SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Chay Tuần V 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 43, 16-21

"Ðây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 125, 1-2ab. 2cd-3. 4-5. 6

Ðáp: Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan (c. 3).

Xướng: 1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan. - Ðáp.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. - Ðáp.

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 3, 8-14

"Vì Ðức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt trong mọi sự, và tôi trở nên giống Người trong sự chết".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt trước cái lợi tuyệt vời là được biết Ðức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại.

Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang đuổi theo để chiếm lấy, bởi vì chính tôi cũng đã được Ðức Giêsu Kitô chiếm lấy. Anh em thân mến, chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được, nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b

Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".

 

Phúc Âm: Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy niệm

 

Sự Sống trên đất 


Hôm nay, Mùa Chay bắt đầu bước vào Tuần thứ V, tuần cuối cùng trước Tuần Thánh. Tiến trình phụng vụ lời Chúa càng tiến đến gần Mầu Nhiệm Vượt Qua ở Tuần Thánh nói chung và Tam Nhật Vượt Qua nói riêng càng cho thấy một Đấng Thiên Sai sắp sửa mang lại ơn cứu độ cho nhân loại.  

Nếu Phúc Âm là bài đọc chính trong phần phụng vụ lời Chúa, thì các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho 5 Chúa Nhật của Mùa Chay được diễn tiến theo chiều hướng Vượt Qua nơi chủ đề chung cho cả Mùa Chay lẫn Tuần Thánh: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17).

Đúng thế, Chúa Nhật 1 và 2 về 2 biến cố mang tính cách Vượt Qua của Chúa Giêsu là 40 ngày chay tịnh và bị cám dỗ (Chúa Nhật I) và biến hình (Chúa Nhật II), được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại theo đúng chu kỳ phụng niên A (Matheu), B (Marco) và C (Luca) của mình.

Sau đó, từ tuần III trở đi, chu kỳ phụng vụ lời Chúa cho chu kỳ Năm A và B hoàn toàn theo Phúc Âm Thánh Gioan, còn Phúc Âm Thánh Luca chu kỳ C cho đến Chúa Nhật V này mới theo Thánh Gioan. Bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật V chu kỳ C này lại rất thích hợp với tính chất đặc thù về Lòng Thương Xót Chúa của Phúc Âm Thánh ký Luca. Đó là bài Phúc Âm về thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.

Thật ra, nguyên Phúc Âm Thánh Luca vốn là Phúc Âm về Lòng Thương Xót Chúa có đủ những câu chuyện thật, như truyện người đàn bà ngoại tình trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan cho Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay. Chẳng hạn truyện về người nữ tội lỗi có tiếng trong thành mà chúng ta vẫn cho là Mai Đệ Liên (xem Luca 7:36-50). Tuy nhiên, truyện về người nữ tội lỗi được cho là Mai Đệ Liên này có tính cách thống hối nhiều hơn là chính Lòng Thương Xót Chúa, một đặc điểm nổi bật trong truyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan hôm nay, một chiều hướng về Lòng Thương Xót Chúa của chu kỳ Năm C cho 3 tuần cuối Mùa Chay: 3-4-5.

Thật vậy, từ Chúa Nhật thứ 3 sang Chúa Nhật thứ 4 tuần vừa rồi và cho đến Chúa Nhật thứ 5 hôm nay, cả 3 bài Phúc Âm đều nói về Lòng Thương Xót Chúa: Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật III Mùa Chay về sự nhẫn nại chờ đợi cây vả sinh hoa trái, và Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật IV Mùa Chay về dụ ngôn người cha nhân hậu với hai đứa con đáng thương. Còn bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan hôm nay cũng về Lòng Thương Xót Chúa, nhưng không phải qua dụ ngôn như 2 bài Phúc Âm của Thánh ký Luca 2 tuần trước, mà là ở một trường hợp thực tế, có thật, cụ thể.

Lòng Thương Xót Chúa đối với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình này không phải ở chỗ chẳng để ý gì đến tội của chị đã phạm, mà chỉ biết bênh vực chị cho chị khỏi bị ném đá chết về phần xác. Trái lại, Chúa Giêsu, hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa, đã cho chúng ta thấy cách thức đối xử của Lòng Thương Xót Chúa. Ở chỗ, Người đã tỏ lòng thương xót trước và đề cập đến tội lỗi sau, nghĩa là đi từ tình thương đến công lý chứ không nhắm đến tội lỗi sa phạm của tội nhân trước con người yếu hèn của tội nhân.

Đó là lý do, trong khi thành phần bắt giải nữ đương sự ngoại tình bị bắt quả tang này đến với Chúa Giêsu và hỏi Người "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?", Chúa Giêsu đã vẫn giữ thinh lặng không trả lời gì hết. Không phải vì Người bị hỏi bất ngờ nên bị bí không thể trả lời ngay cho họ, nên dùng kế hoãn binh để tìm câu trả lời cho họ, nhờ đó mới có thể tránh được âm mưu của họ: "Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người". 

Thật ra, Người đã trả lời cho họ rồi, ở những gì Người thay vì nói thì "cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất". Chắc chắn là họ cũng thắc mắc là tại sao Người không chịu trả lời họ mà lại có một thái độ kỳ cục như thế, và chắc chắn họ đã để ý thấy những gì Người viết trên đất bấy giờ, nhưng không hiểu được ý nghĩa của những gì Người viết, nên "họ cứ hỏi mãi", tưởng rằng lần này họ nắm chắc phần thắng trong tay, đã gài bẫy bắt được mồi ngon, chứ không bị Người làm cho cứng họng như các lần trước nữa. Bởi thế, "Người đứng lên và bảo họ: 'Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi'. Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất".

Không ngờ cái độc chưởng đánh vào khoảng không, không nhắm thẳng vào một ai, không đánh thẳng vào kẻ nào hung hăng nhất trong họ, không tấn công kẻ nào đại diện họ lên tiếng hỏi Người, thế mà, Thánh ký Gioan đã ghi nhận cho thấy cái độc chưởng đã trở thành như một cơn lốc xoáy (tornado) bất ngờ từ đâu tới cuốn họ bay đi mất hết, một cách rất thứ tự lớp lang, hết sức ngoạn mục và tài tình khôn tả: "Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó". 

Để rồi, không thấy họ hỏi nữa, hỏi đến lần thứ ba và thấy im ắng như chẳng còn ai ở đó nữa, Chúa Giêsu đã dừng tay viết trên đất mà đứng lên. Thật ra, cho dù tỏ ra bình thản "lấy ngón tay viết trên đất", Chúa Giêsu vẫn theo dõi động tĩnh ra sao, và Người đã biết chắc chắn được rằng không một ai trong những con người hùng hổ và sát máu ấy, chỉ muốn sử dụng chân lý (luật lệ) để sát phạt phạm nhân, thì cho dù họ có duy luật đến đâu, mà càng duy luật họ lại càng bị dội lại, càng không thể nào chịu nổi cái độc chưởng kinh hoàng khủng khiếp của Người như thế, một độc chưởng Người chưa bao giờ sử dụng và chưa hề xuất chiêu một cách thần lực như thế. 

Nhưng cái độc chưởng của Người không hề tác hại và hất văng đi chính phạm nhân đương sự, một người phụ nữ ngoại tình vẫn đang e thẹn đứng lại, hoàn toàn câm lặng, không biết nói năng gì với Người là Đấng thần diệu, Đấng có thể chỉ cần nói một câu mà khiến nàng thoát bị ném đá chết. Có thể tình hình xẩy ra một cách bất ngờ và lạ lùng chưa từng có như thế, ngoài sức tưởng tượng của mình mà nàng chưa hoàn hồn chăng? 

Nàng đâu ngờ rằng chính nhờ nàng phạm tội, nhờ nàng rơi xuống hố sâu tội lỗi mà bất ngờ nàng lại được gặp chính Đấng cứu nàng thoát chết, cả về phần xác lẫn phần hồn. Có thể Chúa Giêsu đã chờ đợi chẳng những cho mọi người tố cáo nàng đi hết mà còn cho nàng có đủ thời gian cảm nghiệm thấy được lòng thương xót của Người đối với riêng nàng, nhờ đó nàng thấm thía được tội lỗi đáng ném đá chết của nàng song bất ngờ được Người giải cứu, để hết lòng thống hối ăn năn thì Người mới đề cập riêng với nàng về tội lỗi của nàng mà thôi, tức là chỉ sau khi tỏ lòng thương nàng, bằng việc khéo léo giải cứu nàng khỏi bị ném đá chết:

"Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: 'Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội ấy nữa'".

Đến đây chúng ta có thể sẽ đặt câu hỏi tại sao chỉ có chị phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, còn người đàn ông ngoại tình với chị đâu? Theo Luật Moisen thì cả 2 cặp nam nữ ngoại tình này đều bị ném đá chết chứ không phải chỉ có nữ giới (xem Đệ Nhị Luật 22:22; Levi 20:10). Trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay, có thể người nam ngoại tình đó đã bị ném đá chết rồi, hay đang còn được giam giữ ở đâu đó để bị ném đá sau người nữ phạm tội ngoại tình với anh ta. Sở dĩ chỉ có chị phụ nữ bị bắt giải đến cho Chúa Giêsu để gài bẫy thử Người như thế có thể là vì nữ giới gắn liền với tội ngoại tình, như nam giới gắn liền với tội phản bội (được tiêu biểu nơi thành phần nam giới thu thuế cho đế quốc Roma bấy giờ).


Hai thành phần tội nhân tiêu biểu trong xã hội Do Thái giáo bấy giờ là thành phần đĩ điếm (nữ giới) và thành phần thu thuế (nam giới). Hai tội phản bội và ngoại tình này đi với nhau bất khả phân ly như hình với bóng dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn cách riêng và luôn tỏ tình với họ hay tỏ mình ra cho họ, nhưng trái lại Ngài liên lỉ bị họ phản bội giao ước yêu thương và tình yêu thủy chung của Ngài, bằng việc họ chạy theo với các thứ ngẫu tượng của họ hay các tà thần của dân ngoại , bằng cách hiến mình làm tình (ngoại tình) với các ngẫu tượng và tà thần. Hai thứ tội phản bội và ngoại tình này là những tội chính yếu hằng được Thiên Chúa vô cùng nhân hậu liên tục sai các vị ngôn sứ của Ngài đến nhắc nhở dân tộc này, kêu gọi họ trở về với Ngài, thậm chí cảnh báo họ về hậu quả họ phải chịu v.v.


Ở đây,
 Thánh ký Gioan không hề tiết lộ cho chúng ta biết thành quả của việc Chúa Giêsu làm cho riêng người đàn bà ngoại tình này và lời Người nói với nàng có tác dụng gì nơi nàng hay chăng. Ở chỗ nàng có thật lòng ăn năn thống hối mà sống một cuộc sống trong sạch tốt lành hay chăng, hay lại chứng nào tật ấy. Vì chẳng thấy nàng trả lời gì sau câu nói của Chúa Giêsu, cho dù là lời cám ơn hay cử chỉ phục ngay xuống dưới chân Người xin Người tha thứ tội lỗi cho mình, như trường hợp của người phụ nữ đàng điếm tội lỗi trong một thành kia đã tự động đến với Người ở nhà một gia chủ biệt phái được Thánh ký Luca thuật lại (7:36-50), ngồi dưới chân Người, lấy nước mắt mà rửa chân cho Người, rồi lấy tóc mà lau chân Người và còn trân trọng hôn chân Người.

Tuy nhiên, bao giờ cũng thế, ân sủng của Thiên Chúa ban cho bất cứ một ai không phải chỉ cho riêng người đó mà còn cho chung cộng đồng của họ nữa. Hành động Chúa Giêsu và lời nói của người trong trường hợp của người nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết được Người chẳng những đã cứu chị thoát chết về phần xác mà còn sử dụng chính chị để cứu phần hồn cho cả đám đối phương của chị nữa, thành phần đã tự nhận biết mình trước một tội nhân họ đang muốn ném đá chết và thấy mình thật sự cũng chẳng hơn gì chị ta. Nếu những người tự cho mình là công chính mà còn nhờ lời Người mà biết mình thì chẳng lẽ chính tội nhân lại chẳng biết mình hơn họ hay sao. 

Có thể cái bàng hoàng ngỡ ngàng quá sức tưởng tưởng về những gì đột xuất bất ngờ vừa mới xẩy ra cho bản thân tội lỗi đáng chết của mình như thế mà người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình này bấy giờ đã không thể nào nói lên lời, đã hoàn toàn không còn biết nói gì nữa, vì không thể nào tả nổi, chỉ biết chất ngất cảm nghiệm, say sưa hoan hưởng, như một tâm hồn được Thiên Chúa chiếm đoạt tới một mức độ siêu việt, đôi khi được xuất thần ngất trí, như đã từng xẩy ra cho một số vị thánh đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội.

Trường hợp của chị chẳng khác gì như được Chúa Giêsu trừ quỉ cho, đang hoàn hồn và mới hoàn hồn, và Người đã trừ quỉ cho chị bằng chính ngón tay của Người, "ngón tay viết trên đất", như trong trường hợp Người trừ một quỉ câm (và sau đó Người bị cho rằng Người đã nhờ quỉ cả mà trừ quỉ con), trừ bằng "ngón tay Thiên Chúa" (ở Phúc Âm Thánh ký Luca 11:20) cũng là chính "Thần Linh Thiên Chúa" (ở Phúc Âm Thánh ký Mathêu 12:28). 

Nếu Thần Linh Thiên Chúa "khi Ngài đến Ngài sẽ cho thế gian thấy họ sai lầm về tội lỗi, về công lý và về luận án" (Gioan 16:8) thì phải chăng những gì Chúa Giêsu "lấy ngón tay (ám chỉ Thần Linh Thiên Chúa) viết trên đất (ám chỉ "thế gian", hay bản tính loài người tạo vật thấp hèn yếu đuối ở trong "thế gian", xu hướng về "thế gian" và "gắn bó với "thế gian")" trong bài Phúc Âm hôm nay là chữ "tội lỗi" và "công lý"?

Không biết có phải đúng như thế hay chăng, nhưng những gì xẩy ra trong câu chuyện này đã diễn tiến rất thích hợp với hai chữ y. 

Lần thứ nhất Chúa Giêsu "cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất" chữ "tội lỗi" khi Người được đám người tố cáo "tội lỗi" của chị phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?". 

Lần thứ hai, Người đã viết chữ "công lý" trong khi thành phần tố cáo chị phụ nữ phạm nhân này và muốn ném đá chị ta tự động bỏ đi vì theo "công lý" mà nói thì chính họ đã tự cảm thấy mình cũng chẳng hơn gì chị ta nên không dám ném đá chị, như lời thách thức của Chúa Giêsu: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi'".

Đó là lý do, nếu suy diễn trên đây không sai về hai chữ đầu được Chúa Giêsu "cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất" là "tội lỗi" và "công lý" thì chắc chắn chữ thứ ba là chữ "luận án", một chữ Chúa Giêsu không viết ra trên đất như 2 chữ trước mà bằng chính lời Người nói với chính nữ phạm nhân đương sự đã cho thấy rõ chữ "luận án" (luận tội hay kết tội) thứ ba này: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội ấy nữa nhé'".

"Không ai kết án chị ư?' Nàng đáp: 'Thưa Thầy, không có ai'. Chúa Giêsu bảo: 'Ta cũng thế, Ta không kết tội chị'". Ôi tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa. Ở đây, qua câu nói này, Người đã phải hạ mình xuống tới tầm mức như là một tội nhân để tội nhân nhờ đó có thể cảm nghiệm được Người. Ở chỗ, Người đã trở thành ngang hàng với những kẻ có tội bỏ đi không dám ném đá chị. Họ không kết tội (ném đá) chị vì họ cũng có tội như chị, phần Chúa Giêsu vô tội có thể ném đá chị nhưng cũng không ném đá (kết tội) chị giống như một trong những kẻ có tội đã bỏ đi. Thật vậy, nơi Người là Đấng vô tội đồng thời cũng là Đấng Cứu Thế đã có tất cả mọi thứ tội lỗi của loài người từ nguyên tội cho tới tận thế, trong đó có cả tội ngoại tình của chị, cũng như tội của những người muốn ném đá chị. Bởi thế, Người rất cảm thông và cảm thương tội nhân nói chung (bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị) và chị phụ nữ ngoại tình này bấy giờ nói riêng. Chị là đối tượng của sứ vụ Người "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) vậy.


Nh
ững gì Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay cho riêng người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình cũng như cho chung thành phần tố cáo và muốn ném đá chị theo luật, dường như đã được Thiên Chúa bóng bẩy kêu gọi dân của Ngài và tiên báo cho dân của Ngài biết qua miệng Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:  

"Chúa là Ðấng mở đường dưới biển, mở lối đi dưới dòng nước; Chúa là Ðấng dẫn dắt xe, ngựa, quân binh và dũng sĩ. Tất cả đều ngủ và không chỗi dậy nữa; chúng bị ngộp thở và tắt đi như tim đèn. Người phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa, và khai sông nơi đất khô khan. Thú đồng, muông rừng và chim đà sẽ ca tụng Ta, vì Ta đã làm cho hoang địa có nước và đất khô khan có sông, để dân yêu quý của Ta có nước uống; Ta đã tác tạo dân này cho Ta, nó sẽ ca ngợi Ta".

