Sinh Hoạt Sống Đạo 2021
Thật khó mà biết được chính xác lòng đạo đức trong các thế kỷ đầu của Kitô giáo
dành cho thánh Cả Giuse. Tất cả các tư tưởng của các Kitô hữu đầu tiên thường
hướng về chính Chúa Giêsu: đời sống, cái chết và sự sống lại; Chúa Thánh Thần
hiện xuống trong chương trình cứu độ khi tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đức trinh nữ
Maria cũng vậy, trong thời gian dài đã không có một nghi lễ dành cho cá nhân hay
tập thể. Có lẽ sự rao giảng Tin Mừng cổ nhất được nhận ra trong Tin mừng thánh
Marcô qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan cho đến khi Chúa
Giêsu lên trời. Những trình thuật trong phần đầu được khai mở liên quan đến thời
thơ ấu của Chúa Giêsu đó là những chương đầu của Tin mừng thánh Matthêu và thánh
Luca.
Chỉ đến thế hệ thứ hai, con cái của những tín hữu đầu tiên, mới thấy xuất hiện
những điều liên quan đến việc sùng kính của các Kitô hữu nhưng vẫn chưa có một
nghi thức chính thức nào.
Những lễ kính của Kitô giáo một thời gian rất lâu dành cho việc Chúa sống lại,
Phục sinh và Chúa Thánh Thần hiện xuống đến lễ Ngũ Tuần. Những bài viết của các
giáo phụ được gọi là “Tông truyền” bởi vì họ sống rất gần với các Tông đồ cũng
chủ yếu minh giải đức tin về Chúa Ba Ngôi, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, qua những
bài giảng và cắt nghĩa Phúc Âm. Nhưng tìm hiểu kỹ, chúng ta có thể trưng dẫn ra
một số tư tưởng của các Giáo phụ nói về thánh Giuse.
Một trong những giáo phụ cổ thời là thánh Inhaxiô
Antiokia tử đạo năm 107 ở Rôma. Chúng ta có 7 lá thư rất giá trị của ngài. Một
trong
số đó được gửi cho tín hữu Êphêsô:
“Từ nguyên thuỷ, thái tử của thế gian này (Satan) đã
chẳng biết sự đồng trinh của Đức Maria và việc sinh con của người cũng như cái
chết của Chúa chúng ta. Ba mầu nhiệm đặc biệt này được thực hiện trong sự thinh
lặng của Thiên Chúa”.
Trong bối cảnh đó, thánh Giuse không được nêu tên nhưng đặc tính mang chiều kích
quan phòng về vai trò của ngài cũng được lưu ý. Vì cuộc hôn phối của thánh Giuse
và Đức Maria mà việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra một cách đồng trinh ma quỷ không
biết được. Thánh Giêrônimô thuộc thế kỷ IV giải nghĩa: Tại sao Chúa Giêsu không
chỉ sinh ra bởi một trinh nữ mà bởi một người đã đính hôn? – Một cách đặc biệt,
nhờ lịch sử của thánh Giuse mà lịch sử của Maria cũng được xác định; và cũng để
Mẹ không bị ném đá như một người ngoại tình bởi người Do Thái.
Trong cuộc di cư chạy sang Ai Cập, Mẹ cũng đã có sự nâng đỡ bởi chính thánh Giuse. Thánh tử đạo Inhaxiô còn nêu thêm một lý do: Việc sinh sản Hài nhi được giấu kín đối với ma quỷ bởi vì Hài nhi không chỉ được mang thai bởi một trinh nữ mà bởi người trinh nữ đã đính hôn.
Chúng ta biết rằng thánh Giútinô, người gốc Palestin,
đã nói nhiều đến thánh Giuse trong khảo luận “Đối
thoại với Tryphon” mà người ta cho rằng nó
xuất hiện khoảng năm 155. Chính bởi thánh Giútinô mà chúng ta biết rằng Hài nhi
Giêsu ở trong một cái hang (grotte), và cũng nhờ ngài mà người ta biết rằng
thánh Giuse đã làm nghề thợ mộc.
Thánh Giútinô nhấn mạnh về điểm căn bản này: Chúa
Giêsu là con thánh Giuse nhưng đó là điều sai lầm, Giêsu đích thực là con Thiên
Chúa và “hoa trái bởi lòng Đức Maria chính là
hoa trái của Chúa Thánh Thần”.
