗi đêm Gioan chỉ ngủ vài giờ. Khoảng cách giữa các nông trại và nơi Gioan Neumann ở thì rất là xa. Gioan Neumann đã phải trẩy bộ trên những lộ trình dài để đến với giáo dân của mình. Họ là những người Đức, Pháp, Iran và Scốtlen. Khi ở trường, Gioan Neumann đã học được tám ngoại ngữ. Bây giờ ngài học thêm hai ngoại ngữ nữa: tiếng Anh và tiếng Gêlic. (Gêlic là loại ngôn ngữ của người Celte ở Ai Len.) Trước khi qua đời, Gioan Neumann đã biết được tất cả mười hai ngoại ngữ.
Vì công việc và cũng vì giáo xứ của ngài lẻ loi đơn độc nên cha Gio-an mong được liên lạc và gia nhập Dòng Chúa Cứu Thế, một hội dòng gồm các linh mục và tu huynh tận tụy lo cho người nghèo và những người bị bỏ rơi nhất.
Là linh mục đầu tiên vào Dòng tại Mỹ, ngài khấn dòng tại Baltimore ngày 16 tháng giêng năm 1842, và vẫn tiếp tục công việc truyền giáo của mình.
Ngay từ buổi đầu, ngài đã được anh em hết lòng kính trọng vì sự thánh thiện rõ nét, sự nhiệt thành và nhã nhặn của ngài.
Khả năng biết nhiều thứ tiếng của ngài khiến ngài thích ứng đặc biệt với công việc trong xã hội Mỹ đa ngôn ngữ vào thế kỷ 19.
Sau khi làm việc tại Baltimore và Pittsburgh, năm 1847, ngài được bổ nhiệm làm Vị Kinh Lược hay Bề trên Dòng Chúa Cứu Thế tại Mỹ.
Các nhà ở Mỹ thuộc về tỉnh Bỉ. Cha Frederick von Held, giám tỉnh Bỉ, đã nói về ngài thế này: “Ngài là một người rất đáng kính trọng, vừa có lòng đạo đức, vừa mạnh mẽ và khôn ngoan”. Neumann cần những phẩm chất ấy trong hai năm tại vị, khi mà muốn đặt nền tảng cho Dòng Chúa Cứu Thế tại Mỹ thì phải nổ lực chỉnh đốn lại. Lúc ngài trao gánh nặng cho cha Bernard Hafkenscheid, Dòng Chúa Cứu Thế Mỹ đã được chuẩn bị tốt hơn để trở thành một tỉnh độc lập vào năm 1850.
Cha Neumann trở thành Giám mục Philadelphia, ngài được tấn phong tại Baltimore ngày 28 tháng 3 năm 1852. Giáo phận của ngài mênh mông và đang trong thời kỳ phát triển mạnh.
Ngài là vị giám mục đầu tiên tổ chức hệ thống trường Công giáo trong giáo phận, là người đặt nền tảng cho giáo dục Công giáo ở quốc gia này. Ngài nâng con số trường Công giáo trong giáo phận từ 2 lên đến 100.
Ngài lập nhóm các nữ tu dòng ba Phan-xi-cô để dạy trong các trường học.
Trong số hơn 80 nhà thờ được xây dựng trong giáo phận, phải kể đến Vương cung thánh đường Phê-rô và Phao-lô mà ngài khởi xướng.
Thánh Gio-an Neumann vóc người nhỏ bé, chẳng bao giờ thấy dồi dào sức khỏe, nhưng với cuộc sống ngắn ngủi, ngài lại làm được những việc lớn lao. Cùng với bổn phận mục vụ, ngài còn dành được thì giờ cho hoạt động văn chương đáng lưu ý.
Ngài viết nhiều bài cho các nhật báo Công giáo cũng như cho các tạp chí định kỳ. Ngài xuất bản hai quyển giáo lý. Vào năm 1849, quyển lịch sử Kinh thánh viết cho các trường học ra đời.
Ngài liên tục hoạt động cho đến hơi thở cuối cùng. Sức khỏe của giám mục Neumann không được tốt lắm nhưng người ta vẫn rất ngỡ ngàng khi ngài đột nhiên qua đời ngày mùng 5 tháng Giêng năm 1860. Đang trên đường đi họp về nhà, Gioan Neumann đã ngã xuống đất vì chứng bệnh đột quỵ. Người ta mang Gioan Neumann đến căn nhà gần nhất và Gioan đã mất lúc 3 giờ chiều tại đó, không kịp nhận các bí tích sau hết, hưởng dương 48 tuổi. Tính đến tháng Ba, Gioan Neumann vừa tròn bốn mươi chín tuổi. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI phong Chân phúc ngày 13 tháng 10 năm 1963, và Đức thánh cha Phaolô VI đã phong thánh cho Gioan Neumann ngày 19 tháng Sáu năm 1977.
Nhân dịp giữa hai Khóa LTXC XXXI ở VA (17-18/8/2018) và Khóa LTXC XXXII ở New York (24-25/8/2018) tôi đã ghé thăm cha Phêrô Nguyễn Bá Quốc Linh, CSsR, sau lễ 7:30 sáng Thứ Tư ngày 22/8/2018, Lễ Đức Mẹ Nữ Vương. Sau lễ cha dẫn đi điểm tâm và trong bữa điểm tâm tôi đã đề cập đến chuyện Nhóm TĐCTT xin cha giúp tổ chức Khóa LTXC ở TGP Philadelphia vào ngày tháng nào thích hợp nhất, và Khóa LTXC năm 2019 đã được tổ chức hết sức tốt đẹp vào cuối tháng 6, dịp Lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp 27/6. Sau điểm tâm cha đã dẫn tôi tham quan cả bên Đền Thánh lẫn bên Trung Tâm Thánh Gioan Nuemann, nơi có hội trường chứa được 700 chỗ ngồi, có nhà bếp đàng hoàng, và cũng là nơi có bảo tàng việc của vị thánh.
Trong đó, có hai vật đặc biệt là ghế ngồi của ĐTC GPII khi đến viếng thăm Đền Thánh Gioan Neumann trong chuyến tông du Hoa Kỳ, và chén lễ mà ngài đã nhờ làm lại cho một nhà thờ bị cháy nhưng chén thánh này cứ ở bưu điện không được gửi đi như ngài nhờ 1 vị linh mục đi gửi, cho tới khi ngài ra tận bữu điện tìm thì thấy nó còn đó, và trên đường về thì ngài qua đời!
