Thứ
Hai
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 13, 1-9. 15-17.
19-30. 33-62 (Bài
dài)
"Ðây tôi phải chết, dù tôi không làm điều họ vu khống cho tôi".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, có một người đàn ông ở Babylon tên là Gioakim cưới bà
vợ tên là Susanna, con của Helcia, bà rất xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa,
vì cha mẹ bà là những người công chính, đã dạy con cho biết giữ luật Môsê.
Lúc đó Gioakim rất giàu có, ông có một khu vườn gần nhà ông, các người
Do-thái năng lui tới nhà ông, vì ông là người đáng kính hơn mọi người khác.
Năm đó, người ta đã đặt lên hai vị thẩm phán trong dân. Chúa đã phán về
những kẻ ấy rằng: "Sự gian ác phát sinh từ Babylon bởi những vị thẩm phán kỳ
lão, là những người xem ra như cai quản dân chúng". Các ông năng lui tới nhà
ông Gioakim, nên tất cả những ai kiện tụng, thì tìm gặp các ông ở đó. Ðến
trưa, khi dân chúng trở về nhà, bà Susanna vào đi bách bộ trong vườn của
chồng. Hai vị kỳ lão thấy bà mỗi ngày đi bách bộ trong vườn, thì phải lửa
dục mê đắm; hai ông mất lương tâm, không còn muốn đưa mắt nhìn lên trời và
không còn muốn nhớ đến sự xét xử công minh.
Hai ông chờ ngày thuận tiện, lúc bà Susanna vào vườn như hôm trước và hôm
trước nữa, bà chỉ dẫn theo hai cô thiếu nữ, bà muốn tắm trong vườn, vì trời
nóng bức. Lúc bấy giờ ở đó không có ai, ngoài hai vị kỳ lão đang ẩn núp và
ngắm nhìn bà. Bà nói với hai cô thiếu nữ rằng: "Hãy mang dầu và thuốc thơm
cho ta, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm".
Khi hai cô thiếu nữ ra khỏi vườn, hai vị kỳ lão đứng lên, tiến lại gần bà
Susanna và nói: "Kìa cửa vườn đã đóng hết; không ai trông thấy ta đâu, chúng
tôi say mê bà, bà hãy chấp nhận lời yêu cầu của chúng tôi và hiến thân cho
chúng tôi. Nếu bà không chấp nhận, chúng tôi sẽ làm chứng nói bà phạm tội
với một thanh niên, và vì đó, bà đã bảo các cô thiếu nữ ra khỏi vườn".
Bà Susanna thở dài và nói: "Tôi phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như
thế, tôi phải chết, và nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát
khỏi tay các ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm
tội trước mặt Chúa thì hơn!" Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng kêu
lên tố cáo bà. Và một trong hai ông chạy ra mở cửa vườn. Khi người nhà nghe
tiếng kêu la trong vườn, liền đổ xô ra cửa để xem coi việc gì đã xảy ra. Khi
nghe hai vị kỳ lão kể lại, thì các đầy tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì thiên hạ
không khi nào nghe nói như thế về bà Susanna.
Ngày hôm sau, khi dân chúng tụ họp tại nhà ông Gioakim, chồng bà Susanna,
hai vị kỳ lão cũng đến, lòng đầy những ý nghĩ bất chính để tố cáo bà Susanna
cho người ta giết bà. Hai ông nói với dân chúng: "Các người hãy đi tìm bà
Susanna, con ông Helcia, vợ của ông Gioakim". Người ta liền sai đi bắt bà,
bà đến với cả cha mẹ, con cái và tất cả họ hàng. Nhưng tất cả họ hàng và mọi
kẻ biết rõ bà đều khóc lóc.
Khi hai vị kỳ lão ra đứng giữa dân chúng, hai ông đặt tay lên đầu bà. Bà
Susanna thì khóc lóc, ngước mắt lên trời, vì tâm hồn bà tin tưởng nơi Chúa.
Hai vị kỳ lão nói: "Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi
vào với hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ
một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm tội với
bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng tôi liền chạy
đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi không bắt được chàng
thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi, nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn
bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai,
nhưng bà không muốn nói cho chúng tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm
chứng". Dân chúng tin lời hai ông nói, vì hai ông là bậc kỳ lão trong dân và
là thẩm phán, nên họ lên án tử hình cho bà.
Bấy giờ bà Susanna kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết
mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra, Chúa biết họ làm chứng gian hại con;
và đây con phải chết, dù con không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Chúa nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa trẻ
tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: "Còn tôi, tôi không vấy máu bà này".
Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: "Lời mi nói có ý nghĩa gì?" Ðứa
trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: "Hỡi con cái Israel, các ngươi ngu muội
thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự thật thế nào, mà lại lên án một
thiếu nữ Israel? Các người hãy xét xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại
bà".
Bấy giờ dân chúng vội vã trở lại. Các kỳ lão nói với Ðaniel: "Này, em hãy
ngồi giữa chúng tôi và bảo cho chúng tôi, vì Thiên Chúa đã cho em danh dự
của bậc kỳ lão". Ðaniel liền nói với họ: "Các người hãy tách biệt hai ông
ra, và cho hai ông đứng xa nhau, rồi tôi xét xử hai vị kỳ lão cho".
Khi hai ông đứng xa nhau, Ðaniel gọi ông thứ nhất đến và nói: "Hỡi lão già
độc ác, các tội xưa kia ông đã phạm, giờ đây lại tái phạm, ông đã xét xử bất
công, đã lên án kẻ vô tội và tha cho người có tội, mặc dầu có lời Chúa phán:
"Ngươi chớ giết kẻ vô tội và người công chính". Vậy nếu ông thấy bà Susanna
phạm tội, thì hãy nói hai người phạm tội dưới cây gì?" Ông ta trả lời: "Dưới
cây chò". Ðaniel liền nói: "Ðúng là ông nói dối. Ðây sứ thần Chúa được lệnh
phân thây ông". Ðaniel cho ông ta lui ra, và bảo dẫn ông kia đến. Ðaniel nói
với ông này rằng: "Hỡi dòng giống Canaan, chớ không phải dòng giống Giuđa,
sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho tâm hồn ông ra đồi bại. Ông
đã cư xử như thế đối với các thiếu nữ Israel, các cô vì sợ mà phạm tội với
ông. Nhưng một thiếu nữ Giuđa không chiều theo tội ác của ông. Vậy bây giờ,
ông hãy nói cho tôi biết ông đã bắt được hai người phạm tội dưới cây gì?"
Ông ta trả lời: "Dưới cây sồi". Ðaniel liền nói: "Cả ông nữa, ông hoàn toàn
nói dối, cho nên thiên thần Chúa, tay cầm gươm, chờ đợi phân thây tiêu diệt
ông".
Bấy giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát những
kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà Ðaniel đã minh
chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông như hai ông đã xử độc
ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên án xử tử hai ông, và ngày hôm
đó máu người vô tội khỏi đổ oan.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ðn
13, 41c-62 từ chỗ "họ
lên án tử hình cho bà"
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c.
5ab).
Xướng: 1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì,
Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi;
tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy
Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con
thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và
trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2b
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 8, 1-11
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền
thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc
đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm
tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật
Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có
ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu
lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ:
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi
xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu
là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người
thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi
thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng
đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết
tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Năm A
Phụng Vụ Lời Chúa cho Thứ Hai Tuần V Mùa Chay (cho những năm mà Chúa Nhật
hôm trước không phải là Năm C). Nếu để ý về bố cục của các bài Phúc Âm cho
ngày thường trong cả 2 tuần lễ cuối cùng của Mùa Chay, tuần 4 và tuần 5,
chúng ta thấy Giáo Hội cố ý sắp xếp các bài Phúc Âm như thế này:
1- Toàn là bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, và hầu hết là các bài Phúc Âm cho
thấy cuộc đụng độ càng ngày càng gay go quyết liệt giữa Chúa Giêsu và thành
phần dân chúng nói chung nhất là thành phần trí thức và lãnh đạo Do Thái
giáo nói riêng;
2- Các bài Phúc Âm của Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày
thường ở 2 tuần cuối Mùa Chay bao gồm 2 yếu tố chính yếu làm nên Thánh Kinh
và việc linh ứng Thánh Linh, đó là mạc khải thần linh (nơi Chúa Kitô) và đức
tin cứu rỗi (nơi dân Do Thái);
3- Qua các bài Phúc Âm của Thánh Gioan ở 2 tuần cuối Mùa Chay này, chúng ta
thấy tình trạng đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh của nhân vật lịch
sử Giêsu Nazarét Thiên Sai về chính căn tính của Người, liên quan đến nguồn
gốc của Người, với đức tin của
thành phần Do Thái giáo vốn tin có một Thiên Chúa chân thật duy nhất trong
suốt giòng lịch sử cứu độ của họ;
4- Cuộc đụng độ quyết liệt giữa mạc khải thần linh được nhân vật lịch sử
Giêsu Nazarét Thiên Sai tỏ cho đức tin truyền thống của Do Thái giáo gay go
kinh hoàng đến độ họ đã chẳng những không thể nào chấp nhận Người, mà còn
ném đá Người và tìm cách sát hại Người;
5- Và đó là lý do tột đỉnh của cuộc đụng độ sống còn giữa mạc khải thần linh
(được tỏ ra nơi Con Thiên Chúa làm người) và đức tin tuân phục nơi con người
(mà dân Do Thái đại diện) là ở Tuần Thánh, được mở ra với Chúa Nhật Lễ Lá,
và kết thúc với Tam Nhật Thánh cũng gọi là Tam Nhật Vượt Qua của Chúa Kitô,
Đấng khổ nạn tử giá và Phục Sinh vinh quang.
Nếu theo dõi kỹ hơn nữa, chúng ta còn thấy Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài
Phúc Âm của Thánh Gioan cho 2 tuần cuối Mùa Chay ở ngày thường như thế này
nữa, đó là bài Phúc Âm ở đầu mỗi tuần, bài Phúc Âm ở giữa mỗi tuần và bài
Phúc Âm ở mỗi cuối tuần trong 2 tuần này.
Nếu bài Phúc Âm ở mỗi đầu tuần (Thứ Hai và Thứ Ba - tuần 4; Thứ Hai - tuần
5) trong 2 tuần cuối này là một câu truyện (đều về ơn cứu độ, cả với dân
ngoại vô thần lẫn Do Thái tật nguyền - tuần 4; và với tội nhân - tuần 5),
liên quan đến các nhân vật bày tỏ đức tin trước mạc khải thần linh (về lòng
thương xót) được nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét tỏ ra cho họ, bằng việc
Người cụ thể làm cho họ (phép lạ về phần xác - tuần 4; và giải cứu về phần
hồn - tuần 5),
Thì bài Phúc Âm giữa mỗi tuần trong 2 tuần này toàn là chính lời Người nói
về chính bản thân Người, về căn tính của Người, về nguồn gốc của Người, để
rồi bài Phúc Âm ở cuối mỗi tuần (Thứ Bảy) cho thấy thành quả hay tác dụng
của tất cả những gì Người đã mạc khải trong tuần (tình trạng chia rẽ chẳng
những trong dân chúng mà còn cả hội đồng đầu mục Do Thái - tuần 4; chia rẽ
chính nội bộ hội đồng đầu mục Do Thái, để đi đến quyết định tiên tri của vị
thượng tế là một người chết thay cho toàn dân, một quyết định cuối cùng ngay
trước khi tiến vào Tuần Thương Khó và Tam Nhật Vượt Qua).
Riêng bài Phúc Âm cho Thứ Hai đầu tuần 5 Mùa Chay hôm nay, Phụng Vụ Lời Chúa
cho chúng ta thấy trường hợp của 2 người phụ nữ liên quan đến tội ngoại
tình:
Trước hết là người phụ nữ ở trong Sách Tiên Tri Đaniên ở Bài Đọc 1, đó là
một người vợ đẹp Suzanna, hoàn toàn bị oan ức, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu
suốt mọi sự đã giải thoát cho nàng khỏi bị chết oan, nhờ đó, qua chàng tiên
tri thiếu niên Đaniên, Ngài đã tỏ mình ra cho những ai tham dự vào vụ án
ngoại tình này nói chung, đặc biệt cho hai tay quan án bất lương gian dâm âm
mưu hãm hiếp nàng bất thành nên vu oan cho nàng để giữ lấy danh dự và uy tín
của mình, để họ tin vào Ngài hơn.
Sau nữa là người phụ nữ ở trong bài Phúc Âm, người phụ nữ quả thực phạm tội
ngoại tình và đã bị bắt quả tang. Nếu chị vô tội mà thành phần luật sĩ và
biệt phái dám mang đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng thấu suốt mọi sự thì Người đã
chẳng khuyên riêng chị ở cuối bài Phúc Âm rằng "Chị hãy về và từ đây đừng
phạm tội nữa". Tuy nhiên, trong khi họ gài bẫy bắt Người bằng con mồi phụ nữ
bị bắt quả tang ngoại tình ấy, thì Người lại sử dụng chính gậy ông đập lưng
ông.
Ở chỗ, Người chẳng những không sa lưới của họ mà còn cứu họ, bằng cách Người
chẳng những cứu cả hồn lẫn xác của nữ tội nhân ngoại tình mà còn cứu cả
thành phần công chính tố cáo chị với Người nữa. Thật vậy, Người đã không bất
đồng hay đồng tình ném đá chị trước vấn đề được họ đặt ra: đồng ý ném đá thì
Người tác hành phản lại với lòng thương xót hằng có nơi Người và vẫn được
Người tỏ ra qua các phép lạ Người làm; ngược lại Người cũng chẳng bảo đừng
ném đá chị, bằng không Người đã xui họ làm một điều hoàn toàn trái với luật
Moisen, như thể Người dung dưỡng tội nhân và chấp nhận tội lỗi. Đằng này,
Người dùng chính tội lỗi của chị để mở mắt cho thành phần luật sĩ và biệt
phái vốn tự hào mình công chính.
Chỉ duy có một con người duy nhất bấy giờ đáng ném đá chị là Chúa Giêsu,
Đấng vô tội, nhưng Người lại không ném đá chị, trái lại, còn tha thứ cho chị
nữa, bởi vì Người có quyền tha tội, không phải do bởi Người là chính vị
Thiên Chúa nhập thể, là Con Thiên Chúa, mà còn do Người cũng có tội, không
phải vì tội Người đã phạm như ai, như bất cứ một con người phàm nhân mắc
nguyên tội nào, mà vì Người là Đấng Cứu Thế, là chiên Thiên Chúa, Đấng gánh
tội trần gian, đã chấp nhận tất cả mọi tội lỗi của con người, nhờ đó đã đến
tội cho con người, theo lòng thương xót vô cùng nhân hậu của Người.
Qua ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được Lòng Thương Xót Chúa
vô cùng tuyệt vời, qua việc Chúa Kitô giải quyết vấn đề người phụ nữ bị bắt
quả tang phạm tội ngoại tình đáng bị ném đá chết. Vẫn biết bài Đáp Ca hôm
nay am hợp với trường hợp của người vợ duyên sắc được Chúa cứu cho khỏi bị
chết vì oan ức ở Bài Đọc 1 hôm nay, nhưng, ý nghĩa và tâm tình của những câu
Thánh Vịnh 22 được Giáo Hội chọn đọc hôm nay, vẫn có thể áp dụng và rất
thích đáng cho cả trường hợp của chị phụ nữ tội nhân đáng bị ném đá chết, lẫn
thành phần công chính biệt phái cùng luật sĩ trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì,
Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi;
tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy
Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương. Ðầu con
thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và
trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
(Trong
năm C, khi bài Tin Mừng về ngươờ phụ nữ ngoại tình đã được đọc ở Chúa Nhật V
hôm trước, thì hôm nay đọc bài
Tin Mừng dưới đây:)
Phúc Âm: Ga 8, 12-20
"Ta là sự sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế
gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự
sống".
Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông
không xác thực".
Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng
xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông
không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo
xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán
xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha
Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai
người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha,
cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng
chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong
đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Năm C
Nếu chính Chúa
Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến
thì Người không
phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng Cứu Thế của nhân loại
Ngày Thứ Hai
trong Tuần V Mùa Chay vẫn tiếp tục với bài Phúc Âm theo Thánh ký
Gioan, bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu tự làm chứng về Người.
Nếu bài
Phúc Âm tuần trước cả dân chúng lẫn thành phần lãnh đạo đều chia rẽ
nhau về nguồn gốc của Chúa Kitô thì tuần này Người tự mình chính
thức làm sáng tỏ nguồn gốc thần linh của Ngưòi. Nếu tuần trước Người
nói Người không tự làm chứng về mình thì tuần này Người không thể
không tự làm chứng về Người bởi không ai biết Người bằng chính
Người.
Thật vậy, tuần trước, các bài Phúc Âm nói chung theo Thánh ký
Gioan, cách riêng bài Phúc Âm cho Thứ Năm của tuần trước ấy, Chúa
Giêsu đã không tự chứng hay chưa tự làm chứng về Người: "Nếu
chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực", mà
là minh chứng về mình bằng 3
chứng từ khác nhau liên quan đến bản thân và
nguồn gốc của Người:
1- Chứng từ
thần linh liên quan đến Cha là Đấng đã sai Người: "Có
một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì
xác thực";
2- Chứng
từ nhân loại liên
quan đến Tiền
Hô Gioan Tẩy Giả: "Các
ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật";
3- Chứng
từ Thánh Kinh liên quan đến mạc khải thần linh: "Các
ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm
thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà
các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống".
Tuần
này, ngay ở bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần, Chúa
Giêsu bắt đầu chính thức và công khai tự làm chứng về Người và cho
Người, vì
tự Người và chính Người là "chân lý", là "sự thật"
(Gioan 14:6), một chân lý tỏ mình ra như ánh sáng không thể nào
không soi chiếu, nên
ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay Người đã ngang nhiên và trịnh
trọng tuyên bố: "với
những người biệt phái rằng: 'Tôi là
sự sáng thế gian. Ai theo Tôi sẽ
không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Tất
nhiên, khi Người xưng mình ra như thế, đối với trần gian thì có vẻ
như Người khoe khoang, ngạo mạn, nên một giòng điện dương khi
chạm phải cùng một giòng điện dương chắc
chắn không thể nào không tóe
lửa, nghĩa
là vì cho Người tỏ ra khoe khoang ngạo mạn như thế mà thành phần bản
chất vốn khoe khoang ngạo mạn thính giả của Người bấy giờ là "những
người biệt phái" đã không
thể nào chấp nhận được lời tuyên bố của Người: "Ông
tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
Tuy nhiên,
Chúa Giêsu đã biện minh cho việc Người tự làm chứng về Người và cho
Người là những gì hoàn toàn chân thực và chính xác, qua chính câu
Người trả lời cho thành phần không tin Người và không chấp nhận lời
tuyên bố của Người: "Cho
dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta
biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết
Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
Thật
vậy, nếu chính Chúa Kitô không biết mình là ai và từ đâu đến
thì Người không phải là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái và là Đấng
Cứu Thế của nhân loại, mà chỉ là một trong thành phần
con người thuần túy chúng ta, thành phần thuần nhân cho tới chết
cũng chưa hoàn toàn biết mình, bởi thế vẫn liên tục sa ngã phạm tội
là những gì sai lạc, không đúng sự thật về bản thân họ cũng như
không đúng sự thật Thiên Chúa muốn nơi họ và cho họ, và
chính
vì thế họ chỉ được giải phóng cho đến khi họ nhận biết sự thật mà
thôi (xem Gioan 8:32).
