SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Chay Tuần III Năm C 2022
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Xh 3, 1-8a. 13-15

"Ðấng hiện hữu sai tôi đến với anh em".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Môsê nói: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không bị thiêu rụi".

Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: "Môsê! Môsê!" Ông thưa: "Dạ con đây!" Chúa nói: "Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh". Chúa lại nói: "Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp". Môsê che mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật".

Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: "Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: "Tên Người là gì?", con sẽ nói sao với họ?" Thiên Chúa nói với Môsê: "Ta là Ðấng Tự Hữu". Chúa nói: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: "Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em".

Thiên Chúa lại nói với Môsê: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: "Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em". Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 6-7. 8 và 11

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.

2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.

3) Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Ðáp.

4) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12

"Ðời sống dân chúng đối với Môsê trong hoang địa được viết ra để răn bảo chúng ta".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa.

Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt. Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng. Thế nên, ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Này là lúc thuận tiện, này là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 13, 1-9

"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".

Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

Hôm nay, Chúa Nhật Tuần thứ ba Mùa Chay. Phụng Vụ Lời Chúa hướng về lòng thương xót của vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, luôn trung thành với dự án cứu độ của mình và tìm hết cách để cứu độ con người cho bằng được, cho dù có phải chịu đựng lỗi lầm của họ nhưng vẫn thương cảm và nhẫn nại đợi chờ họ.

Thật vậy, ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy một mạc khải thần linh về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, luôn trung thành với dự án cứu độ của Ngài, do chính Ngài tỏ mình ra cho chúng ta biết nơi tên của Ngài được Ngài lần đầu tiên cho nhân loại biết qua Moisen ở một cuộc thần hiển (theophany).

Chính cuộc thần hiển cũng đã nói lên đích danh của Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, vị Thiên Chúa minh nhiên tự xưng tên của Ngài "Ta là Ta / I am who am", hay "Ta là Đấng Có" hoặc "Ta là Hiện Hữu". Tức Thiên Chúa là Đấng Tự mình mà Có - Tự Hữu, luôn luôn Có hay lúc nào cũng Có - Hiện Hữu, Có một cách vĩnh viễn, không bao giờ cùng - Hằng Hữu, cho dù con người có qua đi, vì con người là loài tạo vật sống trong thời gian và không gian không thể tồn tại như Thiên Chúa, và Có một cách hoàn hảo viên mãn - Toàn Hữu.

Đó là lý do cũng trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngài còn có một tên phụ, hay biệt danh nữa, hoàn toàn phản ảnh tên chính của Ngài hay tên gọi của Ngài, có thể nói đó là tên họ của Ngài, vì tên họ là tên bao giờ cũng liên quan đến giòng họ, đến người khác, và ở đây tên họ này của Thiên Chúa trực tiếp liên quan đến loài người tạo vật: "'Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em'. Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ".

Chính tên thật của Thiên Chúa: "Ta là Ta", "là Có, "là Hiện Hữu", được phụ họa bởi tên họ của Ngài "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp", đã được chính Thiên Chúa, trước khi diễn tả bằng ngôn từ của loài người như thế, đã được Ngài tỏ ra bằng một hiện tượng "bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi" xẩy ra ở khu vực "núi Horeb là núi của Thiên Chúa". 

Hiện tượng thần hiển (theophany) "bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi" này có ít là 3 ý nghĩa có thể suy diễn như sau: 

1-2. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi (1) và Mầu Nhiệm Chúa Kitô (2): "bụi gai" ám chỉ chính Chúa Kitô, nhân tính của Chúa Kitô và cuộc khổ nạn của Chúa Kitô; "bốc lửa mà không bị thiêu rụi" - "lửaám chỉ Thánh Linh và thần tính của Chúa Kitô, "không bị thiêu rụi" ám chỉ cuộc phục sinh của Người bởi quyền phép Thánh Linh (xem Roma 8:11); Thiên Chúa Ngôi Cha chính là tiếng nói "từ giữa bụi gai gọi ông", một nhân vật trở thành tiền thân về một vị tiên tri như ông và đến sau ông là Chúa Kitô, như đã được ông tiên báo cùng dân Do Thái trước khi ông qua đời (Đệ Nhị Luật 18:5).

3. Mầu nhiệm Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái: dân tộc Do Thái chẳng khác nào như một "bụi gai", ám chỉ tội lỗi của họ và thử thách đức tin của họ, thế nhưng dân tộc Do Thái là một "bụi gai bốc lửa", ở chỗ họ càng tội lỗi và bất trung phản bội họ càng thấy được tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa đối với họ, hay nói cách khác, Tình Yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa càng có dịp được sáng tỏ nơi tội lỗi bất trung của họ, chẳng những khiến họ nhận biết Ngài mà còn cả dân ngoại cũng nhận biết Ngài qua họ nữa.

Ngài chẳng những không tiêu diệt họ bởi tội lỗi kinh khủng của họ, nhờ đó họ mới "không bị thiêu rụi": "bụi gai bốc lửa, nhưng không bị thiêu rụi"Ít là 2 lần Ngài đã tỏ tường tuyên bố ý định Ngài muốn tận diệt họ: lần đầu khi họ thờ bò vàng (xem Xuất Hành đoạn 32), và lần thứ hai sau khi các thám tử của họ dò thám Đất Hứa trở về (xem Dân Số đoạn 14), mà trái lại, Ngài còn có thể bất chấp mọi sự bất lợi nơi họ để hoàn tất trọn vẹn, một cách vô cùng khôn ngoan và toàn năng, "dưới đất cũng như trên trời" tất cả những gì Ngài hứa với họ, đúng như giao ước Ngài đã tự động ký kết với tổ phụ họ là Abraham, Isaac và Giacóp.

Đó là lý do trong lệnh sai đi của Ngài truyền cho Moisen bấy giờ, Thiên Chúa đã nhân danh Ngài là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa "là hiện hữu" luôn ở cùng dân Do Thái ngay từ ban đầu, Vị "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp", kéo dài qua ba đời tượng trưng cho những gì là tính cách vĩnh viễn Ngài muốn ở với dân tộc được Ngài tuyển chọn. Lệnh sai đi của Ngài, bao gồm chẳng những ý nghĩa nhân danh Ngài mà còn lấy danh dự của Ngài mà bảo đảm cho sứ vụ của Moisen là môi giới trung gian của Ngài nữa, như sau:

"Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: 'Ðấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em'.... 'Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em'".

Trước tình yêu vô cùng nhân hậu mà Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình tỏ ra như thế, bất chấp mọi tội lỗi bất trung của mình, dân Do Thái, nếu thực sự cảm nhận được Ngài, không thể nào không có một cảm nghiệm thần linh như thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. 

2) Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. 

3) Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. 

4) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. 

Bài Đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại cũng nhắc nhở cho các Kitô hữu Do Thái ở Giáo đoàn Corintô trong Thư Thứ Nhất của ngài về việc Thiên Chúa luôn ở bên chăm sóc cho dân của họ trong Cựu Ước, bao gồm cả những người sống bất xứng với tình yêu của Thiên Chúa:

"Anh em thân mến, tôi không muốn để anh em không hay biết điều này, là tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây, đi ngang qua biển và tất cả nhờ Môsê mà được thanh tẩy, dưới áng mây và trong lòng biển; tất cả đã ăn cùng một thức ăn thiêng liêng, và uống cùng một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng đi theo họ: tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Chúa, vì họ đã bị gục ngã trong hoang địa".

Những người anh chị em "đã bị gục ngã trong hoang địa" đây vì đã "không sống đẹp lòng Chúa" ở chỗ nào, cũng được Thánh Phaolô cho biết rõ hơn như thế này: "Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như những người đó đã chiều theo. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm, và đã vong mạng bởi tay một sứ thần huỷ diệt". 

Thánh Phaolô chẳng những đã kêu gọi Kitô hữu Do Thái đừng noi gương bắt chước thành phần tội lỗi bất xứng trong Cựu Ước ấy, như được Thánh Kinh Cựu Ước cho thấy: "Những việc đó đã xảy đến cho họ để làm gương, và đã được ghi chép để răn bảo chúng ta là những người đang sống trong thời đại cuối cùng", mà còn hướng về tương lai, ở chỗ cảnh giác thành phần tưởng mình không giống như những trường hợp của người xưa, sống khá hơn những cha ông của họ: "ai tưởng mình đang đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã". 

Tại sao thế? Tại vì mỗi thời có một hoàn cảnh riêng, một bối cảnh lịch sử khác nhau. Người xưa đã sống bất xứng trong bối cảnh lịch sử của thời của họ, vào thời của Thánh Phaolô, thời Tân Ước, bối cảnh lịch sử lại khác, với những cám dỗ khác, những thử thách khác, nhất là những cám dỗ và thử thách ở vào một thời điểm rất nguy hiểm, được Thánh Phaolô nói đến trong Bài Đọc 2, đó là "thời đại cuối cùng", một thời điểm đầy những tiên tri giả và kitô giả.

Chính Chúa Kitô, trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng đã cảnh báo cho "những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh" rằng: 

"Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy".

Trong câu Chúa Giêsu cảnh giác về hoạn nạn khốn khổ trên đây có thể vừa là hậu quả của tội lỗi vừa không là hậu quả của tội lỗi, tùy theo từng trường hợp. 

Gian nan khốn khổ không là hậu quả của tội lỗi, như 2 trường hợp được Chúa Giêsu kể đến trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là trường hợp của "mấy người xứ Galilê bị ngược đãi" bởi "quan Philatô" và trường hợp "mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết", và là 2 trường hợp Người đã khẳng định rằng: "không phải thế", không phải "là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê", không phải họ "tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem".

Tất nhiên, ở đây không ai chối cãi được rằng đã là người đều là tội nhân, và chính đau khổ họ chịu trên đời là hậu quả của tội lỗi, dù là một thai nhi vô tội bị mẹ sát hại ngay trong bụng bà. Thế nhưng, "vô tội" ở đây theo nghĩa tương đối, áp dụng cho thành phần ít tội hay ngây thơ vô tội, chẳng hạn thành phần ở làng mạc quê mùa chất phác, phạm tội mà không biết, không phải vì họ đã cứng lòng hay mất hết ý thức tội lỗi, như những người khôn ngoan thông thái và văn minh tân tiến đồng thời.

Thật vậy, thực tế cho thấy, những tai ương hoạn nạn về thiên tai, như động đất, hay xẩy ra ở Ấn Độ hay A Phú Hãn v.v., thậm chí cả nhân tai như chiến tranh cũng thế, thường xẩy ra ở những vùng hẻo lánh, những vùng nghèo nàn, chứ ít khi xẩy ra ở những vùng ăn chơi tội lỗi. Như thế, phần đông và đa số nạn nhân của thiên tai và nhân tai là thành phần nạn nhân "vô tội" hay "ít tội" hoặc "nhẹ tội" hơn thánh phần văn minh hưởng thụ. 

Dường như Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Thần Linh làm chủ lịch sử này cố ý muốn để xẩy ra như thế, theo lòng thương xót của Ngài để cứu cả kẻ lành lẫn người dữ nhờ người lành, qua những tai họa và khốn khó người lành hay "vô tội" chịu trên đời này, hợp với giá cứu chuộc vô giá của Con Thiên Chúa. 

Đúng vậy, chính vì thành phần nạn nhân "vô tội", hay "ít tội" hoặc "nhẹ tội", ở một nghĩa nào đó, mới có giá trị "đền tội" thay cho những người anh chị em ăn chơi tội lỗi của họ, như chính thân phận của Con Thiên Chúa làm người, một Người Tôi Tớ của Thiên Chúa được Tiên Tri Isaia (53:11b-12) diễn tả như sau:

"Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi".

 

Ở đây, Lời Chúa qua miệng Tiên Tri Isaia trên đây về một Đấng Thiên Sai tương lai, mà thành phần nạn nhân "vô tội" trong giòng lịch sử loài người phản ảnh Người, đã cho chúng ta thấy hiện lên ý nghĩa của chủ đề cho chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17).

 

Nếu đối với thành phần nạn nhân "vô tội" phải chịu đựng những hoạn nạn khốn khó gây ra bởi thiên tai và nhân tai có thể nói là cái giá họ phải trả cho anh chị em tội lỗi "cần đến lòng thương xót Chúa hơn" của họ, hơn là cho chính họ, thì thành phần nạn nhân "vô tội" này, hay chính hoạn nạn khốn khổ họ chịu, còn có tính cách cảnh báo hay cảnh tỉnh thành phần "tội lỗI" đáng trừng phạt, bằng không, không chịu ăn năn thống hối, thì những hoạn nạn khốn khổ như thế hay hơn thế sẽ trở thành hình phạt giáng xuống trên những ai tội lỗi không chịu ăn năn thống hối, đúng như lời Chúa Giêsu cảnh báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy".

Thực tế đã quả thực cho thấy như vậy, thành phần ở những nơi an toàn nhất, nhưng ăn chơi và có thể nói là sa đọa về luân lý nhất, cứ coi thường biết bao nhiêu là cảnh báo của Thiên Chúa trước những tai ương hoạn nạn gây ra cho thành phần nạn nhân vô tội, chẳng hạn các thai nhi bị hủy hoại ngay trong lòng mẹ, nên những nơi như New York đã không ngờ bị khủng bố tấn công ngày 11/9/2001 ngay giữa thanh thiên bạch nhật, hay Paris ngày 13/11/2015 cũng thế v.v.

Dầu sao, New York và Paris cũng là những dấu cảnh báo cho toàn thế giới biết rằng tội lỗi của con người đã lên tới mức nguy hiểm, nếu không ăn năn thống hối, chắc chắn những gì đã được tiết lộ ở Bí Mật Fatima phần thứ ba và được Giáo Hội công bố ngày 26/6/2000 sẽ được ứng nghiệm, như nó đang được ứng nghiệm từng ly từng tí từ thế kỷ 20 sau Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917 đến nay.

