Sinh Hoạt Sống Đạo 2021
Phan Tấn Thành
Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, trong các tín biểu
(Kinh Tin kính), Giáo hội đã tuyên xưng chân lý đức tin về đức
Maria thụ thai Chúa Giêsu do quyền năng Thánh Thần, và thực sự là thân mẫu
của Con Thiên Chúa nhập thể (công đồng Êphêsô năm 431). Những chân lý này
nằm trong truyền thống các thánh tông đồ. Vào thời cận đại, huấn quyền đã
tuyên bố tín điều đức Maria vô nhiễm nguyên tội (1854) và hồn xác lên trời
(1950).
Tuy nhiên Huấn quyền không tuyên bố tín điều nào về
thánh Giuse, tuy một cách gián tiếp, thánh nhân được nhắc tới trong tín điều
về Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần, và tín điều về Đức
Maria trọn đời đồng trinh.
Huấn quyền giữ thái độ im lặng đối với thánh Giuse mãi đến những thế kỷ gần
đầy khi thánh nhân được suy tôn làm Đấng Bảo trợ của Hội thánh[1],
bắt đầu từ đức thánh cha Piô IX. Trước tiên, chúng ta sẽ điểm qua những văn
kiện chính, sau đó chúng ta sẽ dừng lại phân tích tông huấn Redemptoris
Custos.
I. Những văn kiện của Huấn
quyền cận đại về thánh Giuse
1/ Đức
Piô IX (1846-1878)
– Sắc lệnh của bộ Nghi
lễ Inclytus
Patriarcha Joseph (10/9/1847), mở
rộng ra toàn thể Giáo hội lễ kính thánh Giuse bảo trợ (trước đây đã được cử
hành tại vài địa phương và dòng tu), được cử hành vào thứ Tư tuần thứ ba sau
lễ Phục sinh. Đây là lần đầu tiên, một văn kiện Toà thánh trình bày những
nguyên tắc thần học về thánh Giuse.
–
Sắc lệnh Quemadmodum
Deus (8/12/1870)
tuyên bố thánh Giuse bảo trợ Hội thánh, đáp lại lời thỉnh cầu của công
đồng Vaticanô I[2].
Tổ phụ Giuse trong Cựu ước là hình ảnh của thánh Giuse, được đặt lên làm
quản trị tài sản hoàng gia và phân phát lương thực; Thiên Chúa cũng trao cho
thánh Giuse việc chăm sóc những nhu cầu của Hội thánh.
2/ Đức
Lêô XIII (1878-1903)
– Quan trọng nhất là
Thông điệp Quamquam
pluries (15/8/1889). Trình bày những
lý do vì sao Giáo hội nhận thánh Giuse làm bảo trợ. Lý do thứ nhất bởi vì
thánh nhân được chia sẻ vào những ân huệ và phẩm giá của đức Maria, nhờ mối
dây hôn nhân. Lý do thứ hai là bởi vì mối tương quan hiền phụ với Chúa
Giêsu: thánh nhân luôn luôn được Chúa Giêsu tỏ lòng tôn kính vâng phục. Lý
do thứ ba là những đức tính của thánh Giuse trong việc chu toàn trách nhiệm
với Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Người vẫn tiếp tục vai trò bảo vệ Thánh gia được
nối dài nơi Hội thánh. Tất cả mọi tầng lớp xã hội đều có thể chạy đến thánh
Giuse: các gia trưởng, các đôi bạn, các người trinh khiết, các giới thượng
lưu cũng như giới lao động. Thông điệp kèm theo kinh khẩn cầu thánh
Giuse che chở Hội thánh, được đọc trong tháng Mười cùng với kinh Mân côi.
– Tông thư Neminem
fugit (14/6/1892) thiết lập hiệp hội
các gia đình được dâng hiến cho Thánh Gia.
3/ Đức
Piô X (1901-1914)
Lòng tôn kính thánh Giuse của vị giáo hoàng này phần
nào bắt nguồn từ tên riêng của mình (Giuseppe Sarto). Ngài phê chuẩn kinh
cầu thánh Giuse (18/3/1909).
4/ Đức
Bênêđictô XV (1914-1922)
– Phê chuẩn kinh Tiền tụng thánh Giuse trong Sách Lễ
Rôma (9/4/1919)
– Tự sắc Bonum
sane (25/7/1920), nhân dịp kỷ niệm 50
năm thánh Giuse được tôn phong Bảo trợ Hội thánh. Nhắc lại tầm quan
trọng của việc cầu khẩn thánh Giuse để đáp lại những nhu cầu của thế giới
sau thế chiến thứ nhất. Ngoài mẫu gương nhân đức cho giới lao động, thánh
Giuse còn được giới thiệu như là bảo trợ những người sắp qua đời.