Muốn biết mình thực sự là ai thì
con người cần phải biết mình "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu",
chứ
không phải chỉ biết mình "từ đâu tới" song chẳng biết mình sẽ
"đi đâu" là đủ biết mình một cách chân thực và chính
xác. Chẳng
hạn, theo đức tin của mình, Kitô hữu chúng ta tin rằng, về
nguyên ủy, hay nguồn gốc, "từ đâu tới" chúng ta được dựng nên
từ hư vô, bởi được Thiên Chúa yêu thương,
nhưng trong cuộc sống, về
cùng đích "đi đâu" là nơi chúng ta sẽ tới và cần phạt đạt tới, chúng
ta lại sống như thể không có đời sau, không có Thiên Chúa, chỉ
luôn tìm kiếm và theo đuổi những gì thuộc về hạ giới hợp với xác
thịt của chúng ta hơn là Nước Trời và thay vì vĩnh phúc trường sinh
bất diệt.
Chúa
Giêsu thật sự biết được Người "từ đâu tới" và sẽ "đi đâu":
Người từ Thiên Chúa mà tới, Đấng đã sai Người tới: "Thày từ Cha
mà đến và đã đến trong thế gian" (Gioan
16:28),
và vì thế nơi Người "đi đâu" không còn chỗ nào khác ngoài
chính nơi Cha của Người muốn Người tới, nghĩa là Người được
sai đến để làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, chứ không phải
làm theo ý của Người, đúng
như Người đã tuyên bố với người Do Thái: "Tôi từ trời xuống không
phải để làm theo ý của mình mà là ý của Đấng đã sai tôi" (Gioan
6:38).
Mà ý của Cha là nơi Người phải
tới, mà Người phải làm theo và chu toàn đây là gì, chính Người cũng
biết rõ ràng và chắc chắn Người mới có thể làm theo đúng và đáp ứng
thật: "Ý muốn của Đấng đã sai Tôi đó là Tôi không được làm mất
một sự gì Ngài đã ban cho Tôi, trái lại, Tôi phải làm cho nó
sống
lại trong
ngày sau hết"
(Gioan 6:39).
"Ngày
sau hết", trong câu Chúa Giêsu nói đến ở đây, chúng ta thường
hiểu về ngày tận thế, nhưng ở đây có thể hiểu là chính thời điểm của
Người, một thời điểm "viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm
"sau hết" Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi chính Người
là Con
của Ngài theo giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái là lịch sử mà mạc
khải thần linh đã được Thiên
Chúa từ
từ tỏ hiện cho đến tột đỉnh nơi Chúa Giêsu Kitô vào
thời "sau hết" như Thánh Phaolô viết ở ngày đầu Thư Do Thái
của thánh nhân (xem
Do Thái 1:1-3).
"Sống
lại", cũng trong lời Chúa Giêsu nói ở đây,
là
"sống lại" vào
"thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) tức là vào "ngày
sau hết", một
"sống lại" trước hết và trên hết về phần hồn của con người đã
bị hư đi theo nguyên tội và từ nguyên tội, một "sống lại" bởi
cuộc Vượt Qua của Người, khi Người tỏ hết mình ra để bằng cuộc phục
sinh của mình, Người chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà
còn thông ban sự sống và Thánh Linh cho chung nhân loại qua Giáo Hội
của Người mà đầu tiên ở
nơi các tông đồ của Người (xem Gioan 20:21-23).
Về
nguồn gốc của Chúa Kitô, tức về xuất xứ của Người "từ đâu đến", đã
trở thành sự kiện then chốt và đã từng làm cho dân Do Thái nói chung
và thành phần lãnh đạo của họ nói riêng chia rẽ hết sức trầm trọng,
như trong bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần vừa
rồi cho thấy, thì
về nơi "đi đâu" của
Người hay về việc
Người "đi đâu" lại càng là một mầu nhiệm vô cùng bí ẩn, họ
làm sao biết được và cũng không thể nào biết được.
Cho dù Người có nói ra chăng nữa, như Người đã từng tiết lộ cho các
môn đệ thân tín của Người ba lần, mà các vị vẫn "không
thể nào đến được",
hiểu được, đúng như Người đã quả quyết với các vị như đã quả quyết
với dân Do Thái (xem Gioan 13:33), chứ chưa nói gì đến chuyện các vị
có thể đến được nơi Người "đi đâu",
cho đến khi Người đi dọn chỗ cho các vị trở về đón các vị đi với
Người (xem Gioan 14:2-3).
Đó là lý do Chúa Giêsu, trong
bài Phúc Âm hôm nay đã cho thành phần thính giả của Người biết lý do
tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người về chính bản thân Người là Đấng đã
biết rõ về mình, "từ đâu đến"
và sẽ "đi đâu",
chỉ
vì:
"Các
ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu
Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không
phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Ðấng đã sai Ta. Vả lại
trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta
tự làm chứng về Ta, và Ðấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng
cho Ta nữa".
Trong câu
này, Chúa Giêsu chẳng những cho thính giả của Người bấy giờ
thấy được lý do tại sao họ không thể chấp nhận chứng từ của Người là
vì họ "xét đoán theo xác thịt" chứ không theo chân lý, mà còn
cho họ thấy rằng chứng từ của Người là đúng, vì theo nguyên tắc
thì chứng của hai người là chứng thật, và vì thế chứng từ của Người
là
xác thực bởi cả có 2 người làm chứng là chính bản thân Người
lẫn Cha của Người là Đấng đã sai Người làm chứng cùng một điều về
Người.
Và
chính vì Chúa Giêsu nại đến Cha của Người là một trong hai người làm
chứng về Người nên Người đã bị thành phần thính giả của Người
thách thức đặt vấn đề: "Cha
của ông đâu?", Đấng
mà Người đến
"để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) qua bản thân Người, đến độ "ai
thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9), nên Người đã cho thành phần
thính giả chất vấn Người về Cha của Người rằng: "Các
ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì
cũng sẽ biết Cha Ta".
Bài Đọc
1 hôm nay được trích từ Sách Tiên Tri Đaniên về câu chuyện của bà
Suzanna công chính nhưng bị mang đi ném đá chết bởi bà bị kết án
theo luật căn cứ vào chứng từ của 2 người chứng, một chứng từ gian
dối nhưng hoàn
toàn lấn át lời tự chứng của người phụ nữ nạn nhân đáng thương này,
chẳng khác nào như Chúa Giêsu tự làm chứng cho mình mà chẳng ai tin
vào Người vậy.
Trước hết là lời
chứng của
hai nhân chứng, tức là của hai lão già đang giữ vai trò làm thẩm
phán trong dân thường sử dụng ngôi nhà rộng rãi sang trọng của
vợ chồng bà để xử các vụ kiện cáo của dân chúng, đã âm mưu chiếm
hưởng thân xác kiều mỹ hấp dẫn của bà khi bà đang tắm kín đáo một
mình trong vườn nhà
của bà
vào
một buổi
trưa nóng
bức:
"Khi chúng tôi đi bách bộ một mình trong vườn, bà này đi vào với
hai đứa tớ gái. Bà bảo hai đứa đóng cửa vườn lại, rồi đi ra. Bấy giờ
một chàng thanh niên đã ẩn núp trong vườn tiến tới gần bà và phạm
tội với bà. Lúc đó chúng tôi núp ở góc vườn, nhìn thấy tội ác, chúng
tôi liền chạy đến bắt quả tang hai người đang phạm tội. Chúng tôi
không bắt được chàng thanh niên, vì anh ta khoẻ mạnh hơn chúng tôi,
nên đã mở cửa tẩu thoát. Còn bà này chúng tôi bắt được, chúng tôi
gạn hỏi chàng thanh niên đó là ai, nhưng bà không muốn nói cho chúng
tôi biết. Ðó là điều chúng tôi xin làm chứng".
Sau nữa
là lời chứng của chính đương sự bị tố cáo là bà Suzanna, như Bài Đọc
1 cho biết, "bà rất
xinh đẹp và có lòng kính sợ Chúa", và
khi bị hai tên "thẩm phán kỳ lão" ở Babylon "phải
lửa dục mê đắm... mất lương tâm" rình
mò bà và bất
ngờ tấn công tình dục bà,
nhưng bà đã
cương quyết chống trả bất chấp số mệnh ra sao thì
ra:
"Bà
Susanna thở dài và nói: 'Tôi
phải khốn cực tư bề; nếu tôi hành động như thế, tôi phải chết, và
nếu tôi không hành động như thế, tôi cũng không thoát khỏi tay các
ông. Nhưng thà tôi phải tay các ông mà không làm điều gì phạm tội
trước mặt Chúa thì hơn!' Ðoạn bà tri hô lên, nên hai vị kỳ lão cũng
kêu lên tố cáo bà".
Thế
nhưng, chỉ cần căn cứ vào chứng của hai người, mà hai chứng nhân
này lại là hai vị thẩm phán đáng kính có tuổi và có thế trong dân
thì người vợ thủy chung với chồng và kính sợ Thiên Chúa chỉ có
chết, đến độ dân chúng mù quáng cả tin cả nể chẳng cần nghe bà thanh
minh gì cả đã "lên
án tử hình cho bà".
Khi bị lên án tử rồi, người đàn
bà đáng kính đáng phục này chỉ còn biết kêu đến trời và phó thác mọi
sự trong tay Ngài là Đấng bà kính sợ và tin tưởng, Đấng bà đã không
sợ chết mà xúc phạm đến Ngài, nhất định không chịu chiều theo ý muốn
nhục dục của hai lão già gian ác tồi bại, Đấng duy nhất có thể
thấy được tất cả sự thật: "Lạy
Chúa hằng hữu, Ðấng thấu biết mọi bí ẩn và mọi sự trước khi xảy ra,
Chúa biết họ làm chứng gian hại con; và đây con phải chết, dù con
không làm điều gì mà họ ác ý vu khống cho con".
Nếu
bên đối phương tấn công bà có hai nhân chứng, và như Chúa Giêsu trong
bài Phúc Âm hôm
nay cũng có 2 nhân chứng về Người là chính bản thân Người và Cha của
Người, thì người đàn bà nạn nhân vô tội bị oan ức này cũng có đủ 2
nhân chứng, đó là chính bản thân bà, vì bà biết bà hơn tất cả mọi
người khác biết về bà, một sự thật về bà đúng như Thiên
Chúa là
nhân chứng thứ hai biết
về
bà. Bởi thế, Thiên Chúa cũng đã nhúng tay vào làm chứng về bà, như
Bài Đọc 1 cho biết tiếp như sau:
"Chúa
nhậm lời bà. Khi họ dẫn bà đi xử tử, thì Chúa giục thần trí một đứa
trẻ tên là Ðaniel. Trẻ này kêu lớn rằng: 'Còn tôi, tôi không vấy máu
bà này'. Mọi người hướng mắt nhìn về đứa trẻ và nói: 'Lời mi nói có
ý nghĩa gì?' Ðứa trẻ ra đứng giữa mọi người và nói: 'Hỡi con cái
Israel, các ngươi ngu muội thế sao, khi chưa xét xử và chưa biết sự
thật thế nào, mà lại lên án một thiếu nữ Israel? Các người hãy xét
xử lại, vì hai ông đã làm chứng dối hại bà'".
Phải,
Thiên Chúa đã sử
dụng một trang thiếu niên trẻ trung đứng ra xét sử hai lão già thẩm
phán trong dân, để
chẳng những chứng tỏ cho dân của Ngài thấy
rằng: 1- ai tin vào
Ngài sẽ được Ngài chở che bênh đỡ, và 2- "bóng tối không thể
nào át được ánh sáng"
(Gioan 1:5):
"Bấy
giờ tất cả dân chúng hô lớn tiếng và chúc tụng Chúa đã cứu thoát
những kẻ trông cậy vào Chúa. Ðoạn họ nghiêm trị hai vị kỳ lão mà
Ðaniel đã minh chứng rằng hai ông đã vu khống, họ đã xử với hai ông
như hai ông đã xử độc ác với kẻ khác. Chiếu theo luật Môsê, họ lên
án xử tử hai ông, và ngày hôm đó máu người vô tội khỏi đổ oan".
Không
biết khi được Thiên Chúa minh oan cho, bà Suzanna đã cảm thấy ra
sao, nhưng chắc chắn tâm can của bà đã trải qua một cảm nghiệm thần
linh rất sâu xa lạ lùng: "Chúa
dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương", và từ đó tấm
lòng tri ân cảm tạ của bà đã trào dâng lên những tâm tình càng tin
tưởng cậy trông vào Thiên Chúa hơn: "dù
bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng
con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con", đúng như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1) Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh
rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người
hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Ngài dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh
Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc
nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an
ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương.
Ðầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời
sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu
dài.
Thánh ISIDORO
Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh (+636)
ĐTC
Biển Đức
XVI: Thánh
Isidore of Seville
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Thánh Isidore, quê tại Séville theo truyền khẩu, sinh khoảng năm
560 tại Andalousie (Tây Ban Nha) từ một gia đình gia giáo lành
thánh: các anh em là hai giám mục Léandre và Fulgence, còn
Florentine là chị gái. Người kế vị anh Léandre trên ngai giám
mục thành Sévilla năm 601.
Trong nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài, người rao giảng chống lại
những kẻ theo bè Ario và những người lạc giáo được gọi là nhóm
“vô thủ lĩnh”. Họ không chấp nhận Đức Kitô có hai bản tính. Gần
Sévilla, ngài thành lập một ngôi trường – sau này rất nổi tiếng
– để đào tạo các linh mục và giáo dân; ngài cũng là giảng viên
tại chính ngôi trường này. Tại Công đồng Tolède lần thứ IV năm
633, ngài yêu cầu Giáo Hội phải thành lập các trường tương tự:
đó là nguồn gốc các trường của Hội Thánh và Đan Viện, xuất hiện
trước khi có các đại học.
Là một nhà văn lớn, một học giả uyên thâm về nền văn học ẩn sĩ
Đông Phương và rất sùng mộ Origène, thánh nhân đã để lại cho
chúng ta nhiều tác phẩm, trong đó: tập Luận đề (Sentences) và ba
quyển sách dọn đường cho các “Tổng Luận” thời Trung Cổ để trau
dồi kiến thức lẫn tâm linh cho các linh mục, đan sĩ và giáo dân.
Nhưng tuyệt tác phẩm của người vẫn là cuốn sách mang tựa đề
tiếng La Tinh Etymologiae (dịch sang pháp ngữ: Étymologies sur
l’origine de certaines choses– nguồn gốc các từ đầu ngành,): đó
là một loại từ điển bách khoa (hai mươi quyển) bao gồm mỹ thuật,
kỹ thuật, luật, y học, các khoa học tự nhiên, tôn giáo...
Là sử gia (lịch sử dân Goths), là thi sĩ và nhà Phụng Vụ (bộ
Sách Lễ và Kinh Nhật Tụng, được cho là của thánh nhân, là cốt
lõi cho Phụng Vụ tương lai mozarabe); ngài còn là luật gia
(Regula monachorum), nhà thần học và mục tử, nên ngài truyền bá
truyền thống Công Giáo và chuyên cần tổ chức Hội Thánh. Năm 633,
với tư cách là một vị chủ trì Công Đồng Quốc Gia lần thứ IV tại
Tolède, ngài ấn định một nền Phụng Vụ thống nhất cho toàn Tây
Ban Nha và miền Gaule narbonaise. Người ta cho rằng ngài soạn
lời nguyện Adsumus đọc trong mọi Công Đồng.
Isidore de Séville chiếm vị trí hàng đầu trong suốt thời Trung
Cổ; vào thời này, các tác phẩm La Tinh của thánh nhân được nhiều
người đọc và sao chép nhiều nhất. Đối với Bède Khả Kính (thế kỷ
VIII), thánh nhân là tác giả được ưa chuộng nhất sau Thánh Kinh.
Qua đời tại Séville năm 636, sau 25 năm làm giám mục và được tôn
kính như một vị hiển thánh trong toàn cõi Phương Tây từ thế kỷ
IX; ngài được Đức Giáo Hoàng Innocent XIII tôn phong làm tiến sĩ
Hội Thánh năm 1722. Thi hài thánh nhân được sùng kính tại Léôn
(Tây Ban Nha). Nghệ thuật ảnh tượng thường biểu hiện hình ảnh
ngài cầm bút lông, với đàn ong vây quanh hay bên cạnh tổ ong.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện riêng biểu dương thánh Isidore làm bậc “tôn sư về
linh đạo”, gợi lại tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh của ngài.
a. sau khi là một người học sinh tầm thường, Isidore
chuyên cần học tập, cống hiến cả đời mình để nghiên cứu và giảng
dạy. Dưới mắt người đương thời, thánh nhân “phản ảnh kiến thức
văn hóa La-Hi cổ xưa”. Ngài đóng vai trò quan trọng trong các
thế kỷ về sau cho đến thời các nhà kinh viện nổi tiếng.
Nhưng trên hết, Isidore là mục tử hơn là nhà nghiên cứu; kiến
thức văn hóa uyên thâm của người chỉ phục vụ con người, Hội
Thánh và Đức Tin. Phụng Vụ Thánh Lễ trình bày cho chúng ta dụ
ngôn các nén bạc (Mt 25, 14-30) để nhấn mạnh tính chuyên cần học
hỏi của thánh nhân nhằm phục vụ Hội Thánh và anh em hữu hiệu
hơn.
b. Bài đọc một trong Thánh Lễ (1 Cor 2,
1-10) tập trung vào lẽ khôn ngoan: Đó chính là lẽ khôn ngoan mà
chúng ta loan báo... được tiền định cho những ai yêu mến Thiên
Chúa.
- Trong Hội Thánh Tây Ban Nha, nhiệm kỳ giám mục khá lâu dài của
thánh Isidore dường như thể hiện lẽ Khôn Ngoan hằng thích thú
“giao lưu với con cái loài người” (lời đáp trong các bài đọc
Kinh Sách). Với tư cách là nhà văn, nhà thuyết giáo, và giảng
dạy, ngài sáng lập các học viện để giáo huấn và đào tạo giới
trẻ, thánh nhân đã định hướng mọi việc nhằm đạt được lẽ khôn
ngoan đích thực. Ngài thường nhắc nhở: “Hãy yêu mến khôn ngoan,
con sẽ được khôn ngoan tán dương ca tụng, nếu con cùng khôn
ngoan gắn bó, khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho con” Nhưng làm
sao đạt được lẽ khôn ngoan ? Bài đọc - Kinh sách trích dẫn, một
đoạn trong các luận đề của thánh Isidore: “Mọi sự tiến bộ điều
do đọc Sách Thánh và suy niệm ... Không ai có thể biết được ý
nghĩa Sách Thánh nếu không làm quen nhờ năng đọc”.