Điều rất quan trọng đối với những người
“Ngộ đạo thuyết”,
là những người tự xem mình là “thông hiểu”,
đã làm lung lạc tín hữu khi họ cho rằng Giuse là cha đích thực của Đức Giêsu chứ
không phải là cha nuôi hoặc cha theo pháp lý. Một cuộc chiến kịch liệt chống lại
những người lạc giáo này đã xảy ra, đặc biệt hai tác giả nổi danh là thánh Irênê
là vị giám mục thứ hai của Lyon – Pháp và Tertulianô bên Phi Châu.
Tác phẩm chính của thánh Irênê (130 – 203?) với tên
“Adversus
Haereses“
hay “Contre les
Hésésis” (Chống Dị giáo) xuất hiện khoảng năm
185. Trong khảo luận Các Văn Bản Giáo Phụ
được P. Bertrand soạn thảo kỹ lưỡng trong cuốn “Cahiers
de Joséphisme”, ông đã trình bày 14 trích bản
trong sách của thánh Irênê về vấn đề thánh Giuse.
Irênê chống lại những người lạc giáo chối bỏ sự đồng trinh của Đức Maria và xem
Đức Giêsu là người con theo tự nhiên của thánh Giuse. Trong nhóm Ngộ Đạo Thuyết
về vấn đế này, ngài nhắm đến Cérinthe và Carporate.
Để chống lại nhóm lạc giáo này, thánh Irênê đã dựa
vào Tin mừng Matthêu và Luca. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng:
Maria trọn đời đồng trinh, Giuse không góp phần nào
trong việc sinh hạ Chúa Giêsu, việc sản sinh đồng trinh này đã được tiên tri
Isaia tiên báo về Chúa Giêsu và ngài tự nhận: ‘Đây còn có Đấng cao cả hơn
Salomon… hơn Giona…’ (x.Mt 12,41-42);
và Chúa Giêsu đã khen tặng Phêrô khi ngài tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
(x.Mt 16,16-17). Irênê cũng dựa vào thánh Phaolô khi gọi Chúa Giêsu là
“Ađam mới” nghĩa
là: Ngôi Lời nhập thể để phục hồi nhân tính đã bị sa đoạ nơi
“Ađam đầu tiên”.
Qua đó, ta thấy chân lý nền tảng: Ađam đầu tiên là một
“khởi đầu”
(commencement), còn Ađam mới là “tái khởi đầu”
(recommencement). Từ này mang nghĩa bao hàm: lấy lại, phục hồi lại, đặt vào
trong trật tự.
Irênê lại còn so sánh Eva cũ và Maria là Eva mới. Nhân loại đã phải chết bởi một
người nữ; nhân loại được cứu độ cũng bởi một người nữ.
Irênê đã ca tụng thánh Giuse vì đã tin vào lời thiên
sứ: “Đừng ngại nhận Maria về nhà mình, vì
người con…” (Mt 1,20). Irênê đã hiểu sâu sắc
vai trò mang tính quan phòng cần thiết của thánh Giuse. Thánh nhân là phát ngôn
viên quan trọng trong truyền thống Kitô giáo về vấn đề này.
Chính trong tác phẩm
De Carne Christi
viết khoảng năm 212, Tertulianô nói về thánh Giuse. Cũng như thánh Irênê chống
lại phe lạc giáo, điển hình là Cérinthe và Carporate, Tertulianô còn chống
Apelle và Marcion.
Về Tertulianô, chúng ta chỉ cần ghi những dòng sau:
“Thật chẳng thuyết phục khi nói con Thiên Chúa
sinh bởi yếu tố con người; bởi vì nếu hoàn toàn là con người, Hài nhi đó không
còn là Con Thiên Chúa; và nếu như vậy thì đâu có gì hơn Salomon và Giona”.
Là miêu duệ dòng Đavít, Giuse đã kết hôn với một thiếu nữ cùng dòng tộc. Thiếu
nữ ấy sinh ra cho ông một người con, mà không có sự tri giao vợ chồng. Đã hẳn,
Đức Kitô mà sinh bởi một người phụ nữ ngoài hôn nhân lại là điều bất xứng.