Cảm nhận được tất cả những gì Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất làm cho mình là thành phần dân liên lỉ ngỗ nghịch với Ngài và không ngừng ngoan cố phản bội Ngài, tiêu biểu nơi người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Phúc Âm hôm nay, Vị Thiên Chúa là Đấng luôn trung thành với họ bằng bất cứ giá nào, miễn là họ được cứu độ, mà dân của Ngài, qua thánh vịnh gia ở Bài Đáp Ca hôm nay, bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, không thể nào không hân hoan vang lên tâm tình tri ân cảm mến chúc tụng Ngài như sau:  

1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.

2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. 

3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. 

4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần đáng thương không phải chỉ có nữ đương sự phạm nhân bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết, như một đứa con hoang đàng phung phá, mà bao gồm cả thành phần muốn ném đá chị ta theo luật nữa, thành phần đóng vai như người con trưởng ở nhà với cha nhưng lại lầm lạc xa cha đến độ không muốn vào nhà nữa, thành phần tự cho mình là công chính bởi việc họ tuân giữ lề luật, một tinh thần đã được Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, một nguyên biệt phái nhiệt thành hơn ai hết nhưng đã nhận biết chân lý và đã bày tỏ cảm nhận của mình với Kitô hữu Giáo đoàn Philiphê trong Bài Đọc 2 như sau:

"Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người, không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề luật, nhưng do sự công chính bởi tin Ðức Giêsu Kitô: sự công chính bởi Thiên Chúa là sự công chính bởi đức tin để nhận biết Người và quyền lực phục sinh của Người, để thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại".

Đúng thế, chỉ có ai hoàn toàn tin nhận Chúa Kitô và được Người chiếm đoạt mới có thể nói như Thánh Phaolô như vậy: "Vì Người, tôi đành chịu thua thiệt, và coi mọi sự như phân bớn, để lợi được Ðức Kitô, và được ở trong Người", Đấng đã "tự bỏ sự sống của mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17) cho phần rỗi của chung nhân loại, nhất là cho phần rỗi của "những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12), nhờ đó "những ai Ngài đã biết trước thì Ngài cũng tiền định được thông phần hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:29), ở chỗ, như một Tông Đồ Phaolô trong Bài Đọc 1 hôm nay đã hân hoan được "thông phần vào sự đau khổ của Người và trở nên giống Người trong sự chết, với hy vọng từ cõi chết được sống lại".


Thánh Thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Mai Thứ Bảy Tuần Thánh - theo bản của Nhóm Phiên Dịch Giờ Kinh Phụng Vụ)

 

Lạy Ðức Kitô, Chúa thiên đàng

Ðem nguồn cứu độ xuống trần gian,

Lá cờ thập tự, tay Ngài phất,

Giải thoát muôn dân khỏi tử thần.

 

Chiên hiền vô tội, ấy chính Ngài

Ðể cứu chữa đời, chịu phanh thây

Áo của chính nhân, Ngài đem giặt

Trong dòng Máu Thánh đổ ra đây.

 

Những ai Ngài đã thương cứu độ

Ðổi chính bản thân, chuộc họ về

Sống lại, Ngài đưa lên cõi thọ

Muôn đời ca tụng lượng từ bi.

 

Tha thiết nài xin Chúa nhận vào

Cộng đoàn chư thánh chốn trời cao

Trở thành dân Nước Chúa hiển trị

Con cái mọn hèn, phúc nhường bao!

 

Đức công chính và tình thương

(Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sáng Chúa Nhật V Mùa Chay Năm C)

Trích khảo luận của thánh Âu-tinh, giám mục, về Tin Mừng theo thánh Gio-an.

Luật Mô-sê truyền phải ném đá những kẻ ngoại tình. Mà luật không thể ra lệnh bắt phải làm điều bất chính, nên nếu có ai nói trái với điều luật truyền thì đó là người bất chính. Vì thế, người Pha-ri-sêu mới nói với nhau về Đức Giê-su : “Ông ấy được tiếng là người chân thật ; con người ông toát ra sự hiền lành. Ta phải dựa vào đức công chính mà tấn công ông.” Ta hãy dẫn đến ông một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và nói cho ông điều luật truyền về người đàn bà ấy.

Chúa Giê-su trả lời làm sao ? Đấng là Sự Thật trả lời thế nào ? Đấng là Sự Khôn Ngoan trả lời ra sao ? Đấng là Sự Công Chính bị lôi vào cuộc trả lời thế nào ? Chúa Giê-su không nói : “Đừng ném đá cô ta”, vì Người không muốn làm ra vẻ nói ngược với Luật. Nhưng Người cũng giữ kỹ không nói : “Phải ném đá cô ta”, bởi vì Người không đến để làm mất cái đã tìm lại được, nhưng để đi tìm cái đã mất. Vậy, Người trả lời thế nào ? Anh em hãy xem Người công chính, hiền lành, chân thật đến mức độ nào ? Người nói : Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Câu trả lời khôn ngoan biết mấy ! Người khiến các ông phải băn khoăn suy nghĩ biết chừng nào ! Thủ đoạn của các ông chỉ ở bên ngoài thôi, các ông không nhìn vào tận đáy lòng mình. Các ông thấy người thiếu phụ ngoại tình, nhưng chính các ông không tự nhìn vào mình. Mà bất cứ ai chăm chú tự nhìn vào mình thì sẽ khám phá ra mình là người tội lỗi. Đó là điều chắc chắn. Vậy một là tha cho người thiếu phụ đó, hai là cùng với nàng chịu hình phạt của Luật.

Nếu Chúa Giê-su nói : “Đừng ném đá kẻ ngoại tình”, Người sẽ bị bắt lỗi phạm tội bất chính. Nếu Người nói : “Ném đá kẻ ấy đi”, thì xem ra Người thiếu hiền lành. Vậy, Người sẽ nói : Ai sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Đó là tiếng của đức công chính. Người có tội cứ bị phạt đi, nhưng không phải bởi tay những kẻ có tội ; cứ việc thi hành Luật, nhưng không phải bởi những kẻ vi phạm Luật. Đó hoàn toàn là tiếng nói của đức công chính. Bị đức công chính cật vấn như bị một mũi đòng đâm thâu, các ông trở về với chính mình, khám phá ra mình là những người tội lỗi, nên lần lượt rút lui, kẻ trước người sau. Chỉ còn lại một mình thiếu phụ. Mọi người bỏ đi hết rồi. Và Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn người thiếu phụ. Chúng ta đã nghe tiếng nói của đức công chính, bây giờ ta hãy nghe tiếng nói của sự hiền lành. Tôi nghĩ là người thiếu phụ đó phải sợ hãi lắm, khi nghe những lời này của Chúa Giê-su : Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.

Những người đó đã hồi tâm nghĩ lại, và việc họ ra về là một lời thú tội. Nhưng họ đã để lại người thiếu phụ với tội tầy trời của nàng cho Đấng vô tội. Và vì đã nghe lời nói đó của Chúa Giê-su, nên nàng cứ tưởng là mình sẽ bị Đấng không có tội nào trừng phạt. Nhưng sau khi đẩy lui các đối thủ của mình, bằng tiếng nói của đức công chính, Chúa Giê-su đã ngước mắt nhân từ lên nhìn nàng và hỏi : Không ai lên án chị sao ? Người thiếu phụ đáp : Thưa ông, không có ai cả. Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Tôi là người chị tưởng sẽ lên án chị, vì chị không tìm thấy tội nơi tôi. Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Lạy Chúa, thế là thế nào ? Chúa dung túng tội lỗi sao ? Chắc hẳn là không. Bạn hãy nghe tiếp : Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. Chúa đã kết án, nhưng kết án tội lỗi chứ không kết án con người.




Thứ Hai


Lời Chúa

                                                                     

Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17. 19-30. 33-62 (Bài dài)

"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa, vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê. Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.

Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.

Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".

Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".

Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.

Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna, hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà, bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.

Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa. Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.

Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này". Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà".

Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".

Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán: "Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ, ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt ông".

Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan.

Ðó là lời Chúa.

 Hoặc đọc bài vắn này: Ðn 13, 41c-62 từ chỗ "họ lên án tử hình cho bà"

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 5ab).

Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for john 8, 1-11

 

Suy niệm Năm A

 

Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật hôm trước không phải là Năm C). Nếu để ý về bố cục của các bài Phúc Âm cho ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và tuần 5, chúng ta thấy Giáo Hội cố ý sắp xếp các bài Phúc Âm như thế này:

 

1- Toàn là bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho thấy cuộc đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và thành phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và lãnh đạo Do Thái giáo nói riêng;

 

2- Các bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày thường ở 2 tuần cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh và việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa Kitô) và đức tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);

 

3- Qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta thấy tình trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người, liên quan đến nguồn gốc của Người, với đức tin của thành phần Do Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ;

 

4- Cuộc đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go kinh hoàng đến độ họ đã chẳng những không thể nào chấp nhận Người, mà còn ném đá Người và tìm cách sát hại Người;

 

5- Và đó là lý do tột đỉnh của cuộc đụng độ sống còn giữa mạc khải thần linh (được tỏ ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con người (mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với Chúa Nhật Lễ Lá, và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô, Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh vinh quang.

 

Nếu theo dõi kỹ hơn nữa, chúng ta còn thấy Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế này nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa mỗi tuần và bài Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.

 

Nếu bài Phúc Âm ở mỗi đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần 5) trong 2 tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân - tuần 5), liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc khải thần linh (về lòng thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc Người cụ thể làm cho họ (phép lạ về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần hồn - tuần 5),

 

Thì bài Phúc Âm giữa mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói về chính bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người, để rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả hay tác dụng của tất cả những gì Người đã mạc khải trong tuần (tình trạng chia rẽ chẳng những trong dân chúng mà còn cả hội đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ chính nội bộ hội đồng đầu mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị thượng tế là một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).

 

Riêng bài Phúc Âm cho Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại tình:

 

Trước hết là người phụ nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là một người vợ đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự đã giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua chàng tiên tri thiếu niên Đaniên, Ngài đã tỏ mình ra cho những ai tham dự vào vụ án ngoại tình này nói chung, đặc biệt cho hai tay quan án bất lương gian dâm âm mưu hãm hiếp nàng bất thành nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín của mình, để họ tin vào Ngài hơn.

 

Sau nữa là người phụ nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội ngoại tình và đã bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ và biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi sự thì Người đã chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng "Chị hãy về và từ đây đừng phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình ấy, thì Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng ông.

 

Ở chỗ, Người chẳng những không sa lưới của họ mà còn cứu họ, bằng cách Người chẳng những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại tình mà còn cứu cả thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy, Người đã không bất đồng hay đồng tình ném đá chị trước vấn đề được họ đặt ra: đồng ý ném đá thì Người tác hành phản lại với lòng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được Người tỏ ra qua các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng ném đá chị, bằng không Người đã xui họ làm một điều hoàn toàn trái với luật Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận tội lỗi. Đằng này, Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt cho thành phần luật sĩ và biệt phái vốn tự hào mình công chính.

 

Chỉ duy có một con người duy nhất bấy giờ đáng ném đá chị là Chúa Giêsu, Đấng vô tội, nhưng Người lại không ném đá chị, trái lại, còn tha thứ cho chị nữa, bởi vì Người có quyền tha tội, không phải do bởi Người là chính vị Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên Chúa, mà còn do Người cũng có tội, không phải vì tội Người đã phạm như ai, như bất cứ một con người phàm nhân mắc nguyên tội nào, mà vì Người là Đấng Cứu Thế, là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, đã chấp nhận tất cả mọi tội lỗi của con người, nhờ đó đã đến tội cho con người, theo lòng thương xót vô cùng nhân hậu của Người.

 

Qua ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót Chúa vô cùng tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết. Vẫn biết bài Đáp Ca hôm nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc được Chúa cứu cho khỏi bị chết vì oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhưng, ý nghĩa và tâm tình của những câu Thánh Vịnh 22 được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất thích đáng cho cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết, lẫn thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay.

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

  

 

(Trong năm C, khi bài Tin Mừng về ngươờ phụ nữ ngoại tình đã được đọc ở Chúa Nhật V hôm trước, thì hôm nay đọc bài Tin Mừng dưới đây:)

Phúc Âm: Ga 8, 12-20

"Ta là sự sáng thế gian".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.

Ðó là lời Chúa.

 


Suy niệm Năm C

 

    

Nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến

thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại    


Ngày Thứ Hai trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.

Nếu bài Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính Người.


Thật vậy, tuần trước,
các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà là minh chứng về mình bằng 3 chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và nguồn gốc của Người: 

1- Chứng từ thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực"; 

2- Chứng từ nhân loại liên quan đến Tiền Hô Gioan Tẩy Giả: "Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật"; 

3- Chứng từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".


Tuần này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho Người, vì tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật" (Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào không soi chiếu, nên ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh trọng tuyên bố: "với những người biệt phái rằng: 'Tôi là sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".

Tất nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi chạm phải cùng một giòng điện dương chắc chắn không thể nào không tóe lửa, nghĩa là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những người biệt phái" đã không thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời tuyên bố của Người: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".


Thật vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và chính vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà thôi (xem Gioan 8:32).

Muốn biết mình thực sự là ai thì con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu", chứ không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ "đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính xác. Chẳng hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương, nhưng trong cuộc sống, về cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh bất diệt.

Chúa Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu": Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha mà đến và đã đến trong thế gian(Gioan 16:28), và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải làm theo ý của Người, đúng như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan 6:38). 

Mà ý của Cha là nơi Người phải tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó sống lại trong ngày sau hết" (Gioan 6:39). 

"Ngày sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người là Con của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc khải thần linh đã được Thiên Chúa từ từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái của thánh nhân (xem Do Thái 1:1-3).

"Sống lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây, là "sống lạivào "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày sau hết", một "sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội của Người mà đầu tiên ở nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).


Về nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng, như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa rồi cho thấy, thì về nơi "đi đâu" của Người hay về việc Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ làm sao biết được và cũng không thể nào biết được. 


Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không thể nào đến được", hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị có thể đến được nơi Người "đi đâu", cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với Người (xem Gioan 14:2-3). 


Đó là lý do Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã biết rõ về mình, "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", chỉ vì: 

"Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".

Trong câu này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người là xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về Người. 

Và chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm chứng về Người nên Người đã bị thành phần thính giả của Người thách thức đặt vấn đề: "Cha của ông đâu?", Đấng mà Người đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".

Bài Đọc 1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian dối nhưng hoàn toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này, chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin vào Người vậy.

Trước hết là lời chứng của hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một mình trong vườn nhà của bà vào một buổi trưa nóng bức:

"Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".

Sau nữa là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc 1 cho biết, "bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình mò bà và bất ngờ tấn công tình dục bà, nhưng bà đã cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì ra


"Bà Susanna thở dài và nói: 'Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu lên tố cáo bà".

Thế nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh minh gì cả đã "lên án tử hình cho bà"

Khi bị lên án tử rồi, người đàn bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể thấy được tất cả sự thật: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".

Nếu bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2 nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên Chúa là nhân chứng thứ hai biết về bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:

"Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".

Phải, Thiên Chúa đã sử dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm phán trong dân, để chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy rằng: 1- ai tin vào Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể nào át được ánh sáng" (Gioan 1:5): 

"Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".

Không biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. 

2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. 

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. 


Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)

 

ĐTC Biển Đức XVI: Thánh Isidore of Seville

Ngày 04-04 Thánh ISIDORO Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636) | Giáo Phận Bà  Rịa

 

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Thánh Isidore, quê tại Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm 560 tại Andalousie (Tây Ban Nha) từ một gia đình gia giáo lành thánh: các anh em là hai giám mục Léandre và Fulgence, còn Florentine là chị gái. Người kế vị anh Léandre trên ngai giám mục thành Sévilla năm 601.

Trong nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại những kẻ theo bè Ario và những người lạc giáo được gọi là nhóm “vô thủ lĩnh”. Họ không chấp nhận Đức Kitô có hai bản tính. Gần Sévilla, ngài thành lập một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng – để đào tạo các linh mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên tại chính ngôi trường này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm 633, ngài yêu cầu Giáo Hội phải thành lập các trường tương tự: đó là nguồn gốc các trường của Hội Thánh và Đan Viện, xuất hiện trước khi có các đại học.

Là một nhà văn lớn, một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ Đông Phương và rất sùng mộ Origène, thánh nhân đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba quyển sách dọn đường cho các “Tổng Luận” thời Trung Cổ để trau dồi kiến thức lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân. Nhưng tuyệt tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề tiếng La Tinh Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur l’origine de certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó là một loại từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật, kỹ thuật, luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo...

Là sử gia (lịch sử dân Goths), là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ Sách Lễ và Kinh Nhật Tụng, được cho là của thánh nhân, là cốt lõi cho Phụng Vụ tương lai mozarabe); ngài còn là luật gia (Regula monachorum), nhà thần học và mục tử, nên ngài truyền bá truyền thống Công Giáo và chuyên cần tổ chức Hội Thánh. Năm 633, với tư cách là một vị chủ trì Công Đồng Quốc Gia lần thứ IV tại Tolède, ngài ấn định một nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây Ban Nha và miền Gaule narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn lời nguyện Adsumus đọc trong mọi Công Đồng.