- Lời cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống Kitô
hữu vì nhờ cầu nguyện chúng ta được thanh tẩy; nhờ đọc Sách
Thánh, chúng ta được dạy dỗ.Vì thế “nếu làm được cả hai thì tốt,
còn nếu không, thì cầu nguyện tốt hơn là đọc Sách Thánh. Ai muốn
được luôn ở với Thiên Chúa phải năng cầu nguyện và năng đọc Sách
Thánh nữa, bởi lẽ khi chúng ta cầu nguyện là chính chúng ta nói
với Thiên Chúa, còn khi chúng ta đọc Sách Thánh thì Thiên Chúa
nói với chúng ta” (các Bài Đọc - Kinh Sách).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-khoang-560-636-le-nho-tuy-chon/
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
Trong 76 năm cuộc đời của thánh Isiđorô là thời kỳ tranh chấp cũng như
phát triển của Giáo hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất
này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi thánh Isiđorô
chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Ðó là những
người theo Ariô – Họ cho rằng Ðức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó,
Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công giáo La Mã) phải
chiến đấu với dân tộc khác (người Gôtích Ariô).
Thánh Isiđorô là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên
một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc
gia Âu châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng
của những dân man di.
Có thể nói thánh Isiđorô sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ
thứ sáu ở Tây Ban Nha. Hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và
người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha.
Ðây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và
Fulgentius đều làm Giám mục và Florentina làm mẹ bề trên.
Là một người tài giỏi về học thuật, đôi khi thánh Isiđorô được gọi là
“Sư phụ của thời Trung cổ” vì cuốn bách khoa ngài viết, tên là
“Etymology” (Từ nguyên học), đã được dùng như sách giáo khoa trong chín
thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và
tiểu sử cũng như thần học.
Kế vị anh mình là Ðức Leander, Isiđorô làm Giám mục Seville trong 37
năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một chính quyền đại nghị ở Âu châu [tức
chính quyền có Quốc hội Lập pháp là đại diện của nhân dân], đồng thời
ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và chủ trì các công đồng quốc gia
(national coumcil) để thảo luận về đường hướng của Giáo hội Tây Ban Nha.
Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy
luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành. Thánh
Isiđorô viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa,
một cuốn sử người Gôtích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên
Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày
nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.
Ý thức rất rõ là sự phồn thịnh thiêng liêng và vật chất của quốc gia lệ
thuộc hoàn toàn vào việc hấp thụ và liên kết các yếu tố ngoại lai, thánh
Hisidorô đã thành công trong việc kết lại toàn thể đám dân chúng
hỗn tạp thành một đất nước thuần nhất tạo thành vương quốc Gôtích Tây
Ban Nha. Ngài đã biết sử dụng các tiềm năng tôn giáo và giáo dục để đạt
đến mục tiêu này. Ngài đã hoàn toàn thành công. Chủ nghĩa Ariô là hình
thức Kitô giáo nguyên thủy giữa những người Visigoth là thành phần lãnh
đạo Tây Ban Nha xuất phát từ cuộc xâm nhập Visigoth từ Đức vào Âu châu
xưa, đã hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho một Kitô giáo chính thống.
Các tà giáo khác cũng bị dập tắt ngay khi vừa mới được thai nghén. Kỷ
luật tôn giáo được củng cố khắp nơi. Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống
khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác
ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo.
Ngài từ trần năm 636 và được Giáo hội tuyên xưng là Tiến sĩ Hội Thánh.
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-4-thang-4-thanh-isidoro/
Thánh Isidorô được coi như vị thánh tiến sĩ lừng danh nhất của Giáo hội
Tây Ban Nha. Ngài chào đời tại Carthagena trong một gia đình thật đặc
sắc, có cha mẹ đạo đức và và cả bốn anh em đều được tôn phong lên hàng
hiển thánh . Các anh Ngài là hai thánh giám mục Leanger và Fulgentio.
Chị Ngài là thánh nữ Florentina. Như vậy thánh Isidôrô thật có phúc vì
được sinh ra sống giữa các vị thánh.
Cha mẹ mất sớm, người anh cả lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đứa em út Isidorô.
Một bức thư của thánh Leander viết cho em gái là thánh Florentina làm
chứng điều đó: – “Anh xin em hãy nhớ đến anh trong kinh nguyện và đừng
quên chú út Isidorô. Cha mẹ đã ký thác em cho chúng ta và đã trở về với
Chúa mà không phải e sợ gì, bởi vì các Ngài đã trao cho em một người chị
và hai người anh săn sóc”.
Dù rất thương em. Nhưng Leander đã phải dùng biện pháp mạnh là cây roi
để sửa trị tính nhu nhược của đứa em biếng nhác. Một lần kia vì sợ đòn
và chán học, Isidorô đã bỏ nhà trốn đi. Cậu chạy nước rút mau hết sức
cho tới khi ngã quỵ bên một bờ giếng. Mơ màng trong lúc lấy hơi, cậu
nhìn thấy vách đá bên thành giếng có một đường rãnh. Một phụ nữ đến kín
nước giải thích cho cậu biết rằng, đá cứng đến đâu đi nữa nhưng sợ giây
thừng cọ sát liên tục cũng soi mòn được. Hiện tượng này khiến cậu phải
suy nghĩ: “Với thời gian sợi giây thừng và những giọt nước đẽo được cả
đá, còn tôi lại không thể học hành để gọt giũa tâm hơn sao ?”
Thật là một bài học lạ lùng đối với Isidorô. Ngài lấy lại can đảm bắt
tay và làm việc không còn biết mệt mỏi. Nỗ lực không ngừng đã biến Ngài
thành nhà thông thái nhất thời đó. Còn thanh xuân, Ngài đã thông hiểu
triết học, đã nghiên cứu các tác phẩm về luật. Nhà chép sử Arevalo đã
phải thán phục ghi nhận nói Ngài một sự cao siêu như Platon, sự thông
hiểu của Aristote, tài hùng biện của Cicéron, sự uyên bác của Origenê,
sự thận trọng của thánh Hiêronimô, giáo thuyết của thánh Augustinô và sự
thánh thiện của thánh Gregoriô. Người ta còn nói rằng khi đọc một bức
thư của Isidorô, thánh Grêgoriô đã thốt lên lời đầy tính chất tiên tri:
– “Đây là một tiên tri Daniel, một người còn trổi vượt hơn cả Salomon”.
Isidorô thụ phong linh mục và theo anh là Leander đang làm giám mục
Seville, tham dự các công đồng. Dầu có cuộc bách hại của nhà vua theo
phái Ariô và đã trục xuất hai anh của Ngài, thánh nhân vẫn công khai
chống lại lạc giáo. Ngài đã thay anh cai quản giáo phận lúc người anh bị
lưu đày. Năm 600, khi Đức Cha Leander từ trần, Ngài đã được cử lên kế
vị. Đức giáo hoàng Grêgoriô cả còn đặt Ngài làm vị tổng đại diện cho
mình ở Tây Ban Nha.
Dầu không bao giờ là tu sĩ, thánh Isidorô đã viết một bộ luật dòng tu.
Ngài giải thích, khai triển và hệ thống hoá phung vụ Mozarabic. Ngài nỗ
lực tiêu diệt tàn tích của phái Ariô, và đánh bại lạc thuyết của
Acephali, một ngành của lạc giáo Nhất tính thuyết ở Tây Ban Nha. Hơn nữa
thánh nhân còn lập nhiều trường học để giáo dục con dân của Ngài. Có ảnh
hưởng lớn tại triều đình, Ngài cũng giữ phần sáng chói trong cộng đồng
Toleđô năm 610, chủ tọa công đồng Seville II năm 618 hay 619 và công
đồng Tôleđo IV năm 633.
Nhưng trách vụ của Đức giám mục không ngăn cản công việc trước tác phong
phú của thánh Isidorô. Ngài đã viết một từ điển các tiếng đồng âm, một
khảo luận về thiên văn địa lý, tiểu sử của các vĩ nhân và các nhân vật
trong thánh kinh, một cuốn lịch sử xứ Goth. Tác phẩm ảnh hưởng nhất của
Ngài là Bộ bách Khoa từ điển ETYMOLOGIES tóm lược những hiểu biết của
thời đại Ngài.
Sau 36 năm nhọc mệt trong chức giám mục, thánh Isidorô phải chịu đựng
mọi yếu đau của tuổi già. Bệnh tật có thể nghiền nát thân xác, nhưng lại
không thể làm giảm thiểu được nhiệt tâm của Ngài. Trong sáu tháng cuối
đời, Ngài tăng thêm việc bác ái đến nỗi một đoàn dân nghèo đến với Ngài
tấp nập từ sáng đến chiều và cuối cùng chính Ngài cũng lâm cảnh nghèo
túng. Biết rằng sắp kết thúc được đời Ngài mời hai giám mục phụ tá đến
thăm, Ngài theo họ tới nhà thờ. Ơ đó một vị giám mục mặc áo nhặm cho
Ngài, một vị giám mục bỏ tro lên đầu Ngài. Giơ tay lên trời Ngài lớn
tiếng xin Chúa thứ tha tội lỗi, rước lễ. Xin mọi người cầu nguyện cho,
khuyên nhủ dân chúng sống bác ái, phân phát hết tiền của còn lại. Trở về
nhà, Ngài qua đời trong an bình của Chúa ngày 04 tháng 04 năm 636.
Theo lời yêu cầu của thánh nhân, thi hài Ngài được mai táng với thánh
Leander và Florentina. Nhưng về sau Vua Ferdinand di chuyển hài cốt về
Leon. Đức Giáo hoàng Benedictô XV tôn phong thánh Isidorô lên hàng Tiến
sĩ Hội Thánh.
Nguồn:
gxdaminh.net
https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2017/04/03/ngay-04-04-thanh-isidoro-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-636.html
Thứ Ba
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ds 21, 4-9
"Kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, các người Do-thái rời bỏ núi Hor, theo con đường về
phía Biển Ðỏ, để vòng quanh xứ Eđom. Dân chúng đi đường xa mệt nhọc, nên nản
chí, kêu trách Chúa và Môsê rằng: "Tại sao các người dẫn chúng tôi ra khỏi
Ai-cập, cho chúng tôi chết trong hoang địa. Không bánh ăn, không nước uống,
chúng tôi đã ngán thức ăn nhàm chán này".
Bởi đó Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, họ chạy đến cùng Môsê và
thưa rằng: "Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch
Chúa và phản nghịch ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn
cắn". Môsê cầu nguyện cho dân. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đúc
một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn
đồng, thì được sống". Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó lên làm dấu, và kẻ
nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 101, 2-3. 16-18. 19-21
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên
tới Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn.
Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu
sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong
vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê
lời họ kêu van.- Ðáp.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo
sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao
Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải
thoát kẻ bị lên án tử. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 8, 21-30
"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ
tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể
tới được".
Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các
ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã
nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các
ông sẽ chết trong tội của các ông".
Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói
với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng
Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây,
chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi
nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không
tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã
sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm
điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chúa
Giêsu đã chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người
mà còn cho họ biết nguyên do
phạm tội chính khi họ "tìm
kiếm"
Người nữa
Chủ đề chung cho
Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh là "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để
rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng rõ nét trong phụng vụ lời Chúa hôm
nay, Thứ Ba trong Tuần V Mùa
Chay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
Ở Bài Phúc Âm, "Tôi tự ý bỏ
sự sống của mình đi", ở chỗ, như Chúa Giêsu đã báo trước cho "những
người biệt phái rằng": "Khi nào quí
vị đưa
Con Người lên cao", nghĩa
là khi nào quí vị hô
hoán đòi "đóng đanh nó vào
thập giá, đóng đanh nó vào thập giá" (Luca
23:21; Marco 15:13-15).
Nhưng "Tôi lấy nó lại", ở
chỗ, chính khi quí vị thách đố Tôi xuống khỏi thập tự
giá Tôi cũng không xuống (xem Matthew 27:39-43; Mark 15:29-32; Luke
23:35-36) thì lại là lúc quí vị bấy giờ mới
biết Tôi thật sự là Đấng Thiên Sai, như Tôi đã nói, Tôi xuống thế gian
này là để làm theo ý Cha là Đấng sai Tôi chứ không phải làm theo ý của
Tôi (xem Gioan 6:38).
Ở Bài Đọc 1 cũng thế, chủ đề "Tôi
tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" được
báo trước ngay trong lời Thiên Chúa phán với Moisen rằng: "'Ngươi
hãy đúc một con rắn đồng và treo nó lên làm dấu; kẻ nào bị rắn cắn mà
nhìn lên rắn đồng, thì được sống'. Môsê đúc một con rắn đồng, treo nó
lên làm dấu, và kẻ nào bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, thì được chữa
lành".
Hình ảnh
"con rắn bằng đồng"
có thể chữa lành cho những ai bị "rắn
lửa cắn"
khi họ nhìn lên con rắn treo
lên được đúc
bằng đồng ấy ám
chỉ Chúa Kitô tử giá, và thành phần bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn
bằng đồng được treo lên ấy ám chỉ thành phần tội nhân tin tưởng
vào (tức là "nhìn
lên") "Đấng họ đã đâm thâu qua" (Gioan 19:37), bao gồm cả dân ngoại:
"Người này quả là
một
con người vô tội" (Luca 23:47) lẫn dân Do Thái: "Khi đám đông qui
tụ lại trước cảnh tượng ấy nhìn thấy những gì đã xẩy ra thì trở về đấm
ngực" (Luca 23:48).
Thế
nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là, tại sao con rắn vốn tiêu biểu cho
những gì là độc dữ, đã từng bị chính Thiên Chúa nguyền rủa ngay từ
ban đầu sau khi nó là tác nhân gây ra nguyên
tội (xem Khởi Nguyên 3:14; Gioan 8:44), mà trong Bài Đọc 1 trích từ Sách
Dân Số hôm
nay, lại ám
chỉ Chúa Kitô tử giá? Phải chăng là vì Thiên Chúa muốn "lấy của độc
giải độc", ở chỗ, thương đau và chết chóc gây
ra bởi rắn thì chữa
lành và sống còn cũng bởi rắn?
Thật ra, tự bản thân của mình, Chúa
Kitô là chính Con Thiên Chúa, là Đấng vô cùng thánh hảo, không có một
chút hèn hạ và xấu xa nhơ nhớp nào, thế nhưng, vì Người cũng chính là Đấng
Cứu Thế mà Người đã
cần phải "trở
nên" "Con chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội
trần gian"
(Gioan 1:29), để
nhờ đó có thể cứu nhân loại nhiễm lây nguyên tội bởi rắn quỉ cắn trong
vườn địa đường khỏi tội lỗi và sự chết do chính rắn quỉ gây ra cho bản
tính của họ, bằng cách chính Người đã phải "trở thành tội lỗi" (2Corinto
5:21) và
"bị nguyền rủa" như một tử tội trên thập tự giá (Galata
3:13), nghĩa
là Người đã trở nên như một con rắn bằng đồng thôi, chứ không phải rắn
thật, một hình tượng tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc.
Đó là một mầu nhiệm vô cùng thâm sâu
con người không thể nào thấu hiểu. Vì theo lập luận của loài người thì
Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh hảo và toàn năng không thể nào lại trở
thành một con người hay không thể nào làm người vô cùng thấp hèn, bất
toàn và bất lực được, chứ chưa nói đến lại còn "trở thành tội lỗi"
và "bị nguyền rủa" vô cùng khốn nạn như thế.
Bởi vậy mà
trong bài Phúc Âm hôm nay chính
Chúa Giêsu đã vừa khẳng định
vừa tiên
báo cho "những
người biệt phái rằng:
'Tôi ra
đi, quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị.
Nơi Tôi đi
quí
vị không
thể nào tới
được'", tức
loài người như họ không
thể nào hiểu được, chứ
chưa nói gì đến việc chấp
nhận được.
Ngay câu Người nói ấy mà họ chưa
hiểu nổi ý
nghĩa sâu xa huyền nhiệm của những gì Người muốn nói huống
chi khi họ tận mắt chứng kiến thấy sự thật xẩy ra, do đó: "Người
Do-thái nói với nhau rằng: 'Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói: Nơi Ta
đi các ông không thể tới được?"
Mà
thật, lý do con người bất
khả thấu hiểu mầu
nhiệm Chúa Kitô này là
vì tầm mức chênh lệnh giữa tạo hóa với tạo vật, và tạo vật không thể nào
bằng tạo hóa cùng hiểu được
như tạo hóa, khoảng cách biệt hơn trời với đất. Thế nên, Chúa Giêsu đã
chẳng những cho họ biết lý do họ không hiểu Người mà còn cho họ biết nguyên do
phạm tội chính khi họ "tìm
kiếm"
Người nữa, đó là:
"Quí
vị thuộc
về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Quí
vị thuộc
về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Quí
vị sẽ
chết trong tội của
quí
vị.
Vì, nếu quí
vị không
tin Ta, quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị".
Thật
sự là thế, chính vì "quí
vị không
tin Ta" mà "quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị", đúng
như Người đã quả quyết và cảnh báo: "quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị", ở chỗ, chính khi họ "tìm kiếm" Người bằng cách cuối cùng "nhân
danh Thiên Chúa hằng sống", qua vị thượng tế Caipha của họ, hỏi Người
một cách chính thức và hết sức trịnh trọng có phải là "Đấng Thiên Sai
Con Thiên Chúa hay chăng?" (xem
Mathêu
26:63) thì họ, sau khi nghe Người cho họ biết tất cả sự thật về Người, lại
"chết
trong tội" của họ: "Hắn lộng ngôn... Hắn đáng chết... Họ bắt đầu
nhổ vào mặt Người" (Mathêu 26:66-67).
Và
sở dĩ họ không tin Người hay tin lời Người nói là
vì họ chưa nắm bắt được
tất cả sự thật về Người, như bài Phúc Âm hôm nay cho biết, qua câu họ
hỏi Người: "Ông
là ai?"
Bấy
giờ Người chưa tỏ hết mình ra như khi Người phải đối diện với toàn thể
Hội Đồng Đầu Mục Do Thái và được thẩm quyền cao nhất của họ hạch hỏi,
như trên đây, mà chỉ mới tỏ
mình ra một cách xa xa nhưng rất chính xác về Người rằng: "Là
Nguyên thủy đang
nói với các ông đây!"
Thế
nhưng, Người càng nói, càng tỏ mình ra, họ càng "không hiểu". Bởi
vậy, chỉ còn một cách duy nhất là bằng chính cái chết của Người mà
thôi: "Khi
nào quí
vị đưa
Con Người lên cao, quí
vị sẽ
nhận biết Ta là ai". Bởi
vì, chỉ có cách ấy mới có thể chứng thực một cách sống động rằng
Người quả thực là Đấng Thiên Sai, ở chỗ: "Tôi không
tự mình làm điều gì. Ðiều Tôi nói,
chính là điều Chúa Cha đã dạy Tôi.