Thời gian 100 năm của chiếc Tầu Noe trong trận hồng thủy ngày xưa (xem Khởi Nguyên 5:32 và 7:6), dường như am hợp với biến cố Thánh Mẫu Fatima 1917 (vừa qua 100 năm) là biến cố mà tất cả Bí Mật Fatima là "Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria", một Trái Tim "là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa" (Lời Mẹ ngày 13/6/1917), một Trái Tim chính Thiên Chúa "đã muốn thiết lập trên thế giới" để nhờ đó "thế giới có hòa bình và nhiều linh hồn được cứu rỗi" (Lời Mẹ ngày 13/7/1917). Tình hình lịch sử thế giới sau 100 năm biến cố Thánh Mẫu Fatima dường như càng căng thẳng đến rùng rợn, ở cả Trung Đông lẫn Biển Đông thuộc Á Châu, và ở cả Âu Châu lẫn Phi Châu và Mỹ Châu, liên quan đến cả chính trị và quân sự, kinh tế và xã hội v.v., nhất là ở Đông Âu từ ngày 24/2/2022 đến nay, nơi cuộc xâm chiếm trắng trợn của đại cường Nga muốn ăn tươi nuốt sống dân nước Ukraine một cách vô cùng gian ác mà vẫn chưa được (ít là cho đến hôm nay, Chúa Nhật III Mùa Chay 20/2/2022), như thể thế chiến thứ 3 có thể bùng nổ bất cứ lúc nào và sắp bùng nổ đến nơi rồi vậy, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực sự công khai và chính thức nói mấy lần là đã đang diễn ra thế chiến thứ ba ở từng vùng nhiều nơi trên thế giới hiện nay.

Cho dù hoạn nạn khốn khổ gây ra bởi thiên tai hay nhân tai, cho thành phần "vô tội" hay "tội lỗi" thì tựu kỳ trung ý muốn tối hậu của Vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân ái cũng chỉ muốn cứu độ con người tạo vật đáng thương của mình mà thôi, nhất là thành phần kẻ dữ, thành phần tội lỗi, thành phần tự bản chất, dù họ nhìn nhận hay không, là bệnh nhân, là các kẻ bị tật nguyền, cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn, thành phần chiên lạc mà Con Thiên Chúa đến để "tìm kiếm và cứu vớt" (Luca 19:10).

 Do đó, Người vẫn nhẫn nại tìm kiếm họ, cho dù cuộc đời họ cứ sống bê bối, chẳng sinh hoa trái gì như Ngài mong muốn, đến độ, theo tính toán trần gian, chỉ đáng chặt bỏ cho xong, cho có lợi hơn, thế mà Ngài vẫn nhẫn nại đợi chờ, khi còn thời gian, đúng như phần cuối của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:

"Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: 'Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!' Nhưng anh ta đáp rằng: 'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'".

Nếu "Người trồng một vây vả" đây là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên từng người một theo hình ảnh thần linh của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27), và "cây vả" đây là từng con người được Thiên Chúa dựng nên trên trần gian này, thì "người làm vườn" đây là thành phần ngôn sứ của Thiên Chúa, thành phần thừa tác viên của Chúa Kitô, thành phần thay Người chăm lo lợi ích thiêng liêng cho những ai được trao phó cho các vị.

Tuy nhiên, thành phần thừa tác viên phục vụ mầu nhiệm thánh của Người phải làm sao phải trở thành hiện thân và chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa và cho Lòng Thương Xót Chúa mới xứng hợp với sứ vụ của mình, như thái độ của "người làm vườn" trong bài Phúc Âm hôm nay, một con người biết tỏ ra quí cây vả vô bổ như là của mình, dù chính yếu là của ông chủ, biết bênh đỡ cây vả đáng bị đốn đi, lấy chính thế giá của mình ra mà hứa thay cho cây vả, và nhất là tin tưởng cây vả, rồi tìm hết cách để làm cho nó từ tình trạng tàn héo trở thành tốt tươi như lòng mong muốn của chủ, như một Moisen đã xin Thiên Chúa đừng tru diệt dân Do Thái 2 lần (xem Xuất Hành đoạn 32 và xem Dân Số đoạn 14), thậm chí đã dám hy sinh cả tên của mình trong sổ sự sống để cứu lấy đám dân quá hư đốn đáng trừng phạt của mình (xem Xuất Hành 32:31-32).

Trong Kinh Năm Thánh Tình Thương của Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng đã mở Năm Thánh Ngoại Lệ về Tình Thương này (8/12/2015 - 20/11/2016), một trong những ý nguyện chính cần nguyện cầu, hay một trong những thành phần cần cầu nguyện cho đó là chính Giáo Hội nói chung và thành phần thừa tác viên thánh vụ của Giáo Hội nói riêng:

"Chúa là dung nhan hữu hình của Chúa Cha vô hình, của Vị Thiên Chúa tỏ hiện quyền năng của Ngài ra trên hết ở nơi việc tha thứ và tình thương: Xin cho Giáo Hội trở thành dung nhan hữu hình của Chúa là Chúa phục sinh vinh hiển của mình trên thế giới này. Chúa muốn rằng các thừa tác viên của Chúa cũng mặc lấy tính chất yếu hèn để các vị có thể cảm thương những ai vô thức và lỗi lầm: Chớ gì hết mọi ngưòi đến với các vị đều cảm thấy được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ".


Thánh Thi Giờ Kinh Phụng Vụ Buổi Trưa trong Mùa Chay

 

Trưa hôm ấy chịu khổ hình thập tự

Chúa kêu rằng "khát nước", thảm sầu thay!

Xin cho con ca tụng Chúa giờ này

Biết khát vọng ơn Ngài công chính hóa.

 

Ôi lạy Chúa, con thấy mình đói lả

Chỉ có Ngài làm no thỏa được thôi,

Tội lỗi xưa, con hối hận lắm rồi

Chỉ ao ước trở nên người đức hạnh.

 

Vừa ngâm ngợi vừa đợi trông ơn thánh

Nguồn mạch Thánh Linh đổ xuống tràn trề

Cho xác thịt này dịu lửa đam mê

Còn tâm trí lạnh lùng mau ấm lại.

 

Con phủ phục xin Ba Ngôi từ ái

Là Chúa Cha, Thánh Tử với Thánh Thần

Tự cõi trời thương mở lượng khoan nhân

Ban hồng phúc như lòng con cầu khẩn.

 

 

 

Biệt chú:

Phụng Vụ Lời Chúa cho 3 cuối cùng của Mùa Chay: Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay, Chu kỳ Phụng vụ Năm B và Năm C có thể được thay thế  toàn bộ bằng phụng vụ Lời Chúa của Chu kỳ Phụng vụ Năm A, vì các bài đọc của Chu kỳ Phụng vụ Năm A được Giáo Hội cố ý chọn đọc hợp với tiến trình dọn mình lãnh nhận Phép Rửa của anh chị em dự tòng vào Lễ Đêm Phục Sinh. Chính yếu là 3 bài Phúc Âm của Chu kỳ Phụng vụ Năm A này hoàn toàn không theo Thánh Mathêu như thường lệ mà là theo Thánh Gioan, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật 3 về Người Đàn Bà Samaritanô tội lỗi nhận biết Đấng Thiên Sai ở đoạn 4:1-42, Bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 về người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt ở đoạn 9:1-12, và Bài Phúc Âm Chúa Nhật 5 về Lazarô được hồi sinh ở đoạn 11:1-25.

 

 

Bài Ðọc I: Xh 17, 3-7

"Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống".

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: "Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". Môsê kêu lên cùng Chúa rằng: "Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi". Chúa liền phán bảo Môsê: "Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là "Thử Thách", vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng: "Chúa có ở với chúng tôi hay không?"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c. 8)

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! - Ðáp.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 5, 1-2. 5-8

"Lòng mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 4, 42 và 15

Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu chuộc thế gian; xin ban cho con nước hằng sống, để con không còn khát nữa.

 

Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài)

"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.

Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".

Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"

Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó".

Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".

Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".

Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".

Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".

Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Ga 4, 5-15. 19b-26. 39a. 40-42

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.

Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Samaria).

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".

Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"

Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa".

Và người đàn bà nói với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem". Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".

Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".

Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for jn 4, 5-42


Suy niệm

 

 

Từ một tội nhân lẻ loi cô độc đột nhiên biến thành một ngôn sứ công khai

 

 

Sau hai Chúa Nhật 1 và 2 mở đầu cho Mùa Chay hơn 5 tuần lễ cho đến Tuần Thánh, Phụng Vụ Lời Chúa cho riêng chu kỳ phụng niên Năm A, (và ở những nơi nào có dự tòng được lãnh nhận Phép Rửa vào Đêm Vọng Phục Sinh, thì dù đang chu kyỳPhụng vụ Năm B hay C cũng có thể), bắt đầu các bài Phúc Âm chủ đề theo Thánh Ký Gioan hơn là theo Thánh ký Mathêu là Phúc Âm vốn giành cho chu kỳ phụng vụ Năm A. Và loạt 3 bài Phúc Âm theo chủ đề của Thánh ký Gioan cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay này hoàn toàn thích hợp cho tiến trình tái sinh của thành phần dự tòng Kitô giáo.

 

Vì nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa Chay liên quan đến mạch nước sự sống (bể nước rửa tội Thanh Tẩy), của bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Chay liên quan đến ánh sáng sự sống (nến sáng đức tin Công Chính), và của bài Phúc Âm Chúa Nhật 5 Mùa Chay liên quan đến sự sống bất tử (sự sống thần linh Thánh Sủng).

 

Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 3 Mùa Chay hôm nay liên quan đến mạch nước sự sống, và vì thế phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều tập trung vào đề tài nước sự sống này.

 

Trước hết, ở Bài Đọc 1, được trích từ Sách Xuất Hành, mạch nước sự sống này: 1- xuất phát từ một tảng đá trong sa mạc; 2- khi tảng đá (ám chỉ Chúa Kitô là Đá tảng) được đập vào bởi cái gậy (ám chỉ đức tin là khả năng giao tiếp thần linh) của Moisen; 3- để dân Do Thái được giãn cơn khát.

 

Sau nữa, ở Bài Đọc 2, được trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Kitô hữu giáo đoàn Rôma, mạch nước sự sống này được gói ghém trong lời Vị Tông Đồ Dân Ngoại, ám chỉ tình yêu của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài: "tình yêu của Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".

 

Sau hết, ở chính Bài Phúc Âm, mạch nước sự sống ấy được Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai ban cho những ai tin vào Người, điển hình là người nữ Samaritanô ngoại lai tội lỗi, và mạch nước Người ban đây không phải là mạch nước tự nhiên được người phụ nữ này hằng ngày phải từ nhà mất công ra kín lấy tự dưới Giếng Giacóp, trái lại, mạch nước sự sống Người ban cho chị sẽ khiến chị "không bao giờ còn khát nữa" - Tại sao? - "vì nước Tôi ban cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời".

 

"Mạch nước sự sống đời đời" đây là gì đã được chính Thánh ký Gioan chú thích ở đoạn 7 câu 39: "(Ở đây Người ám chỉ Thần Linh mà những ai tin vào Người được lãnh nhận...)", Vị Thần Linh được ban cho họ qua cuộc phục sinh vinh hiển của Người (xem cùng đoạn chú thích này và ở đoạn 20:22). Đúng thế, con người được cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Kitô tử giá, nhưng được công chính hóa bằng cuộc phục sinh của Người, nhờ Thánh Thần Người thông ban cho họ. Đó là lý do Giáo Hội Công giáo cử hành Phép Rửa cho thành phần dự tòng vào Thánh Lễ Vọng Phục Sinh hằng năm.

 

Hình ảnh "thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" ngay từ ban đầu, trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự, cho thấy quả thực "không ai được vào Nước Trời nếu không được tái sinh bởi nước và Thần Linh" (Gioan 3:5), và muốn làm con cái của Thiên Chúa cần phải có Thánh Thần của Ngài:

 

"Quả thế, những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Trí mà anh em đã lãnh nhận không phải là thứ thần trí nô lệ khiến anh em cảm thấy sợ sệt như trước; nhưng là Thần Trí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: 'Abba! Cha ơi!' Chính Thần Trí này chứng thực cho thần trí của chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa". (Roma 8:14-16).

 

Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là người nữ Samaritanô ngoại lai trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Chúa Giêsu ban cho mạch nước sự sống này hay chưa, thứ nước mà chị chỉ mới hiểu một cách mơ hồ theo hướng lợi ích tự nhiên cho bản thân của chị nhưng vẫn cứ xin: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa"?

 

Căn cứ vào những diễn biến sau đó thì chị đã được Chúa Giêsu ban cho chị mạch nước sự sống này rồi, vì chính Người là mạch nước sự sống ấy, khi Người tỏ mình ra cho chị: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với chị đây". Đó là lý do, ngay sau khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho chị, tức ban cho chị mạch nước sự sống thì chị liền được biến đổi.

 

Ở chỗ, nếu trước đó, chị sợ dân làng bao nhiêu, nên không dám ra kín nước ban sáng cho mát, mà chỉ dám lén ra ban trưa dù nắng nóng cho an toàn, vì ai cũng biết chị là một người đàn bà lăng loàn, sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của chị, thì ngay sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu và được Người tỏ mình ra cho như mạch nước sự sống, chị đã mạnh dạn hẳn lên, không còn sợ gì nữa, hoàn toàn được biến đổi, từ thân phận một tội nhân lẻ loi cộ độc đột nhiên thành một ngôn sứ công khai bằng chính lời loan báo và chứng từ của bản thân mình: "Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: 'Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?'"