Isidore de Séville chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung Cổ; vào thời này, các tác phẩm La Tinh của thánh nhân được nhiều người đọc và sao chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả Kính (thế kỷ VIII), thánh nhân là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.

Qua đời tại Séville năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn kính như một vị hiển thánh trong toàn cõi Phương Tây từ thế kỷ IX; ngài được Đức Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn (Tây Ban Nha). Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện hình ảnh ngài cầm bút lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.

2. Thông điệp và tính thời sự

Lời nguyện riêng biểu dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về linh đạo”, gợi lại tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh của ngài.

a. sau khi là một người học sinh tầm thường, Isidore chuyên cần học tập, cống hiến cả đời mình để nghiên cứu và giảng dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai trò quan trọng trong các thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.

Nhưng trên hết, Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến thức văn hóa uyên thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội Thánh và Đức Tin. Phụng Vụ Thánh Lễ trình bày cho chúng ta dụ ngôn các nén bạc (Mt 25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học hỏi của thánh nhân nhằm phục vụ Hội Thánh và anh em hữu hiệu hơn.

b. Bài đọc một trong Thánh Lễ (1 Cor 2, 1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn ngoan mà chúng ta loan báo... được tiền định cho những ai yêu mến Thiên Chúa.

- Trong Hội Thánh Tây Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của thánh Isidore dường như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú “giao lưu với con cái loài người” (lời đáp trong các bài đọc Kinh Sách). Với tư cách là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng dạy, ngài sáng lập các học viện để giáo huấn và đào tạo giới trẻ, thánh nhân đã định hướng mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn ngoan đích thực. Ngài thường nhắc nhở: “Hãy yêu mến khôn ngoan, con sẽ được khôn ngoan tán dương ca tụng, nếu con cùng khôn ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho con” Nhưng làm sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc - Kinh sách trích dẫn, một đoạn trong các luận đề của thánh Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều do đọc Sách Thánh và suy niệm ... Không ai có thể biết được ý nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen nhờ năng đọc”.

- Lời cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô hữu vì nhờ cầu nguyện chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách Thánh, chúng ta được dạy dỗ.Vì thế “nếu làm được cả hai thì tốt, còn nếu không, thì cầu nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn được luôn ở với Thiên Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách Thánh nữa, bởi lẽ khi chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói với Thiên Chúa, còn khi chúng ta đọc Sách Thánh thì Thiên Chúa nói với chúng ta” (các Bài Đọc - Kinh Sách).

Enzo Lodi

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-khoang-560-636-le-nho-tuy-chon/ 

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

Trong 76 năm cuộc đời của thánh Isiđorô là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi thánh Isiđorô chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những người theo Ariô – Họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gôtích Ariô). 

Thánh Isiđorô là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng của những dân man di. 

Có thể nói thánh Isiđorô sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha. Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và Fulgentius đều làm Giám mục và Florentina làm mẹ bề trên. 

Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi thánh Isiđorô được gọi là “Sư phụ của thời Trung cổ” vì cuốn bách khoa ngài viết, tên là “Etymology” (Từ nguyên học), đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học. 

Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isiđorô làm Giám mục Seville trong 37 năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một chính quyền đại nghị ở Âu châu [tức chính quyền có Quốc hội Lập pháp là đại diện của nhân dân], đồng thời ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và chủ trì các công đồng quốc gia (national coumcil) để thảo luận về đường hướng của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh Isiđorô viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gôtích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.  

Ý thức rất rõ là sự phồn thịnh thiêng liêng và vật chất của quốc gia lệ thuộc hoàn toàn vào việc hấp thụ và liên kết các yếu tố ngoại lai, thánh Hisidorô đã thành công trong việc kết lại  toàn thể đám dân chúng hỗn tạp thành một đất nước thuần nhất tạo thành vương quốc Gôtích Tây Ban Nha. Ngài đã biết sử dụng các tiềm năng tôn giáo và giáo dục để đạt đến mục tiêu này. Ngài đã hoàn toàn thành công. Chủ nghĩa Ariô là hình thức Kitô giáo nguyên thủy giữa những người Visigoth là thành phần lãnh đạo Tây Ban Nha xuất phát từ cuộc xâm nhập Visigoth từ Đức vào Âu châu xưa, đã hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho một Kitô giáo chính thống. Các tà giáo khác cũng bị dập tắt ngay khi vừa mới được thai nghén. Kỷ luật tôn giáo được củng cố khắp nơi. Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo hội tuyên xưng là Tiến sĩ Hội Thánh. 

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-4-thang-4-thanh-isidoro/

 

Thánh Isidorô được coi như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đình thật đặc sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và Fulgentio. Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật có phúc vì được sinh ra sống giữa các vị thánh.

Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô. Một bức thư của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm chứng điều đó: – “Anh xin em hãy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng ta và đã trở về với Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em một người chị và hai người anh săn sóc”.

Dù rất thương em. Nhưng Leander đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia vì sợ đòn và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết sức cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy hơi, cậu nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến kín nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây thừng cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải suy nghĩ: “Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả đá, còn tôi lại không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?”

Thật là một bài học lạ lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đã biến Ngài thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân, Ngài đã thông hiểu triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử Arevalo đã phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự thông hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê, sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự thánh thiện của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức thư của Isidorô, thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri: – “Đây là một tiên tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon”.

Isidorô thụ phong linh mục và theo anh là Leander đang làm giám mục Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc người anh bị lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên kế vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho mình ở Tây Ban Nha.

Dầu không bao giờ là tu sĩ, thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu. Ngài giải thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha. Hơn nữa thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công đồng Tôleđo IV năm 633.

Nhưng trách vụ của Đức giám mục không ngăn cản công việc trước tác phong phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một từ điển các tiếng đồng âm, một khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các vĩ nhân và các nhân vật trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh hưởng nhất của Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết của thời đại Ngài.

Sau 36 năm nhọc mệt trong chức giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể nghiền nát thân xác, nhưng lại không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của Ngài. Trong sáu tháng cuối đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân nghèo đến với Ngài tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh nghèo túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho Ngài, một vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn tiếng xin Chúa thứ tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho, khuyên nhủ dân chúng sống bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về nhà, Ngài qua đời trong an bình của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.

Theo lời yêu cầu của thánh nhân, thi hài Ngài được mai táng với thánh Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua Ferdinand di chuyển hài cốt về Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong thánh Isidorô lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh.

Nguồn: gxdaminh.net

https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2017/04/03/ngay-04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-636.html


 

Thứ Ba


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9

"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống, chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".

Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21

Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.- Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab

Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.

 

Phúc Âm: Ga 8, 21-30

"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".

Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".

Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".

Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

Ðó là lời Chúa.

 

My Reflections...: Reflection for Tuesday March 31, Fifth Week of Lent: John  8:21-30

 


Suy niệm



   Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người

mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa   


Chủ đề chung cho Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời Chúa hôm nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Ở Bài Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa Giêsu đã báo trước cho "những người biệt phái rằng": "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao", nghĩa là khi nào quí vị hô hoán đòi "đóng đanh nó vào thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca 23:21; Marco 15:13-15). 

Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke 23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới biết Tôi thật sự là Đấng Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian này là để làm theo ý Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của Tôi (xem Gioan 6:38).


Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" được báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành".

Hình ảnh "con rắn bằng đồng" có thể chữa lành cho những ai bị "rắn lửa cắn" khi họ nhìn lên con rắn treo lên được đúc bằng đồng ấy ám chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng vào (tức là "nhìn lên") "Đấng họ đã đâm thâu qua" (Gioan 19:37), bao gồm cả dân ngoại: "Người này quả là một con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những gì đã xẩy ra thì trở về đấm ngực" (Luca 23:48). 

Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách Dân Số hôm nay, lại ám chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây ra bởi rắn thì chữa lành và sống còn cũng bởi rắn? 

Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng Cứu Thế mà Người đã cần phải "trở nên" "Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), để nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi(2Corinto 5:21) và "bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata 3:13), nghĩa là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.  

Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu con người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở thành một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất toàn và bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi" và "bị nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế. 

Bởi vậy mà trong bài Phúc Âm hôm nay chính Chúa Giêsu đã vừa khẳng định vừa tiên báo cho "những người biệt phái rằng: 'Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được'", tức loài người như họ không thể nào hiểu được, chứ chưa nói gì đến việc chấp nhận được.

Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa hiểu nổý nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó"Người Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta đi các ông không thể tới được?"

Mà thật, lý do con người bất khả thấu hiểu mầu nhiệm Chúa Kitô này là vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào bằng tạo hóa cùng hiểu được như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người mà còn cho họ biết nguyên do phạm tội chính khi họ "tìm kiếm" Người nữa, đó là: 

"Quí vị thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí vị thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Vì, nếu quí vị không tin Ta, quí vị sẽ chết trong tội của quí vị". 

Thật sự là thế, chính vì "quí vị không tin Ta" mà "quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", đúng như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ, hỏi Người một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem Mathêu 26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại "chết trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67). 

Và sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là vì họ chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ hỏi Người: "Ông là ai?" Bấy giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi, như trên đây, mà chỉ mới tỏ mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là Nguyên thủy đang nói với các ông đây!" 

Thế nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà thôi: "Khi nào quí vị đưa Con Người lên cao, quí vị sẽ nhận biết Ta là ai". Bởi vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi. Ðấng đã sai Tôi đang ở với Tôi; Ngài không để Tôi một mình, bởi vì Tôi luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài".

Đúng thế, khi Người nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có nhiều điều phải nói và đoán xét về quí vị, nhưng Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, và điều Tôi nói ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã nghe biết ở Ngài", thì "họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha", nhưng khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm theo ý Cha, "thì có nhiều kẻ tin vào Người".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1, hay thành phần những người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm kiếm Chúa là Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và muốn cứu độ con người nói chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:

1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn. Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. 

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. 

 

Thánh Vinh-Sơn Ferrier 5-4

 

St. Vincent Ferrer - Sermon Translations

 

Lời Tiên Tri Thánh Vincent Ferrer

Thánh (Vinh Sơn/Vicentê) sinh tại Valencia, nước Tây-ban-nha (Spain) vào ngày 23 Tháng giêng Năm 1350, là con thứ ba của ông William Fêrrêr và bà Cônstânce Mìguêl là con gái của chính khách naval, có họ hàng với Giám Mục của Valencia lúc bấy giờ, một gia đình Công giáo đạo đức truyền thống.

Vào một đêm kia, ông William nằm mơ thấy mình đi vào nhà thờ thánh Đaminh tại Valencia, bỗng có một vị thuộc phần tử Dòng Thuyết Giáo từ trên bục giảng phía trên cung thánh, xoay nhìn ông nói rằng,

“Cha chào mừng con, William. Trong mấy ngày nữa con sẽ có một cháu trai, trẻ này sau sẽ được phúc học hành uyên thông và thánh thiện.

Cháu sẽ thành đại sự làm rạng danh nhà con. Thế gian sẽ vang vọng âm thanh huy hoàng của cháu; cháu sẽ được ngập tràn phúc sủng thiên đàng còn địa ngục phải khiếp run. Cháu sẽ mang tu phục như cha đang mặc đây, và sẽ được tiếp nhận vào Hội Thánh với niềm vui của toàn thể vũ hoàn như đối với một vị tông đồ tiên khởi.”

Những người nghe biết chuyện đều hết thảy lớn tiếng chúc tụng – cám đội ơn Chúa với tin mừng bất ngờ này. Riêng ông William vui khôn xiết tả, liền đi thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vị giám mục họ hàng.

Bà Cônstânce kể thêm, lúc có thai Vincent thì có hai điềm lạ xảy ra; bà không hề đau đớn khi mang thai Vincent so với những lần mang thai bình thường khác; và gần đến ngày sinh trẻ Vincent, thì bà nghe trong bào thai phát ra tiếng khóc như tiếng sủa của một con chó con-gần giống như giấc mơ của chân phước Jane de Aza Mẹ thánh Đaminh vậy.

(Bà Aza mơ thấy mình sanh ra một con chó ngậm bó đuốc chạy đi thiêu đốt khắp các thành thị). Vị giám mục ngầm hiểu rõ ngay đây là một dấu chỉ màu nhiệm và nói với họ rằng,

“Anh chị hãy vui mừng Trong Thiên Chúa; đứa trẻ mà anh chị đang mang vào thế gian đây, sẽ trở nên người con xứng đáng của thánh Đaminh, cháu sẽ là một trong số những người được kêu gọi để làm nhiều điều thiện lành vô kể bằng vào sự giảng truyền của cháu. Hãy chăm sóc cháu cách đặc biệt cẩn thận và giáo dục cháu nên người thánh thiện, để mai ngày cháu không phụ tình Thiên Chúa đối với các tặng sủng mà Ngài đã ban cho cháu.”

Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi chưa lọt lòng mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce đi thăm một phụ nữ mù theo thói quen đi làm việc bác ái - bố thí hàng tháng, và bà nói với chị ấy,

“Con ơi, hãy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến ngày sinh được bằng an nhé.”

Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói với thai nhi,

“Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.”

Lập tức, chị được khỏi mù, và lòng trí trở nên minh mẫn sáng láng, liền thốt lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên thần bà đang cưu mang, bởi chính em đã chữa lành nỗi khổ đau cho con.”

Giống như một thai nhi Gioan Tẩy-giả khác, thai nhi Vincent tỏ ý bằng lòng với lời cầu chúc từ miệng người phụ nữ nghèo, đến nỗi nhảy mừng trong lòng mẹ bằng dấu lạ chữa chị khỏi mù.

Ấu Thơ

Khi trẻ Vincent chào đời, được ba mẹ ẵm lên nhà thờ để chịu Phép Rửa Tội, thì những người bà con họ hàng ai cũng muốn lấy tên mình mà đặt cho, khiến vị linh mục chủ sự phải can thiệp mà đặt tên là Vincent, có nghĩa là kẻ thắng trận, một cái tên chưa hề có trong dòng họ bao giờ.

Trẻ Vincent rất dễ tính, đặt đâu nằm đó, không có quấy khóc như mọi trẻ khác, với miệng cười tươi, cặp mắt tròn to mở lớn, khiến ai nấy cũng đem lòng thương mến.

Lên năm tuổi, Vincent, đă chữa lành một đứa trẻ hàng xóm đau nặng được khỏi bệnh. Trong đám trẻ nhỏ hàng xóm, bạn Vincent có một đứa lười học lắm, một hôm, cậu tới rủ nó đi học thì nó đã chết. Mẹ nó đang vật vã khóc lóc cách thảm thiết. Thấy thế, Vincent nói,

“Con bác không chết đâu, nó lười học nên mê ngủ đó.”

Nói đặng, Vincent cầm lấy tay bạn bảo:

“Dậy đi học với tôi mau, kẻo trễ rồi.”

Đứa trẻ đã chết liền bật mình sống dậy đi học với Vincent. Một lần khác, khi cậu đang chơi bên cạnh giếng nhà mình thì đánh rơi giầy, cậu liền quỳ xuống bờ giếng mà cầu nguyện, thì liền đó nước giếng dâng lên vừa đúng tầm tay đặng cậu có thể lấy lại giầy.

Không những thế, Vincent còn thường xuyên hội tụ các bạn nhỏ lại, rồi tự mình đi tìm các chỗ cao đứng giảng cho chúng nghe những gì cậu đã được nghe cha xứ giảng vào ngày Chúa Nhật vừa qua ở nhà thờ. Có một hôm, thấy người đầy tớ đang định chặt một trong các cây ở trong vườn, Vincent liền tới cản lại bảo,

“Xin khoan đã, đừng chặt cây đó! Vì mai mốt người ta sẽ dùng cây này mà khắc tượng cháu đó.”

Cậu còn làm nhiều điều lạ khác nữa. Vincent bắt đầu đi học vào năm tám tuổi. Cậu thuộc làu các kinh, học hành xuất sắc, năm 12 tuổi cậu đã sớm biết ăn chay vào các ngày thứ tư vào thứ sáu trong tuần chỉ bằng bánh mì và nước lã.

Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là rất sùng kính cuộc khổ hình, thương khó của Chúa Giêsu và có lòng biệt kính Mẹ Maria cách riêng, và sống bác ái với mọi người. Nên xóm giềng ai cũng đem lòng thương mến cậu và thường gọi là “Vị thánh tý hon.”

Thiếu Niên Dũng Trí

Mười tám tuổi, Vincent xin vào “Dòng Thuyết Giáo Thánh Đaminh - Dominican Order of Preacher (O.P)” nơi thành phố cậu đang cư ngụ. Từ khi chọn sống đời tu, thầy Vincent quyết chí noi gương thánh Đaminh để tiến tới đường trọn lành.

Thầy siêng năng đọc Thánh Kinh - suy gẫm Lời Chúa tựa như cơ thể sống động không thể thiếu các mạch máu chính và li-ti vậy. Thầy sống khổ chế và thánh thiện trong mọi lời nói cũng như hành động.