Ðấng đã sai Tôi đang
ở với Tôi;
Ngài không để Tôi một
mình, bởi vì Tôi luôn
luôn làm điều đẹp lòng Ngài".
Đúng thế, khi
Người
nói những gì liên quan đến Chúa Cha: "Tôi có
nhiều điều phải nói và đoán xét về quí
vị,
nhưng Ðấng đã sai Tôi là
Ðấng chân thật, và điều Tôi nói
ra trong thế gian đây, chính là điều Tôi đã
nghe biết ở Ngài", thì
"họ
không hiểu là Người nói về Chúa Cha", nhưng
khi Người nói về chính bản thân Người liên hệ với Chúa Cha, ở chỗ làm
theo ý Cha, "thì
có nhiều kẻ tin vào Người".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu của một tâm hồn phiền muộn, tiêu
biểu cho những ai bị rắn lửa cắn trong Bài Đọc 1, hay thành phần những
người biệt phái dầu sao cũng có thiện chí tìm hiểu về Chúa Kitô trong
Bài Phúc Âm hôm nay, một tâm hồn tìm
kiếm Chúa là
Vị Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, tỏ mình ta cho con người và
muốn cứu độ
con người nói
chung cùng những ai tin tưởng cậy trông nơi Ngài nói riêng:
1) Lạy Chúa, xin nhậm lời con cầu nguyện, và cho tiếng con kêu lên tới
Chúa. Xin Chúa đừng ẩn giấu thánh nhan, trong ngày con phải phiền muộn.
Xin Chúa lắng tai nghe con, khi con cầu nguyện, Chúa mau nhậm lời.
2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa
cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất
hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng
nghèo, và không chê lời họ kêu van.
3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác
tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ
trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù
nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử.
Thánh Vinh-Sơn Ferrier 5-4
Lời Tiên Tri Thánh Vincent Ferrer
Thánh (Vinh Sơn/Vicentê) sinh tại Valencia, nước Tây-ban-nha (Spain) vào
ngày 23 Tháng giêng Năm 1350, là con thứ ba của ông William Fêrrêr và bà
Cônstânce Mìguêl là con gái của chính khách naval, có họ hàng với Giám Mục
của Valencia lúc bấy giờ, một gia đình Công giáo đạo đức truyền thống.
Vào một đêm kia, ông William nằm mơ thấy mình đi vào nhà thờ thánh Đaminh
tại Valencia, bỗng có một vị thuộc phần tử Dòng Thuyết Giáo từ trên bục
giảng phía trên cung thánh, xoay nhìn ông nói rằng,
“Cha chào mừng con, William. Trong mấy ngày nữa con sẽ có một cháu trai, trẻ
này sau sẽ được phúc học hành uyên thông và thánh thiện.
Cháu sẽ thành đại sự làm rạng danh nhà con. Thế gian sẽ vang vọng âm thanh
huy hoàng của cháu; cháu sẽ được ngập tràn phúc sủng thiên đàng còn địa ngục
phải khiếp run. Cháu sẽ mang tu phục như cha đang mặc đây, và sẽ được tiếp
nhận vào Hội Thánh với niềm vui của toàn thể vũ hoàn như đối với một vị tông
đồ tiên khởi.”
Những người nghe biết chuyện đều hết thảy lớn tiếng chúc tụng – cám đội ơn
Chúa với tin mừng bất ngờ này. Riêng ông William vui khôn xiết tả, liền đi
thuật lại đầu đuôi câu chuyện với vị giám mục họ hàng.
Bà Cônstânce kể thêm, lúc có thai Vincent thì có hai điềm lạ xảy ra; bà
không hề đau đớn khi mang thai Vincent so với những lần mang thai bình
thường khác; và gần đến ngày sinh trẻ Vincent, thì bà nghe trong bào thai
phát ra tiếng khóc như tiếng sủa của một con chó con-gần giống như giấc mơ
của chân phước Jane de Aza Mẹ thánh Đaminh vậy.
(Bà Aza mơ thấy mình sanh ra một con chó ngậm bó đuốc chạy đi thiêu đốt khắp
các thành thị). Vị giám mục ngầm hiểu rõ ngay đây là một dấu chỉ màu nhiệm
và nói với họ rằng,
“Anh chị hãy vui mừng Trong Thiên Chúa; đứa trẻ mà anh chị đang mang vào thế
gian đây, sẽ trở nên người con xứng đáng của thánh Đaminh, cháu sẽ là một
trong số những người được kêu gọi để làm nhiều điều thiện lành vô kể bằng
vào sự giảng truyền của cháu. Hãy chăm sóc cháu cách đặc biệt cẩn thận và
giáo dục cháu nên người thánh thiện, để mai ngày cháu không phụ tình Thiên
Chúa đối với các tặng sủng mà Ngài đã ban cho cháu.”
Vincent được Thiên Chúa phú bẩm cho ơn làm phép lạ ngay từ khi chưa lọt lòng
mẹ. Một buổi nọ, bà Cônstânce đi thăm một phụ nữ mù theo thói quen đi làm
việc bác ái - bố thí hàng tháng, và bà nói với chị ấy,
“Con ơi, hãy cầu xin Chúa cho thai nhi mà mẹ đang cưu mang đến ngày sinh
được bằng an nhé.”
Người phụ nữ mù liền cúi áp đầu vào bụng bà Cônstânce rồi nói với thai nhi,
“Xin Thiên Chúa chúc ban phúc lành cho em.”
Lập tức, chị được khỏi mù, và lòng trí trở nên minh mẫn sáng láng, liền thốt
lời tiên tri rằng, “Thưa bà, quả là một thiên thần bà đang cưu mang, bởi
chính em đã chữa lành nỗi khổ đau cho con.”
Giống như một thai nhi Gioan Tẩy-giả khác, thai nhi Vincent tỏ ý bằng lòng
với lời cầu chúc từ miệng người phụ nữ nghèo, đến nỗi nhảy mừng trong lòng
mẹ bằng dấu lạ chữa chị khỏi mù.
Ấu Thơ
Khi trẻ Vincent chào đời, được ba mẹ ẵm lên nhà thờ để chịu Phép Rửa Tội,
thì những người bà con họ hàng ai cũng muốn lấy tên mình mà đặt cho, khiến
vị linh mục chủ sự phải can thiệp mà đặt tên là Vincent, có nghĩa là kẻ
thắng trận, một cái tên chưa hề có trong dòng họ bao giờ.
Trẻ Vincent rất dễ tính, đặt đâu nằm đó, không có quấy khóc như mọi trẻ
khác, với miệng cười tươi, cặp mắt tròn to mở lớn, khiến ai nấy cũng đem
lòng thương mến.
Lên năm tuổi, Vincent, đă chữa lành một đứa trẻ hàng xóm đau nặng được khỏi
bệnh. Trong đám trẻ nhỏ hàng xóm, bạn Vincent có một đứa lười học lắm, một
hôm, cậu tới rủ nó đi học thì nó đã chết. Mẹ nó đang vật vã khóc lóc cách
thảm thiết. Thấy thế, Vincent nói,
“Con bác không chết đâu, nó lười học nên mê ngủ đó.”
Nói đặng, Vincent cầm lấy tay bạn bảo:
“Dậy đi học với tôi mau, kẻo trễ rồi.”
Đứa trẻ đã chết liền bật mình sống dậy đi học với Vincent. Một lần khác, khi
cậu đang chơi bên cạnh giếng nhà mình thì đánh rơi giầy, cậu liền quỳ xuống
bờ giếng mà cầu nguyện, thì liền đó nước giếng dâng lên vừa đúng tầm tay
đặng cậu có thể lấy lại giầy.
Không những thế, Vincent còn thường xuyên hội tụ các bạn nhỏ lại, rồi tự
mình đi tìm các chỗ cao đứng giảng cho chúng nghe những gì cậu đã được nghe
cha xứ giảng vào ngày Chúa Nhật vừa qua ở nhà thờ. Có một hôm, thấy người
đầy tớ đang định chặt một trong các cây ở trong vườn, Vincent liền tới cản
lại bảo,
“Xin khoan đã, đừng chặt cây đó! Vì mai mốt người ta sẽ dùng cây này mà khắc
tượng cháu đó.”
Cậu còn làm nhiều điều lạ khác nữa. Vincent bắt đầu đi học vào năm tám tuổi.
Cậu thuộc làu các kinh, học hành xuất sắc, năm 12 tuổi cậu đã sớm biết ăn
chay vào các ngày thứ tư vào thứ sáu trong tuần chỉ bằng bánh mì và nước lã.
Mười bốn tuổi Vincent học thần học, cậu năng nguyện gẫm, nhất là rất sùng
kính cuộc khổ hình, thương khó của Chúa Giêsu và có lòng biệt kính Mẹ Maria
cách riêng, và sống bác ái với mọi người. Nên xóm giềng ai cũng đem lòng
thương mến cậu và thường gọi là “Vị thánh tý hon.”
Thiếu Niên Dũng Trí
Mười tám tuổi, Vincent xin vào “Dòng Thuyết Giáo Thánh Đaminh - Dominican
Order of Preacher (O.P)” nơi thành phố cậu đang cư ngụ. Từ khi chọn sống đời
tu, thầy Vincent quyết chí noi gương thánh Đaminh để tiến tới đường trọn
lành.
Thầy siêng năng đọc Thánh Kinh - suy gẫm Lời Chúa tựa như cơ thể sống động
không thể thiếu các mạch máu chính và li-ti vậy. Thầy sống khổ chế và thánh
thiện trong mọi lời nói cũng như hành động.
Vì đó, quỷ dữ căm ghét và thường xuyên quấy phá – cám dỗ và gây đau khổ cho
thầy đủ điều. Đến độ cha mẹ của thầy khuyên nên bỏ nhà dòng trở về làm một
cha xứ (linh mục triều) bình thường thôi. Nhưng thầy Vincent vẫn vững một
lòng trông cậy Chúa, ra sức cầu nguyện nhiều hơn, đặc biệt là thầy van nài -
khẩn nguyện với Mẹ Maria và thiên thần bổn mạng cứu giúp. Sau bao nhiêu khốn
khó, thầy Vincent đã vượt thắng tất cả mọi cam go và hoàn tất giai đoạn tập
sinh.
Thầy Vincent lãnh mặc tu phục dòng Đaminh ngày 2 tháng 2 Năm 1363, và khấn
trọn đời năm 1368. Kế đến, thầy Vincent tiếp tục 18 năm theo học các; khoa
Thánh Kinh, học tiếng Dothái và học rất nhanh. Trong ba năm đầu, thầy
Vincent chỉ đọc Sách Thánh Kinh và sách của các Thánh Giáo-phụ đến độ thuộc
lòng, đồng thời thông hiểu hết toàn bộ Sách Thánh. Sau đó không lâu, thầy
được chỉ định học Triết học, mãn khóa học, Vincent cho ra trình làng cuốn
“khảo luận về giả thuyết biện chứng pháp...” (Treatise Dialectic
Suppositions), lúc ấy thầy chưa tròn hai mươi bốn tuổi. Sau đó, Vincent được
gửi đến Bárcêlôna tiếp tục học chuyên khoa Thánh Kinh. Tuy bận rộn với việc
học hành, nhưng cùng thời gian đó, thầy không ngừng rao giảng Lời Chúa và đã
mang lại nhiều kết quả lạ thường tuyệt vời không ngờ. Thầy giống hệt như
thánh Đaminh vừa là học trò, đồng thời vừa là giáo sư, và vừa là nhà thuyết
pháp tài ba vậy.
Vào năm 1378, ở tuổi hai mươi tám, chính tay Đức HồngY Peter De Luna trao
bằng tiến sĩ thần học cho thầy Vincent (Hồng Y Phêrô De Luna - người sau này
trở thành Giáo hoàng Bênêđíctô thứ XIII, nhưng không chính thức giữa thời kỳ
Giáo hội có cuộc “Đại Ly Giáo” bị hủng hoảng và phân rẽ vì chiến tranh lan
rộng khắp Tây Âu, mới đầu chỉ có hai rồi có tới ba Đức Giáo hoàng: Đức Urban
VI ngự điện tại Rôma, Đức Clêmentê VII ngự điện tại Avignon, Pháp Quốc.
Thánh Catherine thành Siena ủng hộ Đức Urban VI ở Rôma, còn thánh Vincent
thì cho ngài là bất hợp pháp …trong lúc phục vụ Hồng Y Peter De Luna,
Vincent cùng lúc tích cực thuyết phục dân Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê, sau
khi Đức Clementê băng hà, thì Hồng Y Luna được bầu làm Giáo Hoàng tại
Avignon, lấy hiệu là Đức Bênêđíctô thứ XIII ), Hồng Y Peter lúc ấy đại diện
cho Đức Giáo hoàng Clêment VII, đang ngự điện tại Avignon, bên Pháp, đồng
thời cũng là người thụ phong linh mục cho Vicent tại Bárcêlôna năm 1379.
Không bao lâu sau khi chịu chức linh mục, cha Vincent liền được chọn làm bề
trên tu viện Thánh Đaminh tại Valencia.
Đức Bênêđíctô XIII triệu Cha Vincent về làm việc trong bộ xá giải tông
truyền và như là một Trưởng Điện Tông Tòa. Nhưng tân giáo hoàng không chịu
từ chức trong khi tất cả các ứng viên hồng y trong mật nghị viện đều nhất
loạt truất phế. Thế nhưng dẫu cho hầu hết các hồng y và vua nướp Pháp phế
bỏ, ngài vẫn ngoan cố bất chấp không chịu từ chức. Nên cha Vincent vỡ mộng
trở bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đảm nhận việc “rao giảng Chúa Kitô cho
thế giới.”
Vào những năm 1408 đến 1415, cha Vincent cố gắng thuyết phục người bạn cũ
(Beneđíctô 13) từ chức nhưng bất thành. Sau cùng ngài kết luận rằng
Bênêđíctô không phải là đức giáo hoàng thật. Mặc dầu đang lâm bệnh nặng,
ngài cũng ráng hết sức lên tòa giảng ngay trước mặt giáo đoàn mà Bênêđíctô
đang chủ sự mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong linh mục cho ngài. Bênêđíctô
vội vã bỏ trốn khỏi những người trước đây đã từng hỗ trợ mình. Có điều kỳ
lạ, là cha Vincent không phải thuộc phần tử của Công Đồng Constance (Công
Đồng Constance năm 1414 đến năm 1418 do Hoàng đế Segismunđô triệu tập: nhằm
bãi nhiệm 3 Đức Giáo Hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly giáo
ở Tây Phương, lên án Wiclef và Huss. Công Đồng bầu chọn Tân Giáo Hoàng
Martinô V), thế mà đã góp phần chấm dứt cuộc ly giáo, bất kể thời ấy trải
qua cuộc canh tân nào trong Giáo Hội đều tùy thuộc vào sự hàn gắn ly giáo.
Cha Vincent sống cho tới ngày chứng kiến bầu chọn Đức tân giáo hoàng Martin
V.
Đời Linh Mục
Vincent là một nhà thuyết giảng hăng say và tài ba, suốt 20 năm cuối đời,
ngài giảng truyền Tin Mừng Phúc Âm khắp cõi Miền Nam Âu Châu; Tây ban nha,
Pháp, Ý, Đức, Belgium, Úc, Thụy điển, Lombardy và các vùng phụ cận. Giống
như một Gioan Tẩy Giả khác được mệnh danh là một thiên sứ thần thông lướt
băng qua hoang địa tội lỗi, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, run sợ ngày
công phán, dọn đường ngay thẳng để đón Chúa, nếu không có lý do nào khác,
hầu hết các tội nhân mới đầu lắng nghe các bài giảng của ngài đều thống hối
từ bỏ tội lỗi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài còn xác nhận rằng ngài chính là
“Thẩm Phán Thiên Thần – Angel of the Judgment,” được nhắc tới trong Sách
Khải Huyền của Thánh Gioan Tông Đồ (Kh 14:6-7), nếu dân chúng không chịu ăn
năn cải thiện đời sống thì cuộc chung thẩm sắp xảy ra tới nơi.
Việc thuyết giảng của ngài thực lạ lùng nhưng sinh hiệu quả kỳ diệu đến độ
mỗi lần thánh Vincent lui tới đâu thuyết giảng, lập tức thu hút khá đông dân
chúng hàng vạn, hàng ngàn, và ít nhất có tới 10,000 người, 50 linh mục lũ
lượt di hành theo từ nơi này qua nơi khác, thậm chí ngay cả những người ở
cách xa đó cả ngàn dặm hay tin cũng tấp nập rủ nhau tới nghe ngài giảng, đến
nỗi các nhà thờ chưa kịp mở cửa đã có sẵn đám đông dân chúng túc trực chật
ních ở ngoài từ bao giờ, dẫu nhà thờ có rộng lớn bao nhiêu mấy cũng không đủ
chỗ chứa họ. Cộng đoàn linh mục hát Kinh Thần Vụ, hát Lễ hằng ngày, và cử
hành các bí tích cho những người đã hoán cải nhờ nghe cha Vincent thuyết
giảng.
Từng đoàn người nam - nữ khác biệt từ khắp nơi vừa di hành chân không vừa
đánh tội cầu nguyện râm ran từ hết đường phố này sang tới thành phố khác. Họ
dạy giáo lý khi cần thiết, thành lập các nhà thương - bệnh xá, và làm sống
lại một đức tin vốn có trước kia nhưng đã bị tắt rụi vào thời kỳ mắc nạn
dịch bệnh. Tương tự như Tiên Tri Giôna cảnh báo thành Ninivê, dân chúng liền
cải thiện đời sống, và thế giới được tha rồi tồn tại đến hiện nay ra sao -
phần lớn cũng nhờ vào một trong những vị ngôn sứ này! Thế nhưng, ngày nay ít
có mấy người biết đến hoặc chưa hề nghe nói tới thánh Vicentê Fêrrê!
Thể theo sự thỉnh cầu của hàng giáo mục, giáo sĩ và dân chúng Valencia, ngài
được triệu hồi về bản quốc, tiếp tục đôi việc của ngài là giảng dạy và
thuyết pháp với danh tiếng lẫy lừng như thế, chứng tỏ cho thấy người tham dự
cùng được chung hưởng phép lành của Đấng Toàn Năng, mà ngài tôn thờ khắp đất
nước vượt trên những gì có thể tưởng tượng ra được. Để thử đức khiêm nhượng,
Thiên Chúa cho phép một đồng bọn của satan đến quấy phá cám dỗ ngài phạm tội
nhục thể, và vây phủ lấy ngài những tư tưởng xấu xa dơ bẩn bất chính. Những
vũ khí mà thánh nhân chống lại quỷ dữ là ăn chay, cầu nguyện và ngài tỉnh
thức không ngừng mỗi khi bốc cơn mê dục.