 

Như thế, lời Chúa Kitô phán với người đàn bà Samaritanô ở bờ giếng Giacóp này quả thực đã hoàn toàn ứng nghiệm và trở thành hiện thực: "Nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", chẳng những nơi chính bản thân của chị, ở chỗ biến đổi con người tội lỗi của chị thành một vị ngôn sứ khả tín, sống động, hùng hồn đầy thuyết phục, mà còn nhờ vai trò làm ngôn sứ của chị mà "Nước" Người ban cho chị đã "vọt đến sự sống đời đời" nơi cả dân làng ngoại lai của chị nữa:

 

"Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: 'Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế'". 

Tóm lại, cuộc gặp gỡ có vẻ tình cờ này đã được dàn dựng hết sức tài tình bởi một đạo diễn chuyên nghiệp câu cá đó là Nhân Vật Giêsu Nazarét:

1- Câu cá không phải ở bờ sông bờ hồ mà là ở một cái giếng nước sâu, đó là giếng Giacóp, và câu cá bằng cách ngồi chờ hơn là đứng;

2- Con cá xộp này ở dưới giếng sâu tù túng kín đáo hơn là ở sông hồ lộ thiên phơi phới vì nó có một đời sống quá lăng loàn bê bối đầy mặc cảm;

3- Đó chính là người phụ nữ Samaritanô ở khu làng gần Giếng Giacóp này, một người đàn bà sống với 6 người đàn ông không phải là chồng mình;

4- Vì mặc cảm và sợ dân làng nên con cá này không dám ra giếng kín nước ban sáng cho mát như mọi người mà là ban trưa không có một ai;

5- Không ngờ hôm ấy lại có một con người xa lạ ngối đấy, qua cách ăn mặc và nét mặt là người Do Thái, nên con cá không lo sợ bị điểm mặt chỉ tên;

6- Chính vị nam nhân Do Thái lạ mặt này cũng đã cố tình đến giếng nước này vào buổi trưa, lúc các môn đệ của mình phải rủ nhau vào làng kiếm ăn;

7- Bằng không làm sao nam nhân lạ mặt Do Thái này có thể dễ dàng gặp được người đàn bà lăng loàn vốn sợ đám đông và câu được con cá xộp này;

8- Cuộc gặp gỡ này được mở đầu bằng lời "xin cho tôi uống" của vị nam nhân Do Thái, khởi đầu đóng vai trò thụ động của một người khốn khó ăn xin;

9- Con cá xộp đầy im lặng và mặc cảm này nghe thế thoạt tiên muốn phản ứng chạy trốn bằng câu thoái thác như thể giữa ông và tôi kỵ nhau mà;

10- Nhưng nam nhân đạo diễn chuyên nghiệp câu cá này nhất định không buông tha nên bắt đầu lật ngược thế cờ: nếu chị biết tôi và ơn Chúa thì...

11- Con cá xộp nhất định tìm cách làm chủ tình hình nếu không thể thoát thân: ông không có gầu thì làm sao kín nước được nếu không nhờ đến tôi;

12- Vị nam nhân càng tỏ ra cao cờ hơn ai hết khi đánh trúng tim đen của chị này, khiến chị đang làm chủ trở thành thụ động xin vị này thứ nước lạ;

13- Đến độ chị ta đã dễ dàng và sẵn sàng tiết lộ đời tư của chị ra cho vị nam nhân lạ mặt Do Thái mới gặp lần đầu này biết rằng: tôi không có chồng;

14- Cho đến khi chị thấy vị nam nhân lạ mặt không biết từ đâu tới này biết hết đời tư lăng loàn trắc nết của mình, chị mời giật mình trước một vị tiên tri;

15- Để rồi chị đã tự động bỏ vò nước ở lại đó và chạy vội về làng để công khai loan báo về một vị mà chị đã gặp và cho rằng đó là Đấng Thiên Sai...

 


Thứ Hai


Bài Ðọc I: 2 V 5, 1-15a

"Có nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến tâu vua rằng: "Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ". Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông khỏi phong cùi".

Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là Chúa, có thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa lành phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi Êlisêô, người của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người đến tâu vua rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ biết trong Israel có một vị tiên tri".

Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.

Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: "Hãy đi tắm, thì được sạch". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.

Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel".

Ðó là lời Chúa.                                            

 

Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4

Ðáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)

Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! - Ðáp.

2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? - Ðáp.

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 129, 5 và 7

Con trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng từ bi và chan chứa ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 4, 24-30

"Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".

Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.

Ðó là lời Chúa.

Jews Leading Jesus To Cast Him From The Cliffs Stock Illustration -  Download Image Now - iStock

Why the Hometown Folk Tried to Kill Jesus – Parsippany United Methodist  Church

 

 

Suy niệm

 

 

    vì họ "nghèo khổ" về đức tin,

bị giam cầm" bởi cứng lòng,

"mù lòa" bởi thành kiến,

và "ngục " trong tội lỗi     


H
ành trình Mùa Chay 40 ngày tiếp tục và đã tiến vào tuần lễ Thứ Ba, và hôm nay là Thứ Hai trong Tuần Ba Mùa Chay này, chủ đề "Tôi tự bỏ mạng sống của mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, vẫn phản ảnh qua ý nghĩa của chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, nhất là Bài Phúc Âm.

Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, hình như chúng ta chỉ thấy được nửa phần đầu của chủ đề Mùa Chay là "Ta tự ý bỏ sự sống của mình đi", chẳng thấy đâu là "để rồi lấy nó lại". Bởi vì, Thánh ký Luca trình thuật lại trong Bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày hôm nay là sự kiện "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực". 

Tại sao "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ" đến độ muốn sát hại Người, bằng cách "xô Người xuống vực" như thế? Phải chăng vì họ đã bị Chúa Giêsu ngấm ngầm chê là thiếu đức tin, ở chỗ không chịu tin vào Người, một con người rất tầm thường đã từng sống trong khu làng của họ và với họ trước kia, giờ đây đã dám cho mình như hai vị đại tiên tri Thời Cựu Ước là Elia và Elise nữa, như lời Người đã nói với họ và về họ khi họ đặt vấn đề về sự khôn ngoan và quyền năng khác thường của Người: 

"Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".

Hai trường hợp được Chúa Giêsu dẫn chứng trên đây cho thấy cả hai nạn nhân được chữa lành đều là thành phần dân ngoại nhưng lại tin vào các vị tiên tri của dân Do Thái và nhờ đó họ đã có được một cảm nghiệm thần linh về Vị Thiên Chúa của dân Do Thái, Đấng hằng ở cùng dân tộc được tuyển chọn này và tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ. 

Bài Đọc 1 hôm nay chỉ liên quan đến trường hợp thứ hai: "có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria". Sách Các Vua Quyền Thứ 2 đã cho biết là viên quan bị phong cùi này, vì muốn khỏi bệnh nên tin người tớ gái Do Thái, và đã tìm sang đất Do Thái. 

"Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: 'Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi'. Naaman đến tâu vua rằng: 'Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này'. Vua xứ Syria liền nói: 'Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ'. Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo". 

Nhưng sau khi đến gặp Tiên Tri Êlise, ông đã hoàn toàn thất vọng đến độ tức giận bất mãn bỏ đi, vì ông thấy ông là một vị quan có thế giá với nhà vua Syria mà bấy giờ lại bị một vị tiên tri Do Thái coi thường, chẳng những không thèm ra mặt tiếp ông, lại còn truyền ông phải làm một việc quá ư là tầm thường, ai làm cũng được và làm ở đâu cũng được, chứ không xuất hiện để trực tiếp chữa lành cho ông một cách uy nghi trang trọng giống như ở trong các nghi thức có tính cách cung đình: 

"Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: 'Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch'. Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: 'Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?' Ông trở về lòng đầy tức giận".

Đến đây chúng ta mới thấy đâu là biên giới giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa người sống theo tự nhiên và người sống theo đức tin cũng như sống bằng đức tin. Đức tin nơi viên quan Naaman người Syria bị phong cùi này là ở chỗ thắng vượt bản tính tự nhiên  khuynh hướng tự nhiên của ôngđể làm theo những gì vượt lên trên sự khôn ngoan và hiểu biết hạn hẹp của ông, nhất lạ biết hạ mình xuống lắng nghe sự thật, dù sự thật đó xuất phát từ thành phần tôi tớ tầm thường của ông:

"Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: 'Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch'. Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch". 

Chỉ có đức tin mới làm được những gì bản tính tự nhiên và khả năng trần thế của con người không thể nào làm được, dù họ có chức vị, khôn ngoan và quyền lực đến đâu chăng nữa, như bản thân của viên quan Naaman người Syria trong Bài đọc 1 hôm nay. Và cũng chỉ có đức tin mới làm cho con người cảm thấy được thực tại thần linh siêu việt ở bên trên họ nhưng lại ở ngay cõi lòng họ và trong cuộc sống của họ, như đã xẩy ra cho viên quan người Syria bị phong cùi được chữa lành: 

"Sau đó ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: 'Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel'".

Cho dù Chúa Giêsu trong trình thuật của Bài Phúc Âm hôm nay có vẻ không được thành công như Tiên Tri Elisa trong Bài Đọc 1, nhưng Người, Đấng bị dân làng Nazarét của Người muốn sát hại Người, vẫn có thể tỏ mình ra cho thành phần không tin Người biết rằng: 

1- Chính vì họ không tin mà họ không thấy phép lạ Người làm ở nơi họ và giữa họ như họ đã từng nghe thấy Người làm ở các nơi khác, nhất là ở Carphanaum; 

2- Cho dù họ có muốn sát hại Người mà cũng không được như ý muốn, bởi "Người tiến qua giữa họ mà đi", cho họ thấy rằng Ngưòi quả là Đấng quyền năng, là Đấng được Tiên Tri Isaia nói đến như chính Người đã minh định với họ.

Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã "lấy lại sự sống" của mình khi Người bị dân chúng sát hại, không phải chỉ ở chỗ "Người tiến qua giữa họ mà đi", ở chỗ họ không làm gì được Người, mà chính là ở chỗ Người tỏ mình ta cho họ thấy được những gì Tiên Tri Isaia nói về Người đã thực sự được ứng nghiệm, ứng nghiệm nơi chính đám dân chúng muốn sát hại Người, vì đám dân làng Nazarét bấy giờ quả thực tiêu biểu cho các thành phần được Thiên Chúa gửi Vị Thiên Sai được xức dầu Thần Linh và đầy Thần Linh là Chúa Kitô đến cho họ, vì họ "nghèo khổ" về đức tin, "bị giam cầm" bởi cứng lòng, "mù lòa" bởi thành kiến, và "ngục " trong tội lỗi (xem Luca 4:18).

Nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét bị dân làng Nazarét trong Bài Phúc Âm hôm nay mưu toan sát hại Người, nhưng không làm gì được Người, trái lại, chính họ lại trở thành chứng cớ hiển nhiên về vai trò Thiên Sai của Chúa Kitô, Đấng được Thiên Chúa tiên báo qua Tiên Tri Isaia, một Vị Thiên Sai nơi các thành phần cần được Người "loan báo cho Năm Hồng Ân của Chúa" (Luca 4:19), và chính vì thế mà ai nhận ra Người bằng đức tin sẽ có được một cảm nghiệm thần linh như thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi!

2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời? 

3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. 

4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. 


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðn 3, 25. 34-43

"Với tâm thần sám hối và tinh thần khiêm tốn, chúng tôi được chấp nhận".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, Adaria đứng giữa lửa mở miệng cầu nguyện rằng: "Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng huỷ bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con. Vì Abraham kẻ Chúa yêu, Isaac tôi tớ Chúa, và Israel người lành thánh của Chúa, những kẻ Chúa đã hứa cho sinh con cháu ra nhiều như sao trên trời và như cát bãi biển. Vì lạy Chúa, chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi. Hiện giờ không còn vua chúa, thủ lãnh, tiên tri, không còn của lễ toàn thiêu, lễ hiến tế, lễ vật, nhũ hương và nơi để dâng lên Chúa của đầu mùa để được Chúa thương. Nhưng với tâm hồn sám hối và với tinh thần khiêm tốn, chúng con xin Chúa chấp nhận; chúng con như những con dê, bò rừng và những chiên béo được dâng lên Chúa làm của lễ toàn thiêu, xin cho của hiến tế chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm nay, được đẹp lòng Chúa, vì những ai tin tưởng nơi Chúa không phải hổ thẹn. Và bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh quang".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9

Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài (c. 6a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 

Phúc Âm: Mt 18, 21-35

"Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".

Ðó là lời Chúa.

Matt. 18 21-35 - Catholic For Life


Suy niệm

 



 Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mìnhsống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất ...

là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa


Mùa Chay hôm nay ở vào ngày Thứ Ba của Tuần Thứ Ba, ngày được bao trùm bởi bầu khí của lòng thương xót Chúa, như được cảm nghiệm thấy ở phụng vụ lời Chúa trong ngày, một lòng thương xót Chúa được tỏ hiện rõ ràng nhất và tối hậu nhất nơi việc khoan dung độ lượng tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi.

Đúng thế, Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường cho rằng "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn Chúa dạy về sự tha thứ đóng vai chính, một dụ ngôn Chúa muốn dùng để trả lời cho vấn nạn được tông đồ Phêrô đặt ra hỏi Người: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"

Nhưng thật ra, căn cứ vào chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, và riêng Bài Phúc Âm, chúng ta mới khám phá thấy rằng lòng thương xót Chúa là điểm then chốt được Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến hôm nay, khi Giáo Hội chọn đọc Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc 1 cho cùng ngày.