5/ Đức
Piô XI (1922-1939)
– Huấn dụ ngày 19/3/1935,
nêu bật mối liên hệ của thánh Giuse với sự hiệp nhất ngôi vị (unio
hyposthatica) của Ngôi Lời nhập thể.
– Thông điệp Ad
sacerdotii catholici (20/12/1935) nói
đến Chúa Giêsu đã được đào tạo ở Nazareth bởi đức Maria và thánh Giuse, cả
hai người đều trinh khiết.
– Thông điệp Divini
Redemptoris (19/3/1937) trình bày
thánh Giuse như khuôn mẫu cho giới lao động.
6/ Đức
Piô XII (1939-1958)
Thiết lập lễ thánh Giuse lao động, và phê chuẩn
những bản văn phụng vụ dùng vào dịp lễ (ngày 1/5/1955). Lễ này thay thế lễ
thánh Giuse bảo trợ Hội thánh.
7/ Đức
Gioan XXIII (1958-1963)
Hơn một lần, ngài đã nhắc nhớ rằng Giuse là tên thứ
hai của mình (Angelo Giuseppe Roncalli). Hai sự kiện đáng ghi nhớ:
– Tông thư Le
voci triệu tập công đồng Vaticanô II
(19/3/1961) đặt công đồng dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Nhắc lại giáo
huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò của thánh Giuse đối với Giáo hội.
– Sắc lệnh Bộ Nghi lễ (13/11/1962), ghi tên thánh
Giuse vào Lễ quy Rôma.
8/ Đức
Phaolô VI (1963-1978)
Nhiều lần nói đến thánh Giuse trong các bài giảng
hay huấn từ nhân lễ kính thánh nhân ngày 19/3 và 1/5. Nổi tiếng là bài suy
niệm tại Nazareth (5/1/1964) nhân dịp hành hương kính viếng Thánh địa (được
trích dẫn trong bài đọc Giờ Kinh Sách lễ Thánh gia).
9/ Đức
Gioan Phaolô II (1978-2005)
– Nhiều lần đề cập đến thánh Giuse trong các bài
giảng nhân dịp lễ vào ngày 19 tháng 3, nêu bật vai trò của Người trong
chương trình cứu độ của Thiên Chúa (1982) và trong Hội thánh (năm 1993 và
2001 ; 26/3/2003), cũng như những nhân đức nổi vượt, tựa như tín thác
(1980), tin và cầu nguyện (1983). Thánh nhân cũng trở nên mẫu gương cho đời
sống gia đình (năm 1981, 1987, 1993, 1999).
– Thánh Giuse được nhắc
đến trong nhiều văn kiện: thông điệp Redemptor
hominis (4/3/1979) số 9; thông điệp Laborem
exercens (14/9/1981) số 26; tông
huấn Familiaris
consortio (22/11/1981) số 86; thông
điệp Dominum
et vivificantem (18/5/1986) số 18 và
49; thông điệp Redemptoris
mater (25/3/1987) khi ôn lại các biến
cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu; tông huấn Christifideles
laici (30/12/1988); tông huấn Vita
consecrata (25/3/1996) số 28.
–
Văn kiện quan trọng nhất là tông huấn Redemptoris
Custos sẽ
được trình bày dưới đây[3].
10/ Đức
Bênêđictô XVI (2005-2013)
Tên riêng là Joseph Ratzinger. Ngài đã dành
một suy niệm ngắn về thánh Giuse trong huấn từ chúa nhật thứ IV mùa Vọng năm
2005 (19/12) về sự thinh lặng, và nhân ngày lễ kính thánh nhân 19/3/2006.
11/ Đức
Phanxicô (với biểu tượng cây cam tùng
tượng trưng thánh Giuse khắc trên huy hiệu) khai mạc chức vụ giám mục Roma
vào lễ thánh Giuse với bài giảng nhấn mạnh đến vai trò chăm sóc (Chúa Giêsu,
Mẹ Maria, mọi người đặc biệt là người nghèo, vũ trụ). Tông thư Patris
corde (ngày 8/12/2020) kỷ niệm 150
năm thánh nhân được tôn phong làm bổn mạng toàn thể Hội thánh.