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp
Thứ Năm sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 19 - 5, 4
"Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước. Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. Vì người anh em mình xem thấy mà không thương yêu họ được, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Ðấng mình không thấy được? Ðây là giới răn chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa.
Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa. Vì hễ ai yêu mến Chúa là Ðấng đã sinh thành, thì cũng yêu mến những kẻ bởi Người mà sinh ra. Do điều này mà chúng ta biết mình yêu thương con cái Thiên Chúa, là hễ chúng ta yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta phải thực hành giới răn Người. Tình yêu Thiên Chúa là thế này: là chúng ta giữ các giới răn Người, và giới răn Người chẳng có nặng nề đâu. Hễ sự gì bởi Thiên Chúa mà sinh ra, thì thắng được thế gian, và đây là sự chiến thắng thế gian: đó là đức tin của chúng ta. Ai chiến thắng thế gian, nếu không phải kẻ tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 14 và 15bc. 17
Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c. 11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Người sẽ cứu tâm hồn họ khỏi bất công và đàn áp, giá máu của họ đáng kể trước mặt người. Họ sẽ cầu nguyện cho người luôn và sẽ chúc phúc người mãi mãi. - Ðáp.
3) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia: Lc 7, 16
Alleluia, alleluia! - Một Tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 14-22a
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền năng của Thánh Thần và danh tiếng Người đồn khắp miền xung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và ai nấy đều ca tụng Người. Người đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách. Người ta trao cho Người cuốn sách Tiên tri Isaia. Người mở sách và gặp chỗ có chép rằng: "Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Người xếp sách lại, trao cho viên phụ trách, đoạn ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều đưa mắt chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe". Và ai nấy đều công nhận lời Người và ngạc nhiên vì những lời hấp dẫn thốt ra từ miệng Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Thiên Sai
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, vẫn còn trong thời điểm của Mùa Giáng Sinh kéo dài cho tới Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) tiếp tục được phản ảnh nơi phụng vụ Lời Chúa như sau.
Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu "đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách".
Bài Phúc Âm còn tiếp tục cho biết thêm những chi tiết chính yếu và cần thiết liên quan đến chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" qua đoạn "sách Tiên tri Isaia" được "Người ta trao cho Người", và khi "Người mở sách" thì "gặp chỗ có chép" về chính bản thân Người, như chính Người đã tự xác nhận ngay trong bài Phúc Âm này: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe".
Vậy đoạn Sách Tiên Tri Isaia mà Người bất chợt mở ra và đọc lên cho mọi người trong Hội Đường ở Nazarét nghe thấy đây là gì và như thế nào, Thánh ký Luca đã cho chúng ta biết như sau:
"Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Phải, "Lời ở cùng chúng ta", Đấng "đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), chính là Đấng Được Xức Dầu Thánh Linh, bởi Cha của Người, hay được Cha thánh hiến cũng thế (xem Gioan 10:36), tức Người là Đức Kitô Thiên Sai, là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
Vậy vai trò và sứ vụ bất khả thiếu và bất khả phân ly với Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa ở đây là gì, đã được Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 cho biết và cũng đã được chính Chúa Giêsu công nhận là hoàn toàn ứng nghiệm sau đó trong cùng bài Phúc Âm, đó là Người được "sai đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Đúng thế, "Lời ở cùng chúng ta" chính là Đấng Thiên Sai, Đấng được xức dầu bởi Thánh Linh và được tràn đầy Thánh Linh, được Thánh Linh thúc đẩy thực hiện 3 sứ vụ chính yếu của Người và hợp với Người, đó là "rao giảng" - như một ngôn sứ, "chữa lành" - như một tư tế, và "giải thoát" - như một đế vương.
Trước hết, "Lời ở cùng chúng ta" như một ngôn sứ để "rao giảng": "rao giảng tin mừng cho người nghèo khó", nghĩa là tin mừng cứu độ của Người chỉ hợp với "người nghèo khó", và Chúa Giêsu cũng chỉ đến để "tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 18:8), những gì tầm thường đáng khinh trước mặt trần gian, nhưng lại là thành phần không ham mê trần gian, thành phần bản thân không tham vọng, chỉ khao khát thần linh và tìm kiếm sự thật với một lương tâm chân chính, và chỉ có họ mới có thể đón nhận tin mừng cứu độ là chính "Lời ở cùng chúng ta".
Sau nữa, "Lời ở cùng chúng ta" như một tư tế để "chữa lành": "chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn", bằng tình thương của Người, như Người đã kêu gọi "Hãy đến với Tôi, hỡi những ai mệt mỏi và nặng gánh, Tôi sẽ bổ sức cho" (Mathêu 11:28), ở chỗ, đích thân Người "đã mang lấy thương tích của chúng ta và đã chịu đựng những đau khổ của chúng ta" (Mathêu 8:17; Isaia 53:4), một cách "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), nhất là ở chỗ: "Tuy là con, Người đã biết tuân phục nơi những gì phải chịu, để khi hoàn tất, Người trở nên căn nguyên cứu độ cho những ai tín phục Người" (Do Thái 5:8).
Sau hết, "Lời ở cùng chúng ta" như một đế vương để "giải thoát": "giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế". Thành phần "bị giam cầm" và "bị áp chế" đây là ai, nếu không phải là chung loài người, thành phần đã bị hư đi theo nguyên tội, đã bị Satan cùng bọn ngụy thần của hắn giam cầm và khống chế bằng quyền lực sự dữ và chết chóc của chúng, nhưng đã được quyền năng cứu độ của Đấng bị đóng đanh như "Vua dân Do Thái" (Mathêu 27:37) cũng là Đấng đã phục sinh từ trong kẻ chết "được toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu 28:18) giải thoát, một quyền năng giải thoát và cứu độ đã được báo trước bằng những phép lạ chữa lành bệnh nạn tật nguyền và chết chóc nơi dân chúng, cũng như bằng lời rao giảng khôn ngoan soi sáng "cho người mù được thấy".
Những loại người trở thành đối tượng cho 3 vai trò của "Lời ở cùng chúng ta" trên đây, một khi được Người "rao giảng", "chữa lành" và "giải thoát", những tác động thần linh cứu độ vô cùng cao quí và trọng đại cho thấy Thiên Chúa hết tình yêu thương con người, và vì thế, họ cũng phải nhận biết tình yêu ấy và đáp ứng tình yêu ấy, như Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay nhắc nhở: "Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước".