Trước hết, chúng ta thấy dụ ngôn Chúa Giêsu sử dụng để trả lời cho câu hỏi phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần trong Bài Phúc Âm hôm nay, về bố cục, có hai phần rõ ràng: phần đầu về "người đầy tớ độc ác" bày tôi được vị vương chủ của hắn rộng lượng tha thứ, và phần sau về "người đầy tớ độc ác" này không chịu tha thứ cho con nợ của mình, như chính bản thân đã được vị vương chủ tha nợ cho.

Thế nhưng, về nội dung, ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn về tha thứ trong bài Phúc Âm này là ở chỗ "các con hãy thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), đúng như lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người để kết luận bài Phúc Âm hôm nay: "Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".

Nghĩa là, chúng ta được Thiên Chúa là Cha tha thứ thế nào chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy, tha một cách bao dung, quảng đại, liên lỉ, không bao giờ cùng, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định và muốn các tông đồ môn đệ của người thi hành: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".

Việc tha thứ cho nhau một cách quảng đại bao dung và liên tục bất tận như Cha trên trời như thế đã được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn về sự tha thứ của vị vương chủ "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y", một con nợ bầy tôi đã "mắc nợ" vua "mười ngàn nén bạc", nhưng "không có gì trả", có nghĩa là không thể nào trả nổi, bởi thế cho "nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", nghĩa là tất cả những gì quí báu nhất con nợ có được, liên quan đến chính bản thân hắn cùng gia đình hắn và gia tài của hắn, để bù đắp phần nào món nợ hắn không thể trả thôi.

Chúng ta nên chú ý một chi tiết về lòng bao dung quảng đại đến vô lý của lòng thương xót Chúa trong dụ ngôn này, đó là trong khi người bầy tôi "sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả'", thì cho dù người con nợ bầy tôi này không xin tha nợ, mà chỉ xin khất nợ và hứa sẽ trả sau, không biết cho tới bao giờ mới trả hết, ấy vậy mà vị vương chủ lại "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y" mới là chuyện kỳ cục chứ, mới hay chứ. 

Ấy thế mà, khi đã được hoàn toàn "trả tự do", không còn nợ nần gì với vị vương chủ của mình nữa, không còn sợ bị đòi nợ nữa, không còn phải lo lắng làm sao để trả nợ đầy đủ và đúng hẹn nữa, thì "người đầy tớ độc ác" này lại đối xử với một con nợ của hắn hoàn toàn ngược lại với những gì hắn đã được đối xử. Ở chỗ, hắn là bầy tôi được vương chủ cao cả tha hết nợ, trong khi người bạn của hắn, ngang hàng với hắn, hắn lại muốn làm vua của người bạn hắn.

Thật vậy, theo dụ ngôn của Chúa, "một người bạn" của hắn chỉ nợ hắn một chút xíu thôi, "một trăm bạc", vì vai vế bạn bè ngang hàng với nhau, chỉ là tạo vật như nhau, không nhiều như món nợ khổng lồ hắn không thể trả, vì hắn đóng vai bầy tôi với chủ nợ là vương đế cao cả, nhưng đã được chủ nợ cao cả này hoàn toàn tha bổng, "mười ngàn nén bạc", thế màdù con nợ của hắn đã van xin hắn khất nợ như hắn đã làm: "Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'", nhưng hắn đã đối xử với con nợ của hắn hoàn toàn trái ngược lại với vị vương chủ của hắn đã đối xử với hắn: "Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong". 

Dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay về lòng "thương xót như Cha là Đấng thương xótở chỗ chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ thế nào, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy. Nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa không phải chỉ là một đặc ân cho riêng một ai xứng đáng, mà là cho tất cả mọi người, cần phải truyền đạt và loan truyền qua những ai đã nhận lãnh đặc ân này, qua những ai đã được thương xót. 

Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình: "xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất với những người anh chị em ngang hàng với họ xúc phạm đến họ, là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa là Đấng vô cùng cao cả bị họ xúc phạm đến, chưa hiểu được lòng thương xót Chúa là gì, hay thậm chí lợi dụng lòng thương xót Chúa, bóp méo lòng thương xót Chúa, giam nhốt lòng thương xót Chúa và hủy hoại lòng thương xót Chúa nơi bản thân mình, và vì thế, họ đã bị tẩu hỏa nhập ma, vì chính lòng thương xót Chúa từ một hồng ân đã biến thành tai họa cho họ, biến thành một "tên lý hìnhnhư phần kết luận của dụ ngôn cho thấy: 

"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ". 

Phải, mang thân phận là tội nhân, không một con người tạo vật nào không cần đến lòng thương xót Chúa, nhất là thành phần được hưởng lòng thương xót Chúa mà không sống lòng thương xót Chúa, đến độ bị chính lòng thương xót Chúa hành hạ cho đến khi họ biết sống lòng thương xót Chúa: "cho đến khi trả hết nợ". 

Là một tội nhân được Thiên Chúa tha thứ mà không biết thứ tha cho những ai phạm đến mình thì chẳng khác gì người con cả đối xử với đứa em hoang đàng của mình trong dụ ngôn người cha nhân hậu với hai đứa con đáng thương (xem Gioan đoạn 15), hay như thành phần đòi ném đá người đàn bà ngoại tình như thể mình không có tội gì (xem Gioan đoạn 8).

Là một tội nhân, mỗi khi xưng tội là chúng ta chỉ thực hiện cử chỉ "khất nợ" hơn là trả nợ, vì cho dù được LTXC, qua vị linh mục giải tội, chúng ta được tha tội nhưng rồi chúng ta lại tái phạm cùng tội vừa xưng, thì quả thực việc xưng tội của chúng ta chỉ mang tính cách khất nợ... cho tới chết. Tuy nhiên, Kitô hữu nào sống trên đời mà không hề đoán xét ai, hay không bao giờ chấp nhất bất cứ một ai phạm đến mình, thì khi qua đời, Thiên Chúa sẽ chẳng phán xét họ hay chấp tội họ, cân xứng với cái đấu họ đong cho tha nhân khi còn sống, nghĩa là họ như được hưởng ơn toàn xá, được vào thẳng Thiên Đàng, không cần qua luyện ngục vậy.

Lòng thương xót Chúa quả thực là một hồng ân đối với loài người tội nhân, ở chỗ, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tội nhân không phải vì họ mà là vì chính Ngài - nếu vì họ thì họ chỉ đáng phạt, xứng với tội lỗi của họ. Nhưng cho dù họ tội lỗi bất xứng với Ngài và đáng bị phạt như thế chăng nữa, Ngài vẫn thương xót họ và tha thứ cho họ bởi Ngài chính là tình yêu vô cùng nhân hậu. 

Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi cầu xin cho dân tộc của mình đang trải qua hoạn nạn khốn khổ: "chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi...", Adaria đã nại đến chính Thiên Chúa cho thân phận dân tộc của mình: "Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng hủy bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con". 

Chẳng những thế, Adaria còn xin lòng thương xót Chúa tỏ mình ra nơi thân phận đáng phạt của họ để cho lòng thương xót Chúa được sáng tỏ hơn nữa, đúng như dự án và đường lối tỏ mình ta tối đa hết cỡ của lòng thương xót Chúa: "Bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh quang".

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh ý nghĩa và chiều hướng của chung phụng vụ Lời Chúa trong ngày, cách riêng với Bài Đọc 1 cùng ngày về lòng thương xót Chúa, vị "Thiên Chúa cứu độ", vị Thiên Chúa thương xót nhân loại tội lỗi khốn khổ bởi chính mình Ngài là Đấng "nhân hậu và công minh", chỉ biết đối xử với loài người tạo vật thấp hèn đầy những yếu đuối của họ bằng "lòng thương xót tự muôn đời vẫn có":

1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. 

2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. 

3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. 



Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðnl 4, 1. 5-9

"Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môi-sen nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu; các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: "Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt". Không một dân tộc vĩ đại nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?

"Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 15-16. 19-20

Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.

2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng. - Ðáp.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Xh 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Mt 5, 17-19

"Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".

Ðó là lời Chúa.

3rd Week of Lent: Wednesday, 18th March 2020 – The Jesuits


Suy niệm

 

 

   "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn", liên quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua   


Hôm nay là Thứ Tư của Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này nhấn mạnh đến việc tuân giữ lề luật Chúa, đúng như hai câu tiêu biểu ở trên đầu của Bài Đọc 1 cũng như của Bài Phúc Âm cho thấy: "Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm" (Bài Đọc 1) và "Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời" (Bài Phúc Âm).

Ở Bài Phúc Âm, chính Chúa Giêsu đã chẳng những đề cao tính chất bất khả thay đổi của lề luật mà còn đến việc trung thành với lề luật, bao gồm cả việc tuân giữ lề luật cũng như giảng dạy lề luật, kèm theo tác dụng tích cực hay tiêu cực trong việc tuân giữ lề luật và giảng dạy lề luật như thế nào nữa:

"Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu lề luật quan trọng như vậy và bất khả di dịch như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại phán một câu, cũng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, như thể lề luật vẫn là những gì chưa trọn hảo, cần phải được hoàn hảo hóa bởi Người nữa: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn". 

Trong câu khẳng định này của Chúa Giêsu chúng ta thấy chất chứa một mối liên hệ giữa lề luật và bản thân Chúa Giêsu, Đấng mà "khi thời điểm viên trọn, đã được sinh hạ bởi một người nữ, được hạ sinh theo lề luật để cứu những ai lệ thuộc lề luật khỏi lề luật hầu chúng ta lãnh nhận thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4).

Quả thực, đúng như Chúa Giêsu đã minh định "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri". Người không hủy bỏ những gì Cha Người đã sử dụng để hướng dẫn dân Do Thái trong lịch sử cứu độ của họ, nhờ đó, dân tộc như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên trần gian này mới thực sự tỏ ra là một dân tộc nổi bật nhất trong các dân tộc trên thế gian này, vì họ là dân của Chúa, chẳng khác gì ngọn hải đăng đối với các dân tộc khác được gọi chung là dân ngoại, không phải dân Do Thái. 

Vị trung gian môi giới Moisen của họ đã bày tỏ cho họ thấy cảm nhận cái diễm phúc được Thiên Chúa hướng dẫn bằng các lề luật siêu việt của Ngài ấy trong Bài Đọc 1 như sau: 

"Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: 'Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt'. Không một dân tộc vĩ đại nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?"

Và cũng chính vì lề luật được Thiên Chúa thương yêu truyền dạy cho họ như thế, để họ xứng đáng với ơn gọi chuyên biệt của họ giữa tất cả mọi dân tộc, cũng như với thân phận ưu tuyển của mình như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên thế gian này, hơn tất cả mọi dân tộc khác, mà họ phải trung thành tuân giữ lề luật của Ngài cũng như truyền dạy lề luật của Ngài cho nhau nữa:

"Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu... Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy".

Chính dân Do Thái, qua thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, cũng đã cảm thấy đúng như vậy, khi vang lên những ý thức thần linh về lời thần linh của Thiên Chúa là chính cốt lõi của lề luật cho họ và làm nên lề luật của họ như sau:

1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội. 

2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.

3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người. 

Thật ra, lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn", liên quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm cứu độ tất cả loài người, chứ không riêng gì dân Do Thái, đúng như ý định cứu độ của Thiên Chúa ngay từ ban đầu sau nguyên tội xẩy ra cho chung loài người (xem Khởi Nguyên 3:15).

Đúng thế, chính Chúa Giêsu sau khi sống lại từ trong kẻ chết Người để chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản tính đã bị băng hoại từ nguyên tội và bởi nguyên tội, đã chứng tỏ rằng Người đã "kiện toàn", chứ không "hủy bỏ", "lề luật và các tiên tri", hay nói cách khác, tất cả những gì đã được viết ra hay đề cập đến trong lề luật và bởi các vị tiên tri đều đã được trọn vẹn ứng nghiệm nơi Người, như chính Người đã sử dụng đến chính "lề luật và các tiên tri" để chứng thực rằng Người đã sống lại, và vì thế Người là "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).

Lần thứ nhất Người đã chứng thực với hai môn đệ đi Emmau (Luca 24: 25-27)

"Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh".

Lần thứ hai Người đã chứng thực với 11 tông đồ ngay trong cùng tối của ngày thứ nhất trong tuần đó (Luca 24: 44-46)

"Rồi Người bảo: 'Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm'. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: 'Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...'".

Trong Biến Cố Biến Hình, được Giáo Hội chọn đọc từ các bài Phúc Âm của bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao giờ cũng cho Chúa Nhật II Mùa Chay, như chu kỳ phụng niên Năm C, Thánh ký Luca cho biết: "Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem", đã cho thấy rõ lời tính chất xác thực của lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn" bằng cuộc Vượt Qua của Người.

Như thế, Chúa Giêsu quả thực đã tự mình ứng nghiệm những gì được cho là chủ đề của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh liên quan đến Cuộc Vượt Qua của Người: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17).

 

  Ngày 23: Thánh Turibiô Mongrôvêjô, giám mục

 

Ngày 23/03: Thánh Turibiô Môgrôvêjô, Giám mục (1536-1606)

 

Ngày 23 tháng 03
THÁNH TURIBIÔ MÔGRÔVEJÔ GIÁM MỤC (1536-1606)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Thánh Turibiô sinh tại Lê-on, nước Tây Ban Nha, năm 1538. Là con của lãnh chúa Mogrovejo, thuộc dòng tộc quý phái đạo đức.