Maria đã sinh hạ một con trai không được đăng ký với tên Bà, mà phải với tên của
Giuse, mặc dầu Hài Nhi ấy không phải tự ông mà có. Con của Giuse đã sinh ra mà
không bởi Giuse.
Giuse âu yếm ẵm bồng con Thiên Chúa, biểu hiện dưới
hình dạng Hài Nhi với xiết bao cung kính, vì biết rõ Ngài là Thiên Chúa. Về hồng
ân ấy, ông cảm tạ Thiên Chúa khôn cùng… Lúc nào ông cũng nửa mừng nửa sợ. Có lúc
ông đã kêu lên: “Ai ngờ tôi được vinh dự lớn
này là Con Đấng Tối Cao đã hóa thành con tôi!”.
-
Ôi Giuse công chính! Ông có phúc vì Ngôi Lời làm người thơ ấu vừa tầm mức ông,
đã lớn lên bên cạnh ông, dưới mái nhà ông, mà vẫn không rời xa cung lòng Thánh
phụ.
Đấng vốn là Con của Chúa Cha đã được gọi là Con của Đavít, Con của Giuse. Ngài
đã ưu ái nhận lấy những danh xưng phúc lộc ấy.
-
Lạy Chúa Giêsu! Chớ gì mọi miệng lưỡi hãy ca tụng Mẹ Chúa Khôn cùng! Nguyện cho
lòng Đấng đã cưu mang Chúa được tràn đầy phúc lộc!
Còn thánh Giuse, chẳng ai có thể ngợi khen ngài cho xứng, trừ Chúa là Con thật
Chúa Cha vĩnh tồn, là Đấng đã khứng nhận ngài làm dưỡng phụ.
Suy tư cá nhân: Như vậy, Chúa Giêsu đã hết lòng thảo hiếu thánh Giuse. Chính
trên lòng thảo hiếu của Chúa mà mọi sự sùng kính của ta đối với thánh Giuse cơ
bản được chấp nhận.
Thánh Gioan Kim Khẩu (340-407) quê ở thành Antiôkia, giám mục thành
Constantinôpôli, được mệnh danh là Kim Khẩu, vì sự khôn ngoan và tài năng hùng
biện của ngài.
Đức Piô X đã tôn ngài làm Tiến sĩ Giáo hội và bổn mạng các nhà giảng thuyết.
Thiên thần bảo ông Giuse rằng:
“Hãy trỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ
Maria
trốn qua Ai Cập”
(x.Mt 2,13). Thiên thần cho biết lý do là:
“Bởi Hêrôđê toan lùng Hài Nhi mà giết” (x.Mt
2,13).
Thiên Chúa pha trộn cay đắng với ngọt bùi. Đó là cách Chúa đối xử với các thánh.
Trước hết, thấy bà có thai, ông đâm nghi nan bối rối, nhưng rồi có Thiên thần
hiện đến giải tỏa mối lo sợ nghi ngờ. Lúc Ấu Chúa sinh ra ông vui mừng lắm nhưng
lại sợ hãi xiết bao khi thành đô náo động, và ác vương thịnh nộ lùng tiêu diệt
Hài Nhi!
Tiếp theo biến động này là niềm vui ngôi sao xuất hiện đưa Đạo sĩ tới thăm.
Nhưng xiết bao lo sợ, khi Thiên thần cho biết Hêrôđê toan hại tánh mạng Hài Nhi
và truyền cho Giuse bôn ba sương gió, nhưng dường như Chúa chẳng có mặt ở đó
vậy.
“Ta gọi Con Ta từ Ai Cập”
(x.Mt 2,15).
Sự kiện “Xuất Ai
Cập” cũng là một vinh dự lớn cho Trinh nữ
Maria. Dân tộc Do Thái lấy đó là một đặc ân cho mình, thì Trinh nữ cũng có quyền
như vậy. Người Do Thái tự hào nhớ lại mình đã ra khỏi Ai Cập, coi đó là một kỷ
niệm vinh quang. Một tiên tri đã ám chỉ điều ấy khi ông kêu lên:
“Há ta chẳng đem Israel ra khỏi Ai Cập ư?”
(Am 9,7).
Cuộc xuất lưu và hồi hương
của
dân Do thái là hình
bóng
hai cuộc hành trình
của Trinh
nữ
Maria.
Dân Do thái sang Ai Cập là để thoát nạn chết đói. Đức Kitô sang Ai Cập là để
tránh âm mưu đe dọa tính mạng Ngài.