II. Tông huấn Redemptoris
Custos
Văn kiện quan trọng nhất
của Toà thánh từ sau công đồng Vaticanô II là tông huấn Redemptoris
custos của đức thánh cha Gioan
Phaolô II, được ban hành ngày 15/8/1989, để kỷ niệm 100 năm thông điệp Quamquam
pluries của đức thánh cha Lêô XIII
(15/8/1889). Chúng tôi xin giới thiệu những nét đại cương.
A. Chiều hướng: Chương
trình cứu độ
1/
Tựa đề của văn kiện này Redemptoris
Custos (Đấng
gìn giữ Chúa Cứu thế) gợi lên nhiều văn kiện khác của đức thánh cha Gioan
Phaolô II cũng mang danh từ “Redemptor”: thông điệp Redemptor
hominis (3/3/1979),
về Chúa Kitô ; thông điệp Redemptoris
Mater (25/3/1987)
về đức Maria ; rồi sau đó là thông điệp Redemptoris
Missio (7/12/1990)
về hoạt động truyền giáo[4].
2/ Phụ đề của tông huấn “về
dung mạo và sứ mạng của thánh Giuse trong cuộc đời của Chúa Giêsu và của Hội
thánh” xác định rõ hơn viễn tượng của
văn kiện này, đó là tìm hiểu vai trò của thánh Giuse trong kế hoạch cứu độ
được thực hiện nơi Đức Kitô và tiếp tục nơi Hội thánh.
3/
Những tư tưởng then chốt. Kế hoạch cứu độ nhân loại của Chúa Cha được thực
hiện qua mầu nhiệm Nhập thể và Vượt qua của đức Kitô. Mầu nhiệm Nhập thể là
nền tảng cho mầu nhiệm Vượt qua. Do sự gắn bó chặt chẽ của các mầu nhiệm đó
trong nhiệm cục cứu độ cho nên tuy thánh Giuse tham dự vào mầu nhiệm Nhập
thể hơn là mầu nhiệm Vượt qua nhưng Người cũng đáng được mang danh hiệu là
“Đấng gìn giữ Chúa Cứu thế” và “thừa tác viên của ơn cứu độ” (redemptoris
custos, minister salutis)[5].
Người đã cộng tác vào việc thực hiện mầu nhiệm Nhập thể bằng việc đảm
nhận chức vụ làm chồng của Đức Maria và cha của đức Giêsu. Nhằm chu toàn sứ
mạng đó, thánh Giuse đã được chuẩn bị tâm hồn với những nhân đức thích ứng,
cách riêng là yêu thương, tận tụy, chiêm niệm. Thánh Giuse vẫn còn tiếp tục
sứ mạng của mình trong Hội thánh. Mặt khác, Hội thánh cũng nhận thấy nơi
Người tấm gương trong việc thực thi cùng một sứ mạng là phục vụ nhiệm cục
cứu độ.
B. Bố cục
Tông huấn gồm nhập đề và
6 chương. Chương Một và Chương Hai có thể coi như một thứ “lectio
divina”, suy gẫm những đoạn văn Tân
ước bàn về thánh Giuse. Những chương kế tiếp đào sâu vài chủ đề về hôn nhân
gia đình (ch.3), lao động (ch.4), lắng nghe tiếng Chúa (ch.5).
Nhập đề (số
1): Giải thích lý do ban hành tông huấn
Chương Một:
Khung cảnh của Tin Mừng
Phân tích cảnh truyền tin của sứ thần (Mt 1,18-25),
khởi đầu của sứ mạng thánh Giuse: chồng của đức Maria thân mẫu của đức Giêsu
(số 2-3). So sánh với cảnh truyền tin cho đức Maria, chúng ta nhận thấy điểm
tương đồng là sự tuân phục lời Chúa bằng đức tin.
Chương Hai:
Người được ký thác mầu nhiệm của Thiên Chúa
Vai trò của thánh Giuse đối với Đức Maria và Chúa
Giêsu dựa theo các trình thuật Phúc âm (số 7-8), được ví như “hành trình đức
tin” (số 4-6), trải qua những chặng đường của Chúa Cứu thế: về Bêlem để kiểm
tra dân số (số 9), Chúa giáng sinh (số 10), cắt bì và đặt tên cho hài nhi
(số 11-12), dâng hài nhi vào đền thánh (số 13), lánh nạn sang Ai-cập (số
14), tìm lại hài nhi lạc trong đền thánh (số 15), trở về Nazareth (số 16).