Lớn lên, ngài đến học ở Salamanca và Côimra. Ở đâu, ngài cũng chăm chỉ học hành và nêu gương lành gương tốt. Mặc dù còn trẻ tuổi, tuổi thanh xuân thường đua đòi, ngài lại sống khác, làm khác đồng bạn: ngài nhịn ăn để giúp đỡ kẻ nghèo, và luôn hãm mình đền tội thay cho các tội nhân. Ai ai cũng nghĩ rằng sau này ngài sẽ trở thành tông đồ mở mang nước Chúa.

Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, ngài được vua Philipphê II đặt làm chánh án toà án Granada. Khi Giáo phận Lima trống ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định làm Giám Mục lại là Turibiô một giáo dân. Nghe tin này Turibiô khóc ròng, ngài quì dưới chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó ngài tự diễn tả như một kẻ thù tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi Giám mục, và nhận Giáo phận năm 1581.

Địa phận dành cho Turibiô có những rất nhiều khó khăn đến nỗi có thể nói nếu ngài không phải là một vị thánh thì khó có thể chu toàn được nhiệm vụ. Giáo phận có chu vi tới sáu trăm dặm, gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes. Người Tây Ban Nha khai phá Tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ, Turibiô không thể cầm được nước mắt. Ngài quở trách những người chinh phục vì những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: Những cớ vấp phạm ấy phải dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị. Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm ngài nản chí. Những người Tây Ban Nha quyền thế trở thành Phó vương và cả đến vua Philipphê II do những báo cáo sai lầm đã trách cứ ngài. Nhưng tất cả những luật lệ nghiêm khắc đã không làm cho ngài nản chí bỏ cuộc. Ngài luôn ý thức rằng chính Chúa Kitô chứ không phải thế gian phán xét ngài.

Turibiô học ngôn ngữ dân Pêru. Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân từ. Lòng bác ái nhân từ của ngài đối với họ không có giới hạn. Khi ngài tới một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với ngài. Trước hết ngài thăm hỏi những người đau yếu, và nếu không chữa chạy cho họ được, ngài dạy cho họ biết chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, ngài cũng tái lập sự công bình. Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh đều có người Kitô hữu cư ngụ đông đảo. Thánh Turibiô thiết lập chủng viện, các viện cứu tế. Trong 25 năm, ngài đi thăm viếng Giáo phận rộng lớn và hoang dã của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi toà mỗi sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, ngài còn hy sinh và ăn chay thêm nữa. Khi có cơn dịch trong Giáo phận, ngài tăng gấp đôi lời cầu nguyện hãm mình. Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính ngài rơi lệ ướt cả thánh giá cầm trong tay.

Khi bắt đầu cuộc kinh lý mới, ngài đã ngã bệnh tại Santa, ngài chỉ biết lập lại lời thánh Phaolô:

- Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của thể xác để kết hợp với Chúa Giêsu Kitô.

Gần chết, ngài xin những người chung quanh hát lời kinh:

- Tôi vui mừng khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa.

Thế là cái chết của ngài được coi như một cuộc lễ. Lời cuối cùng của ngài là lời vua thánh tiên tri:

- Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay Chúa. (Nguồn: conggiao.info)

II. BÀI HỌC.

Nếu phải chọn một đề tài cho bài học hôm nay qua câu truyện của thánh Giám Mục Turibiô thì tôi xin chọn đề tài là sự kỳ diệu của Thiên Chúa trong việc cai trị và gìn giữ Giáo Hội của Người trên thế gian. Chúa cai trị và gìn giữ Hội thánh của Chúa qua trung gian các tông đồ sau khi Chúa về trời và sau thời đại của các tông đồ là các Giám Mục kế tục các ngài. Và một trong các vị Giám mục đó là thánh Turibiô mà chúng ta mừng kính hôm nay.

Turibiô đã sống đời sống của một mục tử theo đúng thánh ý của Chúa Giêsu. Chính đời sống ấy đã làm nên Giáo hội của Chúa giữa trần gian. Chính đời sống đó đã làm cho Giáo Hội của Chúa được hiện diện trên thế giới này. Đời sống thánh thiện của thánh Giám Mục Turibiô đã trở thành một mẫu gương cho các thế hệ Giám Mục mai sau

Công đồng Vaticanô II sau này khi bàn về nhiệm vụ của các mục tử đã nói như thế này: “Trong khi thi hành nhiệm vụ người cha và chủ chăn, các Giám Mục hãy sống giữa dân mình như những người phục vụ nghĩa là như những chủ chăn hiền từ biết các con chiên mình và con chiên cũng biết chủ chăn; như những người cha đích thực tỏ lòng yêu thương và lo lắng cho hết mọi người và mọi người tỏ lòng tri ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Các ngài hãy quy tụ đoàn chiên của mình thành một gia đình đông đủ để mọi người đều ý thức nhiệm vụ riêng mà sống và hoạt động trong tình hiệp thông bác ái.

Ðể có thể thực thi những điều đó một cách hiệu nghiệm, các Giám Mục “là những người sẵn sàng làm mọi việc thiện” (2Tm 2, 21) và “chịu đựng mọi sự vì những kẻ được chọn” (2Tm 2, 10) phải tổ chức đời sống mình phù hợp với những nhu cầu thời đại. “

Nhìn lại cuộc đời của Đức Cha Turibiô, chúng ta thấy ngài đã sống đúng với tinh thần đó. Chính vì thế mà Giáo phận của ngài đã được thăng tiến về mọi mặt nhất là về đời sống yêu thương theo lý tưởng TIN MỪNG.

Chúng ta hãy xin Chúa ban cho Giáo Hội hoàn vũ có được những Giám Mục thánh thiện như thánh Turibiô để cho Giáo Hội mỗi ngày mỗi tốt đẹp thánh thiện hơn như ý Chúa muốn.

Đức Cha Phanxicô Salêsiô, một người thông minh xuất chúng, lại có một lối giảng đạo khác hẳn. Ngài rất nhân từ, bình dân, giản dị niềm nở đón tiếp mọi người, nghe ngóng mọi người, tìm hiểu và giải quyết những thắc mắc của họ sẵn sàng đối thoại ngay cả đối với những anh em lạc giáo có ác tâm muốn bắt bẻ ngài nhưng cuối cùng chính họ là những kẻ bị ngài chinh phục. Ngài không ngại mất thời giờ nhẫn nại nghe họ, như thể chỉ có mình ngài với họ thôi. Có người góp ý:

- Đức Cha tiếp họ làm gì cho mất công, họ có ý đến để bài bác Đức Cha đó!, . . “

Ngài trả lời

- Mỗi linh hồn đã là một Giáo phận đối với một Giám mục”

Nhơ tìm hiểu, đón tiếp từng cá nhân như vậy mà ngài đã làm cho trên 10. 000 người theo lạc giáo trở lại Công giáo (nên nhớ miền Chablais và thành Genève thuộc Giáo phận Annecy là trung tâm hoạt động của Tin lành Calvinô Thụy sĩ).

Giám mục Bossuet khiêm tốn nhận thức điều ấy và tuyên bố công khai: “Ai muốn tranh luận về giáo lý thì hãy đến với tôi, tôi sẽ làm cho họ thua lý. Nhưng ai muốn đi đạo thì đi đến với đức Cha Phanxicô Salêsiô; ngài hiền từ, không tranh luận, nhưng có một khả năng chinh phục lạ thường”.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-03-thanh-turibio-mogrovejogiam-muc-1536-1606-53750

 


Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 7, 23-28

"Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Ðây Chúa phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc.

Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9

Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng lòng (c. 8).

Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 11, 14-23

"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:

"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".

Ðó là lời Chúa.

 Jesus casts out the evil spirit Stock Illustration | Adobe Stock


Suy niệm



  Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được.

 

 

Ngày Thứ Năm trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này, nội dung của cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm đều trở nên như một lời khẳng định rằngchỉ khi nào con người vào qua cửa hẹp và đi theo con đường hẹp mới có thể đạt đến sự sống chân thật và phúc thật, bằng ngược lại sẽ toàn là bất hạnh và diệt vong (xem Mathêu 7:13-14).

Đúng thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại những lời Chúa Giêsu, sau khi "trừ một quỷ câm", và "khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được", khiến "dân chúng đều bỡ ngỡ", đã vạch trần những tâm tưởng thiển cận có tính cách xuyên tạc và chụp mũ cho việc Người làm: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ", một việc không ai trên trần gian này có thể làm được ngoại trừ Thiên Chúa hay những ai được Thiên Chúa ở cùng. 

Thậm chí việc Người trừ quỉ như thế, một việc không ai là loài người thuần túy có thể làm được vẫn chưa hay lắm, vẫn chưa thể làm cho một số người trong họ tin, đến độ, như Bài Phúc Âm cho thấy, họ còn muốn "xin Người một dấu lạ từ trời xuống", nghĩa là những gì đúng như ý của họ, có tính cách chủ quan như họ nghĩ, thì họ mới tin, còn những gì khác, cho dù là việc của Thiên Chúa đi nữa, cho dù lạ lùng mấy chăng nữa, cho dù họ không thể nào làm được v.v., họ cũng không tin. 

Chẳng hạn, việc trừ quỉ, dù họ không làm được nhưng họ vẫn hiểu được nên cũng chẳng đáng tin. Theo kiến thức của họ về việc Chúa Giêsu trừ quỉ đó là vì quỉ nhỏ phải sợ quỉ lớn, mà Chúa Giêsu lấy quyền quỉ lớn mà trừ quỉ con thì tất nhiên phải có công hiệu 100%, đâu có gì là lạ, đâu có gì đáng phục, bởi thế, đối với họ, Người còn cần phải thực hiện thêm "một dấu lạ từ trời xuống" nữa. 

Bởi thế, Chúa Giêsu, cho dù bản thân của Người và phẩm vị là Con Thiên Chúa của Người bị xúc phạm một cách trắng trợn và vô cùng trầm trọng như vậy, ở chỗ, Người bị coi như cũng bị quỉ ám, bị chính tướng quỉ ám thì Người mới có thể trừ được quỉ con nơi con người nạn nhân ở đầu bài Phúc Âm hôm nay. 

Tuy nhiên, là hiện thân của Cha trên trời là Đấng Thương Xót (xem Luca 6:36), Người vẫn tỏ ra "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn tỏ ra nhân từ đối với những con người lầm lạc đáng thương, nhưng Người vẫn không thể nào chấp nhận cái sai lầm của họ, nên đã vạch ra cho họ thấy cái mẫu thuẫn nơi lập luận lý lẽ có tính cách ác cảm của họ với Người như sau:

"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".

Qua câu minh giải này của mình, Chúa Giêsu cho những ai có ý nghĩ Người "nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ" chẳng những thấy được cái mâu thuẫn sai lầm của họ: "Nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được?", mà còn cho họ thấy trách nhiệm gây ra bởi những gì họ nói: "Chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi", nhất là cho họ biết được thật sự Người đã lấy quyền nào mà trừ quỉ, và chính quyền lực ấy là "một dấu lạ từ trời xuống" đúng như họ mong muốn: "Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".

Thật vậy, "một dấu lạ từ trời xuống" chứng thực "nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi" đó là việc Thiên Chúa bắt đầu trực tiếp nhúng tay vào công cuộc cứu chuộc loài người cho khỏi quyền lực tối tăm và sự chết do ma quỉ gây ra từ nguyên tội. Bởi vì, "ngón tay Thiên Chúa" đây ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa, như Thánh ký Mathêu ghi lại lời Chúa Giêsu minh định cũng trong cùng một trường hợp này: "Nếu bởi Thần Linh của Thiên Chúa mà Tôi trừ quỉ thì triều đại Thiên Chúa đã đến trên quí vị rồi đó" (12:28).

Câu nói của Chúa Giêsu ở cuối Bài Phúc Âm hôm nay cũng ám chỉ đến chính quyền lực của Thần Linh Thiên Chúa mạnh hơn quyền lực của tướng quỉ Belzebul, chẳng những có thể trừ được cả đám quỉ con mà còn trừ được cả quỉ vương, diệt trừ được cả vương quốc của hỏa ngục, của ngụy thần nữa, thành phần là quyền lực sự dữ và chết chóc đã thống trị loài người từ nguyên tội và đang bị tiêu diệt qua việc trừ quỉ của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai Cứu Thế:

"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".

"Nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn" ở đây không phải là ám chỉ đến "Thần Linh của Thiên Chúa" hay sao, vì chỉ có "ngón tay Thiên Chúa" mới có thể "tước hết khí giới hắn tin tưởng (ám chỉ khí giới của ma quỉ là giả dối gian ác, kiêu căng tự ái, hận thù ghen ghét, bất tuân phản loạn v.v.), và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt (những gì đã bị ma quỉ tước đoạt đây ám chỉ chính loài người đã loài trở thành nô lệ của ma quỉ, thuộc về ma quỉ)". 

Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được. Thế nhưng, chỉ có ai muốn được giải cứu, chấp nhận việc giải cứu của Người mới thoát được quyền lực của hỏa ngục mà thôi. Phải chăng đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay: "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", một lời còn được phản ảnh nơi nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay. 

Qua miệng lưỡi của Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã kêu gọi dân của Ngài hãy sống "thuận" theo Ngài như Ngài mong muốn để xứng đáng với Ngài là Đấng yêu thương tuyển chọn họ, và nhờ đó họ cũng được và mới được hạnh phúc: "Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc". Thế nhưng, tiếc thay, dân của Ngài vẫn tiếp tục sống "nghịch" với Ngài, như chính Ngài đã nhận định về họ như sau:

"Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa".

Đó là lý do trong Bài Đáp Ca hôm nay, thánh vịnh gia đã kêu gọi dân của mình hãy nhận biết Thiên Chúa và nghe lời Ngài chứ đừng cứng lòng trước những mạc khải thần linh cứu độ của Ngài nữa:

1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. 

2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. 

3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". 