Phải nói là một khi càng thăng tiến trong nhân cách thì trông ngài càng đẹp
và rạng rỡ thêm ra, phản ánh vẻ đẹp của một tâm hồn ngập lút tình thương
Thiên Chúa. Cả khi về già vẻ đẹp rạng rỡ này cũng không hề tàn phai. Tuy
vậy, mỗi khi ngài thuyết giảng về Mẹ Thiên Chúa hay các niềm vui Thiên Đàng.
Ngài đặc biệt tỏ ra Say mê và hoan hỷ như một trẻ thơ biệt sùng Mẹ Maria
vậy, nhất là vào lúc mà các tín hữu nguyện kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng.
Tâm hồn của ngài luôn luôn hướng về Thiên Chúa và cầu nguyện liên lỉ trong
công việc bổn phận, trong lao nhọc, và trong mọi hành động. Những thao tác
của ngài tương tự như trong tập sách để lại cho mọi Kitô Hữu với nhan đề,
KhảoLuận về Đời Sống Thiêng Liêng, ngài viết như sau: “Con có muốn học hỏi
để có lợi cho con không? Con hãy tôn vinh (Chúa) khi học hỏi và nên học ít
đi để nên thánh chứ không phải học để thành người uyên bác..”
Thử suy gẫm một số câu văn (tư tưởng) trong tập sách tuyệt diệu này. “Công
đức không phải vì con người nghèo khổ nhưng một khi họ (ở trạng thái) nghèo
khổ mà lại yêu mến đức khó nghèo “Một câu hỏi vô bổ chỉ nên đáp lại bằng yên
lặng… Cho nên con hãy học yên lặng một thời gian; anh em con sẽ cảm phục con
và sự yên lặng sẽ dạy con lên tiếng khi cần phải lên tiếng.” “Con hãy tự coi
mình là dơ bẩn và hèn hạ trước mặt Chúa vì tội lỗi của con hơn bất cứ người
tội lỗi nào, bất kể tội của họ là gì đi nữa... và hãy suy nghĩ thật kỹ càng
rằng bất cứ một ân sủng hay một khuynh hướng tốt lành nào hoặc một sự ham
muốn sống nhân đức, thì đó không phải là do tự con mà có mà do lòng thương
xót duy nhất của Chúa Kitô mà thôi.” “Con nên nhìn nhận rằng bất cứ một tội
nhân nào đã phạm những tội tầy đình cũng có thể phụng sự Chúa tốt hơn con
nếu họ cũng nhận được những ân sủng như con.” “Một khi thủ đắc được khiêm
nhượng, thì đời sống bác ái sẽ đến - lửa sốt mến sẽ thiêu đốt hết những thói
hư tật xấu và tâm hồn con sẽ đầy tràn đức mến chẳng còn chỗ cho phù vân giả
trá.”
https://hddaminhthanhlinh.net/a650/thanh-vincent-ferrer-tuc-la-thanh-vincente-lam-phep-la
Đối với tín hữu Việt Nam, thánh Vincentê Ferriô đã thường được khấn như vị
thánh hay làm phép lạ. Cuộc đời của vị tông đồ Âu Châu, vinh quang của Giáo
hội, vinh dự của dòng giảng thuyết này cũng rất lạ lùng, Ngài chào đời tại
Valentia nước Tây Ban Nha ngày 23 tháng 01 năm 1350. Mặc dầu gia đình giàu
có, nhưng thân mẫu thánh nhân đã muốn tự mình nuôi dưỡng con.
Lên sáu tuổi, Vincentê cắp sách đến trường và đã tỏ ra có nhiều ân huệ đặc
biệt. Còn là một con trẻ ngây thơ nhưng Ngài đã có sức hấp dẫn lạ lùng.
Bạn trẻ thường vây kín quanh Ngài để tham dự một trò chơi diễn lại bài giảng
ở nhà thờ. Vincentê luôn diễn giảng chính xác và hùng hồn một cách đáng ngạc
nhiên.
Mười hai tuổi thánh nhân theo môn triết học, mười bốn tuổi Ngài học thần
học. Người ta kể rằng vào lúc này, đã một lần thánh nhân làm cho một đứa trẻ
đã chết sống lại. Câu chuyện xảy ra khi những đứa bạn xấu bày trò chết giả
và xin Vincentê thương giúp.
Nhưng đứa giả chết lại chết thật làm chúng phải kinh hoàng. Đáp lời van xin
khẩn thiết của chúng, thánh nhân đã cầu nguyện rồi cầm tay đứa chết cho nó
sống lại.
Lên mười bảy tuổi, Vincentê đã được các giáo sư coi như ngang hàng với mình.
Đây là lúc Ngài phải quyết định hoặc làm giáo sư tại Roma và lập gia đình,
hoặc là theo đuổi lý tưởng tu dòng. Thánh nhân đã quyết định gia nhập dòng
thánh Đaminh. Đầy xúc cảm và hãnh diện, ngày 05 tháng 02 năm 1367, ông thân
sinh đã dẫn Ngài tới cha bề trên dòng Đaminh ở Valentina.
Nhưng chưa được một năm, thân mẫu Ngài lại luyến tiếc tương lai rực sáng của
con, và đã cố gắng đưa con trở về lại thế gian. Thoạt đầu Vincentê có cám
dỗ, nhưng sau đó Ngài đã thốt lên câu nói làm đà tiền cho suốt cuộc đời:
- Lạy Chúa, con chọn Chúa mãi mãi.
Ngài được đưa về Barcelona và năm1370 đã trở thành giảng viên triết học tại
dòng Đaminh ở tại Lerida. Năm 1373, khi trở lại Barcelona để học tiếng Ả rập
và Do thái Ngài đã trở thành nhà giảng thuyết lừng danh.
Năm 1377, Vincentê được gọi sang Toulouse để học thêm. Mới đây Ngài kéo được
sự chú ý của đức hồng y Pedro da Luna, vị đại diện của phản giáo hoàng tương
lai ở Avignon. Từ năm 1385 tới năm 1930 thuyết giảng thần học ở nhà thờ
chính toà Valentina và sau đó vào nhóm với Hồng Y Pedro Da Luna.
Ngài nhiệt tâm rao giảng nhất là cho dân Do thái và dân Mô (Maures). Ngài đã
cải hóa được một thày Rabbi ở Valladolid, người sau này trở thành giám mục
Phaolô miền Burgos và cùng với thánh nhân can đảm trong nỗ lực cải hoá người
Do thái ở Tây Ban Nha.
Từ năm 1391 Yolanda ở Aragon. Thời kỳ này, Ngài bị tra vấn vì rao giảng sự
thống hối. Pedro Da Luna, người đã được chọn làm giáo hoàng Benedictô XIII ở
Avignon đã cứu Ngài khỏi bị xử án và mời Ngài về giáo triều làm cha linh
hướng và cha giải tội.
Tỉnh ngộ trước những nỗ lực nhằm hàn gắn sự phân rẽ giữa Roma và Avignon,
thánh Vincentê được thị kiến thấy Chúa Giêsu ở giữa thánh Phanxicô và thánh
Đaminh sai đích danh Ngài đi rao giảng sự thống hối. Tháng 11 năm 1399 được
Đức Bênêdictô XIII cho phép làm việc này, Ngài đã rao khắp miền Tây Âu để
rao giảng cho tới ngày lìa trần. Từng đoàn hối nhân từ 3000 tới 10.000 người
theo Ngài và đánh tội.
Năm 1416, Ngài rút lại sự ủng hộ của mình và của vương quốc Aragon đối với
Đức Bênêdictô XIII vì vị phản giáo hoàng ở Avignon không nghiêm chỉnh để hàn
gắn sự phân rẽ khi từ chối đòi hỏi thoái vị công đồng Constance đưa ra.
Quyết định của thánh Vincentê có ảnh hưởng tới việc thoái vị của Đức
Bênedictô và giúp dễ dàng chấm dứt sự phân rẽ.
Thành quả thánh Vincentê thực hiện được thật lớn lao. Đối lại, thánh nhân đã
phải chịu biết bao nhiêu là đau khổ thử thách. Chúng ta đã nói đến thử thách
buổi đầu khi Ngài chọn đời sống hiến dâng. Lời vu oan đuổi theo từng bước
chân Ngài và các tội nhân cứng lòng tìm hết cách để tiêu diệt Ngài. Chúng ta
nhắc lại đây hai trường hợp:
Một phụ nữ dâm dật lẻn vào phòng Ngài, nhưng thánh nhân thay vì chiều theo
những đề nghị của chị ta, đã giảng giải cho chị biết rõ sự nguy hiểm bị hư
mất đời đời, khiến chị ta quỳ gối dưới chân Ngài xin lỗi rồi rút lui vào một
tu viện để đền tội.
Một phụ nữ khác giả bệnh để mời Vincentê đến. Vừa thấy Ngài tới phòng, chị
ta không một chút hổ thẹn đã tỏ rõ ý định của mình. Thánh nhân lập tức rút
lui. Giận dữ chị ta vu cáo rằng: thánh nhân đã dám xâm phạm tiết hạnh chị.
Nhưng về sau chị đã thú nhận tất cả và công khai đền tội.
Vượt qua được những thử thách, thánh Vincentê còn có những bí quyết để thành
công, chẳng hạn trong việc học hành Ngài cho biết: - "Muốn thành công trong
việc học hành hãy tham khảo thánh kinh hơn là sách vở. Hãy khiêm tốn xin
Chúa ơn được thông hiểu điều bạn đọc, học hành làm mệt trí và làm khô cứng
cõi lòng. Bạn thường xuyên đến dưới chân Chúa Giêsu để phục hồi sinh lực".
Thực hiện lời khuyên của mình, thánh nhân dọn bài giảng dưới chân thánh giá,
kèm theo những hành vi sám hối cực khổ. Khi nói với dân chúng Ngài lại quỳ
trước thánh giá như thể mọi vinh dự chỉ thuộc về Chúa Kitô mà thôi.
Cuộc đời luôn ướp đặm trong tình yêu Chúa, khiến Ngài được ví như thiên thần
Chúa trong buổi lễ Hiện xuống: để trả lời cho đám đông dân chúng nhiều miền
khác nhau ngạc nhiên vì hiểu được Ngài, Ngài nói: - Tôi nói tiếng mẹ đẻ của
tôi, thứ tiếng độc nhất mà tôi biết với một ít tiếng Latinh và tiếng Do
thái. Vậy chính Thiên Chúa thân hành giúp các bạn hiểu được.
Các thôn xóm nào đông mỗi khi nghe tin thánh Vincentê sắp đến: công nhân
nghỉ việc, thương gia đóng cửa tiệm buôn, thầy dạy bãi khóa... để đi nghe
giảng bất kễ trời mưa hay nắng. Thánh nhân nhiệt tâm nói về sự chết và hỏa
ngục.
Nhiều tiếng khóc than nức nở cắt ngang lời Ngài khiến Ngài cũng phải khóc
theo. Người ta nói rằng nhiều tội nhân nghe lời giảng của Ngài đã ngã chết
vì đau đớn rồi hiện về cho biết lòng thống hối đã làm cho họ đáng được hưởng
Nước thiên đàng.
Chấm dứt bài giảng, thánh nhân tiếp tục ngồi tòa để phục sinh các tâm hồn.
Hay nói về sự chết và hỏa ngục nhưng thánh nhân cũng thường dùng tính hài
hước để sửa dạy các tâm hồn. Ngày nay người ta còn nhắc lại mãi câu chuyện
của một phụ nữ. Nàng đau buồn nhiều vì tính nóng nảy của chồng, nhưng không
biết dẹp tính bép xép của mình. Thánh nhân khuyên nhủ nàng:
- Đây là phương thế có thể sửa đổi tính nóng của chồng chị. Ra về chị hãy
xin thày giữ cửa một bình kín ở giếng nhà dòng. Mỗi khi chồng về nhà, chị
hãy uống một ngụm, nhưng đừng đừng nuốt ngay và ngậm càng lâu càng tốt. Giữ
mãi được như vậy, chồng chị sẽ hiền lành như một con chiên.
Sau một thời gian kết qủa thật khả quan. Người chồng hoàn toàn thay đổi và
người phụ nữ tới cảm ơn thánh nhân, vì phương dược thần hiệu đã tiêu diệt
được mọi cuộc cãi vã. Phương ngôn Tây Ban Nha còn nói: - Hãy uống nước Thày
Vincentê
Một người trong cơn thù hằn đã không muốn tha thứ cho người thợ đóng giày.
Thánh nhân bảo:
- Hãy tha thứ cho chính mình. Ông đang gậm nhấm lòng mình vì không quan tâm
đến linh hồn hư mất trong khi vẫn ăn uống và phí phạm thời gian.
Người đó đành thú nhận:
- Vâng, tôi hiểu rằng: ghen ghét như vậy là khùng.
Ngoài nhiệt tình và tài hùng biện đã mang lại thành công cho thánh Vincentê,
còn phải kể đến những phép lạ mà Chúa đã làm qua tay thánh nhân. Ngài đã làm
vô số những phép lạ. Chỉ nguyên việc điều tra ở Avignon và một vài thành phố
khác cũng ghi lại được hơn 860 phép lạ thánh nhân đã làm. Chúng ta ghi một
vài sự kiện:
Ở Morella, thánh Vincentê đã cứu sống một đứa trẻ mà người mẹ nó trong một
cơn điên, đã giết rồi đem nướng.
Ở Pampeluna Ngài đã dạy một người bị xử tử oan uổng nói lên sự thật.
Ở Vannes Ngài đã bảo một em bé da đen mới sinh nói rõ ai là cha mình, để
giải tỏa nỗi lòng đau khổ của người mẹ vì bị chồng nghi ngờ... tuy nhiên
chính cuộc sống của thánh Vincentê đã là một phép lạ với những chuyến đi
khắp nơi bất kể thời tiết và với việc ăn chay, cuộc sống khắc khổ không
ngừng.
Năm 1417 bá tước miền Bretanghe mời thánh nhân tới lãnh điạ của mình. Giữa
cuộc tiếp rước long trọng, Ngài đã yếu đuối khó đứng vững nổi, nhưng mỗi khi
làm việc, một sinh lực mới khiến Ngài hăng hái hoạt động như hồi thiếu niên,
để rồi khi xong việc sức lực Ngài lại tàn tạ như cũ. Ròng rã hai mươi tháng
như vậy, thánh nhân đã nỗ lực cải hoá miền Bretagne và
Normandie.Cuối cùng Ngài mới trở về Valentia. Nhưng tới Valentia Ngài kiệt
sức và qua đời ngày 05 tháng 04 năm 1419.
http://www.cdcgtphero.de/hanhcacthanh.php?A=4/vinhson
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Vinxentê Phêrê (tiếng Tây Ban Nha: Vicente Ferrer), sinh tại Valence (Tây
Ban Nha) năm 1350. Ngài vào Dòng Đa Minh lúc mười bảy tuổi. Sau khi học xuấc
sắc triết học và thần học, ngài được thụ phong linh mục năm 1378 và đỗ tiến
sĩ thần học tại Lérida. Sau vài năm giảng dạy và thuyết giảng tại Valence,
kể từ năm 1399, ngài sống đời thuyết giáo, chu du khắp Tây Ban Nha, Pháp,
Thụy Sĩ, Ý và Ái Nhĩ Lan... Chỉ cái chết mới chấm dứt một đời rong ruổi.
Châu Âu lúc đó bị xâu xé bởi cuộc chiến Trăm Năm (1337 – 1453). Cuộc chiến
đã khiến Pháp và Anh đối đầu nhau; Hội Thánh bị phân hóa do cuộc đại ly giáo
ở Tây Phương (1378 – 1417); cuộc Đại Ly khai với hai rồi ba Giáo Hoàng cạnh
tranh nhau, cho đến khi Công Đồng Constance (1414 – 1418) chấm dứt cuộc ly
giáo, nhờ bầu được Đức Giáo Hoàng Martin V vào năm 1417.
Vào thời đại quá nhiễu nhương, Vincent Ferrier đi khắp châu Âu kêu gọi sự
hoán cải và hòa giải. Tài hùng biện, sự thánh thiện, các phép lạ và danh
tiếng của ngài lan tràn khắp nơi, tất cả đã làm rung chuyển lục địa này.
Nhiều đoàn dân theo người, vì thế các “tu hội” được thành lập như: Dòng “Anh
Em Đánh Tội – les Flagellants”. Họ mang áo đen và trắng vừa hành xác vừa hát
lời ca này: “Vinh danh sự thương khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và lạy
Chúa, xin dủ lòng thương xót, xóa các tội lỗi chúng con !”
Người ta gọi Vincent là “Thiên Sứ thời phán xét” vì vào thời tao loạn ấy,
thánh nhân xuất hiện như nhà thuyết giảng về ngày thế tận. Từ đó, thánh nhân
đã chinh phục vô vàn người trở lại, kể cả người Do Thái, người Maures và các
người lạc giáo. Sau cùng, ngài mang hòa bình khi giữ vai trò trung gian
trong cuộc chiến Trăm Năm. Ngài đóng góp công sức vào việc giải quyết cuộc
đại ly giáo ở Tây Phương, khi tham dự Công Đồng Constance.
Vincent Ferrier qua đời vào tuổi bảy mươi, tại Vannes miền Bretagne, lúc
đang thi hành nhiệm vụ sau chuyến đi giảng Mùa Chay. Ngài được Đức Giáo
Hoàng Calixte III phong hiển thánh năm 1455 và nhận tước hiệu là vị Tông Đồ
của Châu Âu. Người Tây Ban Nha và Pháp tranh chấp về di hài của thánh nhân.
2. Thông điệp và tính thời sự
Đức Giáo Hoàng Calixte III, khi phong Vincent Ferrier lên bậc hiển thánh, đã
ví người như một Thiên sứ đang bay lượn và gieo vãi Tin Mừng khắp nơi. Vì
thế nghệ thuật ảnh tượng đôi khi biểu hiện ngài với đôi cánh và tay cầm
Thánh Giá.
a.
Lời nguyện đầu lễ trong ngày kính nhớ thánh Vincent nêu
rõ nhiệm vụ rao giảng của ngài là loan báo Đức Kitô lại đến như “vị thẩm
phán”. Cũng thế, tin mừng Thánh Lễ (Lc 12,35-40) gợi lại cuộc quang lâm của
Đức Kitô: ...Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn... Anh em cũng
vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Tuy nhiên, đối với ai hỏi ngài về các dấu chỉ của cuộc phán xét sau cùng ấy,
ngài trả lời rằng không có dấu chỉ nào hơn lòng bao dung của Thiên Chúa ban
cho chúng ta.
b.