Sang Ai Cập và từ Ai Cập trở về Nagiarét, thánh Giuse đóng vai trò quan trọng là
người bào vệ Mẹ Maria và Hài Nhi. Đây cũng là chương trình của Chúa.
Thánh Giêrônimô là người đào sâu tư tưởng của các giáo phụ đi trước, nhưng ngài
lại đặc biệt nghiêng về những kiến thức từ Thánh Kinh. Như chúng ta đã biết,
ngài đã dịch toàn bộ Thánh Kinh qua tiếng Latinh với tên gọi là bản Vulgata (Bản
Phổ thông), bản dịch được Giáo hội phê chuẩn và dùng trong Phụng vụ.
Thánh Giêrônimô cũng biết rất rõ về những Ngụy thư
nói về thánh Giuse, nhưng ngài không mấy tin vào các tài liệu đó. Thánh nhân đặc
biệt nói về sự trinh khiết của Đức Mẹ trong cuốn sách
Aversus Helvidium
xuất hiện khoảng năm 383 với tựa đề đầy đủ khác bằng tiếng Pháp là
De la Perpétuelle Virginité De Marie Contre Helvidius
(Về sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria – phản bác lại Helvidius). Trong đó,
ngài quả quyết và chỉ ra rằng: tà phái này không hiểu các bản văn Thánh Kinh.
Ngài chống lại các Nguỵ thư và còn nói đến giá trị của sự trinh khiết trọn đời
của thánh Giuse: “Tôi xác định rằng không chỉ
Đức Maria mà còn cả thánh Giuse cũng giữ mình đồng trinh, để trong cuộc hôn phối
trinh khiết đó, Đức Maria đồng trinh đã sinh con. Và nếu Đức Maria được coi như
hôn thê của ngài,
thì thánh Giuse
đã trở thành người bảo vệ còn hơn cả hôn phu. Phải kết luận rằng ngài luôn trinh
khiết cùng với Đức Maria, để ngài xứng đáng được gọi là
‘cha của con Chúa’,
vì ngài là hôn phu của Đức Maria.”
Với nghĩa đặc biệt này, thánh Giêrônimô hướng mở tới sự trinh khiết trọn đời của
thánh Giuse. Thánh Giêrônimô cũng cắt nghĩa tư tưởng của thánh Inhaxiô Antiokia,
mà qua đó, Đức Maria đã có một hôn phu hoàn toàn sống khiết tịnh.
Có thể nói, thánh Giêrônimô là một giáo phụ nổi tiếng bàn về đức đồng trinh của
thánh Giuse một cách căn bản, giống như thánh Gioan Kim Khẩu ở Đông phương.
Giuse biết rõ mình không có dính dáng gì trong vụ bí mật của Maria, nên lẽ đương
nhiên ông nghĩ: chả lẽ bà là thất tiết. Nhưng ông là người công bằng, chính
trực, không muốn làm tổn thương danh dự của bà, nên đã quyết định âm thầm rút
lui.
Ông đã bối rối, vì ông là hôn phu. Nhưng ông không ngược đãi, vì ông là người
công chính. Cao cả thay sự công chính của Giuse! Ông tha thứ không phải để còn
được chung sống với bà. Có nhiều ông chồng đã tha lỗi thất tiết cho vợ, là để
giữ vợ lại mà thỏa mãn tình riêng. Còn Giuse tha thứ mà không có ý giữ bà lại.
Như thế, mối tình của ông không vấn vương dục vọng. Ông không muốn nộp bà để bà
bị luận tội, đó là do lòng nhân ái khoan dung.
Đáng phục thay đức tính của Giuse! Chính vì thế ông đã được chọn để làm chứng về
đức đồng trinh của bà.
Giả sử có đôi vợ chồng nào đồng thỏa thuận kiêng giữ suốt đời, thì dây hôn nhân
của họ cũng không bị tiêu hủy; trái lại, càng thêm bền vững khi hai bên đều nắm
giữ những điều đã cùng nhau đoan hứa, không phải trong sự quan hệ thể xác, nhưng
trong niềm tin tưởng tâm hồn.