 

 


  Ngày 25: Lễ truyền tin

 

 

 

Dẫn nhập phụng vụ

 

Trong 4 Tín Điều Thánh Mẫu về Mẹ Maria, thì có 3 Lễ Trọng Buộc liên quan đến 3 trong 4 tín điều, đó là Lễ Trọng Buộc Mẹ Vô Nhiễm ngày 8/12 hằng năm trong Mùa Vọng là thời điểm khởi đầu phụng niên ám chỉ thời điểm khởi đầu công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô; Lễ Trọng Buộc Mẹ Thiên Chúa ngày 1/1 đầu năm dương lịch, ám chỉ Mẹ đã có trước muôn loại trong dự án cứu độ của Thiên Chúa; Lễ Trọng Buộc Mẹ Mông Triệu 15/8 hằng năm. Còn tín điều Mẹ trọn đời trinh nguyên cả trước, đang và sau sinh con, có thể áp dụng vào Lễ Trọng Mẹ Thai Lời (Mẹ Thụ Thai Lời Nhập Thể trong Biến Cố Truyền Tin) 25/3, nhưng lại là Lễ Trọng không buộc.

 

Lễ Mẹ Thai Lời không phải chỉ liên quan đến Mẹ Maria mà còn trực tiếp liên quan đến Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Ngôi Hiệp (hypostatic union) của hai bản tính nơi Ngôi Vị Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô trong cung lòng trinh nguyên của thôn nữ Maria Nazarét bởi quyền phép Thánh Linh. Lễ Trọng Truyền Tin là một cử hành giây phút trời đất giao hòa, thời điểm vĩnh cửu đi vào thời gian và thời gian trở thành vĩnh cửu, thời điểm lịch sử loài người trở thành Lịch Sử Cứu Độ, thời điểm Thiên Chúa vô cùng cao cả làm người để con người tạo vật vô cùng thấp hèn được trở thành Thiên Chúa nơi Lời Nhập Thể, thời điểm loài người tạo vật hữu hình hữu hạn được Thiên Chúa thần linh vô hình vô hạn dựng nên trở thành Mẹ của chính Đấng dựng nên mình.

 

Vậy chúng ta cùng nhau ôn lại những gì được các thánh nhân chiêm ngưỡng và chia sẻ với chúng ta về Mầu Nhiệm Nhập Thể nơi Biến Cố Truyền Tin Mẹ Thai Lời sau đây:

 

Phụng Vụ Giờ Kinh

 

Ngày 25 tháng 3

LỄ TRUYỀN TIN

lễ trọng

Tiểu sử 
Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Biến cố này được thánh Lu-ca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người. Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả thánh vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Híp-ri đặt lên miệng Chúa Ki-tô khi Người bước vào trần gian : “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.”

Rực rỡ ngày lên báo tin lành,
Thiên thần mang đến Mẹ Đồng Trinh
Lời Thiên Chúa hứa và thực hiện
Cho cả trần gian hưởng thái bình.

Đấng tự ngàn đời đã sinh ra
Từ lòng muôn thuở Chúa Ngôi Cha,
Giáng trần phải chọn người thân mẫu
Sống kiếp phàm nhân chẳng nề hà.

Chân Lý ngàn thu nay nhập thể
Trong lòng Trinh Nữ chẳng ai ngờ,
Chỉ hồn trong trắng được chiêm ngưỡng,
Xin giãi sáng vào cõi bùn nhơ.

Được phúc cưu mang Đấng Cửu Trùng,
Dẫu là tỳ nữ rất khiêm cung,
Giờ đây Bà Chúa trên Thiên Quốc
Xin Mẹ hằng thương chúng con cùng.

Muôn tiếng ngợi khen dâng kính Chúa
Giáng trần sinh bởi Mẹ Đồng Trinh.
Ngài cùng Thánh Linh và Thánh Phụ
Thiên thu hiển trị cõi thiên đình.

 

Nhân ngày mừng kỷ niệm thiên sứ báo tin Con Thiên Chúa khởi đầu công trình cứu độ, chúng ta hãy sung sướng cầu xin :

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Lạy Chúa, như xưa Đức Mẹ đã vui mừng đón nhận tin Con Chúa nhập thể, - xin cho chúng con nay cũng biết noi gương Đức Mẹ mà hoan hỷ đón rước Người.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Như Chúa đã nhìn đến Đức Mẹ là nữ tỳ khiêm tốn của Chúa, - xin cũng nhớ đến chúng con mà rộng lượng xót thương.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Như Đức Mẹ là E-va mới đã vâng nghe lời Chúa, - xin thực hiện những gì Chúa muốn làm cho chúng con.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Thánh Tử Giê-su và làm Mẹ chúng con, - xin cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm nghiệm tình mẫu tử của Người.

Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.

Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để cứu độ loài người. Này chúng con tuyên xưng Đấng Cứu Độ là Thiên Chúa thật và là người thật, xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Ngày 25 tháng 3

Lễ Truyền Tin Cho Ðức Mẹ

Lễ Trọng

 

Bài Ðọc I: Is 7, 10-14

"Này trinh nữ sẽ thụ thai".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).

Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.

2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.

3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.

4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10

"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia hoặc Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab

(Mùa Chay: bỏ Alleluia)

Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 26-38

"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.

Ðó là lời Chúa.

Mầu Nhiệm Của Việc Con Người Hòa Giải Với Thiên Chúa

(St. Lêô Cả, Epist. 28 ad Flavianum, 3-4: PL 54, 763-767)

 


Thấp hèn được bảo toàn nơi uy nghi, yếu đuối nơi quyền năng và sự chết nơi hằng hữu. Để trả món nợ cho tình trạng tội lỗi của chúng ta, một bản tính bất khả khổ đau đã hợp với một bản tính có thể đau khổ. Bởi thế, để thực hiện việc chữa lành cần thiết cho chúng ta, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người này là con người Giêsu Kitô đã có thể chết đi nơi bản tính này và bất khả tử nơi bản tính kia.


Đấng là Thiên Chúa thật, bởi thế, cũng là Đấng đã được sinh ra trong một bản tính hoàn toàn trọn vẹn của một con người thực sự, toàn thể con người nơi bản tính riêng của Người, toàn thể con người nơi bản tính của chúng ta. Nói về bản tính của mình là chúng ta muốn nói đến những gì Thiên Chúa đã hình thành nơi chúng ta ngay từ ban đầu, và Người cũng đã mặc lấy nó để phục hồi nó.

Bởi vì, nơi Đấng Cứu Thế, không có một dấu vết nào của những gì tên cám dỗ đã mở đường dẫn lối đánh lừa con người tự mình bước vào. Như thế không có nghĩa là vì Người đã chấp nhận tham phần vào nỗi yếu đuối của loài người chúng ta nên Người cũng can dự vào tội lỗi của chúng ta.

Người đã mặc lấy bản tính của một người tôi tớ mà không bị ô nhơ tội lỗi, thăng hóa nhân tính của chúng ta mà không suy giảm thần tính của Người. Người đã tự hư không hóa chính mình; là Đấng vô hình Người đã trở nên hữu hình, là Hóa Công và là Chúa của tất cả mọi sự Người đã muốn trở thành một trong những con người hửu tử chúng ta. Tuy nhiên, đây là việc tự hạ của lòng cảm thương, chứ không phải là sự mất mát của quyền toàn năng. Bởi thế, Đấng tự bản tính là Thiên Chúa đã dựng nên con người cũng đã trở thành chính con người nơi bản tính của một tôi tớ.

Như thế là Con Thiên Chúa đã đi vào cái thế giới thấp hèn này. Người đã từ thiên ngai mà xuống, tuy nhiên Người vẫn không tách mình khỏi vinh quang Cha của Người. Người đã được sinh ra trong một thân phận mới, bằng một cuộc hạ sinh mới.

Người đã được sinh ra trong một thân phận mới, vì vô hình nơi bản tính của mình, Người đã trở nên hữu hình nơi bản tính của chúng ta. Ở ngoài tầm tay với của chúng ta, Người muốn ở trong tầm tay của chúng ta. Hiện hữu trước khi có thời gian, Người bắt đầu hiện hữu vào một khoảnh khắc trong thời gian. Là Chúa của vũ trụ, Người đã che giấu vinh quang vô cùng của mình đi và mặc lấy bản tính của một tôi tớ. Bất khả khổ đau như là một vị Thiên Chúa, Người vẫn không ngại trở thành một con người để có thể chịu khổ. Vốn bất tử, Người đã muốn qui thuận lề luật tử thần.

Đấng là Thiên Chúa thật cũng là người thật. Nơi việc hiệp nhất này không có vấn dề sai trái, miễn là nỗi thấp hèn của loài người và sự cao sang của Thiên Chúa cùng nhau hiện hữu trong một mối liên hệ tương giao.

Như Thiên Chúa không đổi thay nơi việc tự hạ của mình thế nào thì con người cũng không bị mất hút khi được thăng hóa như vậy. Mỗi bản tính thể hiện theo sinh hoạt của mình trong mối hiệp thông với nhau. Ngôi Lời làm những gì hợp với mình, xác thịt hoàn tất những gì hợp với xác thịt.

Một bản tính thì rạng rỡ với những phép lạ, còn bản tính kia lại trở thành nạn nhân của những tổn thương. Như Ngôi Lời không mất đi thân phận ngang hàng với vinh quang của Cha thế nào, xác thịt cũng không bỏ mất bản tính của loài người chúng ta như vậy.

Cần phải lập đi lập lại mãi mãi là, cùng một con người duy nhất lại thật sự là Con Thiên Chúa và cũng thực sự là con của con người. Người là Thiên Chúa, ở chỗ từ ban đầu đã có Lời và Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa. Người là con người, ở chỗ Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta.
 


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1375-1376)
 


 


Toàn Thể Hoàn Vũ Đợi Chờ Lời Mẹ Maria Đáp Ứng

(St. Bênađô, viện phụ, Hom. 4:8-9: Ipera onmia, Edit. Cistere: 4 [1966]: 53-54)

 


Ôi Đức Nữ Trinh, Đức Nữ đã nghe thấy rằng Đức Nữ sẽ được thụ thai và hạ sinh một người con trai; Đức Nữ đã nghe thấy rằng việc này xẩy ra không bởi loài người mà là bởi Thánh Linh. Vị thiên thần đợi chờ câu trả lời của Đức Nữ; đã đến lúc ngài phải trở về cùng Thiên Chúa là Đấng đã sai ngài. Ôi Vị Nữ Lưu, cả chúng tôi cũng đợi chờ Người nữa, đợi chờ lời thương cảm của Người; bản án luận phạt đang đè nặng trên chúng tôi đây này.


Giá cứu chuộc của chúng tôi được trao cho Người. Chúng tôi sẽ được lập tức giải thoát miễm là Người tỏ ý ưng thuận. Nơi Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, tất cả chúng tôi đã được hiện hữu, thế nhưng, này đây chúng tôi đã chết. Bằng lời đáp thưa ngắn ngủi của Người, chúng tôi sẽ được tái tạo để nhận lại sự sống. 

Ôi Nữ Trinh ưu ái, trong cuộc lưu đầy khỏi Địa Đường, cùng với gia đình sầu khổ của mình, Adong đẫm lệ van xin Người hãy đáp lại. Abraham cầu khẩn Người làm việc này. Đavít van xin Người làm điều ấy. Tất cả mọi vị thánh tổ phụ khác là tổ tiên của Người trong chốn tối tăm chết chóc cũng xin Người điều này. Đó là điều mà toàn thể hoàn vũ qùi dưới chân Người đợi trông. Làm như vậy là phải, vì lời của Người ảnh hưởng đến niềm an ủi cho kẻ bất hạnh, là giá chuộc cho kẻ tù đầy, là tự do cho kẻ bị luận tội, thật vậy, là cứu độ cho tất cả mọi con cái của Adong, cho toàn thể giòng giống của Người đấy.

Ôi Trinh Nữ, Người hãy trả lời nhanh lên. Người hãy đáp lại cho vị thiên thần ngay đi, đúng hơn, Người hãy đáp lại lời Chúa qua vị thiên thần ngay đi. Một câu đáp lại là Người lãnh nhận Lời của Thiên Chúa. Một lời lên tiếng là Người thụ thai Lời thần linh. Một lời thoát ra khỏi cửa miệng là Người được ôm lấy Lời hằng sống. 

Vậy tại sao Người lại chần chờ, tại sao Người lại lo sợ cơ chứ? Người hãy tin tưởng, chúc tụng và nhận lãnh. Lòng khiêm nhượng cần phải cương quyết, đức đoan trang cần phải tin tưởng. Đây không phải là lúc của đức đơn sơ ngay lành mà bỏ mất đức khôn ngoan. Ôi Nữ Trinh khôn ngoan, nơi vấn đề này, xin đừng sợ tự tin. Tuy thinh lặng dịu dàng có đáng yêu nhưng lúc này đây lời tỏ lòng thuận phục lại cần thiết hơn. Ôi Đức Nữ Trinh, xin Người hãy mở lòng tin tưởng, hãy mở miệng chúc tụng, mở lòng cho Đấng Hóa Công. Kià, Đấng tất cả mọi dân nước ước mong đang đứng chờ ở ngoài, g cửa muốn vào. Nếu vì Người cứ trù trừ mà Ngài đành bỏ ra đi thì Người sẽ phải đau buồn đi tìm kiếm Ngài trở lại, Đấng Người mến yêu. Người hãy chỗi dậy đi, mau lên, mở lời. Hãy chỗi dậy trong tin tưởng, hay mau mắn trong sùng mộ, hãy mở lời chúc tụng và tạ ơn. Người nói: Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin thực hiện nơi tôi theo như lời ngài.