Vì đó, quỷ dữ căm ghét và thường xuyên quấy phá – cám dỗ và gây đau khổ cho thầy đủ điều. Đến độ cha mẹ của thầy khuyên nên bỏ nhà dòng trở về làm một cha xứ (linh mục triều) bình thường thôi. Nhưng thầy Vincent vẫn vững một lòng trông cậy Chúa, ra sức cầu nguyện nhiều hơn, đặc biệt là thầy van nài - khẩn nguyện với Mẹ Maria và thiên thần bổn mạng cứu giúp. Sau bao nhiêu khốn khó, thầy Vincent đã vượt thắng tất cả mọi cam go và hoàn tất giai đoạn tập sinh.

Thầy Vincent lãnh mặc tu phục dòng Đaminh ngày 2 tháng 2 Năm 1363, và khấn trọn đời năm 1368. Kế đến, thầy Vincent tiếp tục 18 năm theo học các; khoa Thánh Kinh, học tiếng Dothái và học rất nhanh. Trong ba năm đầu, thầy Vincent chỉ đọc Sách Thánh Kinh và sách của các Thánh Giáo-phụ đến độ thuộc lòng, đồng thời thông hiểu hết toàn bộ Sách Thánh. Sau đó không lâu, thầy được chỉ định học Triết học, mãn khóa học, Vincent cho ra trình làng cuốn “khảo luận về giả thuyết biện chứng pháp...” (Treatise Dialectic Suppositions), lúc ấy thầy chưa tròn hai mươi bốn tuổi. Sau đó, Vincent được gửi đến Bárcêlôna tiếp tục học chuyên khoa Thánh Kinh. Tuy bận rộn với việc học hành, nhưng cùng thời gian đó, thầy không ngừng rao giảng Lời Chúa và đã mang lại nhiều kết quả lạ thường tuyệt vời không ngờ. Thầy giống hệt như thánh Đaminh vừa là học trò, đồng thời vừa là giáo sư, và vừa là nhà thuyết pháp tài ba vậy.

Vào năm 1378, ở tuổi hai mươi tám, chính tay Đức HồngY Peter De Luna trao bằng tiến sĩ thần học cho thầy Vincent (Hồng Y Phêrô De Luna - người sau này trở thành Giáo hoàng Bênêđíctô thứ XIII, nhưng không chính thức giữa thời kỳ Giáo hội có cuộc “Đại Ly Giáo” bị hủng hoảng và phân rẽ vì chiến tranh lan rộng khắp Tây Âu, mới đầu chỉ có hai rồi có tới ba Đức Giáo hoàng: Đức Urban VI ngự điện tại Rôma, Đức Clêmentê VII ngự điện tại Avignon, Pháp Quốc.

Thánh Catherine thành Siena ủng hộ Đức Urban VI ở Rôma, còn thánh Vincent thì cho ngài là bất hợp pháp …trong lúc phục vụ Hồng Y Peter De Luna, Vincent cùng lúc tích cực thuyết phục dân Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê, sau khi Đức Clementê băng hà, thì Hồng Y Luna được bầu làm Giáo Hoàng tại Avignon, lấy hiệu là Đức Bênêđíctô thứ XIII ), Hồng Y Peter lúc ấy đại diện cho Đức Giáo hoàng Clêment VII, đang ngự điện tại Avignon, bên Pháp, đồng thời cũng là người thụ phong linh mục cho Vicent tại Bárcêlôna năm 1379. Không bao lâu sau khi chịu chức linh mục, cha Vincent liền được chọn làm bề trên tu viện Thánh Đaminh tại Valencia.

Đức Bênêđíctô XIII triệu Cha Vincent về làm việc trong bộ xá giải tông truyền và như là một Trưởng Điện Tông Tòa. Nhưng tân giáo hoàng không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên hồng y trong mật nghị viện đều nhất loạt truất phế. Thế nhưng dẫu cho hầu hết các hồng y và vua nướp Pháp phế bỏ, ngài vẫn ngoan cố bất chấp không chịu từ chức. Nên cha Vincent vỡ mộng trở bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đảm nhận việc “rao giảng Chúa Kitô cho thế giới.”

Vào những năm 1408 đến 1415, cha Vincent cố gắng thuyết phục người bạn cũ (Beneđíctô 13) từ chức nhưng bất thành. Sau cùng ngài kết luận rằng Bênêđíctô không phải là đức giáo hoàng thật. Mặc dầu đang lâm bệnh nặng, ngài cũng ráng hết sức lên tòa giảng ngay trước mặt giáo đoàn mà Bênêđíctô đang chủ sự mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong linh mục cho ngài. Bênêđíctô vội vã bỏ trốn khỏi những người trước đây đã từng hỗ trợ mình. Có điều kỳ lạ, là cha Vincent không phải thuộc phần tử của Công Đồng Constance (Công Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế Segismunđô triệu tập: nhằm bãi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly giáo ở Tây Phương, lên án Wiclef và Huss. Công Đồng bầu chọn Tân Giáo Hoàng Martinô V), thế mà đã góp phần chấm dứt cuộc ly giáo, bất kể thời ấy trải qua cuộc canh tân nào trong Giáo Hội đều tùy thuộc vào sự hàn gắn ly giáo. Cha Vincent sống cho tới ngày chứng kiến bầu chọn Đức tân giáo hoàng Martin V.

Đời Linh Mục

Vincent là một nhà thuyết giảng hăng say và tài ba, suốt 20 năm cuối đời, ngài giảng truyền Tin Mừng Phúc Âm khắp cõi Miền Nam Âu Châu; Tây ban nha, Pháp, Ý, Đức, Belgium, Úc, Thụy điển, Lombardy và các vùng phụ cận. Giống như một Gioan Tẩy Giả khác được mệnh danh là một thiên sứ thần thông lướt băng qua hoang địa tội lỗi, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, run sợ ngày công phán, dọn đường ngay thẳng để đón Chúa, nếu không có lý do nào khác, hầu hết các tội nhân mới đầu lắng nghe các bài giảng của ngài đều thống hối từ bỏ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài còn xác nhận rằng ngài chính là “Thẩm Phán Thiên Thần – Angel of the Judgment,” được nhắc tới trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông Đồ (Kh 14:6-7), nếu dân chúng không chịu ăn năn cải thiện đời sống thì cuộc chung thẩm sắp xảy ra tới nơi.

Việc thuyết giảng của ngài thực lạ lùng nhưng sinh hiệu quả kỳ diệu đến độ mỗi lần thánh Vincent lui tới đâu thuyết giảng, lập tức thu hút khá đông dân chúng hàng vạn, hàng ngàn, và ít nhất có tới 10,000 người, 50 linh mục lũ lượt di hành theo từ nơi này qua nơi khác, thậm chí ngay cả những người ở cách xa đó cả ngàn dặm hay tin cũng tấp nập rủ nhau tới nghe ngài giảng, đến nỗi các nhà thờ chưa kịp mở cửa đã có sẵn đám đông dân chúng túc trực chật ních ở ngoài từ bao giờ, dẫu nhà thờ có rộng lớn bao nhiêu mấy cũng không đủ chỗ chứa họ. Cộng đoàn linh mục hát Kinh Thần Vụ, hát Lễ hằng ngày, và cử hành các bí tích cho những người đã hoán cải nhờ nghe cha Vincent thuyết giảng.

Từng đoàn người nam - nữ khác biệt từ khắp nơi vừa di hành chân không vừa đánh tội cầu nguyện râm ran từ hết đường phố này sang tới thành phố khác. Họ dạy giáo lý khi cần thiết, thành lập các nhà thương - bệnh xá, và làm sống lại một đức tin vốn có trước kia nhưng đã bị tắt rụi vào thời kỳ mắc nạn dịch bệnh. Tương tự như Tiên Tri Giôna cảnh báo thành Ninivê, dân chúng liền cải thiện đời sống, và thế giới được tha rồi tồn tại đến hiện nay ra sao - phần lớn cũng nhờ vào một trong những vị ngôn sứ này! Thế nhưng, ngày nay ít có mấy người biết đến hoặc chưa hề nghe nói tới thánh Vicentê Fêrrê!

Thể theo sự thỉnh cầu của hàng giáo mục, giáo sĩ và dân chúng Valencia, ngài được triệu hồi về bản quốc, tiếp tục đôi việc của ngài là giảng dạy và thuyết pháp với danh tiếng lẫy lừng như thế, chứng tỏ cho thấy người tham dự cùng được chung hưởng phép lành của Đấng Toàn Năng, mà ngài tôn thờ khắp đất nước vượt trên những gì có thể tưởng tượng ra được. Để thử đức khiêm nhượng, Thiên Chúa cho phép một đồng bọn của satan đến quấy phá cám dỗ ngài phạm tội nhục thể, và vây phủ lấy ngài những tư tưởng xấu xa dơ bẩn bất chính. Những vũ khí mà thánh nhân chống lại quỷ dữ là ăn chay, cầu nguyện và ngài tỉnh thức không ngừng mỗi khi bốc cơn mê dục.

Phải nói là một khi càng thăng tiến trong nhân cách thì trông ngài càng đẹp và rạng rỡ thêm ra, phản ánh vẻ đẹp của một tâm hồn ngập lút tình thương Thiên Chúa. Cả khi về già vẻ đẹp rạng rỡ này cũng không hề tàn phai. Tuy vậy, mỗi khi ngài thuyết giảng về Mẹ Thiên Chúa hay các niềm vui Thiên Đàng. Ngài đặc biệt tỏ ra Say mê và hoan hỷ như một trẻ thơ biệt sùng Mẹ Maria vậy, nhất là vào lúc mà các tín hữu nguyện kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng.

Tâm hồn của ngài luôn luôn hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện liên lỉ trong công việc bổn phận, trong lao nhọc, và trong mọi hành động. Những thao tác của ngài tương tự như trong tập sách để lại cho mọi Kitô Hữu với nhan đề, KhảoLuận về Đời Sống Thiêng Liêng, ngài viết như sau: “Con có muốn học hỏi để có lợi cho con không? Con hãy tôn vinh (Chúa) khi học hỏi và nên học ít đi để nên thánh chứ không phải học để thành người uyên bác..”

Thử suy gẫm một số câu văn (tư tưởng) trong tập sách tuyệt diệu này. “Công đức không phải vì con người nghèo khổ nhưng một khi họ (ở trạng thái) nghèo khổ mà lại yêu mến đức khó nghèo “Một câu hỏi vô bổ chỉ nên đáp lại bằng yên lặng… Cho nên con hãy học yên lặng một thời gian; anh em con sẽ cảm phục con và sự yên lặng sẽ dạy con lên tiếng khi cần phải lên tiếng.” “Con hãy tự coi mình là dơ bẩn và hèn hạ trước mặt Chúa vì tội lỗi của con hơn bất cứ người tội lỗi nào, bất kể tội của họ là gì đi nữa... và hãy suy nghĩ thật kỹ càng rằng bất cứ một ân sủng hay một khuynh hướng tốt lành nào hoặc một sự ham muốn sống nhân đức, thì đó không phải là do tự con mà có mà do lòng thương xót duy nhất của Chúa Kitô mà thôi.” “Con nên nhìn nhận rằng bất cứ một tội nhân nào đã phạm những tội tầy đình cũng có thể phụng sự Chúa tốt hơn con nếu họ cũng nhận được những ân sủng như con.” “Một khi thủ đắc được khiêm nhượng, thì đời sống bác ái sẽ đến - lửa sốt mến sẽ thiêu đốt hết những thói hư tật xấu và tâm hồn con sẽ đầy tràn đức mến chẳng còn chỗ cho phù vân giả trá.”

 

https://hddaminhthanhlinh.net/a650/thanh-vincent-ferrer-tuc-la-thanh-vincente-lam-phep-la

 

 

Đối với tín hữu Việt Nam, thánh Vincentê Ferriô đã thường được khấn như vị thánh hay làm phép lạ. Cuộc đời của vị tông đồ Âu Châu, vinh quang của Giáo hội, vinh dự của dòng giảng thuyết này cũng rất lạ lùng, Ngài chào đời tại Valentia nước Tây Ban Nha ngày 23 tháng 01 năm 1350. Mặc dầu gia đình giàu có, nhưng thân mẫu thánh nhân đã muốn tự mình nuôi dưỡng con.

Lên sáu tuổi, Vincentê cắp sách đến trường và đã tỏ ra có nhiều ân huệ đặc biệt. Còn là một con trẻ ngây thơ nhưng Ngài đã có sức hấp dẫn lạ lùng.

Bạn trẻ thường vây kín quanh Ngài để tham dự một trò chơi diễn lại bài giảng ở nhà thờ. Vincentê luôn diễn giảng chính xác và hùng hồn một cách đáng ngạc nhiên.

Mười hai tuổi thánh nhân theo môn triết học, mười bốn tuổi Ngài học thần học. Người ta kể rằng vào lúc này, đã một lần thánh nhân làm cho một đứa trẻ đã chết sống lại. Câu chuyện xảy ra khi những đứa bạn xấu bày trò chết giả và xin Vincentê thương giúp.

Nhưng đứa giả chết lại chết thật làm chúng phải kinh hoàng. Đáp lời van xin khẩn thiết của chúng, thánh nhân đã cầu nguyện rồi cầm tay đứa chết cho nó sống lại.

Lên mười bảy tuổi, Vincentê đã được các giáo sư coi như ngang hàng với mình. Đây là lúc Ngài phải quyết định hoặc làm giáo sư tại Roma và lập gia đình, hoặc là theo đuổi lý tưởng tu dòng. Thánh nhân đã quyết định gia nhập dòng thánh Đaminh. Đầy xúc cảm và hãnh diện, ngày 05 tháng 02 năm 1367, ông thân sinh đã dẫn Ngài tới cha bề trên dòng Đaminh ở Valentina.

Nhưng chưa được một năm, thân mẫu Ngài lại luyến tiếc tương lai rực sáng của con, và đã cố gắng đưa con trở về lại thế gian. Thoạt đầu Vincentê có cám dỗ, nhưng sau đó Ngài đã thốt lên câu nói làm đà tiền cho suốt cuộc đời:

- Lạy Chúa, con chọn Chúa mãi mãi.

Ngài được đưa về Barcelona và năm1370 đã trở thành giảng viên triết học tại dòng Đaminh ở tại Lerida. Năm 1373, khi trở lại Barcelona để học tiếng Ả rập và Do thái Ngài đã trở thành nhà giảng thuyết lừng danh.

Năm 1377, Vincentê được gọi sang Toulouse để học thêm. Mới đây Ngài kéo được sự chú ý của đức hồng y Pedro da Luna, vị đại diện của phản giáo hoàng tương lai ở Avignon. Từ năm 1385 tới năm 1930 thuyết giảng thần học ở nhà thờ chính toà Valentina và sau đó vào nhóm với Hồng Y Pedro Da Luna.

Ngài nhiệt tâm rao giảng nhất là cho dân Do thái và dân Mô (Maures). Ngài đã cải hóa được một thày Rabbi ở Valladolid, người sau này trở thành giám mục Phaolô miền Burgos và cùng với thánh nhân can đảm trong nỗ lực cải hoá người Do thái ở Tây Ban Nha.

Từ năm 1391 Yolanda ở Aragon. Thời kỳ này, Ngài bị tra vấn vì rao giảng sự thống hối. Pedro Da Luna, người đã được chọn làm giáo hoàng Benedictô XIII ở Avignon đã cứu Ngài khỏi bị xử án và mời Ngài về giáo triều làm cha linh hướng và cha giải tội.

Tỉnh ngộ trước những nỗ lực nhằm hàn gắn sự phân rẽ giữa Roma và Avignon, thánh Vincentê được thị kiến thấy Chúa Giêsu ở giữa thánh Phanxicô và thánh Đaminh sai đích danh Ngài đi rao giảng sự thống hối. Tháng 11 năm 1399 được Đức Bênêdictô XIII cho phép làm việc này, Ngài đã rao khắp miền Tây Âu để rao giảng cho tới ngày lìa trần. Từng đoàn hối nhân từ 3000 tới 10.000 người theo Ngài và đánh tội.

Năm 1416, Ngài rút lại sự ủng hộ của mình và của vương quốc Aragon đối với Đức Bênêdictô XIII vì vị phản giáo hoàng ở Avignon không nghiêm chỉnh để hàn gắn sự phân rẽ khi từ chối đòi hỏi thoái vị công đồng Constance đưa ra. Quyết định của thánh Vincentê có ảnh hưởng tới việc thoái vị của Đức Bênedictô và giúp dễ dàng chấm dứt sự phân rẽ.

Thành quả thánh Vincentê thực hiện được thật lớn lao. Đối lại, thánh nhân đã phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ thử thách. Chúng ta đã nói đến thử thách buổi đầu khi Ngài chọn đời sống hiến dâng. Lời vu oan đuổi theo từng bước chân Ngài và các tội nhân cứng lòng tìm hết cách để tiêu diệt Ngài. Chúng ta nhắc lại đây hai trường hợp:

Một phụ nữ dâm dật lẻn vào phòng Ngài, nhưng thánh nhân thay vì chiều theo những đề nghị của chị ta, đã giảng giải cho chị biết rõ sự nguy hiểm bị hư mất đời đời, khiến chị ta quỳ gối dưới chân Ngài xin lỗi rồi rút lui vào một tu viện để đền tội.