Trong khảo luận về đời sống thiêng liêng, xuất
bản khoảng năm 1410, thánh Vincent kêu gọi các nhà mục tử tâm hồn nên có một
tấm lòng tràn đầy dịu dàng và thương xót. Ngài viết: “Khi giảng dạy khuyên
lơn, bạn hãy dùng lời lẽ đơn sơ... hãy nói thế nào cho người ta thấy lời lẽ
của bạn không phát xuất từ một tính khí kiêu căng giận dữ, nhưng do một tấm
lòng yêu thương đầy tình phụ tử. Hãy nên như người cha đau đớn vì con cái
mắc tội ... người cha ấy sẽ ấp ủ nó như một bà mẹ. Lúc giải tội cũng thế:
nhẹ nhàng khích lệ kẻ nhút nhát, lúc nào bạn cũng hãy tỏ ra là một người đầy
yêu thương trìu mến...” (các bài đọc Kinh Sách). Như thế, thánh Vincent hoàn
toàn xứng đáng với danh hiệu “Thiên Sứ của ngày phán xét” và đã nhận được sự
khôn ngoan cùng vinh dự khi chỉ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đang đến
“xét xử” trần gian, nhưng để cứu trần gian, như bài đọc trong Thánh Lễ đã
nêu lên: Đây là lời của vị chứng nhân trung thành và chân thật...: Này đây
ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người
ấy ... Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta. (bài đọc một: Kh
3,14 ...22). Vincent có nghĩa là “người chiến thắng”; để làm kẻ chiến thắng
chỉ cần đứng bên cửa và lắng nghe tiếng gõ. (xem thêm bài tin mừng Thánh Lễ:
Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ
cửa, là mở ngay ... (Lc 12,35-40).
Enzo Lodi
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/05-04-thanh-vixente-phere-linh-muc-1350-1419-le-nho-tuy-chon/
Thứ Tư
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 14-20. 91-92. 95
"Người đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ Người".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, vua Nabucôđônôsor nói rằng: "Hỡi Sidrach, Misach và
Abđênagô, có phải các ngươi không chịu thờ các thần của ta và lạy tượng vàng
ta đã dựng không? Vậy nếu các ngươi đã sẵn sàng, thì lúc nghe tiếng kèn,
tiếng huyền cầm, tiếng còi, quyển sáo và các thứ nhạc khí, các ngươi phải
sấp mình thờ lạy tượng ta đúc. Nhưng nếu các ngươi không chịu sấp mình thờ
lạy, lập tức các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa cháy bừng. Và coi Chúa nào sẽ
cứu thoát các ngươi khỏi tay ta". Sidrach, Misach và Abđênagô trả lời với
vua Nabucôđônôsor rằng: "Tâu lạy vua, chúng tôi không cần trả lời cùng vua
về việc này, vì đây Thiên Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi
lò lửa cháy bừng, và khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không
muốn thì, tâu lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của
vua và không lạy tượng vàng của vua dựng lên".
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor thịnh nộ, mặt biến sắc, nhìn thẳng vào Sidrach,
Misach và Abđênagô, ông ra lệnh đốt lò nóng hơn thường gấp bảy lần, và
truyền lệnh các tráng sĩ trong cơ binh trói chân Sidrach, Misach và
Abđênagô, và ném vào lò lửa cháy bừng.
Bấy giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: "Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?" Các ông trả
lời với vua rằng: "Tâu lạy vua, thật có". Vua nói: "Ðây ta thấy có bốn người
không bị trói đi lại giữa lò lửa mà không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư
giống như Con Thiên Chúa". Vua Nabucôđônôsor nói tiếp: "Chúc tụng Chúa của
Sidrach, Misach và Abđênagô, Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát
các tôi tớ tin cậy Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà
hy sinh thân xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa
của họ".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Ðn 3, 52. 53. 54. 55. 56
Ðáp: Chúa
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời (c. 52b).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng,
đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và tôn
vinh muôn đời. - Ðáp.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn vinh
muôn đời. - Ðáp.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. - Ðáp.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời. -
Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 8, 31-42
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu
các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được
biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng
tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại
nói "Các ngươi sẽ được tự do"?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả
thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ
không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con
giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi
là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm
nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các
ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại:
"Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con
cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang
tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên
Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các
ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi
chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các
ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự
mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Cho
dù họ rất
muốn biết về Người, nhưng
khốn
thay, họ càng
muốn biết
thì họ
lại càng
vấp phạm,
nhất
là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người cuối
cùng buộc phải công nhận...
Nếu Chúa Nhật Lễ
Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó là ngày thứ 40 của Mùa Chay kể từ Thứ Tư
Lễ Tro thì hôm nay là ngày thứ 36 của Mùa Chay, Thứ Tư trong Tuần V Mùa
Chay.
"Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại"
(Gioan 10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, cho
thấy sắp sửa trở thành hiện thực ở biến cố Vượt Qua của Chúa Kitô trong
Tuần Thánh, nhất là ở Tam Nhật Vượt Qua.
Nếu biến cố tử nạn và phục
sinh của Người là tột đỉnh của tất cả mạc khải thần linh, cho chung con
người nhất là cho riêng
dân Do Thái, thì những gì Người
tỏ mình ra cho dân Do Thái, qua lời nói của
Người, ở các bài Phúc Âm ngày
thường từ Thứ Tư tuần trước, Tuần IV Mùa Chay, cho đến hết Tuần V Mùa
Chay này, là dạo khúc tiến đến tột đỉnh mạc khải
thần linh ấy, một mạc khải Thiên Chúa tỏ hết mình
ra cho loài người biết Ngài là ai và như thế nào nơi Con của Ngài là
nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, Đấng bị chính dân của Người phủ nhận,
loại trừ và lên án tử!
Thật vậy, bằng lời chứng của mình, Chúa Giêsu đã từ từ tỏ
mình ra cho dân Do Thái. Nếu căn cứ vào thứ tự các bài Phúc Âm được Giáo
Hội chọn đọc theo Thánh ký Gioan, thì Người tỏ mình ra từ xa tới gần,
rất tài tình, khéo léo và đầy ngoạn mục như sau:
Ở bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần
IV Mùa Chay vừa rồi,
chính Người
khẳng định và tuyên bố rằng: "Nếu
chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực",
mà ở
bài Phúc Âm Thứ Hai đầu Tuần V Mùa Chay này, Người lại khẳng định và tuyên
bố hoàn
toàn ngược hẳn lại: "Cho
dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ
Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu
tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu".
Để rồi, từ đó, từ chỗ "Ta
biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu" như
thế, một
sự thật vô cùng quan trọng chẳng những đối
với phần rỗi của
chung loài người và riêng dân Do Thái, mà còn đối với cả chính bản thân
của Người nữa. Bởi vì, nếu Người không biết mình là ai, ở chỗ, từ đâu
tới và sẽ đi đâu, thì Người quả là một con người thuần túy, không phải
là "Đức Kitô (Thiên Sai), Con
Thiên Chúa
hằng sống" (Mathêu 16:16), và vì thế Người không phải là Đấng Cứu
Thế, không có tư cách và khả năng cứu độ trần gian.
Bởi thế, tự biết
mình là
một mầu nhiệm thần linh siêu việt, cho dù có tỏ mình ra, không một ai
trên trần gian này có thể nào hiểu được, kể cả thành phần môn đệ thân
tín của Người, huống chi là dân Do Thái, thành phần mà Người đã thừa
biết, như Người đã khẳng định với
họ về
tầm kiến thức thấp
hèn hạn hẹp của họ
trong bài Phúc Âm hôm qua, rằng "các
người thuộc
về
hạ giới... thuộc về thế gian", nên không thể nào hiểu được Người
là Đấng "bởi trời cao".
Thậm
chí, cho
dù họ có muốn biết, rất
muốn biết về Người, nhưng
khốn
thay, họ càng
muốn biết
thì họ
lại càng
vấp phạm, nhất
là vào chính lúc họ thấy rõ được tất cả sự thật về Người do chính Người
cuối cùng buộc phải công nhận theo câu hỏi dứt khoát về Người bởi lệnh
truyền tối thượng của vị thượng tế Caipha đại diện họ thay mặt Thiên
Chúa (xem Mathêu 26:63-67), như
Người cũng đã
khẳng định với
họ về
số
phận của họ
trong cùng bài
Phúc Âm hôm qua: '"Tôi ra
đi, quí
vị sẽ
tìm kiếm Tôi và
quí
vị sẽ
chết trong tội của quí
vị.
Nơi Tôi đi
quí
vị không
thể nào tới
được".
Trong bài
Phúc Âm Thứ Tư Tuần V Mùa Chay hôm
nay, Chúa
Giêsu tiếp tục dẫn họ tiến sâu
hơn nữa vào
mầu nhiệm về Người, liên quan đến nguồn gốc thần linh của Người, khi
Người khéo léo đưa họ về lại từ đầu, về chính nguồn gốc thần linh của
chính họ, về vị
tổ phụ đầu
tiên của họ là Abraham, người
cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên, từ đó, Người dẫn họ tới chính Đấng
là Cha của họ về siêu nhiên, Đấng đã tự xưng mình với Moisen là vị cứu
tinh dân tộc họ, Ngài là "Thiên
Chúa của
Abraham..." (Xuất Hành 3:6,15).
Trước hết, Chúa Giêsu đã khéo
léo đưa dân Do Thái, qua những người đại diện đang nghe Người bấy giờ,
về lại từ đầu, thoạt tiên về vị
tổ phụ Abraham là người
cha đẻ ra dân tộc của họ về tự nhiên:
"'Ta
biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì
lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy
nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha
các ngươi'. Họ đáp lại: 'Cha chúng tôi chính là Abraham!'"
Sau nữa,
từ người cha về tự nhiên này, Chúa Giêsu đã bí mật và kỳ diệu dẫn
họ tới chính Thiên Chúa là
Cha của họ về siêu nhiên:
"'Nếu
thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi
biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các
ngươi đang làm việc của cha các ngươi!' Họ lại nói: 'Chúng tôi không
phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!'
Chúa Giêsu nói: 'Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến
Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính
Ngài đã sai Ta đến'".
Trong câu
chuyện đối đáp giữa Chúa Giêsu và thành phần thính giả đại diện cho dân
Do Thái bấy giờ liên quan đến nguồn gốc của họ, từ lãnh vực tự
nhiên dính dáng đến
tổ phụ Abraham, lên lãnh vực siêu nhiên đụng chạm tới chính Vị Thiên
Chúa chân
thật duy nhất của họ, và cả hai, tổ phụ Abraham và Thiên Chúa, đều được
dân Do Thái nhận là cha và gọi là cha: "Cha
chúng tôi chính là Abraham!"; "Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!".
Tuy nhiên,
lần nào cũng thế, mỗi lần họ khẳng định và công
nhận với
Người cha của họ là tổ phụ Abraham hay Thiên Chúa, Chúa Giêsu đều công
nhận họ nói đúng về lý thuyết nhưng hoàn toàn không đúng về thực tế, bởi
vì họ có một thứ "cha" nào đó không phải là tổ phụ Abraham hay Thiên
Chúa của họ: "các
ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi"... "các ngươi đang
tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự
Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của
cha các ngươi!".
Vậy "cha" của
dân Do Thái được Chúa Giêsu nói đến ở đây, không phải là tổ phụ Abraham
cũng không phải là Thiên Chúa thì là
ai vậy?
Phải
chăng là Moisen, vị trung gian môi giới giữa họ và Thiên Chúa là Đấng đã
ban cho họ lề luật qua Moisen, vị được Ngài chọn và sai đến với họ để
giải thoát họ khỏi tình trạng làm nô lệ cho người Ai Cập mà dẫn họ về
miền Đất
Hứa tự
do của riêng họ, được Thiên Chúa hứa ban cho họ qua tổ phụ Abraham của
họ, và vì thế vị cứu tinh trung gian môi giới Moisen này đối với họ có
thể được họ coi như một người cha đã
tái sinh họ từ
sự chết vào sự sống?
Rất
tiếc không phải như thế, nếu chúng ta tiếp tục đọc thêm một chút nữa,
chỉ sau bài Phúc Âm hôm nay 1 câu nữa thôi, tức ở câu 44 cùng đoạn 8 với
bài Phúc Âm hôm nay (chấm dứt ở câu 42), chúng ta sẽ thấy ngay chân
tướng của thứ "cha" được Chúa Giêsu thực sự muốn nói tới liên quan đến
dân Do Thái ở đoạn Phúc Âm hôm nay. Ai vậy? Dạ, xin thưa, đó
là "ma quỉ": "Người cha mà các người xuất phát là ma quỉ và các người
sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn...".
Mà
"các
ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi", "Các ngươi đang làm
việc của cha các ngươi!"
và
"các người sẵn sàng làm theo những gì hắn muốn..."
đây là gì, nếu
không phải là phản kitô, không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt
(xem 1Gioan 2:22; 2Gioan 7), như hình ảnh tiêu biểu được Thánh ký Gioan
thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền (12:4) về môt con khủng long (ám chỉ
Luxiphe hay Satan) rình chực trước người nữ sinh con để nuốt con trẻ do
người nữ sinh ra (ám chỉ Chúa Kitô, vị Thiên Chúa nhập thể).
Thật ra dân Do Thái không hề biết như vậy, nhưng chính Chúa Giêsu đã
vạch ra cho họ thấy như thế, căn cứ vào việc làm và hành động khách quan
của họ. Tự mình họ thuộc về hạ giới và thế gian đã không thể nào hiểu
được mầu nhiệm Chúa Kitô, cho dù có được chính Người tỏ ra cho, như bài
Phúc Âm hôm qua đặc biệt cho thấy, họ lại còn bị ma quỉ giật giây, chi
phối bởi mầm mống nguyên tội ở nơi họ, mầm mống chống đối như ma quỉ, mà
họ đã tác hành những gì
"đã thấy nơi cha các ngươi", "của cha các ngươi!"
và "theo những
gì hắn muốn...".
Wow, cả
là một đụng chạm kinh hoàng, chưa bao giờ xẩy ra... Bởi thế, chúng
ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng
dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm
sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này
của họ, và vì vậy, trong khi
họ được Chúa Giêsu tiếp
tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận
thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ
phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai), cũng như ở
nơi mối liên hệ với chính Thiên
Chúa (bài
Phúc Âm ngày kia, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay).
Bài Đọc 1 hôm nay, 3 nhân vật tiêu
biểu cho niềm tin của Do Thái giáo là "Sidrach,
Misach và Abđênagô" đã
chứng tỏ niềm
tin bất khuất của mình vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân tộc
họ, bất chấp cái chết về thể xác, nhờ đó họ đã
làm cho cả vị vua dân
ngoại vô thần và thờ tà thần cùng coi bản thân mình là thần này ra
lệnh giết họ phải nhận biết Thiên Chúa của họ:
"Bấy
giờ vua Nabucôđônôsor bỡ ngỡ, vội vã đứng lên và nói với các triều thần
rằng: 'Chớ thì ta không ném ba người bị trói vào lò lửa sao?' Các ông
trả lời với vua rằng: 'Tâu lạy vua, đúng
vậy thật'.
Vua nói: 'Ðây ta thấy có bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa mà
không hề hấn gì; dáng điệu người thứ tư giống như Con Thiên Chúa'. Vua
Nabucôđônôsor nói tiếp: 'Chúc tụng Chúa của Sidrach, Misach và Abđênagô,
Ðấng đã sai thiên thần của Người đến giải thoát các tôi tớ tin cậy
Người, không chịu vâng phục mệnh lệnh của nhà vua và thà hy sinh thân
xác, chớ không phục luỵ thờ lạy Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của họ'".
Đức tin bất khuất của 3 chứng nhân
trẻ trung này trước mặt quyền bính thế gian bấy giờ, như họ đã hiên
ngang tỏ ra: "Thiên
Chúa chúng tôi thờ có thể cứu thoát chúng tôi khỏi lò lửa cháy bừng, và
khỏi tay đức vua; nhược bằng Thiên Chúa chúng tôi không muốn thì, tâu
lạy vua, vua nên biết rằng chúng tôi không thờ các thần của vua và không
lạy tượng vàng của vua dựng lên", thật sự
là một đức tin xứng đáng chứng tỏ họ quả là con cháu của tổ phụ Abraham,
cha của tất cả những
kẻ tin (xem Roma 4:16), một đức
tin Chúa
Giêsu muốn
thấy nhưng rất tiếc không thấy nơi thành phần thính giả của Người bấy
giờ trong
bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của
Abraham!"
Bài Đáp
Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về niềm tin tưởng
vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Đấng "đáng
ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời":
1) Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Chúa đáng chúc tụng, đáng
ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời. Chúc tụng thánh danh vinh quang
Chúa, đáng ca ngợi, tôn vinh và tán tụng muôn đời.
2) Chúa đáng chúc tụng trong đền thánh vinh quang Chúa, đáng ca ngợi và
tôn vinh muôn đời.
3) Chúc tụng Chúa ngự lên ngai vương quyền Chúa, đáng ca ngợi và tôn
vinh muôn đời.
4) Chúc tụng Chúa, Ðấng nhìn thấu vực thẳm và ngự trên các Thần Vệ Binh,
đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
5) Chúc tụng Chúa ngự trên bầu trời, đáng ca ngợi và tôn vinh muôn đời.
Thứ Năm
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: St 17, 3-9
"Ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc".
Trích sách Sáng Thế.
Trong ngày ấy, Abram sấp mình xuống đất và Thiên Chúa phán cùng ông rằng:
"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc. Thiên
hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham, vì Ta đặt
ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu đông đúc. Ta sẽ
đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa xuất thân từ ngươi. Ta
sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi cùng con cháu ngươi từ thế
hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi
ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho
ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Chúa lại phán cùng Abraham rằng: "Phần ngươi và dòng dõi ngươi, từ đời nọ
sang đời kia, hãy giữ lời giao ước của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Tới
muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan
Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ và
những điều Ngài phán quyết. - Ðáp.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ
được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của
Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới
muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề
với Isaac. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Am 5, 14
Các ngươi hãy tìm điều lành, chớ đừng tìm điều dữ, để các ngươi được sống và
Chúa sẽ ở cùng các ngươi.
Phúc Âm: Ga 8, 51-59
"Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo
các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người
Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã
chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không
bao giờ phải chết". Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao?
Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ
không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi
xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta,
Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các
ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã
hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy
Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các
ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Nguồn
gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét,
nhân vật bị dân Do
Thái bấy giờ cho Người là "bị
quỉ ám" rồi bị họ "ném đá",
là ở
chỗ Người biết Thiên Chúa
Hôm nay, Thứ Năm
Tuần V Mùa Chay, chỉ còn đúng 3 ngày nữa là hết Mùa Chay, Chúa Nhật Lễ
Lá, thời điểm bắt đầu Tuần Thánh
cũng gọi là Tuần Thương Khó.
Đúng như
hôm qua đã cảm nhận "chúng
ta sẽ tiếp tục thấy được phản ứng của dân Do Thái ra sao, càng ngày càng
dữ dội, càng điên tiết lên, cho đến khi họ bất chấp thủ đoạn miễn là làm
sao có thể hoàn toàn triệt hạ được đối thủ ghê gớm vô cùng đáng ghét này
của họ, và vì vậy, trong khi
họ được Chúa Giêsu tiếp
tục dẫn họ vào sâu hơn nữa nguồn gốc thần linh của Người, cho tới tận
thẳm cung của mầu nhiệm thần linh của Người và về Người, so với tổ
phụ Abraham (bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần V Mùa Chay ngày mai)".