(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 69-70)

 

Maria là một Tân Evà đã tự nguyện tuân phục Thiên Chúa
 

Nhận định về biến cố Truyền Tin, Công Đồng Chung Vaticanô II đa đặc biệt nhấn mạnh đến giá trị của việc Mẹ Maria đa tỏ ra ưng thuận chấp nhận nhưng lời từ vị sứ giả của Thiên Chúa. Không giống như nhưng gì đa xẩy ra ở các trình thuật Thánh Kinh tương tự, vị thiên thần đa thực sự đợi chờ việc ưng thuận của Mẹ Maria: “Vị Cha của nguồn mạch xót thương muốn việc Nhập Thể phải được mở lối bằng việc ưng thuận về phía của người mẹ tiền định, để, như một người nư đa góp phần vào việc mang lại sự chết thế nào thì một người nư cung phải đóng góp vào sự sống như vậy” (Lumen Gentium, 56).

Hiến chế Lumen Gentium đa nhắc lại sự tương phản giưa tác hành của Evà và tác hành của Mẹ Maria, một tác hành đa được Thánh Irênê diễn tả thế này: “Như nhân vật trước là Evà đa bị nhưng lời của một thiên thần dụ dỗ làm cho bà bỏ Thiên Chúa bằng việc bất tuân phục lời của Ngài thế nào, thì nhân vật sau là Mẹ Maria đa lanh nhận tin mừng từ lời loan báo của một thiên thần một cách cởi mở đối với Thiên Chúa bằng việc tuân phục lời Ngài như vậy; như nhân vật trước bị dụ dỗ đến độ tỏ ra bất tuân phục Thiên Chúa thế nào thì nhân vật sau tỏ ra thâm tín tuân phục Thiên Chúa như vậy, bởi thế, Trinh Nư Maria đa trở nên người bênh chưa cho trinh nư Evà. Và như loài người đa bị chết bởi một trinh nư thế nào thì cung được giải thoát bởi một Vị Nư Trinh như vậy; thế là việc bất phục tùng của một trinh nư đa được cân đối lại bằng việc phục tùng của một Vị Nư Trinh” (Adv. Haer., V, 19, 1).

2-Trong việc nói lên lời “xin vâng” toàn vẹn của mình đối với dự án thần linh, Mẹ Maria hoàn toàn tự do trước nhan Thiên Chúa. Đồng thời Mẹ cung cảm thấy bản thân mình có trách nhiệm đối với tương lai nhân loại, một tương lai có liên hệ đến lời thân thưa của Mẹ. 
Thiên Chúa đặt định mệnh của tất cả loài người vào tay của một người nư trẻ trung. Lời “xin vâng” của Mẹ Maria là căn bản cho việc hoàn tất dự án mà Thiên Chúa đa yêu thương sửa soạn cho việc cứu độ thế giới. 
Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm tắt một cách ngắn gọn và đầy đủ giá trị quyết liệt của việc Mẹ Maria ưng thuận đối với toàn thể loài người trong dự án cứu độ thần linh như sau: “Trinh Nư Maria ‘cộng tác vào việc cứu độ loài người bằng đức tin tự do và bằng đức tuân phục’. Mẹ đa ‘nhân danh tất cả bản tính loài người’ thưa tiếng xin vâng. Bằng việc tuân phục của mình, Mẹ đa trở nên một Tân Evà, mẹ của sinh linh” (số 511).

 

3-Bằng việc làm của mình, Mẹ Maria đa nhắc nhở mỗi một người chúng ta về trách nhiệm nghiêm chỉnh trong việc chấp nhận dự án của Thiên Chúa đối với cuộc đời của chúng ta. Trong việc hoàn toàn tuân phục ý định cứu độ của Thiên Chúa, một ý định được bộc lộ qua lời nói của thiên thần, Mẹ đa trở nên một mẫu gương cho nhưng ai Chúa tuyên bố cho biết là có phúc, vì họ “nghe lời Thiên Chúa và tuân giư” (Lk 11:28). Để trả lời cho người đàn bà trong đám đông chúc tụng Mẹ Người có phúc, Chúa Giêsu đa tiết lộ lý do thực sự làm cho Mẹ Maria được diễm phúc, đó là việc Mẹ gắn bó với ý muốn của Thiên Chúa, một nỗi gắn bó khiến Mẹ chấp nhận vai trò Thiên Chúa Thánh Mẫu.


Trong Thông Điệp Redemptoris Mater, Tôi đa cho thấy là vai trò làm mẹ thiêng liêng mới mẻ được Chúa Giêsu nói tới ấy chẳng qua chỉ liên quan đến một mình Mẹ mà thôi. Thật vậy, “không phải hay sao, Mẹ Maria là người đầu tiên trong số ‘nhưng ai nghe lời Thiên Chúa và thực hiện’? Thế nên, niềm hạnh phúc Chúa Giêsu nói tới khi trả lời cho người đàn bà trong đám đông không thực sự ám chỉ về Mẹ hay sao?” (số 20). Bởi vậy, theo một ý nghĩa nào đó, Mẹ Maria đa được công nhận là người môn đệ đầu tiên của Con Mẹ (x cùng nguồn vừa dẫn), và bằng mẫu gương của mình, Mẹ mời gọi tất cả mọi tín hưu hay quảng đại đáp lại ơn Chúa.


4-Công Đồng Chung Vaticanô II đã cắt nghĩa việc toàn hiến của Mẹ Maria cho con người Chúa Kitô cũng như cho công cuộc của Chúa Kitô như thế này: “Như một nữ tỳ của Chúa Mẹ đã toàn hiến bản thân mình cho con người của Con mình cũng như cho công cuộc của Con mình, với tư cách phụ giúp Người cũng như đóng vai trò cùng với Người trong việc phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc, nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng” (Lumen Gentium, 56).


Đối với Mẹ Maria, việc Mẹ hiến thân cho con người của Chúa Giêsu cũng như cho công việc của Chúa Giêsu nghĩa là việc Mẹ hiệp nhất với Con Mẹ, việc Mẹ dấn thân nuôi dưỡng Con Mẹ phát triển về phương diện loài người cũng như việc Mẹ cộng tác với công cuộc cứu độ của Người.


Mẹ Maria thực hiện khía cạnh cuối cùng trong việc hiến thân cho Chúa Giêsu này với tư cách “phụ giúp Người”, tức với thân phận phụ thuộc, thân phận là hoa trái của ân sủng. Tuy nhiên, đây là một việc cộng tác thực sự, vì việc cộng tác này được thực hiện “cùng với Người”, và kể từ biến cố Truyền Tin việc cộng tác ấy cho thấy Mẹ tích cực tham phần vào công cuộc cứu chuộc. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định: “Bởi thế, các Nghị Phụ thực sự thấy Mẹ Maria không phải chỉ được Thiên Chúa sử dụng một cách thụ động, mà là chủ động cộng tác vào công cuộc cứu độ loài người bằng đức tin và đức tuân phục. Như Thánh Irênêô nói, vì nhờ vâng phục, Mẹ ‘đã trở nên căn do cứu độ cho chính bản thân Mẹ cũng như cho toàn thể loài người’ (Adv. Haer. III, 22, 4)” (cùng nguồn vừa dẫn).


Liên kết với việc Chúa Kitô chiến thắng tội lỗi gây ra do nhị vị cha mẹ nguyên tổ của chúng ta, Mẹ Maria đã xuất hiện như là “mẹ sinh linh” thực sự (cùng nguồn vừa dẫn). Tự nguyện tỏ ra vâng phục chấp nhận dự án thần linh, vai trò mẫu thân của Mẹ đã trở nên nguồn mạch sự sống cho toàn thể loài người.


(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 11/9/1996, 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Tuần san L’Osservatore Romano, ngày 18/9/1996)


 

 

Nếu ngày trong tuần không bị Lễ Trọng Truyền Tin át đi thì Phụng Vụ Lời Chúa như sau:

 


Thứ Sáu


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Hs 14, 2-10

"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lấy lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: "Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Asurô sẽ không giải thoát chúng tôi, chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót".

Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ô-liu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban.

Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả.

Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 80, 6c-8a. 8bc-9. 10-11ab. 14 và 17

Ðáp: Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, hãy nghe Ta răn bảo (x. c. 11 và 9a).

Xướng: 1) Tôi đã nghe lời nói mới lạ rằng: Ta đã cứu vai ngươi khỏi mang gánh nặng, tay ngươi không còn phải mang thúng mủng. Trong cảnh gian truân ngươi cầu cứu, và Ta giải thoát ngươi. - Ðáp.

2) Ta đáp lời ngươi từ trong áng mây vang ran sấm sét, Ta thử thách ngươi gần suối nước Mêriba. Hỡi dân tộc Ta, hãy nghe Ta răn bảo, Israel, ước chi ngươi biết nghe lời Ta! - Ðáp.

3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập. - Ðáp.

4) Phải chi dân của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối Ta mà ăn ở: Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm:

Phúc cho những ai thành tâm thiện chí giữ lấy lời Chúa, và nhẫn nại sinh hoa kết quả.

 

Phúc Âm: Mc 12, 28b-34

"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"

Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

 Stewardship Reflection on Lectionary Readings: October 31, 2021 - Catholic  Stewardship Consultants, Inc.

 

Suy niệm


  Vì chỉ có một "Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Gioan 17:3) mà ý thức thần linh về Ngài trong nội tâm của con người cần phải trở thành một mối liên hệ thần linh với Ngài trong đời sống đức tin của họ

 

 

Hôm nay, Thứ Sáu trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa trong ngày cùng nhắm đến một thực tại thần linh duy nhất, cũng là một ơn gọi duy nhất vô cùng quan trọng cho phần rỗi của con người, đó là "Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người" (Bài Phúc Âm), và chính vì thế mà "chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra" (Bài Đọc 1).
Thật vậy, muốn được cứu rỗi hay được sự sống đời đời con người thụ tạo và tội lỗi cần phải nhận biết Thiên Chúa (xem Gioan 17:3; 1Timothêu 2:4-5), mà là một nhận biết về một Vị Thiên Chúa như Ngài là, tức đúng như Ngài tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, nhất là nơi chính Chúa Giêsu Kitô Con Ngài là tột đỉnh mạc khải thần linh của Ngài và là tất cả mạc khải thần linh của Ngài, "khi đến thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), chứ không phải là một Vị Thiên Chúa như con người nghĩ tưởng hay mong muốn, như thể Thiên Chúa là một thứ ngẫu tượng của họ hơn là một Thực Tại Thần Linh Chân Thiện Mỹ mà họ phải tìm kiếm, ước vọng và hiệp thông.
Nếu loài người nhận biết Thiên Chúa đúng như Ngài tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng lịch sử của họ cho tới "khi thời gian viên mãn" là thời điểm Con Ngài "được hạ sinh bởi một người nữ" (Galata 4:4), thì con người sẽ thấy như Bài Phúc Âm lập lại ý thức thần linh quan trọng nhất trong Cựu Ước, rằng: "Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất", ngoài Ngài ra không có một chúa nào khác, không có một thần nào khác trên trời hay dưới đất này. 
Và chính vì thế, vì chỉ có một "Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Gioan 17:3) mà ý thức thần linh về Ngài trong nội tâm của con người cần phải trở thành một mối liên hệ thần linh với Ngài trong đời sống đức tin của họ: "ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". 

Nghĩa là con người cần phải "yêu mến Thiên Chúa" với tất cả con người mình, hay ngắn gọn hơn, con người cần phải hết mình yêu mến Thiên Chúa. Tức là họ cần phải nhận thức được mình thuộc về Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương mình, nên muốn đáp ứng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa để được thực sự và trọn vẹn hiệp nhất nên một với Ngài, một cuộc hiệp thông thần linh là mục đích tối hậu cho việc Ngài có ý dựng nên con người.
"Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng": nghĩa là với tất cả tình yêu chân thành nhất và trọn hảo nhất của con người, ở chỗ, ít là, về phần tiêu cực, họ không xu hướng, tìm kiếm và dính bén một tạo vật nào khác, không coi một cái gì hơn Thiên Chúa, dù là sự vật (thế gian) hay sự việc (ma quỉ) hoặc chính bản thân mình (xác thịt). Đến độ, họ có được một tấm lòng như tạo vật đệ nhất về ân sủng Maria: "Tôi không hề biết đến nam nhân (ám chỉ tiêu biểu cho tất cả mọi đối tượng tạo vật không phải Thiên Chúa)" (Luca 1:34).
"Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn": nghĩa là tâm hồn nhận biết "Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất" thì chẳng những về phần tiêu cực không xu hướng, tìm kiếm và dính bén một tạo vật nào khác, không coi một cái gì hơn Thiên Chúa, về phần tích cực chỉ có và chỉ còn một ý nguyện duy nhất đó là "nguyện danh Cha cả sáng" nơi tinh thần đơn sơ bé nhỏ, như một Trinh Nữ Nazarét Maria là "tôi tớ Chúa" (Luca 1:38).
"Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết trí khôn": nghĩa là tâm hồn nhận biết "Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhấtthì chẳng những sống tinh thần đơn sơ bé nhỏ, như một Trinh Nữ Maria là "tôi tớ Chúa" (Luca 1:38), mà còn, nơi tất cả mọi suy tính, chọn lựa và quyết định của mình, làm sao để thể hiện ý "nguyện nước Cha trị đến", nghĩa là để cho Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô qua đời mình càng gây tác dụng thần linh trên thế gian này.

"Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết sức ngươi": nghĩa là tâm hồn nhận biết "Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhấtsống làm sao để chẳng những thể hiện được các ý "nguyện danh Cha cả sáng" và "nước Cha trị đến" mà còn "ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" nữa, ở chỗ để cho Thánh Linh là Đấng "thấu suốt thâm cung của Thiên Chúa" (1Corinto 2:10) "dẫn vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là được hiệp thông thần linh.