Không phải vô cớ mà thiên thần bảo Giuse
“đừng sợ rước Maria về làm hôn thê”
(Mt 1,20). Trinh nữ được gọi là hôn thê bởi do có hôn ước, chứ thực ra hôn phu
của bà không hề gần gũi bà khi nào.
Giuse là hôn phu của Trinh nữ cùng do bởi hôn ước mà thôi, chứ không hề có việc
đi lại thường tình. Nhưng bởi là hôn phu, ông được làm cha Đức Giêsu, theo một
nghĩa cao trọng hơn danh nghĩa dưỡng phụ.
Thánh Bênađô (1091 -1153) là giáo phụ cuối cùng, được mệnh danh là ca sĩ của Mẹ
Maria. Thiết tưởng ta cũng có thể gọi ngài là ca sĩ của thánh Giuse nữa.
Bênađô đáng kể là tông đồ tiên phong về sự sùng kính thánh Giuse. Thế kỷ XII
nhiều nhân vật có thế giá, nhất là Bênađô, với những bài giảng hùng hồn, đã đề
cao vai trò của thánh Giuse trong thời thơ ấu Chúa Giêsu. Tán dương những vinh
quang và nhân đức của ngài. Sự sùng kính thánh Giuse trong Giáo hội bắt đầu
thăng tiến từ đó.
Thánh Bênađô chưa đạt tới mức độ giáo thuyết về thánh Giuse như ta ngày nay.
Chức vị làm chồng, làm cha của thánh Giuse, đối với ông, xem ra có tính cách tạm
thời và hữu danh hơn là hữu thực. nhưng điều đó không lạ gì, vì là buổi sơ khai.
“Maria đã đính hôn với một người tên là Giuse”
(Lc 1,26). Luca nêu tên người đó, nhưng không gọi là chồng, dường như chỉ muốn
nói đến một người nhân đức.
Còn Mathêu thì nói rõ người đó là chồng Đức Maria. Điều này hợp lý, vì phải xưng
ông bằng tước hiệu thuộc về ông, phải gọi ông là chồng của Maria, bởi lẽ cần cho
người ta tin như vậy.
Cũng một lẽ đó, Giuse đáng gọi là cha Chúa Cứu Thế,
mặc dầu thực sự không phải vậy, hầu cho người ta tin ông là cha Ngài, như Phúc
Âm đã chép: “Chúa Giêsu khởi đầu công vụ vào
trạc ba mươi tuổi, và người ta tưởng Ngài là con của Giuse”
(Lc 3,23).
Thực ra, ông không phải là chồng của Mẹ, cũng không phải là bố của Con. Nhưng là
sự an bài cần thiết, ông được gọi là chồng, là cha trong một thời gian, và được
người ta nhìn nhận như vậy.
Hẳn Giuse, hôn phu của Đức Maria, là một người lương
hảo, trung thành, hay nói đúng hơn
là “một tôi
tớ trung thành khôn ngoan” Chúa đã đặt bên
cạnh Đức Maria để làm Đấng an ủi Mẹ, là cha nuôi nấng Con, và trung thành cộng
tác vào công cuộc lớn lao của Chúa.
(Trích dịch bài giảng: “Maria và Giuse” phần 3.)
Thánh Bênađô tóm kết các giáo phụ đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta những truyền
thống quý báu, những chỉ dẫn căn bản và nền tảng dẫn đến một suy tư về thánh
Giuse mà chúng ta có thể triển khai:
-
Những lý do tiền định về cuộc hôn nhân giữa thánh Giuse và Đức Maria và tính
Dưỡng phụ của ngài với Chúa Giêsu.
-
Đồng trinh trọn vẹn của Đức Maria và hoàn toàn không có yếu tố đàn ông trong
việc thụ thai Đức Giêsu.
-
Giuse hoàn toàn tin vào truyền thống tiên tri và lời loan báo của Thiên sứ tỏ lộ
cho ngài về ý muốn của Thiên Chúa.
-
Sự dấn thân của thánh Giuse trong kế
hoạch
mầu nhiệm của việc nhập thể và của ơn cứu độ.
Và sau này, thánh Tôma Aquinô nói thêm:
-
“Khi Thiên Chúa kêu gọi một tạo vật đóng vai trò đặc biệt,
Ngài
sắp xếp cho người ấy được những ân điển và ân sủng cần thiết để hoàn thành sứ vụ
đó” (Somme théol. IIIa, Q27, art.4).