Trước hết, trong Bài Phúc Âm hôm
nay, ở câu cuối, chúng
ta đã
thấy phản ứng dữ dội đầu tiên của người Do Thái đối với Người, như Thánh
ký Gioan cho biết: "Bấy
giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ".
Phải
chăng trong Tuần V Mùa Chay xẩy
ra sự kiện "Chúa
Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ" này
mà kể từ Chúa Nhật V Mùa Chay đầu tuần, các nhà thờ Công giáo, cách
riêng ở Hoa Kỳ, đã che phủ các ảnh tượng và Thánh Giá lại, cho đến sau
cử hành nghi thức khổ nạn của Chúa Kitô Thứ
Sáu Tuần Thánh mới
bỏ khăn che Thánh Giá ra và cho tới Lễ Vọng
Phục Sinh mới mở các
tấm che các ảnh
tượng khác ra?
Sự kiện theo truyền thống của Giáo
Hội che đi các ảnh tượng và Thánh Giá vào thời điểm này còn có thể hiểu,
hay tự nó mang một dụng ý là mầu nhiệm về Chúa Kitô, một mầu nhiệm thần
linh liên quan đến cuộc khổ nạn tử giá của Người và đạt tới tột đỉnh của
mình nơi biến cố Vượt Qua của Người, một mầu nhiệm thần linh con người
nói chung và dân Do Thái nói riêng tự mình không
thể nào hiểu được,
dù có nghe thấy chính lời tự chứng của Chúa Kitô.
Tuy nhiên, mầu nhiệm thần linh vô
cùng siêu việt về Chúa Kitô ấy sẽ hoàn toàn được tỏ hiện ở chính vào lúc
con người, qua dân Do Thái bấy giờ, "treo Con Người lên cao"
(Gioan 8:28) - đó là lý do tấm che Thánh Giá được mở ra sau nghi thức
Thương Khó Thứ Sáu Tuần Thánh, nhất là cho đến khi Người từ trong kẻ
chết sống lại là lúc Người hoàn toàn tỏ mình ra cho thấy tất cả sự thật
về Người là "Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu
16:16) - đó là lý do các ảnh tượng được che đi sẽ hoàn toàn lộ ra
vào đêm Vọng Phục Sinh.
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy được lý do tại sao dân Do Thái đã không
còn chịu được Chúa Giêsu nữa, họ đã tiến từ chỗ nói rằng "ông
bị quỷ ám" sang
hành động
bạo lực là "lượm
đá ném Ngài". Hành động "lượm
đá ném Ngài" này
cũng chưa nặng bằng hành động "họ
tìm cách bắt Người" ở
bài Phúc Âm ngày mai. Bởi vì, ở bài Phúc Âm hôm nay, Người mới
nói đụng đến tổ phụ Abraham đáng kính của họ, còn ở bài Phúc Âm ngày
mai, Người
thậm chí còn dám nói chạm tới cả chính Thiên Chúa tối cao đáng tôn thờ của
họ.
Thế
nhưng, Chúa Kitô đã nói gì trong bài Phúc Âm hôm nay đụng đến tổ
phụ đáng kính Abraham mà
thành phần thính giả đại diện dân Do Thái bấy giờ nghe thấy đã không thể
nào chịu nổi, đến độ đã
ném đá Người như thế. Sau đây
là nguyên văn câu Người nói được thánh ký Gioan ghi lại đã quả thực
không thể nào không gây
chấn động toàn
thể con người của những ai nghe người nói, cả bên trong (tức giận) lẫn
bên ngoài (ném đá):
"'Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng'. Người Do-thái liền nói: 'Ông chưa được năm mươi
tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?' Chúa Giêsu trả lời: 'Quả thật,
quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có
rồi'".
Lời
khẳng định và công khai tuyên bố này của Chúa Kitô về nguồn gốc thần
linh của Người, đúng như Người biết mình là Đấng "bởi trời", như
Người đã từng khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm
Thứ Ba tuần này,
cũng là Đấng biết mình "từ đâu đến" và sẽ "đi đâu", như
Người đã khẳng định trước đó với họ trong bài Phúc Âm
Thứ Hai tuần
này, nhưng đối với dân Do Thái, Người chỉ là một con người thuần túy như
họ đã tỏ ra ngạo mạn hỗn láo, không thể nào chấp nhận được.
"Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi" chẳng
những là câu Chúa Kitô đã tỏ nguồn gốc thần linh của Ngài
ra, đồng thời cũng là câu Người trả lời cho họ khi họ hạch Người ở đầu
Bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Chẳng
lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên
tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?".
Như
thế, Người là ai và nguồn gốc thần linh của Người có một liên hệ bất khả
phân ly, Người là ai chính ở nơi nguồn ngốc thần linh của Người, và
nguồn gốc thần linh của Ngài đã chứng tỏ cho thấy Người là ai. Cũng
trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người là ai có liên hệ
mật thiết với nguồn gốc thần linh của Người, một nguồn gốc thần linh cho
dù tổ phụ Abraham xưa kia cũng không bằng Người hay như Người. Tại sao?
Nếu không phải tại
vì:
"Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị
gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài
là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các
ngươi không biết Ngài.
Còn Ta, Ta biết Ngài.
Nếu Ta nói Ta không biết Ngài,
thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Ngài,
và Ta giữ lời Ngài.
Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta.
Ông đã thấy và đã vui mừng".
Đúng vậy, nguồn
gốc thần linh của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, nhân vật bị dân Do
Thái bấy giờ cho Người là "bị
quỉ ám" rồi bị họ "ném đá", là ở
chỗ Người biết Thiên Chúa: "Ngài
là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các
ngươi không biết Ngài.
Còn Ta, Ta biết Ngài". Kiến
thức thần linh siêu việt này
không phải là người ai cũng có, thậm chí tổ phụ Abraham cũng chẳng
có, mà chỉ được mạc khải cho biết mà thôi. Thế nên, Chúa Kitô đã nói
về vị tổ phụ này rằng: "Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng".
Nghĩa
là, Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh được Thiên Chúa tỏ ra trong
suốt giòng lịch sử cứu dộ của dân Do Thái, bắt đầu từ tổ phụ Abraham,
chính là đối tượng chính yếu duy nhất của tất cả những gì tổ phụ Abraham
tin tưởng hay hướng về, qua hình ảnh của lòng mong đợi "được
thấy ngày của Ta",
và
chính nhờ đức tin mà quả thực "Ông
đã thấy và đã vui mừng" cho
dù
Chúa Kitô là giòng dõi của ông chưa
sinh ra.
"Ông đã thấy và đã vui mừng" ở đây, vì có liên quan đến nguồn
gốc thần linh của Chúa Kitô, Đấng có trước tổ phụ Abraham và vai trên
của Abraham, nên có thể hiểu về vị thượng tế Melchizedek là vị thượng tế
đã có một nguồn gốc hoàn toàn siêu phàm bí mật, đóng vai chúc lành cho
Abraham và được Anbraham dâng chiến lợi phẩm của mình cho (xem Do Thái
7:1-10, nhất là câu 3:) "Không cha không mẹ hay tổ tiên gì hết, như
Con Thiên Chúa, ông muôn đời là tư tế", và Con Thiên Chúa, trong
thân phận làm người, được Thiên Chúa chứng nhận: "Con là linh mục
đời đời theo giòng Melchizedek" (Do Thái 7:21).
Ngoài ra,
"Ông đã thấy và đã vui mừng"
ở đây còn liên quan đến người con được sinh ra theo lời hứa cho ông.
Thật vậy, Chúa Kitô đã hiện diện nơi
Isaac con ông, người con duy nhất theo lời hứa Thiên Chúa đã ban cho ông
khiến ông vui mừng, nhưng Ngài lại muốn ông
sát tế nó cho Ngài, để
nhờ đó ông vui mừng thấy được người con ông không tiếc cùng Thiên
Chúa ấy, như chính Thiên Chúa đã không tiếc Con Một của Ngài (xem
Roma 8:32), trở
thành mầm mống cho một dân tộc bao gồm vô
số muôn
dân, đông
như sao trời nhiều như cát biển, không
thể nào đếm được, là
thành phần miêu
duệ xuất
phát từ ông là cha của tất cả những ai tin tưởng, thành phần được
cứu chuộc bởi Chúa Kitô, đối
tượng đức tin của ông và của giòng dõi như sao trời cát biển này
của ông.
Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ
Sách Khởi Nguyên, cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã có ý định muốn sử
dụng nhân vật Abram là tổ phụ của một giòng dõi
bao gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới, một
giòng dõi tin tưởng được Chúa Kitô cứu độ, Đấng xuất thân từ dân tộc Do
Thái, như Vị Thiên Sai của họ và là Đấng Cứu Thế cho toàn thể nhân loại.
Chính Thiên Chúa đã tự động thiết lập giao ước với
nhân vật Abram này bằng
những lời lẽ bao gồm và mở đầu cho mạc khải thần linh của Ngài trong
giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái cho tới khi mạc khải thần linh này
lên tới tột đỉnh nơi Chúa Kitô "vào thời điểm viên trọn" (Galata
4:4):
"Này Ta đây, Ta giao ước với ngươi, ngươi sẽ làm tổ phụ nhiều dân tộc.
Thiên hạ sẽ không còn gọi ngươi là Abram nữa, nhưng sẽ gọi là Abraham,
vì Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ta sẽ ban cho ngươi con cháu
đông đúc. Ta sẽ đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc, và nhiều vua chúa
xuất thân từ ngươi. Ta sẽ thiết lập giao ước vĩnh viễn giữa Ta với ngươi
cùng con cháu ngươi từ thế hệ này qua thế hệ khác, để Ta trở nên Thiên
Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi. Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi
ngươi đất mà ngươi cư ngụ, sẽ cho ngươi làm chủ vĩnh viễn toàn cõi đất
Canaan và Ta sẽ là Chúa của chúng".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa lời kêu gọi dân Do Thái là "miêu
duệ Abraham" được
Thiên Chúa "kén chọn" "hãy
luôn tìm
kiếm thiên nhan Chúa" là Đấng "muôn
đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước... Ngài đã ký cùng Abraham", như Bài Đọc
1 hôm nay thuật lại, và được chính Chúa Giêsu kín đáo nhắc
lại trong Bài
Phúc Âm cùng ngày:
1) Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan
Chúa luôn luôn. Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép
lạ và những điều Ngài phán quyết.
2) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những
kẻ được Ngài kén chọn, chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị
của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu.
3) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới
muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã
thề với Isaac.
Thánh Gioan Lasan 7-4
Gioan Lasan (
Jean Baptiste de Lasalle) chào đời ngày 30/4/1651 tại thành Rheims_Pháp,
trong một gia đình trưởng giả. Cha là thẩm phán tòa án thành Rheims, mẹ là
con gái nhà quý tộc. Ngay từ thưở thơ ấu Gioan đã thích những việc đạo đức.
Lên 10 tuổi Gioan bắt đầu học lớp đệ lục tại Rheims. Năm 1662, Gioan nhận
phép cắt tóc được chính thức công nhận là ứng sinh gia nhập vào hàng ngũ
giáo sĩ. Chưa đầy 16 tuổi Gioan đã lãnh nhận chức Kinh Sĩ và lãnh bằng M.A
hạng tối ưu, kết thúc quãng đời học sinh năm 1669 ( 18 tuổi)
Gioan học đại học Rheims được một năm, đến tháng 10/1670 thì theo học tại
đại chủng viện Sulpice ( Xuân Bích) do các linh mục tu hội Xuân Bích điều
khiển.
Năm 1671, được tin mẹ mất và chưa đầy 9 tháng sau, cha của Gioan cũng qua
đời. việc học vì thế bị gián đoạn, Gioan trở về nhà chăm lo việc gia đình.
Năm 1672, Gioan lãnh nhận chức phụ phó tế trong nhà nguyện Đức TMG tại
Cambrai. Mùa thu năm 1673, công việc trôi chảy nên Gioan tiếp tục việc học.
Tháng 8/1675 Gioan lấy được bằng cử nhân thần học. một năm sau lãnh nhận
chức phó tế và ủy quyền giám sát các em của mình lại cho ông cậu. đến năm
1678, Gioan được thụ phong linh mục trong dinh Đức TGM thành Rheims đồng
thời nhận bằng tiến sỹ thần học năm 1680.
Những năm đầu đời linh mục, Gioan đã gặp khó khăn trong việc thương thuyết
xin chính quyền công nhận hội dòng “các chị em Chúa Giêsu Hài Đồng” chuyên
giáo dục những em gái nghèo do cha Nicolas trao phó cho Gioan trước khi ngài
mất. cha Gioan đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, cha thường đến dâng lễ và giúp về
phần thiêng liêng cho các chị em. Cha Gioan ngày ngày dâng lễ với cung cách
trang nghiêm sốt sắng nên thu hút được nhiều người và cảm hóa nhiều người
khô khan nguội lạnh.
Ngày 15/4/1679 trường Kitô đầu tiên dành cho con trai nghèo được thành lập
cùng bao khó khăn thiếu thốn. đến khoảng cuối năm 1679 thêm hai trường nữa
được thành lập và rất thành công. Tuyn nhiên người quản lý các trường là ông
Nyel không lo huấn luyện các thầy giáo nên về sau các thầy giáo trở nên cẩu
thả, học sinh ngày càng khó trị và vô kỉ luật. Tất cả những gì tốt đẹp xây
dựng bấy lâu sắp tan thành mây khói. Cha Gioan quyết định đưa các thầy giáo
về sống trong nhà mình để có thêm thời gian lo cho các thầy giáo và huấn
luyện họ trở thành một cộng đoàn cùng chung ý hướng và tôn chỉ. Mặc cho gia
đình phản đối cha vẫn giữ nguyên quyết định thực hiện, từ bỏ thế giới sung
túc để sống trong thế giới của người nghèo. Xây dựng trường học, huấn luyện
các thầy giáo, tiến hành cải cách nền giáo dục Kitô cho trẻ em nghèo…Cha
Gioan đã gặp không biết khó khăn, gian nan trong việc thành lập hội dòng, mở
rộng các trường học khắp các miền thành Rhiems, Paris, Vaugirard…Cha đã vượt
qua tất cả sự chống đối, nhục mạ và kiện tụng, có những lúc rơi vào tình
trạng khủng hoảng tưởng chừng như hội dòng sắp tiêu tan…
Có thể nói Cha Gioan đã hi sinh tất cả để chăm lo cho các em trường Kitô và
hội dòng trong suốt quãng thời gian từ năm 1680 đến năm 1719. Công lao sáng
lập, gây dựng của Cha thật lớn lao cho một nền giáo dục nhân bản và Kitô.
Về phần mình Cha Gioan luôn sống khắc khổ, ăn chay, hãm mình. Mặc cho đau ốm
bệnh tật suýt chết, cha vẫn khó nghèo trong luật lệ do chính mình soạn thảo
ra, sống hết mình, vâng phục để làm vinh danh Chúa theo khả năng mình và
theo thánh ý Người.
Về cuối đời. cha Gioan sống trong bệnh tật khắc nghiệt, phải chịu nhiều đau
đớn nhưng cha vẫn trung thành với Chúa cho đến cùng. Khi đang trong cơn đau
sắp chết vì một số hiềm khích lúc trước mà có người hại Gioan, kết cuộc
Gioan bị treo chén. Đây là tủi nhục cuối cùng mà Gioan phải đón nhận. như
bao lần trước ngài vẫn cất tiếng: “ Xin chúc tụng Chúa” vào thứ 6 tuần
thánh, ngày 7/4/1719 Gioan trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 68 tuổi.
Đến 5/1840 hồ sơ phong thánh của người được nộp cho Tòa Thánh. Các sách vở
người viết được nộp cho Tòa Thánh cứu xét. Ngày 12/1/1852, Tòa Thánh công
nhận các bản văn này phù hợp với tín lý của Giáo Hội. Ngày 1/11/1887, Toà
Thánh công nhận 3 phép lạ do lời chuyển cầu của Ngài và Ngài được Đức Thánh
Cha Leo XIII nâng lên hàng Á Thánh ngày 19/2/1888. Sau đó Tòa Thánh công
nhận thêm 2 phép lạ nữa do Ngài cầu bầu giúp. Ngày 25/4/1900, Đức Thánh Cha
nâng ngài lên hàng các thánh và được chọn làm quan thầy các nhà giáo dục
trên toàn thế giới vào ngày 15/5/1950.
Công trình cả đời Ngài thâm tín là “ việc của Chúa – Domine, Opus Tuum” vẫn
được tiếp tục bởi nhưng người nối gót theo Ngài dấn thân cống hiến cho trẻ,
đặc biệt là con em người nghèo và lao động, một nền giáo dục nhân bản KiTô
trong hơn 300 năm qua ở hơn 80 quốc gia trên thế giới.
http://lasanbmt.com/tin-tc/tin-tc-la-san/598-tiu-s-thanh-gioan-lasan.html
Trong một thế kỷ ham chuộng tóc giả, phấn son cùng y phục xa hoa; ai
là người để ý tới kẻ săn sóc đám lê dân? Trong khi mà vua Louis thứ
XIV oai phong lẫm liệt giữa triều thần trong cung điện Versailles;
trong khi mà Giám mục Bossuet hấp dẫn mọi người chung quanh giảng
đài của ông; trong khi chiến thắng oanh liệt của hai ông Turenne và
Condé vang dội châu Âu; trong khi mà thi kịch gia
Corneille,Racine,La Fontaine chói lọi trên văn đàn; hỏi ai là người
đếm xỉa tới một Linh mục chạy ngược xuôi tổ chức các trường từ
thiện?
Đucmagnificat
Đám trẻ nhỏ không có ai dạy dỗ
Đi lang thang chập choạng bước lạc loài
Gặp Lasan, kẻ đã được Chúa sai
Như ngọn lửa bừng lên trong đêm lạnh.
Vâng, giữa lúc các trường công nước Pháp cấm dạy đạo, Chúa Quan
Phòng đã cho xuất hiện một vị Thánh chuyên lo giáo dục trẻ, khai mở
các trường Công giáo, vừa dạy chữ, dạy nghề, vừa huấn luyện đạo lý.
Đó là Thánh Gioan Baotixita La-san linh mục mà chúng ta mừng
kính hôm nay.
Thánh Gioan Lasan sinh ngày 30.4.1651 tại thành Reims(Pháp) trong
một gia đình giàu có, sang trọng và đạo đức. Người theo học tại
chủng viện Sulpice và thụ phong linh mục vào năm 1678. Nhờ ơn Chúa
soi sáng, Ngài thấy được con đường lý tuởng của Ngài. Đó là “đào
tạo giáo viên và mở trường dạy học”; một con đường với đầy những
khó khăn, gian khổ và đau thương ngập tràn khiến Ngài đã từng phải
thốt lên rằng: “Nếu tôi biết trước được công việc sẽ dẫn tôi đến
đâu, thì tôi sẽ không bao giờ đụng ngón tay vào…”Thế nhưng, từng
bước một và một cách tế nhị, kín đáo, Chúa dẫn đưa Người dần dần tới
chỗ lo cho việc giáo dục trẻ nghèo, một nhu cầu cấp bách của xã hội
đương thời.