Và cũng chỉ khi nào tâm hồn yêu mến "Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất" hết mình như thế, ở chỗ "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức", họ mới có thể "được hiệp nhất nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21), và nhờ đó họ mới có thể "yêu nhau như Thày yêu thương các con" (Gioan 13:34,15:12), một mức độ đức ái trọn hảo là tột đỉnh của "giới răn thứ hai", một giới răn thương yêu tha nhân trong Cựu Ước chỉ đòi buộc "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". 
Theo chiều hướng mạc khải thần linh của Thiên Chúa trong lịch sử của dân Do Thái, ở chỗ Ngài đã liên lỉ và hết cách, theo khả năng tiếp nhận của dân Do Thái, tỏ mình ra cho họ thấy Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài Ngài ra không còn chúa tể hay thần linh ngẫu tượng hoặc tà thần nào khác, Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Hôsê trong Bài Đọc 1 hôm nay, đã kêu gọi dân của Ngài hãy tái ý thức thần linh về Ngài, chứ đừng tiếp tục theo đuổi đường lối tội lỗi và tôn sùng ngẫu tượng của họ, hoàn toàn phản lại với mạc khải thần linh của Ngài:
"Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lấy lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: 'Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Asurô sẽ không giải thoát chúng tôi, chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót".
Đúng thế, chỉ ở "nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót", vì họ đã phủ nhận các thứ ngẫu tượng và tà thần mà họ tin tưởng và cậy dựa trước kia, nên họ trở thành như "kẻ mồ côi", nhưng nhờ đó mà họ lại "tìm được sự thương xót" từ chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họỞ chỗ, như chính Ngài tiếp tục, ở Bài Đọc 1 hôm nay, bày tỏ tình yêu thương chăm sóc của Ngài đối với họ, nhờ đó họ được phát triển hết cỡ, xứng với tầm vóc của họ như Thiên Chúa muốn như sau:
"Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ô-liu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban. Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả".
Bài Đáp Ca hôm nay quả thực như còn văng vẳng tâm tình vô cùng yêu thương của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất trong Bài Đọc 1 hôm nay, những tâm tình thiết tha với phần rỗi của loài tạo vật được Ngài dựng nên, với hạnh phúc chân thật của dân Ngài, những gợi nhớ để dân Ngài từ bỏ tà thần ngẫu tượng mà trở về với Ngài mà được sự sống:
1) Tôi đã nghe lời nói mới lạ rằng: Ta đã cứu vai ngươi khỏi mang gánh nặng, tay ngươi không còn phải mang thúng mủng. Trong cảnh gian truân ngươi cầu cứu, và Ta giải thoát ngươi. 
2) Ta đáp lời ngươi từ trong áng mây vang ran sấm sét, Ta thử thách ngươi gần suối nước Mêriba. Hỡi dân tộc Ta, hãy nghe Ta răn bảo, Israel, ước chi ngươi biết nghe lời Ta! 
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập. 
4) Phải chi dân của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối Ta mà ăn ở: Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. 

 


Thứ Bảy


 

Lời Chúa

Bài Ðọc I: Hs 6, 1b-6

"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".

Trích sách Tiên tri Hôsê.

Ðây Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm Ta. "Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".

Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab

Ðáp: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những hy sinh với lễ toàn thiêu. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

 

Phúc Âm: Lc 18, 9-14

"Người thu thuế ra về được khỏi tội".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi". Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".

Ðó là lời Chúa.

Luke 18:9-14 – Interrupting the Silence


Suy niệm

 


 

 

 Hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay  

 

 

 

Ngày Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, Giáo Hội chọn đọc các bài phụng vụ lời Chúa cho ngày này có nội dung đề cao giá trị của đức bác ái yêu thương cao cả và bất khả thiếu trong đời sống đạo của Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, hơn là hy tế hay lễ vật của con người dâng lên Thiên Chúa, dù tự bản chất, các thứ hy tế hay lễ vật ấy vốn cao quí, tốt lành và cần thiết, liên quan đến phận vụ tôn thờ của con người đối với Thiên Chúa.
Trước hết là dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ở Bài Phúc Âm hôm nay, một dụ ngôn được Chúa Giêsu sử dụng để vừa cảnh giác vừa nhắc nhủ "những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác". Nội dung của dụ ngôn như Chúa dạy như sau:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện này chúng ta thấy một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, 1- về nhân vật cầu nguyện: một người biệt phái là thành phần vốn tự nhận mình là công chính ở chỗ tuân giữ lề luật Chúa, còn người kia là một viên thu thuế vốn bị coi là gian tham tội lỗi; 2- về thái độ cầu nguyện: người biệt phái thì kiêu căng tự phụ tự mãn đến độ khinh người, còn người thu thuế thì biết mình, hạ mình và xin thương xót bản thân tội lỗi của mình; 3- về công hiệu cầu nguyện: người biệt phái tiếp tục sa lầy trong tội, còn người thu thuế được công chính hóa.
Thật vậy, nếu tự bản chất, con người là loài bất toàn và tội lỗi, thì họ chỉ nên thánh chỉ khi nào được tham phần vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa hay được Thiên Chúa toàn thiện thánh hảo thông sự thánh thiện của Ngài ra cho. Mà làm thế nào để được tham phần vào sự thánh thiện của Thiên Chúa, hay được Ngài thông sự thánh thiện của Ngài ra cho, nhờ đó con người có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48)? Nếu không phải được hiệp thông thần linh với Ngài!
Đúng thế, trước hết, con người được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa chính thức ở chỗ lãnh nhận Phép Rửa, nhờ đó họ chẳng những, về phần tiêu cực, được tha tội (nguyên tội, và tư tội nếu là người lớn), mà còn, về phần tích cực, được trở nên con cái của Thiên Chúa, nghĩa là được thông phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa, sống sự sống thần linh với Thiên Chúa, nghĩa là họ hoàn toàn được thánh hóa, được gọi là thánh nhân, như chúng ta vẫn thấy Thánh Phaolô gọi Kitô hữu các giáo đoàn được ngài gửi thư cho.
Tuy nhiên, không phải sau khi được Rửa Tội, được thánh hóa, con người Kitô hữu sẽ không bao giờ phạm tội lỗi nữa, không thể nào trở thành tội nhân nữa. Trái lại, chính vì nơi bản tính bị vướng mắc nguyên tội của họ, cho dù đã được thanh tẩy bởi Phép Rửa, hậu quả của nguyên tội là đau khổ và chết chóc vẫn xẩy ra cho cuộc đời họ, và mầm mống tội lỗi cùng dấu tích của nguyên tội là đam mê nhục dục và tính mê nết xấu vẫn còn nơi bản tính của họ. 

Bởi thế, Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô là phần tử của Nhiệm Thể Giáo Hội vẫn ở trong tình trạng lưỡng diện, lưỡng thể hay "lưỡng đảng": vừa làm con Thiên Chúa (bởi Ấn Tín Rửa Tội và nhờ Thánh Sủng) vừa làm nô lệ cho ma quỉ (khi sống theo xác thịt, chiều theo cám dỗ, sa ngã phạm tội). 
Chính vì con người Kitô hữu ở trong tình trạng ác liệt "nội chiến từng ngày", đúng hơn từng giây từng phút như thế, giữa lúa tốt ân sủng sự sống và cỏ lùng tội lỗi chết chóc, mà Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng đã ban cho Kitô hữu là con cái của Ngài có đủ phương tiện thần linh để có thể tiếp tục "ở lại với tình yêu của Thày" (Gioan 15:9), "sống trong Thày như Thày sống trong các con" (Gioan 15:4) nhờ đó mà "sinh nhiều hoa trái" (Gioan 15:5).

Các phương tiện thần linh ấy là các Bí Tích Thánh, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải, hai Bí Tích thường xuyên liên quan đến mối hiệp thông thần linh của Kitô hữu với Thiên Chúa, nhờ đó, dù con người Kitô hữu có trở thành đứa con hoang đàng phung phá đến đâu chăng nữa họ vẫn có thể trở về (Hòa Giải) với Người Cha yêu thương vô cùng nhân hậu của mình, tiếp tục tham dự vào bàn tiệc với Cha (Thánh Thể)
Một trong những trường hợp điển hình nhất cho người con hoang đàng phung phí đó là người tử tội trộm cắp được đóng đanh ở bên phải Chúa Giêsu, một con người đã quả thực có một thiên tài bẩm sinh trộm cắp, ăn trộm được cả nước thiên đàng một cách hết sức tài tình, ngoạn mục, chỉ trong tích tắc, và vào chính giây phút cuối cùng sau cuộc đời đầy những tội ác của mình, đến độ, là một con người duy nhất trên trần gian này được chính Chúa Giêsu phong thánh cho, như ĐTC Phanxicô đã có lần nhận định như thế.

Cả người trộm lành và người thu thuế trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện hôm nay đều được công chính hóa, được thánh hóa một cách đốt giai đoạn - short cut. Không phải đốt giai đoạn ở chỗ thời gian xẩy ra quá ngắn ngủi, thật mau chóng, mà ở chính tác động khôn lanh chộp bắt của họ, chộp bắt một cách chính xác, chộp bắt một cách đúng lúc, những gì cần thiết nhất và quan trọng nhất, đó là chính lòng thương xót Chúa. Ở chỗ, họ đã thật lòng tỏ ra nhận biết mình, hạ mình và xin thương xót mình. Thế là đủ. Thế là họ được tràn đầy lòng thương xót Chúa. 

Đó là lý do, Chúa Giêsu đã nói với Chị Thánh Faustina rằng: "Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật ký 1576). Không phải hay sao, vực thẳm giữa họ là tạo vật với Ngài là Thiên Chúa, như từ đất tới trời, được lấp đầy khi "Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và giữa họ là tội nhân với Ngài là Tình Yêu, như từ hỏa ngục lên tới thiên đàng, đã được lấp đầy bằng chiều cao của cây Thánh Giá Người tử nạn.  

Thế nên, hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đúng như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với Chị Thánh Faustina: "Các đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha" (Nhật ký 1784). Người chia sẻ Lời Chúa này vẫn hằng xin Chúa cho con luôn là một tội nhân mà luôn cảm thấy mình đáng thương, hơn là một thánh nhân mà lại cứ tưởng người khác đáng thương hơn mình.   

Vì nếu bản chất của Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu, lúc nào cũng muốn tỏ ra hết cỡ bản chất thần linh này của mình để chứng thực mình là ai và như thế nào, thì ở đâu hay con người nào càng trở thành trống rỗng, bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung và tin tưởng của họ, thì họ càng được Ngài thông bản tính vô cùng trọn lành của Ngài là lòng thương xót cho họ, để lấp đầy tất cả mọi yếu hèn, khiếm khuyết, sai lầm và tội lỗi của họ, nhờ đó, bản thân họ hóa thánh, tức trở thành như là một cuộc thần hiển của Ngài, như một bụi gai (bản tính tội lỗi) bốc lửa (được thương xót) mà không bị thiêu rụi (không kiêu hãnh vì được thương) - (xem Xuất Hành 3:2).

Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu lúc nào cũng muốn tỏ tình với con người tội lỗi yếu hèn và sẵn sàng thông mình ra cho họ khi họ nhận biết tình yêu của Ngài, đáp ứng tình yêu của Ngài, một tình yêu vô cùng nhân hậu bao giờ cũng như một ngọn lửa thần linh bùng lên bất cứ lúc nào ở những bụi gai nhân tính tội lỗi của con người. Bài Đọc 1 hôm nay còn cho thấy "bụi gai" đây còn thể thể hiểu là các thứ khốn khổ xẩy ra cho con người để đánh động và thức tỉnh họ, nhờ đó tâm linh của họ có thể nhận biết ("bốc lửa") lòng thương xót Chúa mà trở về cùng Thiên Chúa, Đấng qua miệng Tiên Tri Hôsea đã nhận định về dân của Ngài như sau:
"Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm Ta. 'Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Cho dù Thiên Chúa biết cái khốn khổ khiến dân Ngài trở về với Ngài đấy, như đã từng xẩy ra nhiều lần, xẩy ra liên tục trong giòng lịch sử của họ, đến độ Ngài không thể nào rời xa họ, luôn lợi dụng cái yếu hèn và những lần hèn yếu của họ để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó mới có thể liên lỉ giữ họ ở gần Ngài, bằng không họ cứ theo khuynh hướng tự nhiên rời xa Ngài, từ đời nọ đến đời kia.
Thế nhưng hình như họ đã nhờn với mạc khải thần linh, đến độ lòng thương xót của Ngài như không còn tác dụng gì nơi họ nữa, đến độ họ như đã coi thường Ngài, có trở về với Ngài cũng chỉ tạm thời, rồi lại tiếp tục sống cuộc đời hoang đường như bản chất bất di bất dịch của họ, như bản chất bẩm sinh của họ, thế mà Ngài vẫn không bỏ họ và làm hết cách để cứu họ, chỉ cần họ tin vào Ngài, thế thôi, đó là điều kiện tối yếu, quan thiết hơn tất cả thứ tình yêu hời hợt nông cạn của họ và hy lễ bề ngoài họ dâng cho Ngài:
"Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu".
Bài Đáp Ca hôm nay quả thực chất chứa tất cả những tâm tình và ý thức thần linh mà Thiên Chúa yêu thương vô cùng nhân hậu mong muốn nơi dân của Ngài cũng như nơi những ai khao khát ơn cứu độ của Ngài:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát, khiêm cung. 
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những hy sinh với lễ toàn thiêu.