Tuy nhiên, con người là tạo vật không thể nào đáp trả được tình yêu vô cùng bất tận và trọn lành của Thiên Chúa, họ cùng lắm chỉ có thể trả nợ tình cho Thiên Chúa bằng tình họ yêu thương tha nhân là đồng loại ngang hàng với họ; thế nhưng, cho dù là thế, họ cũng vẫn không thể nào yêu thương tha nhân như Chúa muốn và như Ngài yêu, nếu chính họ không yêu thương tha nhân bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu họ trước.
Đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ, cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã nhắc nhở chúng ta là thành phần được Thiên Chúa yêu trước, thành phần vì thế cần phải và nhờ thế có thể yêu thương tha nhân đồng loại nói chung và những ai cũng được tái sinh bởi Thiên Chúa như chúng ta nói riêng, như sau:
"Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. ... Ðây là giới răn chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng phải thương yêu anh em mình nữa. Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa. Vì hễ ai yêu mến Chúa là Ðấng đã sinh thành, thì cũng yêu mến những kẻ bởi Người mà sinh ra".
Tình yêu thương tha nhân chẳng những là dấu chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng "đã yêu chúng ta trước", nơi "Lời ở cùng chúng ta", mà còn cho thấy đức tin chân chính và mãnh liệt của chúng ta vào Đấng Thiên Sai Cứu Thế nữa, một đức tin thắng vượt thế gian, thắng vượt con người cũ vị kỷ của mình để sống chết cho tha nhân như Chúa Kitô, và đức tin ấy như thế nào cùng với tác dụng thần linh ra sao đã được Bài Đọc 1 hôm nay cho biết như sau:
"Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên Chúa... Hễ sự gì bởi Thiên Chúa mà sinh ra, thì thắng được thế gian, và đây là sự chiến thắng thế gian: đó là đức tin của chúng ta. Ai chiến thắng thế gian, nếu không phải kẻ tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa?"
Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh ý nghĩa của bài Phúc Âm nói chung và câu của Tiên Tri Isaia tiên báo về vai trò và sứ vụ chính yếu của Đấng Thiên Sai Cứu Thế nói riêng, một đoạn sách tiên tri đã được chính Chúa Giêsu công nhận là đã ứng nghiệm nơi bản thân của Người là "Lời ở cùng chúng ta":
1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực.
2) Người sẽ cứu tâm hồn họ khỏi bất công và đàn áp, giá máu của họ đáng kể trước mặt người. Họ sẽ cầu nguyện cho người luôn và sẽ chúc phúc người mãi mãi.
3) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
Đổ tràn Thần Khí trên mọi người phàm
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Năm sau Hiển Linh)
Trích bài chú giải của thánh Sy-ri-lô, giám mục A-lê-xan-ri-a, về Tin Mừng theo thánh Gio-an.
Đấng tạo thành trời đất đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Ki-tô theo một trật tự tuyệt vời, đồng thời đưa bản tính con người trở lại tình trạng nguyên thuỷ. Cùng với các ơn khác, Người hứa ban Thánh Thần lại cho họ một cách rộng rãi. Nếu không, họ chẳng có cách nào khác để lấy lại các ơn đó một cách yên hàn và chắc chắn.
Vì thế Thiên Chúa đã ấn định thời gian cho Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta, nghĩa là thời Đức Ki-tô đến. Thiên Chúa đã hứa rằng : trong những ngày ấy, ngày Đấng Cứu Độ đến, Ta sẽ đổ Thần Khí của Ta trên mọi người phàm.
Khi Thiên Chúa Cha muốn bày tỏ lòng quảng đại vô biên của Người, thì Người đã cho Con Một xuống thế mặc xác phàm, nghĩa là sinh làm con một người phụ nữ, theo như lời Kinh Thánh. Bấy giờ Thiên Chúa ban Thần Khí cho chúng ta, và người đầu tiên được nhận lãnh là Đức Ki-tô, tiêu biểu cho nhân loại được đổi mới. Thánh Gio-an Tẩy Giả làm chứng : Tôi đã thấy Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người.
Sở dĩ Đức Ki-tô đã nhận lấy Thần Khí, là vì Người đã làm người, và trong tư cách là người, việc lãnh nhận Thần Khí là điều xứng hợp. Người là Con Thiên Chúa Cha và được sinh ra từ bản thể Chúa Cha ngay cả trước khi nhập thể và từ trước muôn muôn đời. Dầu vậy, khi đã làm người rồi, Chúa Con cũng không lấy làm bị xúc phạm khi nghe Thiên Chúa là Cha nói với mình rằng : Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
Chúa Con vốn là Thiên Chúa từ muôn thuở, sinh ra bởi chính Thiên Chúa, thế mà hôm nay Chúa Cha lại nói là Người được sinh ra, điều ấy có nghĩa là trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử, bởi vì với tư cách là người, Đức Ki-tô đã thâu tóm tất cả bản tính nhân loại. Theo nghĩa đó, người ta mới nói Chúa Cha cũng lại ban Thần Khí cho Chúa Con, mặc dù chính Chúa Con đã có Thần Khí ở trong Chúa Con, chúng ta cũng được ban cho Thần Khí nơi Người. Vì thế, như lời Kinh Thánh, Người thuộc về dòng dõi Áp-ra-ham và đã nên giống anh em mình về mọi phương diện.
Vậy, nếu Con Một có nhận lấy Thần Khí thì không phải là cho chính mình, vì Thần Khí đã thuộc về Người, vốn ở trong Người và nhờ Người mà được ban cho chúng ta, như chúng tôi đã nói trước. Nhưng vì khi làm người, Người mang trong mình tất cả bản tính nhân loại nên Người đã lãnh nhận Thần Khí để canh tân và phục hồi trọn vẹn bản tính ấy. Vậy, nếu lý luận cho đúng và dựa vào bằng chứng của Kinh Thánh, chúng ta có thể thấy rằng Đức Ki-tô không lãnh nhận Thần Khí cho chính mình, nhưng là cho chúng ta, vì chúng ta ở trong Người. Bởi chưng phải nhờ Người thì mọi sự lành mới đến với chúng ta.
Thứ Sáu sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 5 - 13
"Thánh Thần, nước và máu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai là kẻ thắng được thế gian,nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa? Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật. Có ba chứng nhân: Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều. Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa,người đó có lời chứng ấy nơi mình.
Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống. Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa, để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh chai chạy rảo. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Alleluia: 1 Tm 3,36
Alleluia, alleluia. - Lạy Chúa Kitô, Ðấng được rao giảng cho lương dân, vinh danh Chúa! Lạy Chúa Kitô, Ðấng được tin kính ở thế gian, vinh danh Chúa! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 5, 12-16
"Lập tức người ấy khỏi phong hủi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: "Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch". Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: "Ta muốn, hãy nên trơn sạch". Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch". Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel nguyên dạng
Hôm nay, Thứ Sáu sau Chúa Nhật Lễ Hiển Linh, Bài Phúc Âm theo chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) của chung Mùa Giáng Sinh, được thể hiện ở phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu, như Thánh ký Luca thuật lại nguyên văn từ đầu đến cuối như sau:
"Xẩy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: 'Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch'. Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: 'Ta muốn, hãy nên trơn sạch'. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: 'Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch'. Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện".
Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy "Lời ở cùng chúng ta" vừa ẩn vừa hiện, đúng hơn lúc hiện lúc ẩn. Lúc hiện là lúc Người giao tiếp với con người, còn lúc ẩn là lúc Người giao tiếp với Thiên Chúa, nhưng lại là một việc giao tiếp thần linh với Thiên Chúa ở giữa con người, nơi nhân tính của Người và với nhân tính của Người.
Trước hết, "Lời ở cùng chúng ta" khi giao tiếp với con người. Chẳng hạn như trường hợp trong bài Phúc Âm hôm nay, Vì "ở cùng chúng ta" mà Người đã đáp ứng ý nguyện muốn "được sạch" của "một người mình đầy phong hủi" nhưng rất tin tưởng nơi Người, ở chỗ vừa "thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: 'Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch'".
Tất nhiên, là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa "ở cùng chúng ta", Người không thể nào không động lòng, chẳng những trước hình thù cùi hủi đã làm biến dạng thân xác vốn nguyên tuyền và lành mạnh hết sức đáng thương của nạn nhân, mà nhất là trước tấm lòng tan nát khiêm cung thiết tha cầu khẩn của nạn nhân nữa. Bởi thế, bài Phúc Âm cho biết thêm "Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: 'Ta muốn, hãy nên trơn sạch'. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi".
Thật vậy, bởi nguyên tội, bản tính của loài ngươi chẳng khác gì như bị cùi hủi, coi đến ghê rợn, vì hình thù và tầm vóc nguyên tuyền lành mạnh từ ban đầu của nó khi mới được Thiên Chúa tạo dựng nên theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 2:26) đã bị biến dạng, bị lệch lạch, bị méo mó một cách gian ác trá hình, bởi bị tiêm nhiễm nọc độc của Con Khủng Long Luxiphe, nên đã bị biến thành hình ảnh quái gở tương tự như Satan và bọn ngụy thần của hắn.
Bởi thế, "Lời ở cùng chúng ta", nhờ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), đã mặc lấy bản tính nhân loại bị cùi hủi biến dạng của loài người, mà bản tính của loài người ở nơi Người, một bản tính nhờ được ngôi hiệp với thiên tính của Người ngay từ giây phút hoài thai trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Người, đã được phục hồi nơi nhân phẩm là người và nhân cách làm người của Con Thiên Chúa.
Nếu nguyên tội gây ra bởi con người ngay từ ban đầu, qua hai nguyên tổ, đã trở nên cùi hủi là vì bề ngoài đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa, và bề trong đã coi trọng cùng tin tưởng rắn quỉ Satan gian trá hơn kính trọng cùng tin tưởng Vị Thiên Chúa chân thật nên mới nghe theo hắn thay vì tuân lệnh Thiên Chúa, thì để phục hồi nguyên trạng hình hài và tầm vóc của con người, chẳng những "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" mà Người còn phải "vâng lời cho đến chết dù có chết trên thập tự giá" (Philiphe 2:8).
Tinh thần tuân phục của "Lời ở cùng chúng ta" đã được tỏ hiện ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, khi Người bảo nạn nhân phong cùi rằng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch".
Sau nữa, "Lời ở cùng chúng ta" khi giao tiếp với Thiên Chúa: "Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện". Tác động cầu nguyện của Chúa Giêsu ở đây là gì, nếu không phải là Người giao tiếp thần linh với Thiên Chúa là Cha của Người "trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24) nơi nhân tính của Người. Bởi vì, về thiên tính, Người đồng bản thể với Cha của Người, Người cũng là Thiên Chúa như Cha, không cần cầu nguyện.
Thế nhưng, với bản tính của nhân loại, Người vẫn cần phải cầu nguyện, một tác động giao tiếp thần linh với Cha, một tác động hiệp nhất nên một với Cha, như tác động của Người vẫn cần phải tỏ ra tuân phục ý muốn Cha là Đấng đã sai Người.
Nghĩa là, cho dù nhờ mầu nhiệm ngôi hiệp, mầu nhiệm mà hai bản tính của Người đã trở nên một nơi Ngôi Vị duy nhất là Con Thiên Chúa, nhưng Người vẫn luôn ý thức về thực tại nên một và tình trạng hiệp nhất nhân thần này, vẫn liên tục chủ động gắn bó nhân tính với thiên tính trong cuộc đời trần thế của Người, vẫn luôn thể hiện mối hiệp thông thần linh Ngôi Vị này, bằng việc Người luôn luôn làm theo ý Cha của Người để chứng tỏ Người thực sự là Đức Kitô Thiên Sai "ở cùng chúng ta".
Chính nhờ những giây phút âm thầm cầu nguyện cùng Cha của mình như thế, mà Người càng chứng tỏ Người "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và Người mới có thể tiếp tục thi hành vai trò và sứ vụ Thiên Sai của mình trên trần gian này, bằng việc "rao giảng" như một ngôn sứ, "chữa lành" như một tư tế và "giải thoát" như một đế vương, hoàn toàn ứng nghiệm Lời Tiên Tri Isaia tiên báo về Người và được Người xác nhận là đúng trong bài Phúc Âm hôm qua.
Chính những giây phút cầu nguyện này đã càng làm cho "Lời ở cùng chúng ta" trở thành nguồn mạch thông ban sự sống thần linh của Thiên Chúa cho nhân loại, đó là việc Người thông ban cho chúng ta kiến thức thần linh về Thiên Chúa (xem Gioan 17:3) của Người, qua chính mạc khải thần linh nơi "Lời ở cùng chúng ta" và của "Lời ở cùng chúng ta". Đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 1 hôm nay đã khẳng định rằng: "Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống".
Nếu Con Thiên Chúa chính là "sự sống đời đời" thì chỉ có "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), thành phần con cái này không phải sinh ra "bởi huyết nhục" theo thể lý, "bởi ước muốn nhục dục" theo bản năng và "bởi ý muốn loài người" theo tâm lý (xem Gioan 1:13), mà là bởi chính Thiên Chúa, tức là bởi "Thần khí, nước và máu", như được đề cập đến trong Bài Đọc 1 hôm nay.
Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả về thực tại "Lời ở cùng chúng ta", khi Thiên Chúa "đã Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh chai chạy rảo" - "để loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel". Bởi thế, câu 1 và câu 3 của Bài Đáp Ca đã kêu gọi dân Do Thái được Ngài tuyển chọn và được "Lời ở cùng chúng ta" rằng: "Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội", và "Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người".
Các mầu nhiệm về phép rửa của Chúa
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Sáu sau Hiển Linh)
Trích bài giảng của thánh Mác-xi-mô, giám mục Tô-ri-nô.
Sách Tin Mừng thuật lại Chúa tới sông Gio-đan để chịu phép rửa và cũng trong dòng sông đó, Người muốn cho mọi người thấy rằng Người được dành riêng để phục vụ các mầu nhiệm trên trời.
Quả vậy, nếu sau ngày lễ Chúa Giáng Sinh mà chúng ta mừng ngày lễ hôm nay thì cũng là chuyện bình thường, cho dù hai biến cố có cách nhau nhiều năm, nhưng diễn ra cùng một thời kỳ. Theo thiển ý, cũng phải gọi ngày hôm nay là lễ Giáng Sinh nữa.
Bấy giờ Người sinh ra cho nhân loại, còn hôm nay Người sinh lại trong các bí tích. Bấy giờ Người được Trinh Nữ sinh ra, còn hôm nay Người được sinh nhờ bí tích. Ở đó khi Người sinh làm người dương thế, Mẹ Ma-ri-a ấp ủ Người trong lòng ; ở đây khi Người sinh ra theo mầu nhiệm, Chúa Cha âu yếm nói với Người : Đây là Con yêu dấu của Ta ; Ta hài lòng về Người ; các ngươi hãy vâng nghe lời Người. Xưa kia, Đức Mẹ nâng niu âu yếm trong lòng khi sinh con ra, còn hôm nay thì Chúa Cha dùng lời chứng thân thương mà nâng đỡ ; xưa kia Đức Mẹ đưa Chúa Con cho các hiền sĩ bái thờ, còn hôm nay Chúa Cha mặc khải Chúa Con cho chư dân thờ kính.
Vậy Chúa Giê-su đến chịu phép rửa và muốn cho Thân Thể chí thánh của Người được thanh tẩy trong nước.
Biết đâu chẳng có người nói : “Người là Thánh, tại sao lại muốn chịu phép rửa ?” Xin hãy nghe đây ! Đức Ki-tô chịu phép rửa không phải để được nước thánh hoá nhưng là để chính Người thánh hoá nước và dùng sự thanh sạch của Người mà thanh tẩy dòng nước đang bao bọc Người. Quả thật, khi Đức Ki-tô tự thánh hiến trong phép rửa thì Người cũng thánh hiến nước từ trong bản chất của yếu tố thiên nhiên này.
Khi Đấng Cứu Độ dìm mình trong nước, thì mọi nguồn nước cũng được thanh tẩy để dùng thanh tẩy chúng ta sau này : giếng nước được thanh tẩy, để từ nay ơn thanh tẩy được ban phát cho hậu thế. Vậy Đức Ki-tô chịu phép rửa trước, để dân Ki-tô hữu tin tưởng đi theo Người.
Tôi hiểu ý nghĩa mầu nhiệm như thế này : xưa kia khi qua Biển Đỏ, cột lửa đi trước để dân Ít-ra-en dũng cảm bước theo sau ; theo thánh Tông Đồ, cột lửa đã đi qua trước để dọn đường cho dân bước theo sau, thì đó là sự kiện tiên báo mầu nhiệm phép rửa. Phải, đúng là một phép rửa : trên có mây che, dưới có nước đỡ.
Nhưng chính Đức Ki-tô mới thực hiện tất cả những điều này. Chính Người là cột lửa xưa kia đã đi trước dẫn con cái Ít-ra-en qua biển. Chính Người, giờ đây khi chịu phép rửa, đã lấy thân xác mình làm như cột lửa đi trước, dẫn đường dân Ki-tô hữu. Người quả là cột lửa xưa kia soi sáng cho những kẻ dõi mắt theo Người và bây giờ đem lại ánh sáng cho những ai tin Người. Xưa kia Người mở một con đường vững chắc trên sóng nước, bây giờ Người củng cố bước chân trong phép rửa của đức tin.
Thánh Raymunđô Miền Penyafort, Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymunđô, hiển tu sinh năm 1175 tại Barcêlônê nước Tay Ban Nha, thánh nhân thuộc dòng dõi quý tộc.
Ngay từ niên thiếu, cậu Raymunđô đã tỏ ra rất khôn ngoan, nhân đức. Cậu chuyên cần học hành và tập luyện nhân đức, nhất là nhân đức vâng lời, cậu rất giỏi triết lý. Năm lên hai mươi tuổi, thầy Raymunđô được bổ nhiệm làm giáo sư triết học ở Barcêlônê. Vì muốn mưu ích cho Giáo Hội cách đắc lực hơn, giáo sư Raymunđô đến Bôlônia nghiên cứu về giáo luật và thế luật. Sau khi đã đậu bằng tiến sĩ luật, Raymunđô được bổ nhiệm giữ ghế giảng sư giáo luật tại đại học đường Bôlônia trong suốt ba năm. Dậy học được bao nhiêu tiền, ngài phân phát cho người nghèo hết.
Năm 1219, Đức cha Bêrănggiaê, Giám mục Barcêlônê, nhân dịp sang Rôma bái yết Đức Giáo Hoàng, ngài có ghé qua Bôlônia để triệu vời linh mục Raymunđô về làm việc tại giáo phận. Nhưng đến sau vì cảm mến cuộc đời thánh thiện và vô vị lợi của các cha dòng Đaminh và những kết quả lớn lao do những bài giảng thuyết của các cha dòng áo trắng, Raymunđô bỏ đời sống linh mục triều, để nhập dòng Đaminh. Ngài được mặc áo dòng ngày thứ sáu tuần thánh năm 1222 ở Barcêlônê, tức là tám tháng sau ngày thánh Đaminh qua đời. Bấy giờ Raymunđô được 47 tuổi. Sống trong nhà tập, ngài rất khiêm tốn, vâng lời tuyệt đối. Ngài khẩn khoản xin bề trên chỉ cho ngài việc đền tội đặc biệt để chuộc lại những lỗi lầm quá khứ. Nhưng bề trên không chấp thuận đề nghị của ngài. Cha bề trên tỉnh dòng truyền cho ngài soạn thảo một bộ tổng luận về các vấn đề lương tâm để tiện dụng cho các cha giải tội.