Thánh Giuse hiện diện bên cạnh Chúa Cứu thế như một
kẻ phục vụ ơn cứu độ trong cương vị người làm cha.
Chương Ba:
Người công chính – vị hôn phu (số 17-21)
Chương này phân tích mối tương quan của thánh Giuse
với đức Maria. Hôn nhân giữa hai vị làm nổi bật yếu tính của hôn nhân là “ý
hợp tâm đầu” (liên kết tinh thần hoặc liên kết tâm hồn).
Chương Bốn:
Lao động, biểu hiện của tình yêu
Ý nghĩa của lao động như là biểu hiện của tình yêu
và phương tiện nên thánh: thánh Giuse trở nên mẫu gương cho những người làm
môn đệ Chúa qua công việc thầm lặng thường nhật (số 22-24).
Chương Năm.
Ưu tiên của đời sống nội tâm
Giữa công việc hàng ngày, thánh Giuse vẫn duy trì
được sự thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Người trở nên gương mẫu của đời
nội tâm (số 25-27), như thánh Têrêsa Avila đã lưu ý.
Chương Sáu.
Đấng Bảo trợ Hội thánh thời nay
Vào buổi khó khăn của thời cận đại, các đức Giáo
hoàng Piô IX, Lêo XIII, Phaolô VI đã xin thánh Giuse bảo trợ Giáo hội. Thánh
nhân luôn là kẻ che chở Hội thánh trong công cuộc truyền giảng Tin mừng.
C. Nhận xét về những nguồn
dữ liệu
Những suy tư của tông huấn dựa trên những dữ kiện
của Thánh Kinh và Thánh Truyền được trưng dẫn nhiều lần.
1/ Kinh thánh
– Nói chung: trưng dẫn minh thị 80 lần trong bản
văn, 4 lần gián tiếp trong các chú dẫn
– Cựu ước: 2 lần minh thị: St 17,13 (số 11, đối
chiếu giao ước với Abraham và giao ước mới của Đức Kitô); Hs 11,1 (số
14, lấy lại của Mt 2,14-15); 2 lần ám tàng: St 3,1-24 (Đối chiếu Adam – Eva
với Maria – Giuse, ở số 7); tổ phụ Giuse (chú dẫn số 4).
– Tân ước: Nhiều nhất là Luca (30 lần) và Matthêu
(21 lần). Các tác phẩm khác: Ep (6 lần), Rm (4 lần), Cv (2 lần), Dt (2 lần),
1 Cr (2 lần) 2 Cr (2 lần), Gl – Pl – 1 Pr – 2 Pr (1 lần).
Các bản văn Phúc âm được trích dẫn nhiều hơn cả ở
chương Hai (30 lần), chương Một (12 lần), chương Ba (11 lần), chương Sáu (3
lần), chương Năm (2 lần), chương Bốn (1 lần).
2/ Giáo phụ và Tiến sĩ
– Thánh Augustinô 9 lần ở số 7 liên quan đến hôn
nhân của Đức Mẹ và thánh Giuse.
– Origène: 2 lần ở số 8 và 9 (nota 27 ; 28).
– Thánh Irênêô và thánh Gioan kim khẩu được trưng
dẫn gián tiếp ở số 1 (nota 1+ 4).
–
Thánh Tôma Aquinô (được trưng dẫn 4 lần)[6].
Đaọ lý của vị này được coi như tổng hợp của truyền thống Kitô giáo về các
chân lý căn bản liên can đến hôn nhân giữa thánh Giuse và đức Maria (nota
15, Summa
Theologica III,
q.29, a.2), kèm theo các tác phẩm của thánh Augustinô. Đặc biệt ở chương
Năm, “Ưu tiên của đời sống nội tâm”, thánh Tôma được trưng dẫn 3 lần (nota
38, 39, 41), để trình bày:
a/ khái niệm về
lòng đạo đức (devotio:
II-II, q.83, a.3, ad 2m), hệ tại tâm tình sẵn sàng phục vụ Chúa;
b/ sự tiếp xúc với nhân tính đức Kitô dẫn đưa tới sự
kết hiệp với thiên tính (III, q.8, a.1, ad 1m);
c/ sự hài hòa giữa
lòng yêu mến chân lý (caritas
veritatis) với đòi hỏi của lòng yêu
mến (necessitas
caritatis), được thánh Tôma đề cập ở
II-II, q.182, a.1, ad 3m.
3/ Phụng vụ
– Lịch sử các lễ kính thánh Giuse: (số 6 ; 16 ; 21 ;
22 ; 29).