Một phụ nữ khác giả bệnh để mời Vincentê đến. Vừa thấy Ngài tới phòng, chị ta không một chút hổ thẹn đã tỏ rõ ý định của mình. Thánh nhân lập tức rút lui. Giận dữ chị ta vu cáo rằng: thánh nhân đã dám xâm phạm tiết hạnh chị. Nhưng về sau chị đã thú nhận tất cả và công khai đền tội.

Vượt qua được những thử thách, thánh Vincentê còn có những bí quyết để thành công, chẳng hạn trong việc học hành Ngài cho biết: - "Muốn thành công trong việc học hành hãy tham khảo thánh kinh hơn là sách vở. Hãy khiêm tốn xin Chúa ơn được thông hiểu điều bạn đọc, học hành làm mệt trí và làm khô cứng cõi lòng. Bạn thường xuyên đến dưới chân Chúa Giêsu để phục hồi sinh lực".

Thực hiện lời khuyên của mình, thánh nhân dọn bài giảng dưới chân thánh giá, kèm theo những hành vi sám hối cực khổ. Khi nói với dân chúng Ngài lại quỳ trước thánh giá như thể mọi vinh dự chỉ thuộc về Chúa Kitô mà thôi.

Cuộc đời luôn ướp đặm trong tình yêu Chúa, khiến Ngài được ví như thiên thần Chúa trong buổi lễ Hiện xuống: để trả lời cho đám đông dân chúng nhiều miền khác nhau ngạc nhiên vì hiểu được Ngài, Ngài nói: - Tôi nói tiếng mẹ đẻ của tôi, thứ tiếng độc nhất mà tôi biết với một ít tiếng Latinh và tiếng Do thái. Vậy chính Thiên Chúa thân hành giúp các bạn hiểu được.

Các thôn xóm nào đông mỗi khi nghe tin thánh Vincentê sắp đến: công nhân nghỉ việc, thương gia đóng cửa tiệm buôn, thầy dạy bãi khóa... để đi nghe giảng bất kễ trời mưa hay nắng. Thánh nhân nhiệt tâm nói về sự chết và hỏa ngục.

Nhiều tiếng khóc than nức nở cắt ngang lời Ngài khiến Ngài cũng phải khóc theo. Người ta nói rằng nhiều tội nhân nghe lời giảng của Ngài đã ngã chết vì đau đớn rồi hiện về cho biết lòng thống hối đã làm cho họ đáng được hưởng Nước thiên đàng.

Chấm dứt bài giảng, thánh nhân tiếp tục ngồi tòa để phục sinh các tâm hồn.

Hay nói về sự chết và hỏa ngục nhưng thánh nhân cũng thường dùng tính hài hước để sửa dạy các tâm hồn. Ngày nay người ta còn nhắc lại mãi câu chuyện của một phụ nữ. Nàng đau buồn nhiều vì tính nóng nảy của chồng, nhưng không biết dẹp tính bép xép của mình. Thánh nhân khuyên nhủ nàng:

- Đây là phương thế có thể sửa đổi tính nóng của chồng chị. Ra về chị hãy xin thày giữ cửa một bình kín ở giếng nhà dòng. Mỗi khi chồng về nhà, chị hãy uống một ngụm, nhưng đừng đừng nuốt ngay và ngậm càng lâu càng tốt. Giữ mãi được như vậy, chồng chị sẽ hiền lành như một con chiên.

Sau một thời gian kết qủa thật khả quan. Người chồng hoàn toàn thay đổi và người phụ nữ tới cảm ơn thánh nhân, vì phương dược thần hiệu đã tiêu diệt được mọi cuộc cãi vã. Phương ngôn Tây Ban Nha còn nói: - Hãy uống nước Thày Vincentê

Một người trong cơn thù hằn đã không muốn tha thứ cho người thợ đóng giày. Thánh nhân bảo:

- Hãy tha thứ cho chính mình. Ông đang gậm nhấm lòng mình vì không quan tâm đến linh hồn hư mất trong khi vẫn ăn uống và phí phạm thời gian.

Người đó đành thú nhận:

- Vâng, tôi hiểu rằng: ghen ghét như vậy là khùng.

Ngoài nhiệt tình và tài hùng biện đã mang lại thành công cho thánh Vincentê, còn phải kể đến những phép lạ mà Chúa đã làm qua tay thánh nhân. Ngài đã làm vô số những phép lạ. Chỉ nguyên việc điều tra ở Avignon và một vài thành phố khác cũng ghi lại được hơn 860 phép lạ thánh nhân đã làm. Chúng ta ghi một vài sự kiện:

Ở Morella, thánh Vincentê đã cứu sống một đứa trẻ mà người mẹ nó trong một cơn điên, đã giết rồi đem nướng.

Ở Pampeluna Ngài đã dạy một người bị xử tử oan uổng nói lên sự thật.

Ở Vannes Ngài đã bảo một em bé da đen mới sinh nói rõ ai là cha mình, để giải tỏa nỗi lòng đau khổ của người mẹ vì bị chồng nghi ngờ... tuy nhiên chính cuộc sống của thánh Vincentê đã là một phép lạ với những chuyến đi khắp nơi bất kể thời tiết và với việc ăn chay, cuộc sống khắc khổ không ngừng.

Năm 1417 bá tước miền Bretanghe mời thánh nhân tới lãnh điạ của mình. Giữa cuộc tiếp rước long trọng, Ngài đã yếu đuối khó đứng vững nổi, nhưng mỗi khi làm việc, một sinh lực mới khiến Ngài hăng hái hoạt động như hồi thiếu niên, để rồi khi xong việc sức lực Ngài lại tàn tạ như cũ. Ròng rã hai mươi tháng như vậy, thánh nhân đã nỗ lực cải hoá miền Bretagne và

Normandie.Cuối cùng Ngài mới trở về Valentia. Nhưng tới Valentia Ngài kiệt sức và qua đời ngày 05 tháng 04 năm 1419.

http://www.cdcgtphero.de/hanhcacthanh.php?A=4/vinhson

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Vinxentê Phêrê (tiếng Tây Ban Nha: Vicente Ferrer), sinh tại Valence (Tây Ban Nha) năm 1350. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bảy tuổi. Sau khi học xuấc sắc triết học và thần học, ngài được thụ phong linh mục năm 1378 và đỗ tiến sĩ thần học tại Lérida. Sau vài năm giảng dạy và thuyết giảng tại Valence, kể từ năm 1399, ngài sống đời thuyết giáo, chu du khắp Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Sĩ, Ý và Ái Nhĩ Lan... Chỉ cái chết mới chấm dứt một đời rong ruổi. Châu Âu lúc đó bị xâu xé bởi cuộc chiến Trăm Năm (1337 – 1453). Cuộc chiến đã khiến Pháp và Anh đối đầu nhau; Hội Thánh bị phân hóa do cuộc đại ly giáo ở Tây Phương (1378 – 1417); cuộc Đại Ly khai với hai rồi ba Giáo Hoàng cạnh tranh nhau, cho đến khi Công Đồng Constance (1414 – 1418) chấm dứt cuộc ly giáo, nhờ bầu được Đức Giáo Hoàng Martin V vào năm 1417.

Vào thời đại quá nhiễu nhương, Vincent Ferrier đi khắp châu Âu kêu gọi sự hoán cải và hòa giải. Tài hùng biện, sự thánh thiện, các phép lạ và danh tiếng của ngài lan tràn khắp nơi, tất cả đã làm rung chuyển lục địa này. Nhiều đoàn dân theo người, vì thế các “tu hội” được thành lập như: Dòng “Anh Em Đánh Tội – les Flagellants”. Họ mang áo đen và trắng vừa hành xác vừa hát lời ca này: “Vinh danh sự thương khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và lạy Chúa, xin dủ lòng thương xót, xóa các tội lỗi chúng con !”

Người ta gọi Vincent là “Thiên Sứ thời phán xét” vì vào thời tao loạn ấy, thánh nhân xuất hiện như nhà thuyết giảng về ngày thế tận. Từ đó, thánh nhân đã chinh phục vô vàn người trở lại, kể cả người Do Thái, người Maures và các người lạc giáo. Sau cùng, ngài mang hòa bình khi giữ vai trò trung gian trong cuộc chiến Trăm Năm. Ngài đóng góp công sức vào việc giải quyết cuộc đại ly giáo ở Tây Phương, khi tham dự Công Đồng Constance.

Vincent Ferrier qua đời vào tuổi bảy mươi, tại Vannes miền Bretagne, lúc đang thi hành nhiệm vụ sau chuyến đi giảng Mùa Chay. Ngài được Đức Giáo Hoàng Calixte III phong hiển thánh năm 1455 và nhận tước hiệu là vị Tông Đồ của Châu Âu. Người Tây Ban Nha và Pháp tranh chấp về di hài của thánh nhân.

2. Thông điệp và tính thời sự

Đức Giáo Hoàng Calixte III, khi phong Vincent Ferrier lên bậc hiển thánh, đã ví người như một Thiên sứ đang bay lượn và gieo vãi Tin Mừng khắp nơi. Vì thế nghệ thuật ảnh tượng đôi khi biểu hiện ngài với đôi cánh và tay cầm Thánh Giá.

a. Lời nguyện đầu lễ trong ngày kính nhớ thánh Vincent nêu rõ nhiệm vụ rao giảng của ngài là loan báo Đức Kitô lại đến như “vị thẩm phán”. Cũng thế, tin mừng Thánh Lễ (Lc 12,35-40) gợi lại cuộc quang lâm của Đức Kitô: ...Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn... Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến. Tuy nhiên, đối với ai hỏi ngài về các dấu chỉ của cuộc phán xét sau cùng ấy, ngài trả lời rằng không có dấu chỉ nào hơn lòng bao dung của Thiên Chúa ban cho chúng ta.

b. Trong khảo luận về đời sống thiêng liêng, xuất bản khoảng năm 1410, thánh Vincent kêu gọi các nhà mục tử tâm hồn nên có một tấm lòng tràn đầy dịu dàng và thương xót. Ngài viết: “Khi giảng dạy khuyên lơn, bạn hãy dùng lời lẽ đơn sơ... hãy nói thế nào cho người ta thấy lời lẽ của bạn không phát xuất từ một tính khí kiêu căng giận dữ, nhưng do một tấm lòng yêu thương đầy tình phụ tử. Hãy nên như người cha đau đớn vì con cái mắc tội ... người cha ấy sẽ ấp ủ nó như một bà mẹ. Lúc giải tội cũng thế: nhẹ nhàng khích lệ kẻ nhút nhát, lúc nào bạn cũng hãy tỏ ra là một người đầy yêu thương trìu mến...” (các bài đọc Kinh Sách). Như thế, thánh Vincent hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu “Thiên Sứ của ngày phán xét” và đã nhận được sự khôn ngoan cùng vinh dự khi chỉ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đang đến “xét xử” trần gian, nhưng để cứu trần gian, như bài đọc trong Thánh Lễ đã nêu lên: Đây là lời của vị chứng nhân trung thành và chân thật...: Này đây ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy ... Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta. (bài đọc một: Kh 3,14 ...22). Vincent có nghĩa là “người chiến thắng”; để làm kẻ chiến thắng chỉ cần đứng bên cửa và lắng nghe tiếng gõ. (xem thêm bài tin mừng Thánh Lễ: Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay ... (Lc 12,35-40).

Enzo Lodi

https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/05-04-thanh-vixente-phere-linh-muc-1350-1419-le-nho-tuy-chon/

 

 

Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95

"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".

Trích sách Tiên tri Ðaniel.

Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn, tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach, Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.

Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56

Ðáp: Chúa đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).

Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26

Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời".

 

Phúc Âm: Ga 8, 31-42

"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".

Ðó là lời Chúa.


Suy niệm

 

 

 Cho dù họ rất muốn biết về Người, nhưng khốn thay, họ càng muốn biết thì họ lại càng vấp phạm,

nhất là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người cuối cùng buộc phải công nhận...   

 


Nếu Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay kể từ Thứ Tư Lễ Tro thì hôm nay là ngày thứ 36 của Mùa Chay, Thứ Tư trong Tuần V Mùa Chay.

"Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, cho thấy sắp sửa trở thành hiện thực ở biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô trong Tuần Thánh, nhất là ở Tam Nhật Vượt Qua.

Nếu biến cố tử nạn và phục sinh của Người là tột đỉnh của tất cả mạc khải thần linh, cho chung con người nhất là cho riêng dân Do Thái, thì những gì Người tỏ mình ra cho dân Do Thái, qua lời nói của Người, ở các bài Phúc Âm ngày thường từ Thứ Tư tuần trước, Tuần IV Mùa Chay, cho đến hết Tuần V Mùa Chay này, là dạo khúc tiến đến tột đỉnh mạc khải thần linh ấy, một mạc khải Thiên Chúa tỏ hết mình ra cho loài người biết Ngài là ai và như thế nào nơi Con của Ngài là nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, Đấng bị chính dân của Người phủ nhận, loại trừ và lên án tử!

Thật vậy, bằng lời chứng của mình, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ mình ra cho dân Do Thái. Nếu căn cứ vào thứ tự các bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Gioan, thì Người tỏ mình ra từ xa tới gần, rất tài tình, khéo léo và đầy ngoạn mục như sau:

Ở bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần IV Mùa Chay vừa rồi, chính Người khẳng định và tuyên bố rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu Tuần V Mùa Chay này, Người lại khẳng định và tuyên bố hoàn toàn ngược hẳn lại: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".

Để rồi, từ đó, từ chỗ "Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu" như thế, một sự thật vô cùng quan trọng chẳng những đối với phần rỗi của chung loài người và riêng dân Do Thái, mà còn đối với cả chính bản thân của Người nữa. Bởi vì, nếu Người không biết mình là ai, ở chỗ, từ đâu tới và sẽ đi đâu, thì Người quả là một con người thuần túy, không phải là "Đức Kitô (Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), và vì thế Người không phải là Đấng Cứu Thế, không có tư cách và khả năng cứu độ trần gian.

Bởi thế, tự biết mình là một mầu nhiệm thần linh siêu việt, cho dù có tỏ mình ra, không một ai trên trần gian này có thể nào hiểu được, kể cả thành phần môn đệ thân tín của Người, huống chi là dân Do Thái, thành phần mà Người đã thừa biết, như Người đã khẳng định với họ về tầm kiến thức thấp hèn hạn hẹp của họ trong bài Phúc Âm hôm qua, rằng "các người thuộc về hạ giới... thuộc về thế gian", nên không thể nào hiểu được Người là Đấng "bởi trời cao".

Thậm chí, cho dù họ có muốn biết, rất muốn biết về Người, nhưng khốn thay, họ càng muốn biết thì họ lại càng vấp phạm, nhất là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người cuối cùng buộc phải công nhận theo câu hỏi dứt khoát về Người bởi lệnh truyền tối thượng của vị thượng tế Caipha đại diện họ thay mặt Thiên Chúa (xem Mathêu 26:63-67), như Người cũng đã khẳng định với họ về số phận của họ trong cùng bài Phúc Âm hôm qua: '"Tôi ra đi, quí vị sẽ tìm kiếm Tôi và quí vị sẽ chết trong tội của quí vị. Nơi Tôi đi quí vị không thể nào tới được". 

Trong bài Phúc Âm Thứ Tư Tuần V Mùa Chay hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ tiến sâu hơn nữa vào mầu nhiệm về Người, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Người, khi Người khéo léo đưa họ về lại từ đầu, về chính nguồn gốc thần linh của chính họ, về vị tổ phụ đu tiên của họ là Abraham, người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên, từ đó, Người dẫn họ tới chính Đấng là Cha của họ về siêu nhiên, Đấng đã tự xưng mình với Moisen là vị cứu tinh dân tộc họ, Ngài là "Thiên Chúa của Abraham..." (Xuất Hành 3:6,15).

Trước hết, Chúa Giêsu đã khéo léo đưa dân Do Thái, qua những người đại diện đang nghe Người bấy giờ, về lại từ đầu, thoạt tiên về vị tổ phụ Abraham là người cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên: 

"'Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi'. Họ đáp lại: 'Cha chúng tôi chính là Abraham!'" 

Sau nữa, từ người cha về tự nhiên này, Chúa Giêsu đã bí mật và kỳ diệu dẫn họ tới chính Thiên Chúa là Cha của họ về siêu nhiên: 

"'Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!' Họ lại nói: 'Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!' Chúa Giêsu nói: 'Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến'".

Trong câu chuyện đối đáp giữa Chúa Giêsu và thành phần thính giả đại diện cho dân Do Thái bấy giờ liên quan đến nguồn gốc của họ, từ lãnh vực tự nhiên dính dáng đến tổ phụ Abraham, lên lãnh vực siêu nhiên đụng chạm tới chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, và cả hai, tổ phụ Abraham và Thiên Chúa, đều được dân Do Thái nhận là cha và gọi là cha: "Cha chúng tôi chính là Abraham!"; "Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!".