Ngài được bổ nhiệm vào tiểu ban giảng thuyết. Thời đó Đức Hồng Y Gioan Anvinh, được uỷ nhiệm sang Tây Ban Nha công cán với sứ mệnh triệu tập một đạo binh thánh giá để chống lại quân Môrô Hồi giáo. Đức Hồng Y cảm mến tài giảng thuyết và lòng đạo đức của cha Raymunđô, nên đã chọn cha làm tổng bí thư và sai đi tất cả những nơi ngài sẽ tới ngõ hầu dọn lòng giáo hữu đón nhận phép lành và ơn toàn xá của Toà Thánh, nhất là để giúp các tội nhân thống hối tội hình.
Trở về Rôma, Đức Hồng Y hết lời ca tụng những đức tính cao quí cũng như sự thánh thiện và tài giảng thuyết của cha Raymunđô trước mặt vị Thủ lãnh Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX liền triệu vời ngài về triều Giáo Hoàng làm việc trong bộ Xá giải. Đến sau, Đức Thánh Cha lại chọn thánh nhân làm cha linh hướng cho Ngài.
Cha Raymunđô thi hành công tác hằng ngày rất chu đáo và làm với tinh thần khiêm tốn và phục tùng hoàn toàn. Cảm mến tài đức của cha Raymunđô và đồng thời cũng để ban thưởng công lao ngài đã thực hiện, Đức Thánh Cha Grêgôriô IX quyết định chọn ngài làm Tổng Giám mục thành Taragônia thủ đô xứ Aragônia.
Được tin đó, thánh nhân như bị sét đánh (chính ngài đã kể chuyện cho các thầy dòng như vậy), ngài lo lắng quá đến phát sốt mất ba ngày. Thánh nhân khẩn khoản xin các Đức Hồng Y can thiệp với Đức Thánh Cha cất gánh nặng đó cho ngài. Cuối cùng Đức Thánh Cha đành chiều theo.
Sau năm năm phục vụ trong triều Giáo Hoàng, thánh Raymunđô vì làm việc nhiều và ăn chay hãm mình quá nhiệm nhặt, nên ngài bị bệnh rất nặng. Các bác sĩ khuyên ngài nên về quê hương để đổi khí mới hy vọng khỏi bệnh.
Thánh Raymunđô từ giã Rôma đáp tầu về quê hương. Ngài khước từ mọi đặc ân, chức tước mà Đức Giáo Hoàng muốn ban cho ngài để thưởng công lao của ngài. Cùng đáp một chuyến tầu với ngài có một người tên là Barcêlônê Farô bị cảm nặng đến nỗi cấm khẩu, thánh Raymunđô đến khuyên bảo ông và hỏi ông có muốn xưng tội không? Ông không trả lời gì cả. Thánh nhân xin mọi người trong tầu hợp ý với ngài cầu nguyện cho ông. Rồi ngài lại hỏi ông một lần nữa, lần này ông tỉnh lại và nói:
" Thưa cha, con muốn xưng tội và con nóng lòng muốn xưng tội ". Thánh Raymunđô đã giải tội cho ông. Sau khi xưng tội, ông liền tắt thở.
Trở về Barcêlônê, sau khi đã phục hồi sức khoẻ như trước, thánh Raymunđô lại bắt đầu sống một cuộc đời kham khổ thống hối, hãm mình nhiệm nhặt.
Đây là cuộc sinh hoạt hằng ngày của thánh nhân: Mỗi ngày trừ chủ nhật, ngài chỉ dùng có một bữa. Đêm nào ngài cũng đánh tội. Ngài cầu nguyện hình như liên miên và thường kèm theo những giọt nước mắt… Ngày nào cũng như ngày nào ngài thường xưng tội trước khi cử hành thánh lễ. Ngày nào không xưng tội được, ngài thường tỏ vẻ buồn rầu. Ước vọng nồng nhiệt nhất của thánh nhân là sống một đời sống nội tâm hoàn toàn. Nhưng Chúa quan phòng muốn đem sự thánh thiện của ngài mưu ích cho toàn thể anh em trong đại gia đình dòng thánh Đaminh.
Năm 1238, Cha bề trên cả nhà dòng Đaminh ở Bôlônia tên là Giođanô Sacô mới qua đời. Các cha dòng Đaminh triệu tập đại hội đồng ở Bôlônia để bầu bề trên cả mới. Toàn thể Hội đồng tán thành bầu thánh Raymunđô hiện đang ở Barcêlônê lên làm bề trên cả. Được tin đó, ngài rất đau buồn, nhưng rút cục ngài cũng phải tuân theo thánh ý Thiên Chúa.
Thánh Raymunđô điều khiển các nhà dòng thuộc quyền ngài cách khôn ngoan và sáng suốt. Ngài đi kinh lý tất cả các tỉnh dòng thuộc quyền ngài. Sau hai năm tận tụy với chức vụï, ngài xin từ chức bề trên cả, lấy lẽ bệnh tật và già yếu vì, bấy giờ ngài đã ngoài 70 tuổi.
Được sự đồng ý của các cha dòng, ngài rất sung sướng trở về sống trong tu viện đầu tiên của ngài ở Barcêlônê.
Trở về nhà dòng cũ, tuy già yếu, thánh nhân cũng đã giúp vua Giacôbê I rất nhiều. Vì tin tưởng ở những kết quả mỹ mãn của thánh Raymunđô đã thực hiện được khi chống xâm lăng Môrô, vua Giacôbê I xin thánh nhân giúp nhà vua tìm cách chống bọn vô tín ngưỡng, vô kỷ luật phá hoại quốc gia. Bọn người này đã bị ảnh hưởng một phong trào triết lý vô đạo, phản đức tin. Thánh Raymunđô nhận thấy muốn chiến thắng bọn địch thù cố cựu này, cần phải dựa trên những lý thuyết cứng rắn và có giá trị khoa học. Thánh nhân nhận thấy chỉ có thánh Tôma, một triết gia lỗi lạc, mới có thể cung cấp những khí giới tối tân bênh vực đạo giáo. Thánh nhân đã viết thư cho thánh Tôma nhờ ngài sáng tác một tác phẩm minh giáo với ý hướng trên. Nhận lời đề nghị của thánh Raymunđô, thánh Tôma sáng tác một bộ tổng luận nhan đề: "Tổng luận chống lương dân".