– Bản văn phụng vụ lễ kính thánh Giuse và lễ ngoại
lịch: (số 8 ; 31).
– Bản văn lễ Đức Mẹ (mầu nhiệm Nazareth): số 20
4/ Huấn quyền
Tông thư trích dẫn các
văn kiện của công đồng Vaticanô II (Lumen
Gentium, Dei
Verbum), của các giáo hoàng tiền
nhiệm, hoặc những văn bản chính thức (thông điệp Quamquam
pluries, sắc lệnh Quemadmodum
Deus) hoặc những huấn từ, bài giảng
(của đức Piô XII nota 26; Gioan XXIII nota 35; Phaolô VI, nota 16, 22, 36,
47), và kể cả vài văn kiện của chính đức Gioan Phaolô II.
Dù sao, nên lưu ý là tông thư không hề nhắc tới các
lưu truyền từ các ngụy thư, lại càng không trích dẫn các thứ “mạc khải tư”.
—————————-
[1] B.
Burkey, Pontificia
Josephina. Documents of the Holy See concerning St Joseph and his Cultus,
in: Cahiers de Joséphologie, vol. X (1962)
[2] Các
nghị phụ đã trình hai thỉnh nguyện (postulatum),
một mang chữ ký của 153 giám mục, một mang chữ ký của 43 bề trên tổng quyền
Dòng tu. Cũng nên biết là cha Marie Jean Joseph Lataste O.P. (1832-1869), –
vị sáng lập Dòng các nữ tu Béthanie chuyên về mục vụ các thiếu nữ lạc
đường-, đã tình nguyện hiến dâng mạng sống để xin đức giáo hoàng Piô IX tôn
phong thánh Giuse làm quan thầy Hội thánh. Lúc ấy bề trên tổng quyền của
Dòng là cha A.J. Jandel. Cha có ký thỉnh nguyện lên công đồng cùng với các
nghị phụ, nhưng không biết đến sáng kiến của cha Lataste. Mãi sau này cha
Jandel mới được Đức Thánh Cha thông tri. T. M. Sparks, Devotion
to St. Joseph in the Dominican Family in the 19th century,
in: Cahiers de Joséphologie 43 (1995) p.290
[3]
Trong sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, chúng ta gặp thấy nhiều nhân vật
mang tên Giuse: tổ phụ Giuse trong Cựu ước (số 312), ông Giuse người
anh em họ với Chúa Giêsu (số 500), ông Giuse Aritmatêa (số 595). Thánh Giuse
được nói đến trong phần Một, về mầu nhiệm Nhập thể: khi nói đến danh tánh
Giêsu (437; 1846); trong cảnh thiên sứ truyền tin cho đức Maria (số 488) và
cho thánh Giuse (số 497; khi nói về cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu (số 534;
564), cảnh tìm lại trong đền thờ (534). Thánh Giuse cũng được nhắc đến
như bằng chứng của việc Chúa Giêsu tuân giữ luật Môsê. Trong phần II, khi
nói đến bí tích hôn nhân, mẫu gương thánh gia được đề cao như Giáo hội gia
thất (số 1655).. Sách Giáo lý nhắc đến lễ thánh Giuse được kể vào số
các lễ buộc (số 2177).
[4] Lưu
ý: từ ngữ ?Cứu
đo?
trong tiếng Việt dùng để dịch hai từ ngữ khác nhau trong tiếng Latinh: 1/ Salvator (Pháp:
Sauveur; Anh: Saviour); 2/ Redemptor (Pháp:
Rédempteur; Anh: Redeemer). Từ thứ nhất (salvare)
nói lên sự ?cứu? khỏi cơn lâm nguy; từ thứ hai (redimere)
gợi lên ý tưởng ?chuộc? (mua lại).
[5] Redemptoris
Custos:
kẻ giữ gìn (hộ thủ) Đấng Cứu thế. Minister
salutis:
người thừa tác (phục vụ) ơn cứu độ (xc. số 8). Diễn ngữ này đã được thánh
Gioan Kim Khẩu sử dụng.
[6]Tarcisio
Stramare, La
presenza di san Tommaso nell’esortazione apostolica Redemptoris
Custos ,
in: AA. VV. S.
Tommaso Teologo,
Libreria ed. Vaticana 1995 (Studi Tomistici, vol.59), p.310-319. Fernando
Soria Heredia, Presencia
de Santo Tomás en la Redemptoris Custos,
in: Estudios Josefinos 44 (1990), 195-203.
Nguồn tin: catechesis.net