Tuy nhiên, lần nào cũng thế, mỗi lần họ khẳng định và công nhận với Người cha của họ là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa, Chúa Giêsu đều công nhận họ nói đúng về lý thuyết nhưng hoàn toàn không đúng về thực tế, bởi vì họ có một thứ "cha" nào đó không phải là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa của họ: "các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi"... "các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!". 

Vậy "cha" của dân Do Thái được Chúa Giêsu nói đến ở đây, không phải là tổ phụ Abraham cũng không phải là Thiên Chúa thì là ai vậy? Phải chăng là Moisen, vị trung gian môi giới giữa họ và Thiên Chúa là Đấng đã ban cho họ lề luật qua Moisen, vị được Ngài chọn và sai đến với họ để giải thoát họ khỏi tình trạng làm nô lệ cho người Ai Cập mà dẫn họ về miền Đất Hứa tự do của riêng họ, được Thiên Chúa hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham của họ, và vì thế vị cứu tinh trung gian môi giới Moisen này đối với họ có thể được họ coi như một người cha đã tái sinh họ từ sự chết vào sự sống?

Rất tiếc không phải như thế, nếu chúng ta tiếp tục đọc thêm một chút nữa, chỉ sau bài Phúc Âm hôm nay 1 câu nữa thôi, tức ở câu 44 cùng đoạn 8 với bài Phúc Âm hôm nay (chấm dứt ở câu 42), chúng ta sẽ thấy ngay chân tướng của thứ "cha" được Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới liên quan đến dân Do Thái ở đoạn Phúc Âm hôm nay. Ai vậy? Dạ, xin thưa, đó là "ma quỉ": "Người cha mà các người xuất phát là ma quỉ và các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn...". 


"các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi", "Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" "các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn..." đây là gì, nếu không phải là phản kitô, không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (xem 1Gioan 2:22; 2Gioan 7), như hình ảnh tiêu biểu được Thánh ký Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền (12:4) về môt con khủng long (ám chỉ Luxiphe hay Satan) rình chực trước người nữ sinh con để nuốt con trẻ do người nữ sinh ra (ám chỉ Chúa Kitô, vị Thiên Chúa nhập thể).


Thật ra dân Do Thái không hề biết như vậy, nhưng chính Chúa Giêsu đã vạch ra cho họ thấy như thế, căn cứ vào việc làm và hành động khách quan của họ. Tự mình họ thuộc về hạ giới và thế gian đã không thể nào hiểu được mầu nhiệm Chúa Kitô, cho dù có được chính Người tỏ ra cho, như bài Phúc Âm hôm qua đặc biệt cho thấy, họ lại còn bị ma quỉ giật giây, chi phối bởi mầm mống nguyên tội ở nơi họ, mầm mống chống đối như ma quỉ, mà họ đã tác hành những gì
"đã thấy nơi cha các ngươi", "của cha các ngươi!" "theo những gì hắn muốn...".


Wow, c
ả là một đụng chạm kinh hoàng, chưa bao giờ xẩy ra... Bởi thế, chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai), cũng như ở nơi mối liên hệ với chính Thiên Chúa (bài Phúc Âm ngày kia, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).

Bài Đọc 1 hôm nay, 3 nhân vật tiêu biểu cho niềm tin của Do Thái giáo là "Sidrach, Misach và Abđênagô" đã chứng tỏ niềm tin bất khuất của mình vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc họ, bất chấp cái chết về thể xác, nhờ đó họ đã làm cho cả vị vua dân ngoại vô thần và thờ tà thần cùng coi bản thân mình là thần này ra lệnh giết họ phải nhận biết Thiên Chúa của họ:

"Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần rằng: 'Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?' Các ông trả lời với vua rằng: 'Tâu lạy vua, đúng vậy thật'. Vua nói: 'Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa'. Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: 'Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ'".

Đức tin bất khuất của 3 chứng nhân trẻ trung này trước mặt quyền bính thế gian bấy giờ, như họ đã hiên ngang tỏ ra: "Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên", thật sự là một đức tin xứng đáng chứng tỏ họ quả là con cháu của tổ phụ Abraham, cha của tất cả những kẻ tin (xem Roma 4:16), một đức tin Chúa Giêsu muốn thấy nhưng rất tiếc không thấy nơi thành phần thính giả của Người bấy giờ trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham!"

Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng "đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời":

1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. 

2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 

5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. 


 


Thứ Năm


Lời Chúa


Bài Ðọc I: St 17, 3-9

"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".

Trích sách Sáng Thế.

Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng: "Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14

Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và Chúa sẽ ở cùng các ngươi.

 

Phúc Âm: Ga 8, 51-59

"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".

Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

Ðó là lời Chúa.

Jn 8:51-59 -- Your father Abraham saw my Day and was glad - Missierkom  Abraham qabeż bil-ferħ … – gloria.tv

 


 

Suy niệm



  Nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét,

nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", 

là ở chỗ Người biết Thiên Chúa 

 

  

Hôm nay, Thứ Năm Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh cũng gọi là Tuần Thương Khó.

Đúng như hôm qua đã cảm nhận "chúng ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này của họ, và vì vậy, trong khi họ được Chúa Giêsu tiếp tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".

Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối, chúng ta đã thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh ký Gioan cho biết: "Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ". 

Phải chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy ra sự kiện "Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ Sáu Tuần Thánh mới bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng Phục Sinh mới mở các tấm che các ảnh tượng khác ra?

Sự kiện theo truyền thống của Giáo Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu, hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không thể nào hiểu được, dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.

Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao" (Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra vào đêm Vọng Phục Sinh. 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông bị quỷ ám" sang hành động bạo lực là "lượm đá ném Ngài". Hành động "lượm đá ném Ngài" này cũng chưa nặng bằng hành động "họ tìm cách bắt Ngườiở bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày mai, Người thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của họ. 

Thế nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ phụ đáng kính Abraham mà thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể nào chịu nổi, đến độ đã ném đá Người như thế. Sau đây là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực không thể nào không gây chấn động toàn thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn bên ngoài (ném đá):

"'Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi'".

Lời khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như Người đã từng khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này, cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.

"Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?". 

Như thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao? Nếu không phải tại vì: 

"Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài. Nếu Ta nói Ta không biết Ngài, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài, và Ta giữ lời Ngài. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Đúng vậy, nguồn gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do Thái bấy giờ cho Người là "bị quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Ngài. Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến thức thần linh siêu việt này không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói về vị tổ phụ này rằng: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Nghĩa là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham, chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được thấy ngày của Ta", và chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông đã thấy và đã vui mừng" cho dù Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa sinh ra. 


"Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái 7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21).

Ngoài ra, "Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông. Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông sát tế nó cho Ngài, để nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem Roma 8:32), trở thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô số muôn dân, đông như sao trời nhiều như cát biển, không thể nào đếm được, là thành phần miêu duệ xuất phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này của ông.

Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại. Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với nhân vật Abram này bằng những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4):

"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu duệ Abrahamđược Thiên Chúa "kén chọn" "hãy luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc lại trong Bài Phúc Âm cùng ngày: 

1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và những điều Ngài phán quyết.

2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. 

3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. 


Thánh Gioan Lasan 7-4

 

Ngày 7/4: Thánh Gioan Baotixita Lasan

 

 

Gioan Lasan ( Jean Baptiste de Lasalle) chào đời ngày 30/4/1651 tại thành Rheims_Pháp, trong một gia đình trưởng giả. Cha là thẩm phán tòa án thành Rheims, mẹ là con gái nhà quý tộc. Ngay từ thưở thơ ấu Gioan đã thích những việc đạo đức.

Lên 10 tuổi Gioan bắt đầu học lớp đệ lục tại Rheims. Năm 1662, Gioan nhận phép cắt tóc được chính thức công nhận là ứng sinh gia nhập vào hàng ngũ giáo sĩ. Chưa đầy 16 tuổi Gioan đã lãnh nhận chức Kinh Sĩ và lãnh bằng M.A hạng tối ưu, kết thúc quãng đời học sinh năm 1669 ( 18 tuổi)
Gioan học đại học Rheims được một năm, đến tháng 10/1670 thì theo học tại đại chủng viện Sulpice ( Xuân Bích) do các linh mục tu hội Xuân Bích điều khiển.

Năm 1671, được tin mẹ mất và chưa đầy 9 tháng sau, cha của Gioan cũng qua đời. việc học vì thế bị gián đoạn, Gioan trở về nhà chăm lo việc gia đình. Năm 1672, Gioan lãnh nhận chức phụ phó tế trong nhà nguyện Đức TMG tại Cambrai. Mùa thu năm 1673, công việc trôi chảy nên Gioan tiếp tục việc học. Tháng 8/1675 Gioan lấy được bằng cử nhân thần học. một năm sau lãnh nhận chức phó tế và ủy quyền giám sát các em của mình lại cho ông cậu. đến năm 1678, Gioan được thụ phong linh mục trong dinh Đức TGM thành Rheims đồng thời nhận bằng tiến sỹ thần học năm 1680.

Những năm đầu đời linh mục, Gioan đã gặp khó khăn trong việc thương thuyết xin chính quyền công nhận hội dòng “các chị em Chúa Giêsu Hài Đồng” chuyên giáo dục những em gái nghèo do cha Nicolas trao phó cho Gioan trước khi ngài mất. cha Gioan đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, cha thường đến dâng lễ và giúp về phần thiêng liêng cho các chị em. Cha Gioan ngày ngày dâng lễ với cung cách trang nghiêm sốt sắng nên thu hút được nhiều người và cảm hóa nhiều người khô khan nguội lạnh.

Ngày 15/4/1679 trường Kitô đầu tiên dành cho con trai nghèo được thành lập cùng bao khó khăn thiếu thốn. đến khoảng cuối năm 1679 thêm hai trường nữa được thành lập và rất thành công. Tuyn nhiên người quản lý các trường là ông Nyel không lo huấn luyện các thầy giáo nên về sau các thầy giáo trở nên cẩu thả, học sinh ngày càng khó trị và vô kỉ luật. Tất cả những gì tốt đẹp xây dựng bấy lâu sắp tan thành mây khói. Cha Gioan quyết định đưa các thầy giáo về sống trong nhà mình để có thêm thời gian lo cho các thầy giáo và huấn luyện họ trở thành một cộng đoàn cùng chung ý hướng và tôn chỉ. Mặc cho gia đình phản đối cha vẫn giữ nguyên quyết định thực hiện, từ bỏ thế giới sung túc để sống trong thế giới của người nghèo. Xây dựng trường học, huấn luyện các thầy giáo, tiến hành cải cách nền giáo dục Kitô cho trẻ em nghèo…Cha Gioan đã gặp không biết khó khăn, gian nan trong việc thành lập hội dòng, mở rộng các trường học khắp các miền thành Rhiems, Paris, Vaugirard…Cha đã vượt qua tất cả sự chống đối, nhục mạ và kiện tụng, có những lúc rơi vào tình trạng khủng hoảng tưởng chừng như hội dòng sắp tiêu tan…

Có thể nói Cha Gioan đã hi sinh tất cả để chăm lo cho các em trường Kitô và hội dòng trong suốt quãng thời gian từ năm 1680 đến năm 1719. Công lao sáng lập, gây dựng của Cha thật lớn lao cho một nền giáo dục nhân bản và Kitô.

Về phần mình Cha Gioan luôn sống khắc khổ, ăn chay, hãm mình. Mặc cho đau ốm bệnh tật suýt chết, cha vẫn khó nghèo trong luật lệ do chính mình soạn thảo ra, sống hết mình, vâng phục để làm vinh danh Chúa theo khả năng mình và theo thánh ý Người.

Về cuối đời. cha Gioan sống trong bệnh tật khắc nghiệt, phải chịu nhiều đau đớn nhưng cha vẫn trung thành với Chúa cho đến cùng. Khi đang trong cơn đau sắp chết vì một số hiềm khích lúc trước mà có người hại Gioan, kết cuộc Gioan bị treo chén. Đây là tủi nhục cuối cùng mà Gioan phải đón nhận. như bao lần trước ngài vẫn cất tiếng: “ Xin chúc tụng Chúa” vào thứ 6 tuần thánh, ngày 7/4/1719 Gioan trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 68 tuổi.

Đến 5/1840 hồ sơ phong thánh của người được nộp cho Tòa Thánh. Các sách vở người viết được nộp cho Tòa Thánh cứu xét. Ngày 12/1/1852, Tòa Thánh công nhận các bản văn này phù hợp với tín lý của Giáo Hội. Ngày 1/11/1887, Toà Thánh công nhận 3 phép lạ do lời chuyển cầu của Ngài và Ngài được Đức Thánh Cha Leo XIII nâng lên hàng Á Thánh ngày 19/2/1888. Sau đó Tòa Thánh công nhận thêm 2 phép lạ nữa do Ngài cầu bầu giúp. Ngày 25/4/1900, Đức Thánh Cha nâng ngài lên hàng các thánh và được chọn làm quan thầy các nhà giáo dục trên toàn thế giới vào ngày 15/5/1950.

Công trình cả đời Ngài thâm tín là “ việc của Chúa – Domine, Opus Tuum” vẫn được tiếp tục bởi nhưng người nối gót theo Ngài dấn thân cống hiến cho trẻ, đặc biệt là con em người nghèo và lao động, một nền giáo dục nhân bản KiTô trong hơn 300 năm qua ở hơn 80 quốc gia trên thế giới.

 

http://lasanbmt.com/tin-tc/tin-tc-la-san/598-tiu-s-thanh-gioan-lasan.html

 

Trong một thế kỷ ham chuộng tóc giả, phấn son cùng y phục xa hoa; ai là người để ý tới kẻ săn sóc đám lê dân? Trong khi mà vua Louis thứ XIV oai phong lẫm liệt giữa triều thần trong cung điện Versailles; trong khi mà Giám mục Bossuet hấp dẫn mọi người chung quanh giảng đài của ông; trong khi chiến thắng oanh liệt của hai ông Turenne và Condé vang dội châu Âu; trong khi mà thi kịch gia Corneille,Racine,La Fontaine chói lọi trên văn đàn; hỏi ai là người đếm xỉa tới một Linh mục chạy ngược xuôi tổ chức các trường từ thiện?

                                                                                                                       Đucmagnificat

Đám trẻ nhỏ không có ai dạy dỗ

Đi lang thang chập choạng bước lạc loài

Gặp Lasan, kẻ đã được Chúa sai

Như ngọn lửa bừng lên trong đêm lạnh.

            Vâng, giữa lúc các trường công nước Pháp cấm dạy đạo, Chúa Quan Phòng đã cho xuất hiện một vị Thánh chuyên lo giáo dục trẻ, khai mở các trường Công giáo, vừa dạy chữ, dạy nghề, vừa huấn luyện đạo lý. Đó là Thánh Gioan Baotixita La-san linh mục mà chúng ta mừng kính hôm nay.

            Thánh Gioan Lasan sinh ngày 30.4.1651 tại thành Reims(Pháp) trong một gia đình giàu có, sang trọng và đạo đức. Người theo học tại chủng viện Sulpice và thụ phong linh mục vào năm 1678. Nhờ ơn Chúa soi sáng, Ngài thấy được con đường lý tuởng của Ngài. Đó là “đào tạo giáo viên và mở trường dạy học”; một con đường với đầy những khó khăn, gian khổ và đau thương ngập tràn khiến Ngài đã từng phải thốt lên rằng: “Nếu tôi biết trước được công việc sẽ dẫn tôi đến đâu, thì tôi sẽ không bao giờ đụng ngón tay vào…”Thế nhưng, từng bước một và một cách tế nhị, kín đáo, Chúa dẫn đưa Người dần dần tới chỗ lo cho việc giáo dục trẻ nghèo, một nhu cầu cấp bách của xã hội đương thời.

            Người đã thấy được hai thực thể:một thực thể tối thượng là Thiên Chúa;và một thực thể thấp hèn là con em giới lao động.

            Người đã nhận thức được hai sự thật: một là Thiên Chúa luôn luôn muốn cứu sống hết mọi người; hai là trong khi ấy con em giới lao động lại sống quá xa ơn cứu độ.

Và Thánh Gioan Lasan đã quyết định đem ơn cứu độ đến trong tầm tay của trẻ hay nói đúng hơn là để bỏ ngỏ đời mình cho Thiên Chúa Quan phòng cứu sống trẻ.

            Chính vì thế, Người bán hết của cải, phân phát cho kẻ nghèo, tới sống chung với một số giáo viên. Người đứng ra khai mở nhiều trường Công giáo, dạy văn hoá, huấn luyện nghề nghiệp nhất là hướng dẫn Giáo lý cho học sinh. Ngài ưu tiên cho học sinh nghèo, miễn phí cho họ. Chính vì đó mà Ngài gặp hết khó khăn này đến khó khăn khác. Các trường khác chống đối Ngài vì trường họ mất học sinh, nhất là vấn đề học phí. Họ tố cáo Ngài, tổ chức cướp phá trường của Ngài. Chính quyền ra lệnh cấm Ngài dạy miễn phí trong thành phố Paris. Nhưng Thánh nhân vẫn không ngã lòng.

Trên hai vai nặng trĩu gánh học đường

Cha vững bước trong niềm TIN sắt đá,

Chén gian truân Cha nào đâu có sá,

Uống cạn ly vì hai chữ NHIỆT THÀNH.

            Và thế là Ngài tiếp tục mở trường dạy miễn phí ở các nơi khác.