Dù được vua Giacôbê I chiều chuộng và quý mến, thánh nhân cũng không vì thế mà vị nể không dám cảnh cáo những yếu đuối và tham vọng xấu của nhà vua. Vào khoảng cuối triều đại của nhà vua, vua Giacôbê I đem quân đến chinh phục đảo Magiôrica. Nhà vua mời thánh nhân cùng đi với. Thánh Raymunđô vì muốn đến đó để giảng thuyết phá tan những sai lầm của dân chúng miền đó, ngài nhận lời mời của nhà vua. Khi tới nơi, thánh nhân rất đỗi buồn phiền vì thấy công cuộc tông đồ của ngài bị phá vỡ vì một gương xấu tầy đình nhà vua gây nên!… Nhà vua đã phạm tội ngoại tình với một nàng hầu. Thấy thế, thánh nhân lập tức đến xin yết kiến và yêu cầu vua không được làm những hành động tội lỗi như thế nữa. Nhưng nhà vua không đủ can đảm để lướt thắng bản thân.
Thấy những lời khuyên can của mình không đem lại kết quả nào, thánh nhân quyết định trở về Barcêlônê tức khắc. Biết rõ ý định của thánh nhân, vua Giacôbê I tìm hết cách ngăn cản: Vua ra lệnh cấm ngặt không một chiếc tầu nào được phép chở thánh Raymunđô về lục địa.
Thánh nhân đi lang thang trên bãi biển tìm tầu đáp về lục địa. Nhưng tầu nào cũng từ khước không chịu chở. Thánh nhân biết nhà vua ra lệnh cấm các tầu bể không được chở ngài, ngài nói với người em cùng đi với ngài:
"Được rồi! nếu người ta không cho tầu để chở chúng ta về đất liền, Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta chế ra tầu để đi ?" Nói thế rồi, thánh nhân cởi áo choàng ra, trải trên nước, ngài chống chiếc gậy giữa áo làm cột buồm.
Ngài vén một phần chiếc áo căng trên đầu gậy để làm buồm. Sau đó ngài quay lại bảo em ngài cùng xuống "thuyền" với ngài. Người em run lên vì sợ hãi, không dám bước xuống "thuyền" do thánh nhân chế tạo trong chớp nhoáng. Chỉ mình ngài dám bước xuống chiếc thuyền kỳ lạ đó. Gió thổi căng buồm; chiếc "thuyền" lướt nhẹ trên sóng như bay và rồi biến mất dạng trước đôi mắt kinh ngạc của người em đứng bất động trên bờ biển. Sáu giờ sau, khi đã chạy được 69 hải lý, thánh nhân cập bến Barcêlônê.
Trên bến tầu Barcêlônê, dân chúng kéo đến xem rất đông, tiếng hoan hô vang cả một góc trời làm huyên náo cả hải cảng. Tới bến, thánh nhân lên bờ, một đoàn người đông đảo vây quanh ngài. Ngài kéo chiếc áo choàng lên khỏi nước, chiếc áo vẫn khô nguyên không bị ướt chút nào, ngài khoác áo vào mình và cầm gậy vội vã đi thẳng về tu viện cố ý tránh những tiếng hoan hô của dân chúng.
Thấy phép lạ đó, vua Giacôbê I rất hối hận và từ đó vua không dám phạm những tội tầy đình như thế nữa.
Cuộc đời thánh thiện của thánh Raymunđô đã gần tới ngày kết thúc. Ngài dọn mình chết hằng ngày, nhất là từ sau khi từ chức bề trên cả, ngài càng chú ý đến vấn đề đó nhiều hơn. Khi hay tin thánh nhân bị bệnh nặng, cả thành phố Barcêlônê lo lắng, buồn phiền. Vua và hoàng hậu nhiều lần đích thân tới thăm thánh nhân. Nhà vua truyền cho cả nước cầu nguyện công khai cho thánh nhân chóng lành bệnh. Thánh Raymunđô biết rõ những lời cầu nguyện đó sẽ không được Thiên Chúa chấp nhận. Ngài muốn luôn luôn sẵn sàng vui vẻ đón ngày kết liễu cuộc hành trình trần gian của ngài. Ngài qua đời nhằm ngày lễ Hiển Linh, 06 tháng Giêng năm 1275, hưởng thọ 99 tuổi.
Lễ an táng ngài được cử hành rất trọng thể. Chính vua Giacôbê I thân hành tới dự lễ an táng ngài. Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tấn phong ngài lên bậc hiển thánh năm 1601. Giáo hội đã mừng lễ kính ngài ngài 07 tháng giêng.
http://giaophanvinhlong.net/thanh-raymundo-hien-tu.html
Thứ Bảy sau Chúa Nhật Hiển Linh
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Ga 5, 14-21
"Chúa nhậm lời chúng ta kêu cầu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, này là sự chúng ta tin tưởng nơi Chúa: là hễ chúng ta xin sự gì hợp ý Người, thì Người nhậm lời chúng ta. Và chúng ta biết Người nghe nhận mọi điều chúng ta xin, vì chúng ta biết rằng chúng ta có kêu cầu Người. Ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa tới sự chết, thì hãy cầu xin và Người sẽ ban sự sống cho kẻ phạm thứ tội đó. Có thứ tội đưa đến sự chết, tôi không bảo ai cầu xin cho người phạm tội ấy đâu. Mọi sự gian tà đều là tội, và có thứ tội đưa đến sự chết.
Chúng ta biết rằng ai sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, chính sự sinh ra bởi Thiên Chúa gìn giữ họ, và ma quỷ không làm gì được họ. Chúng ta biết rằng chúng ta bởi Thiên Chúa mà ra, và toàn thể thế gian đều phục luỵ ma quỷ. Và chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người. Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và là sự sống đời đời. Các con thân mến, hãy giữ mình xa các tà thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5 và 6a và 9b
Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy vui mừng vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. - Ðáp.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. - Ðáp.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Dt 1, 1-2
Alleluia, alleluia. - Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 3, 22-30
"Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục. Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!" Gioan trả lời rằng: "Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Emmanuel Hôn Phu
Ngày Thứ Bảy cuối Tuần Lễ Hiển Linh ngay trước Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, Bài Phúc Âm theo chủ đề "Lời ở cùng chúng ta" (Gioan 1;14) của chung Mùa Giáng Sinh, có liên hệ với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, Vị sẽ làm phép rửa cho Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm ngày mai, như Thánh ký Gioan Tông Đồ thuật lại như sau:
"Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục. Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: 'Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!' Gioan trả lời rằng: 'Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại'".
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu không đóng vai chính như các bài phúc âm của những ngày trước, ngoài một chi tiết ở đầu bài Phúc Âm: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa". Tuy nhiên, qua chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong cùng bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy "Lời ở cùng chúng ta" như "là người chồng" mà Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được đóng vai "bạn hữu của tân lang" đã cảm thấy hân hạnh và mãn nguyện lắm rồi: "niềm vui của tôi như thế là đầy đủ".
Với chứng từ của mình, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đã: 1- tái xác nhận một lần nữa rằng ngài không phải là Đức Kitô Thiên Sai như Chúa Giêsu; 2- nên ngài chỉ đóng vai phụ, với tư cách là "bạn hữu của tân lang", chứ không thể át được vai chính tân lang; 3- và chính vì Người là Đấng Thiên Sai nên Người được dân chúng mộ mến tuốn đến với Người là phải: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!"; 4- ngài chẳng những không ghen tương theo tinh thần cạnh tranh mà còn phải hết sức vui mừng nữa: "đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
Ở chứng từ đặc biệt lần này, Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã thêm một hình ảnh rất tuyệt vời về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta", liên quan đến mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh của Người, đó là hình ảnh Người là một "tân lang", "là người chồng", một hình ảnh ám chỉ đến hai thực tại, thực tại thiên tính của Người nên một với nhân tính của Người, và thực tại Người là vị hôn phu của Giáo Hội nhiệm thể của Người.
Không phải "Lời ở cùng chúng ta" chỉ ở nơi Con Người Giêsu sống động trong xã hội Do Thái thời của Người, ở nơi việc Người giao tiếp với đủ mọi hạng người thời bấy giờ, ở nơi việc Người gắn bó với người nghèo và thành phần tội nhân vào lúc ấy v.v., mà còn ở chỗ chung nhân loại ở với Người nơi nhân tính của Người, một nhân tính đã chia sẻ với những nỗi yếu hèn của họ, một nhân tính đã gánh vác tội lỗi của họ, một nhân tính đã hy hiến mạng sống của mình làm giá chuộc họ và cho những ai tin vào Người thành nhiệm thể Giáo Hội của Người.
Chính vì "Lời ở cùng chúng ta" và nhờ đó chung nhân loại chúng ta và riêng nhiệm thể Giáo Hội của Người được dự phần với Người, được kiến thức thần linh như Người và với Người, tức là được sự sống đời đời là chính bản thân Người, đúng như những gì Thánh Gioan Tông Đồ đã viết trong Bài Đọc 1 hôm nay: "chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và đã ban cho chúng ta ơn thông hiểu, để chúng ta nhận biết Chúa chân thật, và được ở trong Con chân thật của Người. Chính Ngài là Thiên Chúa chân thật và là sự sống đời đời".
Vì "Lời ở cùng chúng ta", nhờ đó chúng ta được ở với Người, tức được sự sống đời đời, và những ai được lãnh nhận sự sống đời đời vô cùng quan trọng và cao trọng không thể nào không cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa cùng với Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy vui mừng vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.
2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.
3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.
Mầu nhiệm hôn nhân giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh
(Bài đọc 2 giờ kinh sách Thứ Bảy sau Hiển Linh)
Trích bài giảng của đức cha Phau-tô, giám mục Ri-e.
Sách Tin Mừng thuật lại : Ngày thứ ba, có đám cưới. Nhưng đám cưới này là gì, nếu không phải là lời cầu chúc và niềm vui của nhân loại được cứu độ mừng vào ngày thứ ba, bởi vì con số mầu nhiệm ấy hoặc nói lên tín điều Một Thiên Chúa Ba Ngôi, hoặc nhắc đến niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh trong ngày thứ ba.
Trong một đoạn Tin Mừng khác, để đón tiếp người con thứ trở về, người ta tổ chức ca hát, múa nhảy, và mặc áo đẹp dành cho ngày cưới. Điều này tượng trưng việc lương dân trở lại.
Cũng thế, như tân lang rời khỏi loan phòng, Ngôi Lời xuống trần gian đến cùng Hội Thánh được quy tụ từ muôn dân. Khi nhập thể, Người kết hợp với Hội Thánh, sau khi đã ký kết hôn ước và ban của hồi môn. Ký hôn ước khi Đức Ki-tô là Thiên Chúa kết hợp với loài người, còn ban của hồi môn khi Người chịu hiến tế để cứu độ nhân loại. Hôn ước chúng tôi hiểu là ơn cứu chuộc hiện nay, còn của hồi môn là sự sống muôn đời. Đối với ai chứng kiến, đó là phép lạ, còn đối với ai hiểu biết, đó là mầu nhiệm. Quả thật nếu nhìn kỹ, thì chúng ta cũng thấy sự tương đồng giữa một bên là nước, một bên là phép rửa và ơn tái sinh. Khi một sự vật biến đổi từ bên trong thành một sự vật khác, khi một thụ tạo thấp kém biến đổi thành một loại cao quý hơn nhờ một sự thay đổi vô hình, thì việc tái sinh nhiệm mầu được thực hiện. Nước đã thay đổi trong phút chốc, sau này sẽ biến đổi con người.
Tại Ga-li-lê, nhờ Đức Ki-tô ra tay mà có rượu, nghĩa là Lề Luật rút lui, ân sủng thay thế ; hình bóng bị đẩy xa, chân lý thành hiện thực ; thực tại phàm trần được thay thế bằng thực tại linh thiêng ; Cựu Ước nhường chỗ cho Tân Ước, như lời thánh Tông Đồ : cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi. Như nước trong chum không mất đi, nhưng đổi thành chất khác ; cũng vậy, Lề Luật không mất đi, nhưng được kiện toàn, nhờ có Đức Ki-tô đến.
Rượu vừa hết thì có rượu khác, rượu Cựu Ước tốt, nhưng rượu Tân Ước còn tốt hơn. Cựu Ước người Do-thái giữ, nay chỉ còn mớ chữ thôi, còn Tân Ước liên hệ đến chúng ta, thì đem lại hương vị của sự sống, khi ban cho chúng ta ân sủng.
Rượu tốt, tức là huấn lệnh tốt của Lề Luật dạy rằng : hãy yêu bạn, ghét thù. Nhưng rượu tốt và mạnh hơn là rượu của Tin Mừng : Còn Thầy, Thầy bảo anh em : phải yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em.