            Lần lần với kinh nghiệm, ngài thấy rằng muốn cho công cuộc giáo dục đạt kết quả tốt, chẳng những là phải có một đội ngũ giáo viên có học thức cao mà cần nhất là đào tạo đức gương mẫu. Với ngưòi, nghề gõ đầu trẻ không còn là một kế sinh nhai mà là một nghề cao quý, và hơn nữa còn là một sứ mạng thiêng liêng.

Gõ đầu trẻ, một cái nghề bất hạnh

Sống qua ngày cho trọn kiếp tầm tơ

Nhưng này đây: một sứ mạng đang chờ

Cùng với Chúa dựng xây nhà Hội Thánh.

            Vì thế, Ngài cầu nguyện với Chúa và quyết định biến đổi nhóm giáo viên của Ngài thành một cộng đoàn tu sĩ chuyên lo việc giáo dục đào tạo. Đó là Dòng Các Sư Huynh trường Kitô mà chúng ta thấy hiện có mặt khắp các nước trên thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho công trình giáo dục, Ngài đã định không một sư huynh nào được làm linh mục. Vì nếu làm linh mục thì các sư huynh phải lo việc mục vụ, không đủ thời gian lo cho việc dạy dỗ giới trẻ. Chính Ngài đã chăm lo huấn luyện đạo đức và nghiệp vụ cho các Sư huynh.Ngài thường nhắn nhủ: “Anh em hãy suy nghĩ điều tông đồ Phaolô đã nói:Thiên Chúa đã đặt trong Hội thánh có các tông đồ,các tiên tri và các tiến sĩ.Bây giờ anh em cũng sẽ thâm tín rằng chính Chúa cũng đã đặt anh em trong chức vụ đang ở.Về điều đó,chính vị Thánh ấy đã cho anh em một bằng chứng khi nói: có nhiều tác vụ và nhiều công việc nhưng chỉ có một Thánh Thần biểu thị trong mỗi ơn như vậy, để làm ích chung cho toàn thể tức là cho cả Hội thánh.

            Do đó, anh em không được nghi nan gì về ơn mà anh em đã được, là giáo dục thiếu niên, rao giảng Tin mừng cho chúng và huấn luyện chúng trong tinh thần đạo đức. Đó là ơn cao cả Thiên Chúa đã ban cho anh em. Người đã gọi anh em đến chức vụ Thánh này. Vậy trong toàn bộ việc giáo dục của anh em, anh em phải làm cho lớp thiếu niên mà anh em có phận sự coi sóc, nhận thấy anh em chính là thừa tác viên của Thiên Chúa,khi anh em chu toàn phận sự với tình thương không giả dối và với sự chuyên cần chân thật. Hơn nữa, anh em còn phải dấn thân vào chức vụ không phải chỉ là thừa tác viên của Thiên Chúa mà còn là thừa tác viên của Đức Kitô và Hội thánh nữa.

            Anh em hãy thao thức làm cho thiếu niên đi vào cơ cấu của ngôi đền thờ này là Hội Thánh, để một ngày kia chúng xứng đáng đến trước toà Đức Giêsu đầy vinh quang, không tì tích, không nhăn nheo hay xấu xa hầu chứng tỏ cho các thế hệ mai sau thấy các sự giàu sang phong phú của ơn Thánh mà Thiên Chúa đã ban cho chúng, khi cho chúng trợ giúp về giáo lý, lúc trao chúng cho anh em dạy dỗ và giáo dục để chúng được phần gia nghiệp nước Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kiô,Chúa chúng ta”.

            Cuộc đời của Gioan Lasan đầy gian truân thử thách và chịu nhiều áp lực của thế quyền cũng như giáo quyền, nhưng Người vẫn luôn tin tưởng và phó thác vào bàn tay Chúa Quan Phòng. Người mất ngày thứ sáu Tuần Thánh 07.04.1719,tại Saint-Yon,thọ 68 tuổi. Lời cuối cùng của Người nói lên được thái độ thâm sâu của Người trước cuộc đời: “Tôi thờ lạy Thánh ý Chúa trong mọi sự đối với tôi”.

            Chỉ bấy nhiêu việc cũng đủ ghi danh Người vào sử sách nhưng Người còn làm hơn nữa, Người đã dựng cho các trường tiểu học một hệ thống giáo dục mà nhiều điểm còn tồn tại tới ngày nay cho nên Người đã được coi là Vị gầy dựng nên trường tiểu học. Các sử gia phải lấy làm kinh ngạc khi thấy những nguyên tắc giáo khoa tân tiến ngày nay đã được Người áp dụng cách đây hơn hai thế kỉ.

            Gioan Lasan không còn nữa nhưng hệ thống giáo dục, những công trình Ngài đã lao công vất vả để gầy dựng cũng như hội dòng Các Sư huynh trường Kitô vẫn sống mãi theo thời gian. Vì lý do rất đơn giản: Còn giới trẻ-Còn giáo dục;Còn giáo dục-còn các Sư huynh Lasan.

            Chính vì thế,ngày 19.02.1888 Đức Giáo hoàng Léon XIII đã tôn phong Người lên bậc Chân phước và lên bậc Hiển Thánh ngày 24.05.1900.

            Ngày 15.05.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII tôn phong Người làm Quan Thầy các nhà giáo dục Kitô trên toàn thế giới.        


Và công trình của Thánh Gioan Lasan,một công trình mà ANH luôn thâm tín là việc của Chúa-Domine,opus tuum-vẫn còn tiếp tục

            qua các Sư huynh Lasan, con cái của ANH,

            qua Chị em Lasan, con cháu của ANH,

            qua các nhà giáo dục,những người thông dự vào đoàn sủng Lasan,

            đang nối gót ANH

            dấn thân cống hiến cho giới trẻ, đặc biệt con em giới nghèo và lao động,

            một nền giáo dục nhân bản và Kitô,

            trong gần 350 năm qua trên 84 quốc gia trên thế giới.

Lasan
(Theo Dòng Lasan VN)

https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1172

 

Tinh Thần Đức Tin Giúp Gioan La San Vượt Qua Khó Khăn Thử Thách

Là tu sĩ La San, là thành viên gia đình La San, là những người cảm nhận mình đang bước trên hành trình phục vụ giáo dục nhân bản và Kitô cho giới trẻ và trẻ nghèo, chúng ta có chung một niềm từ hào về Cha Gioan La San, Đấng Sáng Lập Dòng La San. Một trong những điểm nổi bật trong cuộc đời Cha Thánh Gioan La San đó là tinh thần đức tin quả cảm của ngài.

Những suy trong bài này quy chiếu vào tinh thần đức tin của thánh Gioan La San, nó không phải là một khảo luận nhưng chỉ là một suy tư dựa trên các tư liệu của Dòng.

Nội dung bài suy tư này gồm 3 điểm chính: thứ nhất thánh Gioan La San đã minh chứng một đức tin hùng hồn khi Ngài từ bỏ hết mọi sự để theo Chúa. Tiếp đến, Ngài đã thể hiện niềm tin đó trong một cộng đoàn liên kết cùng nhau thực thi thánh ý Chúa. Sau cùng, bài suy tư bàn đến một đức tin rất quả cảm của thánh Gioan La San, không lùi bước trước khó khăn thử thách.

1/ Từ Bỏ Mọi Sự Để Theo Chúa: Mình Chứng Một Đức Tin Hùng Hồn.

Kể từ lúc đến sống chung với các thầy giáo năm 1682, Gioan La San đã nhận thấy một thực trạng không mấy sáng sủa: Cộng đoàn không có tài sản để bảo đảm cho tương lai, một số người bị cám dỗ không tiếp tục ở lại. Cha Gioan La San đã khuyên họ tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. Nhưng tất cả lý do để đưa ra không thể nào thuyết phục được họ. Thật khó cho cha Gioan La San, lời nói giờ đây đối với họ chỉ như “nước đổ đầu vịt” họ cần một cái gì khác, bởi họ nhận ra trong lời cha nói và cuộc sống tiện nghi của Cha có một hố sâu cách biệt. Họ cần một con người bằng xương bằng thịt làm gương hơn là một lý thuyết xa xôi trong sách vở, dù cho đó là lời lẽ trong Phúc Âm.

Phải trở nên nghèo như họ. Đó là ý tưởng đã không ngừng thách đố cha Gioan La San khi ngài suy nghĩ, tự vấn bản thân về lời lẽ các thầy đã từng nói: “Cha đâu thiếu thốn gì…. Chúng tôi là những kẻ không tài sản[1].

Sau khi đã suy nghĩ kỹ, cầu nguyện và đặc biệt xin ý kiến của cha linh hướng, cha Gioan La San đã quyết định “từ bỏ mọi sự” để theo Chúa Kitô khó nghèo, làm gương cho các thầy bằng cách lột bỏ hết mọi bám của cải trần tục để chỉ còn bám víu vào Chúa Quan Phòng mà thôi. Nếu không có tinh thần đức tin vững mạnh, cha Gioan La San đã không thế quyết định từ bỏ ngoạn mục như thế được.

Chúng ta có thể theo dõi những khắc khoải của người cha đáng kính của chúng ta khi quyết định dùng tài sản mà cha đã thấy rằng tài sản đó không còn thuộc sở hữu của ngài nữa. Lời cầu nguyện trong khắc khoải của ngài như sau:

“Chúa con ơi, con biết phải làm sao đây, nên hay không nên đầu tư vào ngân hàng để kiếm tiền lời cho trường học. Việc lập các cộng đoàn đâu phải chuyện con; con thực cũng đâu biết cách thức lập cộng đoàn. Chỉ mình Chúa mới biết chuyện này, và chỉ chính Chúa mới biết cách thực hiện như thế nào vừa ý Chúa. Con không dấm lập cộng đoàn và cũng chẩng dám đầu tư, vì con không biết Chúa muốn gì. Thôi, con không đầu tư đâu. Nếu Chúa đầu tư kiếm tiền cho trường, trường sẽ có tiền; nếu Chúa không làm thì trường sẽ không có quỹ. Chúa ơi, con van xin Ngài tỏ cho con biết thánh ý”[2]

Thế là cha Gioan La San đã quyết định trao lại cho Chúa tất cả tài sản của cha bằng cách phân phát hết tất cả cho người nghèo. Thật lạ lùng! Cho đến hôm nay, các sư huynh vẫn còn hưởng được tài sản mà Cha Gioan La San đã ký gửi vào ngân hàng của Chúa.

Song song với việc từ bỏ tài sản, cha Gioan La San cũng từ bỏ chức kinh sĩ, để từ giây phút đó, cha chỉ còn làm “công việc của Chúa”. Chúa nuôi cha, chăm lo cho cha, cha chẳng thiếu thốn chi. Quả thật, đức tin của cha Gioan La San thật tuyệt vời!

Một khi đã trao lại cho Chúa tất cả tài sản và việc “quản trị” công cuộc của Dòng, Cha Gioan La San vững tin rằng, Chúa sẽ lo liệu mọi thứ. Ngài không sợ hãi! Ai không thích hợp với ơn gọi mới này của cha, cha sẵn sàng mở rộng đường cho họ đi. Không bao giờ cha sợ thiếu người làm việc của Chúa trong Hội Dòng.

2/ Liên Kết Cùng Nhau Làm Việc Của Chúa: Một Đức Tin Dũng Mãnh.

Anh em La San chúng ta mãi mãi mang trong lòng ký ức về Lời Khấn Anh Hùng năm 1691 mà cha Gioan La San cùng với anh Nicolas Vuyard, và Gabriel Drolin tuyên khấn.

Cha Gioan La San đang đứng trước những khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”, những khó khăn theo sự tường trình của tác giả Blain[3]. Sự thành công của các trường La San ảnh hưởng đến “nồi cơm” của các Trường Nhỏ. Tháng 2 năm 1690 họ gửi đơn kiện cha La San vì trường của cha xâm phạm đến quyền lợi của họ. Ngoài khó khăn từ bên ngoài này,còn có khó khăn từ bên trong,. Tại Reims, 8 trong số 16 anh em ở trong căn nhà Neuve bỏ đi vì sự cứng rắn của anh bề trên Jean Henrry. Tại Paris, 2 anh em đã ở đó trước đây chống đối cha Gioan La San vì ngài đặt một anh mới đến sau làm bề trên cộng đoàn  của họ trên đường Princesse.

Khó khăn càng lúc càng làm cho cha Gioan La San buồn thảm, vì một mặt những khó khăn do các vụ kiện cáo từ các trường bên ngoài, mặt khác con số anh em trong các cộng đoàn lại giảm sút, công việc xem ra không tiến triển tốt. Nhưng không một thử thách hay đau khổ nào có thể đánh gục được lòng tin tưởng mãnh liệt của cha Gioan La San vào Thiên Chúa.

Với lòng lòng say mê cầu nguyện, ăn chay hãm mình, năng tìm thánh ý Chúa, cha Gioan La San đã đi đến quyết định mà cha tin rằng đó là thánh ý Chúa. Vì thế, để bảo đảm cho tương lai của cộng đoàn La San, cha đã cùng với anh Nicolas Vuyard và Gabriel Drolin đã khấn Lời Khấn Anh Hùng vào ngày 21.11.1691.

Lời khấn Anh Hùng này liên kết các thành viên lại với nhau để “tận hiến hoàn toàn cho Chúa”, tự ràng buộc họ vào sự sống còn của Dòng, bằng tất cả lòng nhiệt thành dấn thân. Ngay cả chỉ còn lại 3 người cùng khấn lời khấn này trong Dòng  mà thôi, thậm chí chỉ “sống bằng bánh mì mà thôi”.

Với lời Khấn Anh Hùng này, riêng với cá nhân cha Gioan La San, đây là một quyết định tối quan trọng cho sự sống còn của công cuộc mà cha tin rằng chính Chúa đã thiết lập. Đây chính là một quyết định dấn thân và phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa, một quyết định dứt khoát của niềm tin. Quyết định này nêu lên ý chí dũng mãnh của cha Gioan La San trong niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng công cuộc mà cha được mời gọi cộng tác vào.

3/ Không Sợ Hãi Khi Gặp Khó Khăn: Một Đức Tin Kiên Trì.

Vào khoảng năm 1702, một âm mưu được lập ra để chống đối cha  Gioan La San từ phía các linh mục, các nhà biên niên gọi tên những người ấy là “những kẻ thù của tôi tớ Chúa[4]. Họ tìm cách làm cho các Đức Hồng Y De Noiailles[5], Tổng Giám Mục Paris tỏ ra khó chịu đối với Gioan La San.  Thừa dịp có 2 tập sinh than phiền về các khó khăn của họ trong cộng đoàn trên đường Princesss nơi họ thực tập, cha Chétardie[6] chánh xứ Saint-Sulpice đã viết một lá thư báo cáo lên Đức Hồng Y. Trong thư báo cáo, cha này vu oan cho cha Gioan La San là “con người bướng bỉnh về tình cảm, tự mãn, cứng rắn, không nhân từ với anh em, nghiêm khắc phạt các lỗi nhẹ nhất và không tha thứ gì cho sự yếu đuối của con người[7].

Vì là người độc tài, lại là giám đốc Đại Chủng Viện Xuân Bích, cha Chétardie muốn “nắm đầu” các sư huynh để điều khiển Hội Dòng theo ý mình. Để làm được việc này, cha Chétardie đã sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm của “người tôi tớ Chúa” là Gioan La San. Vì là một nhà lý luận cố chấp. nên một khi cha Chétardie muốn hạ bề Gioan La San, cha tìm đủ cách để thuyết phục Đức Hồng Y Noiailles dù kết quả của lần điều tra đầu tiên có thuận lợi hay không.

Cha Pirot là Tổng Đại Diện được giao nhiệm vụ điều tra hiện tình của bảng cáo trạng Gioan La San. “Cha Pirot chất vấn từng sư huynh và chỉ nghe thấy những lời ca ngợi Gioan La San[8]. Kết quả cuộc điều tra, cha Pirot rất có ấn tượng tốt với các sư huynh. Tuy nhiên điều đó không đủ để thay đổi tình thế, Đức Hồng Y vẫn quyết định đặt cha Bricot làm bề trên của các sư huynh, thay thế cha Gioan La San. Làng sóng phản đối việc bổ nhiệm vị bề trên mới bắt đầu dâng lên trong cộng đoàn các sư huynh. Mặc dù cha Gioan La San đã “quỳ gối năn nỉ”

Tỉnh hình trở nên rất phức tạp vì: các sư huynh không chấp nhận vị bề trên mới, nhưng cha Gioan La San lại không muốn anh em mình chống lại phán quyết của giáo quyền. Giải pháp nào đây, thật là khó! Đó là kể đến chuyện nỗi khó khăn do cha Gioan La San bị vu oan bởi “kẻ thù” là cha xứ Saint Sulpice. Thêm vào đó, Cha Gioan La San có thể lãnh hậu quả là bị cách chức và bị lưu đây, theo lời nói của cha Pirot Tổng Đại Diện Giáo Phận Paris.

Đứng trước nổi khó khăn này, Cha Gioan La San vẫn luôn giữ thái độ bình thản. Cầu nguyện là phương thuốc duy nhất cha Gioan La San dùng để chữa trị mọi nỗi âu lo và thử thách. Thế là, cha Gioan La San đã cùng với anh em “cầu nguyện suốt đêm ngày, không ăn, không uống, xin Chúa nâng đỡ trong lúc âu sầu xao xuyến”[9].  Cuối cùng giải pháp để giải quyết khó khăn cũng xuất hiện, cha Tổng Đại Diện và cha chánh xứ Saint-Sulpice đã thương lượng với anh em một giải pháp: là đặt cha Bricot là vị tân bề trên của anh em trên danh nghĩa, và cha Gioan vẫn tiếp tục ở lại với anh em. Qua việc này, đúng thật là có bàn tay can thiệp của Chúa để bảo vệ những con người đang làm việc của Ngài khỏi sóng gió cuộc đời.

Nếu không có tinh thần đức tin vững mạnh, lòng kiên trì tín thác vào Chúa, cha Gioan La San và anh em khó có thể vượt qua cơn đau khổ như thể mà vẫn để lại trong lòng những người chống đối lòng cảm phục sâu xa.


[1] Henri Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô: Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,

[2] Sh Fortunat Trần Trọng An Phong, Góp Nhặt, Nội Bộ, 19

[3] Henri Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô: Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ, 120 -122

[4] Henri Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô: Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ, 167

[5] Đức Hồng Y De Noiailles thuộc phái Jeanséniste xem Jean Pungier FSC, Một Linh Đạo Dành Cho Các Giáo Viên và Các Nhà Giáo Dục, Nội Bộ, 11

[6] Cha Chetardy không phải là người mời các sư huynh đến mở trường tại xứ Saint Sulpice. Cha Barmondière trước đó 1 nhiệm kỳ mới là người mời.

[7] Henri Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô: Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ, 167

[8] Charles Lapierre (1992), Cứ Theo Ta - Ngài La San, Bản Việt Ngữ, Nội Bộ, Tỉnh Dòng LSVN, 95

[9] Henri Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô: Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ, 176

Thiên Văn FSC
 https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1492


“Thiên tài Sư Phạm”.

Quyển “Prions en Eglise” phổ biến khắp các nước nói tiếng Pháp, để các tín hữu sử dụng trong Thánh Lễ hàng ngày, đã in trong những trang đầu một bài tóm tắt nét độc đáo cuộc đời Thánh Gioan La San mang tựa đề “Génie pédagogique” xin tạm dịch là “Thiên tài Sư Phạm”.

Để được người thời nay gọi “Thiên Tài Sư Phạm”, để được Đức Giáo Hoàng tôn phong là Quan Thầy các Nhà Giáo dục, Gioan La san đã để các thầy giáo đầu tiên chất vấn về quy chế và lời nói của Ngài. Trong một trang rất ngắn, tác giả mô tả cuộc đời của Thánh Lập Dòng chúng ta và làm nổi bật sự phó thác nơi Chúa Quan phòng của Gioan La San, không phải bằng lời rao giảng suông mà bằng thực tế. Tôi xin tạm chuyển ngữ và chia sẻ cùng anh em là những người nối nghiệp Gioan La San trên con đường giáo dục cho người trẻ và đặc biệt người nghèo. 

Làm sao để lời rao giảng có thể đáng tin, về tinh thần nghèo khó và phó thác cho Chúa Quan Phòng, khi mà mình sống trong sung sướng và trong an toàn? Trong rất nhiều tháng, câu hỏi nầy dày vò người kinh sĩ Gioan La San, kẻ thừa kế một gia đình giàu có ở xứ sâm banh. Một thời gian ngắn sau khi Ngài chịu chức linh mục vào năm 1678, cũng có hơi tình cờ, Ngài phụ giúp cho một nhóm người sẽ trở thành những giáo viên của một trường miễn phí ở thành Reims. Lo lắng về tương lai của mình, các thầy giáo khiêm tốn nầy một ngày kia chất vấn thẳng thắn Gioan La San, về sự mâu thuẩn nầy, giữa cái quy chế của Ngài và những lời nói của Ngài. Gioan La San đã cầu nguyện rất lâu giờ , bị chao đảo vì những bất an của Ngài. Sau khi đã nhận được lời khuyên, Ngài từ bỏ phận vụ có lợi tức của chức kinh sĩ  và sau đó phân phát tất cả gia tài cho người nghèo. Một việc hy sinh thật khó hiểu, một sự vấp phạm đối với gia đình Ngài cũng như  đối với người dân trong môi trường của Ngài!

Nhưng Gioan La San đã quyết định hiến mình trọn vẹn, không đem về cho mình bất cứ điều gì có thể, đối với dự tính mà Thiên Chúa đã kêu gọi Ngài, đó là: giáo dục nhân bản và Ki-tô cho trẻ em nghèo, và đào tạo các thầy có khả năng dạy dỗ chúng. Vì l‎y’ do đó mà Dòng Anh Em Trường Ki-tô ra đời, mà Vị Sáng Lập và các môn đệ của Ngài đã dấn thân bằng “Lời Khấn Anh hùng”, để duy trì bằng bất cứ giá nào, cho dù phải vì đó mà “buộc phải đi ăn xin và chỉ sống bằng bánh mì mà thôi”.

Những ngôi trường miễn phí cho con trai được mở ra tại thành Reims, rồi Rethel, Guise, Laon…Và sau đó là đến Paris mà tại đó không biết bao nhiêu là thử thách xảy đến với Gioan La San. Sự độc đáo về sư phạm và sự thành công của những sáng kiến của Ngài gây nên sự ghen tuông, cáo gian và chống đối dẫn đến cả việc kiện tụng! Vị Sáng Lập phải lánh đi Rouen, nơi đó Ngài tiếp tục công việc của mình cho đến lúc qua đời vào năm 1719.

“Thiên tài Sư Phạm” như Chân Phước Gioan Phao Lô II đã gọi, Gioan La San được phong hiển thánh vào năm 1900 và được tôn phong là Quan thầy các nhà giáo dục vào năm 1950. Theo dấu chân của Ngài, các Anh Em Trường Ki-tô, hay “La San” cố gắng là “anh em với nhau, là anh em với những người trưởng thành, và anh cả của những người trẻ được trao phó cho các ngài” (hiện nay có 5000 sư huynh hiện diện trên 80 quốc gia).

Xavier Lecoeur, Sử gia và phóng viên

Nhật Nhật Tân FSC (chuyển dịch)

https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1172




Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13

"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.          

Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.

Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa.

Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7

Ðáp: Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c. 7).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. - Ðáp.

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 10, 31-42

"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".

Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.

Ðó là lời Chúa.

My Reflections...: Reflection for Friday April 3, Fifth Week of Lent: John  10:31-42

 


Suy niệm


  Đấng Thiên Sai không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước,

mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta biết Ngài"


 

Ngày thứ 38 của Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình Mùa Chay dẫn chúng ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm đã khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch sử thời ấy, bao gồm cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế mầu nhiệm về Người là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng ngời sáng tỏ, đúng với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái, một mầu nhiệm làm nên tất cả lịch sử loài người.

Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói khác hơn, tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là chi, nếu không phải Người là Con Thiên Chúa. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả đại diện họ đang nghe Người bấy giờ, vào đến cung thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã dẫn họ vào tận nơi cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.

Hôm qua, theo bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, Chúa Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra, khi dẫn dân Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ, Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai có trước tổ phụ Abraham: "Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng mà chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".

Hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó, từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng về ấy, Đấng cuối cùng đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính giả của Người bấy giờ, vào tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.

Bởi vì, Đấng Thiên Sai như Người không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên tri trong Cựu Ước, mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết Thiên Chúa: "Ta biết Ngài", như Người đã khẳng định 2 lần liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ kiến thức thần linh của Người không phải làm nên bởi những gì được Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm "bằng nhiều thể nhiều cáchvới các vị tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, hay với Moisen hoặc với các vị tiên tri xưa (xem Do Thái 1:1).

Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã được chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã bị họ ném đá, như Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay

"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".

Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là ấng Thiên Sai", và cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16)ở chỗ, như Người tiếp tục dẫn chứng Người không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người

"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".

Chứng từ Người tự chứng về Người thực sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự chứng ấy của Người đã khiến cho một số là thành phần thính giả bấy giờ vẫn không tin và không thể nào tin được, còn một số khác, ở nơi khác, lại tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:

"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều kẻ tin Người". 

Sở dĩ còn "có nhiều kẻ tin Người" là vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có trước tôi..." (Gioan 1:30). Họ đã chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng cao cả đến sau ngài mà họ nhờ đó đã có thể tin vào chính Đấng đến sau đó. 

Mầu nhiệm thần linh về một Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do Thái biết vào "thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau hết" (Do Thái 1:1) của Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm cách bắt Người" trong bài Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ quyết định giết Người" trong bài Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như sau:

"Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".

Tuy nhiên, chính vì "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng Thiên Sai, Đấng chỉ đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa. 

Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy lại sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng. 

Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang lên những lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".

Tâm tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như sau:

1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá, chiến luỹ, cứu tinh. 

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. 

3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. 

4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai Ngài. 

 

            


Thứ Bảy


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28

"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.

Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13

Ðáp: Chúa sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).

Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. - Ðáp.

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

 

Phúc Âm: Ga 11, 45-56

"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.

Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

Ðó là lời Chúa.

My Reflections...: Reflection for Saturday April 4, Fifth Week of Lent: John  11:45-56

 

Suy niệm

 


   Lạ lùng thay họ tưởng rằng

họ đã thắng bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa,

không ngờ lại là cú đá phản bội đã phá rách toạc tan tành chính mạng lưới "mưu lược" gian ác họ bẫy địch thủ...

 

  

Hôm nay là ngày áp chót của Mùa Chay, cũng có thể nói là ngày cuối cùng (trong tuần) của Mùa Chay, ngày Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chủ đề "Tôi tự bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng hiện lộ trong phụng vụ lời Chúa, cả ở Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.

Cũng như Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm hầu như vắng bóng Chúa Giêsu, mà chỉ vang bóng của Người thôi, tức là về tình trạng dân chúng và thành phần lãnh đạo của họ chia rẽ nhau về Người, sau khi Người đã tự chứng về Người bằng ngôn từ hay bằng phép lạ.

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy cái âm hưởng quá sức là mãnh liệt gây ra bởi phép lạ cả thể nhất Người làm, một phép lạ không được thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, mà ở trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật Năm A (hay các Năm B và C nếu muốn thay thế các bài Phúc Âm theo chu kỳ Chúa Nhật) Tuần V Mùa Chay đầu tuần. 

Đó là phép lạ Người hồi sinh cho người bạn thân Lazarô chết đã 4 ngày của Người, để chứng tỏ một thực tại thần linh về Người, một thực tại thần linh đúng như Người đã xác nhận và tuyên bố với Matta là chị của người quá cố: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), và phép lạ này cũng là một dấu chỉ thần linh báo trước về biến cố Vượt Qua của Người, biến cố Người vượt qua từ cõi chết mà vào cõi sống, chẳng những hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người "sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10). 

Trước một phép lạ cả thế như thế, Thánh ký Gioan đã cho biết thành quả là: "những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su". Nhưng cũng chính vì phép lạ này, hay nói đúng hơn, chính vì tác dụng thần linh của phép lạ này nơi lòng tin của nhiều người được tận mắt chứng kiến thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" tỏ mình ra bấy giờ, mà thành phần giáo quyền lãnh đạo không thể nào không chính thức ra tay can thiệp, như Thánh ký Gioan tường thuật như sau:

"Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: 'Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta'. Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Ở đây chúng ta thấy rõ ràng là thành phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ nói chung có thành kiến rất nặng về Chúa Giêsu, đến nỗi thành kiến đó đã làm cho họ trở thành mù quáng với đầy những ác cảm, đến độ họ bất chấp sự thật trước mắt họ, như họ cũng đã phải công nhận rằng: "người này làm nhiều phép lạ", ch không phải là nhân vật tầm thường như họ, chẳng làm được phép lạ như Người, chẳng được dân chúng tin theo như Người. 

Thế mà, vì thành kiến và ác cảm đã biến thành ghen tị, đố kỵ và ghen ghét, họ đã tìm cách triệt hạ Người, tìm cách loại trừ Người cho bằng được, với lý do bề ngoài có vẻ tốt đẹp theo công ích, mị dân, như Thánh ký Gioan cho chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi này và dân tộc ta". 

Lý do được viện ra này quả là tuyệt vời, hoàn toàn vừa che đậy được thành kiến, ác cảm, lòng ghen tị và ghen ghét của họ, vừa có tính cách lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc của họ như thế, đã được vị có thẩm quyền nhất trong họ bấy giờ là thượng tế Caipha, như một tay túc cầu chuyên nghiệp ở hàng tiền đạo vừa được đồng bạn chuyền banh cho liền đá lọt lưới một cách ngoạn mục vào gôn (goal = đích) của đối phương:

"Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'". 

Thế nhưng, lạ lùng thay họ tưởng rằng họ đã thắng bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa, không ngờ lại là cú đá phản pháo đã phá lưới chính "gôn - đích nhắm, mưu đồ" của chính họ, như lời dẫn giải của v Thánh ký Gioan của bài Phúc Âm hôm nay ngay sau cú đá đầy ngoạn mục hết sức thần tình của vị thượng tế Caipha này: 

"Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".

Tuy nhiên, về phía họ, họ vẫn tưởng rằng họ đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên họ đã bắt đầu lấy quyền bính của mình để "ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người", để có thể đạt được cái "gôn" của mình là "họ quyết định giết Người" cho bằng được, để diệt trừ hậu hoạn cho toàn dân. 

Chắc ai cũng biết được thượng lệnh bất tuân như thế, một thượng lệnh có lợi cho toàn dân đang bị quân đế quốc Rôma như vậy, nên đều tỏ ra hết sức quan tâm và muốn tuân hành, nhưng hình như chỉ ở giáo đô Giêrusalem thôi, chứ không bao gồm ở các nơi khác.

Bởi vậy mà Chúa Giêsu vẫn trở thành một nhân vật, cho dù "không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ", vẫn có sức thu hút dân chúng, có thể nói, chính sự vắng khuất của Người vào thời điểm quan trọng nhất trong năm lại càng khiến dân chúng chú ý đến Người hơn, như Thánh ký Gioan diễn tả cho thấy trong Bài Phúc Âm hôm nay:

"Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: 'Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?'" 

Câu phát ngôn tiêu biểu trên đây cho thấy thái độ như thể hào hứng trông mong của "nhiều người từ các miền lên Giêrusalem" và muốn "tìm Chúa Giêsu", để được gặp Người là Đấng họ cảm phục và trông đợi, nhưng lại là nhân vật, trái lại, như Thánh ký Gioan cho biết ở câu kết thúc của bài Phúc Âm hôm nay: "Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người". 

Đúng thế, chính vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà cho dù giáo quyền của dân Do Thái bấy giờ có muốn tận diệt Người chăng nữa, một cách hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do theo lòng ác cảm và ghen ghét của họ, họ chẳng những không làm gì được Người mà còn trở thành dụng cụ bất đắc dĩ của dự án thần linh trong công cuộc cứu độ trần gian, trong đó bao gồm cả dân tộc của họ, không phải chỉ thoát khỏi quyền lực chính trị và quân sự, mà là quyền lực tội lỗi và sự chết.

Dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền diệu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô đã được chính Thiên Chúa, qua miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, báo trước về một viễn tượng dân Do Thái thống nhất và duy nhất, đúng như ý Chúa muốn khi Ngài lập giao ước với tổ phụ Abraham của họ, một dân tộc bao gồm cả dân ngoại trong công cuộc cứu độ do Con của Ngài, Người Con về nhân tính thuộc giòng giống của họ thực hiện:

"Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa".

Hình ảnh về một dân Do Thái thống nhất và duy nhất tiêu biểu cho một dân tộc như sao trời cát biển bao gồm cả dân ngoại là tất cả những ai tin tưởng vào Chúa Kitô ấy, cũng đã được Thánh ký Gioan tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối", một lời dẫn giải hoàn toàn hợp với những gì Thiên Chúa phán trong Bài Đọc 1 hôm nay qua miệng Tiên Tri Đaniên:

"Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những tâm tình tràn đầy hy vọng và hoan hỉ như thể ơn cứu độ thực sự đã đến, một ơn cứu độ được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế vào thời điểm viên trọn của Người, một biến cố Vượt Qua chẳng những được dân Do Thái cử hành hằng năm mà còn được chính chung Kitô giáo và riêng Giáo Hội Công giáo Roma cử hành vào Tuần Thánh, nhất là vào Tam Nhật Vượt Qua, bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần Thương Khó:

1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". 

2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. 

3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.  


Bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chất chứa những tâm tình hân hoan như một dạo khúc hướng về một Chúa Nhật Lễ Lá ngày mai, thời điểm Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của Do Thái Giáo, nơi chứng kiến thấy tột đỉnh mạc khải thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái cũng là tất cả mạc khải thần linh của lịch sử nhân loại nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế trong Tam Nhật Vượt Qua của Người trong Tuần Thánh, kể từ Chúa Nhật Lễ Lá, bắt đầu Tuần Thương Khó của Người được Giáo Hội Nhiệm Thể Người hằng năm long trọng cử hành như tột đỉnh của phụng niên.