Người đã thấy được hai thực thể:một thực thể tối thượng là Thiên
Chúa;và một thực thể thấp hèn là con em giới lao động.
Người đã nhận thức được hai sự thật: một là Thiên Chúa luôn luôn
muốn cứu sống hết mọi người; hai là trong khi ấy con em giới lao
động lại sống quá xa ơn cứu độ.
Và Thánh Gioan
Lasan đã quyết định đem ơn cứu độ đến trong tầm tay của trẻ hay nói
đúng hơn là để bỏ ngỏ đời mình cho Thiên Chúa Quan phòng cứu sống
trẻ.
Chính vì thế, Người bán hết của cải, phân phát cho kẻ nghèo, tới
sống chung với một số giáo viên. Người đứng ra khai mở nhiều trường
Công giáo, dạy văn hoá, huấn luyện nghề nghiệp nhất là hướng dẫn
Giáo lý cho học sinh. Ngài ưu tiên cho học sinh nghèo, miễn phí cho
họ. Chính vì đó mà Ngài gặp hết khó khăn này đến khó khăn khác. Các
trường khác chống đối Ngài vì trường họ mất học sinh, nhất là vấn đề
học phí. Họ tố cáo Ngài, tổ chức cướp phá trường của Ngài. Chính
quyền ra lệnh cấm Ngài dạy miễn phí trong thành phố Paris. Nhưng
Thánh nhân vẫn không ngã lòng.
Trên hai vai nặng trĩu gánh học đường
Cha vững bước trong niềm TIN sắt đá,
Chén gian truân Cha nào đâu có sá,
Uống cạn ly vì hai chữ NHIỆT THÀNH.
Và thế là Ngài tiếp tục mở trường dạy miễn phí ở các nơi khác.
Lần lần với kinh nghiệm, ngài thấy rằng muốn cho công cuộc giáo dục
đạt kết quả tốt, chẳng những là phải có một đội ngũ giáo viên có học
thức cao mà cần nhất là đào tạo đức gương mẫu. Với ngưòi, nghề gõ
đầu trẻ không còn là một kế sinh nhai mà là một nghề cao quý, và hơn
nữa còn là một sứ mạng thiêng liêng.
Gõ đầu trẻ, một cái nghề bất hạnh
Sống qua ngày cho trọn kiếp tầm tơ
Nhưng này đây: một sứ mạng đang chờ
Cùng với Chúa dựng xây nhà Hội Thánh.
Vì thế, Ngài cầu nguyện với Chúa và quyết định biến đổi nhóm giáo
viên của Ngài thành một cộng đoàn tu sĩ chuyên lo việc giáo dục đào
tạo. Đó là Dòng Các Sư Huynh trường Kitô mà chúng ta thấy hiện có
mặt khắp các nước trên thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho công
trình giáo dục, Ngài đã định không một sư huynh nào được làm linh
mục. Vì nếu làm linh mục thì các sư huynh phải lo việc mục vụ, không
đủ thời gian lo cho việc dạy dỗ giới trẻ. Chính Ngài đã chăm lo huấn
luyện đạo đức và nghiệp vụ cho các Sư huynh.Ngài thường nhắn nhủ:
“Anh em hãy suy nghĩ điều tông đồ Phaolô đã nói:Thiên Chúa đã đặt
trong Hội thánh có các tông đồ,các tiên tri và các tiến sĩ.Bây
giờ anh em cũng sẽ thâm tín rằng chính Chúa cũng đã đặt anh em trong
chức vụ đang ở.Về điều đó,chính vị Thánh ấy đã cho anh em một bằng
chứng khi nói: có nhiều tác vụ và nhiều công việc nhưng chỉ có
một Thánh Thần biểu thị trong mỗi ơn như vậy, để làm ích chung cho
toàn thể tức là cho cả Hội thánh.
Do đó, anh em không được nghi nan gì về ơn mà anh em đã được, là
giáo dục thiếu niên, rao giảng Tin mừng cho chúng và huấn luyện
chúng trong tinh thần đạo đức. Đó là ơn cao cả Thiên Chúa đã ban cho
anh em. Người đã gọi anh em đến chức vụ Thánh này. Vậy trong toàn
bộ việc giáo dục của anh em, anh em phải làm cho lớp thiếu niên
mà anh em có phận sự coi sóc, nhận thấy anh em chính là thừa tác
viên của Thiên Chúa,khi anh em chu toàn phận sự với tình
thương không giả dối và với sự chuyên cần chân thật. Hơn nữa,
anh em còn phải dấn thân vào chức vụ không phải chỉ là thừa tác viên
của Thiên Chúa mà còn là thừa tác viên của Đức Kitô và Hội thánh
nữa.
Anh em hãy thao thức làm cho thiếu niên đi vào cơ cấu của ngôi đền
thờ này là Hội Thánh, để một ngày kia chúng xứng đáng đến trước
toà Đức Giêsu đầy vinh quang, không tì tích, không nhăn nheo hay xấu
xa hầu chứng tỏ cho các thế hệ mai sau thấy các sự giàu sang phong
phú của ơn Thánh mà Thiên Chúa đã ban cho chúng, khi cho chúng
trợ giúp về giáo lý, lúc trao chúng cho anh em dạy dỗ và giáo dục để
chúng được phần gia nghiệp nước Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kiô,Chúa
chúng ta”.
Cuộc đời của Gioan Lasan đầy gian truân thử thách và chịu nhiều áp
lực của thế quyền cũng như giáo quyền, nhưng Người vẫn luôn tin
tưởng và phó thác vào bàn tay Chúa Quan Phòng. Người mất ngày thứ
sáu Tuần Thánh 07.04.1719,tại Saint-Yon,thọ 68 tuổi. Lời cuối cùng
của Người nói lên được thái độ thâm sâu của Người trước cuộc đời: “Tôi
thờ lạy Thánh ý Chúa trong mọi sự đối với tôi”.
Chỉ bấy nhiêu việc cũng đủ ghi danh Người vào sử sách nhưng Người
còn làm hơn nữa, Người đã dựng cho các trường tiểu học một hệ thống
giáo dục mà nhiều điểm còn tồn tại tới ngày nay cho nên Người đã
được coi là Vị gầy dựng nên trường tiểu học. Các sử gia phải lấy làm
kinh ngạc khi thấy những nguyên tắc giáo khoa tân tiến ngày nay đã
được Người áp dụng cách đây hơn hai thế kỉ.
Gioan Lasan không còn nữa nhưng hệ thống giáo dục, những công trình
Ngài đã lao công vất vả để gầy dựng cũng như hội dòng Các Sư huynh
trường Kitô vẫn sống mãi theo thời gian. Vì lý do rất đơn giản: Còn
giới trẻ-Còn giáo dục;Còn giáo dục-còn các Sư huynh Lasan.
Chính vì thế,ngày 19.02.1888 Đức Giáo hoàng Léon XIII đã tôn phong
Người lên bậc Chân phước và lên bậc Hiển Thánh ngày 24.05.1900.
Ngày 15.05.1950 Đức Giáo hoàng Piô XII tôn phong Người làm Quan Thầy
các nhà giáo dục Kitô trên toàn thế giới.
Và công trình của Thánh Gioan Lasan,một
công trình mà ANH luôn thâm tín là việc của Chúa-Domine,opus tuum-vẫn
còn tiếp tục
qua các Sư huynh Lasan, con cái của ANH,
qua Chị em Lasan, con cháu của ANH,
qua các nhà giáo dục,những người thông dự vào đoàn sủng Lasan,
đang nối gót ANH
dấn thân cống hiến cho giới trẻ, đặc biệt con em giới nghèo và lao
động,
một nền giáo dục nhân bản và Kitô,
trong gần 350 năm qua trên 84 quốc gia trên thế giới.
Lasan
(Theo Dòng Lasan VN)
https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1172
Tinh Thần Đức Tin Giúp Gioan La San Vượt Qua Khó Khăn
Thử Thách
Là tu sĩ La San, là thành
viên gia đình La San, là những người cảm nhận mình đang bước trên
hành trình phục vụ giáo dục nhân bản và Kitô cho giới trẻ và trẻ
nghèo, chúng ta có chung một niềm từ hào về Cha Gioan La San, Đấng
Sáng Lập Dòng La San. Một trong những điểm nổi bật trong cuộc đời
Cha Thánh Gioan La San đó là tinh thần đức tin quả cảm của ngài.
Những suy trong bài này quy chiếu vào tinh thần đức tin của thánh
Gioan La San, nó không phải là một khảo luận nhưng chỉ là một suy tư
dựa trên các tư liệu của Dòng.
Nội dung bài suy tư này gồm 3 điểm chính: thứ nhất thánh Gioan La
San đã minh chứng một đức tin hùng hồn khi Ngài từ bỏ hết mọi sự để
theo Chúa. Tiếp đến, Ngài đã thể hiện niềm tin đó trong một cộng
đoàn liên kết cùng nhau thực thi thánh ý Chúa. Sau cùng, bài suy tư
bàn đến một đức tin rất quả cảm của thánh Gioan La San, không lùi
bước trước khó khăn thử thách.
Kể từ lúc đến sống chung với các thầy giáo năm 1682, Gioan La San đã
nhận thấy một thực trạng không mấy sáng sủa: Cộng đoàn không có tài
sản để bảo đảm cho tương lai, một số người bị cám dỗ không tiếp tục
ở lại. Cha Gioan La San đã khuyên họ tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Nhưng tất cả lý do để đưa ra không thể nào thuyết phục được họ. Thật
khó cho cha Gioan La San, lời nói giờ đây đối với họ chỉ như “nước
đổ đầu vịt” họ cần một cái gì khác, bởi họ nhận ra trong lời cha
nói và cuộc sống tiện nghi của Cha có một hố sâu cách biệt. Họ cần
một con người bằng xương bằng thịt làm gương hơn là một lý thuyết xa
xôi trong sách vở, dù cho đó là lời lẽ trong Phúc Âm.
Phải trở nên nghèo như họ. Đó là ý tưởng đã không ngừng thách đố cha
Gioan La San khi ngài suy nghĩ, tự vấn bản thân về lời lẽ các thầy
đã từng nói: “Cha đâu thiếu thốn gì…. Chúng tôi là những kẻ không
tài sản”[1].
Sau khi đã suy nghĩ kỹ, cầu nguyện và đặc biệt xin ý kiến của cha
linh hướng, cha Gioan La San đã quyết định “từ bỏ mọi sự” để
theo Chúa Kitô khó nghèo, làm gương cho các thầy bằng cách lột bỏ
hết mọi bám của cải trần tục để chỉ còn bám víu vào Chúa Quan Phòng
mà thôi. Nếu không có tinh thần đức tin vững mạnh, cha Gioan La San
đã không thế quyết định từ bỏ ngoạn mục như thế được.
Chúng ta có thể theo dõi những khắc khoải của người cha đáng kính
của chúng ta khi quyết định dùng tài sản mà cha đã thấy rằng tài sản
đó không còn thuộc sở hữu của ngài nữa. Lời cầu nguyện trong khắc
khoải của ngài như sau:
“Chúa con
ơi, con biết phải làm sao đây, nên hay không nên đầu tư vào ngân
hàng để kiếm tiền lời cho trường học. Việc lập các cộng đoàn đâu
phải chuyện con; con thực cũng đâu biết cách thức lập cộng đoàn. Chỉ
mình Chúa mới biết chuyện này, và chỉ chính Chúa mới biết cách thực
hiện như thế nào vừa ý Chúa. Con không dấm lập cộng đoàn và cũng
chẩng dám đầu tư, vì con không biết Chúa muốn gì. Thôi, con không
đầu tư đâu. Nếu Chúa đầu tư kiếm tiền cho trường, trường sẽ có tiền;
nếu Chúa không làm thì trường sẽ không có quỹ. Chúa ơi, con van xin
Ngài tỏ cho con biết thánh ý”[2]
Thế là cha Gioan La San đã quyết định trao lại cho Chúa tất cả tài
sản của cha bằng cách phân phát hết tất cả cho người nghèo. Thật lạ
lùng! Cho đến hôm nay, các sư huynh vẫn còn hưởng được tài sản mà
Cha Gioan La San đã ký gửi vào ngân hàng của Chúa.
Song song với việc từ bỏ tài sản, cha Gioan La San cũng từ bỏ chức
kinh sĩ, để từ giây phút đó, cha chỉ còn làm “công việc của Chúa”.
Chúa nuôi cha, chăm lo cho cha, cha chẳng thiếu thốn chi. Quả thật,
đức tin của cha Gioan La San thật tuyệt vời!
Một khi đã trao lại cho Chúa tất cả tài sản và việc “quản trị” công
cuộc của Dòng, Cha Gioan La San vững tin rằng, Chúa sẽ lo liệu mọi
thứ. Ngài không sợ hãi! Ai không thích hợp với ơn gọi mới này của
cha, cha sẵn sàng mở rộng đường cho họ đi. Không bao giờ cha sợ
thiếu người làm việc của Chúa trong Hội Dòng.
Anh em La San chúng ta mãi mãi mang trong lòng ký ức về Lời Khấn Anh
Hùng năm 1691 mà cha Gioan La San cùng với anh Nicolas Vuyard, và
Gabriel Drolin tuyên khấn.
Cha Gioan
La San đang đứng trước những khó khăn như “ngàn cân treo sợi tóc”,
những khó khăn theo sự tường trình của tác giả Blain[3]. Sự
thành công của các trường La San ảnh hưởng đến “nồi cơm” của các
Trường Nhỏ. Tháng 2 năm 1690 họ gửi đơn kiện cha La San vì trường
của cha xâm phạm đến quyền lợi của họ. Ngoài khó
khăn từ bên ngoài này,còn có khó khăn từ bên trong,. Tại Reims, 8
trong số 16 anh em ở trong căn nhà Neuve bỏ đi vì sự cứng rắn của
anh bề trên Jean Henrry. Tại Paris, 2 anh em đã ở đó trước đây chống
đối cha Gioan La San vì ngài đặt một anh mới đến sau làm bề trên
cộng đoàn của họ trên đường Princesse.
Khó khăn càng lúc càng làm cho cha Gioan La San buồn thảm, vì một
mặt những khó khăn do các vụ kiện cáo từ các trường bên ngoài, mặt
khác con số anh em trong các cộng đoàn lại giảm sút, công việc xem
ra không tiến triển tốt. Nhưng không một thử thách hay đau khổ nào
có thể đánh gục được lòng tin tưởng mãnh liệt của cha Gioan La San
vào Thiên Chúa.
Với lòng lòng say mê cầu nguyện, ăn chay hãm mình, năng tìm thánh ý
Chúa, cha Gioan La San đã đi đến quyết định mà cha tin rằng đó là
thánh ý Chúa. Vì thế, để bảo đảm cho tương lai của cộng đoàn La San,
cha đã cùng với anh Nicolas Vuyard và Gabriel Drolin đã khấn Lời
Khấn Anh Hùng vào ngày 21.11.1691.
Lời khấn Anh Hùng này liên kết các thành viên lại với nhau để “tận
hiến hoàn toàn cho Chúa”, tự ràng buộc họ vào sự sống còn của
Dòng, bằng tất cả lòng nhiệt thành dấn thân. Ngay cả chỉ còn lại 3
người cùng khấn lời khấn này trong Dòng mà thôi, thậm chí chỉ “sống
bằng bánh mì mà thôi”.
Với lời Khấn Anh Hùng này, riêng với cá nhân cha Gioan La San, đây
là một quyết định tối quan trọng cho sự sống còn của công cuộc mà
cha tin rằng chính Chúa đã thiết lập. Đây chính là một quyết định
dấn thân và phó thác toàn vẹn cho Thiên Chúa, một quyết định dứt
khoát của niềm tin. Quyết định này nêu lên ý chí dũng mãnh của cha
Gioan La San trong niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng công
cuộc mà cha được mời gọi cộng tác vào.
3/ Không Sợ
Hãi Khi Gặp Khó Khăn: Một Đức Tin Kiên Trì.
Vào khoảng năm 1702, một âm mưu được lập ra để chống đối cha
Gioan La San từ phía các linh mục, các nhà biên niên gọi tên những
người ấy là “những kẻ thù của tôi tớ Chúa”[4].
Họ tìm cách làm cho các Đức Hồng Y De Noiailles[5],
Tổng Giám Mục Paris tỏ ra khó chịu đối với Gioan La San. Thừa
dịp có 2 tập sinh than phiền về các khó khăn của họ trong cộng đoàn
trên đường Princesss nơi họ thực tập, cha Chétardie[6] chánh
xứ Saint-Sulpice đã viết một lá thư báo cáo lên Đức Hồng Y. Trong
thư báo cáo, cha này vu oan cho cha Gioan La San là “con người
bướng bỉnh về tình cảm, tự mãn, cứng rắn, không nhân từ với anh em,
nghiêm khắc phạt các lỗi nhẹ nhất và không tha thứ gì cho sự yếu
đuối của con người”[7].
Vì là người độc tài, lại là giám đốc Đại Chủng Viện Xuân Bích, cha
Chétardie muốn “nắm đầu” các sư huynh để điều khiển Hội Dòng
theo ý mình. Để làm được việc này, cha Chétardie đã sẵn sàng chà đạp
lên nhân phẩm của “người tôi tớ Chúa” là Gioan La San. Vì là
một nhà lý luận cố chấp. nên một khi cha Chétardie muốn hạ bề Gioan
La San, cha tìm đủ cách để thuyết phục Đức Hồng Y Noiailles dù kết
quả của lần điều tra đầu tiên có thuận lợi hay không.
Cha Pirot là Tổng Đại Diện được giao nhiệm vụ điều tra hiện tình của
bảng cáo trạng Gioan La San. “Cha Pirot chất vấn từng sư huynh và
chỉ nghe thấy những lời ca ngợi Gioan La San”[8].
Kết quả cuộc điều tra, cha Pirot rất có ấn tượng tốt với các sư
huynh. Tuy nhiên điều đó không đủ để thay đổi tình thế, Đức Hồng Y
vẫn quyết định đặt cha Bricot làm bề trên của các sư huynh, thay thế
cha Gioan La San. Làng sóng phản đối việc bổ nhiệm vị bề trên mới
bắt đầu dâng lên trong cộng đoàn các sư huynh. Mặc dù cha Gioan La
San đã “quỳ gối năn nỉ”
Tỉnh hình trở nên rất phức tạp vì: các sư huynh không chấp nhận vị
bề trên mới, nhưng cha Gioan La San lại không muốn anh em mình chống
lại phán quyết của giáo quyền. Giải pháp nào đây, thật là khó! Đó là
kể đến chuyện nỗi khó khăn do cha Gioan La San bị vu oan bởi “kẻ
thù” là cha xứ Saint Sulpice. Thêm vào đó, Cha Gioan La San có thể
lãnh hậu quả là bị cách chức và bị lưu đây, theo lời nói của cha
Pirot Tổng Đại Diện Giáo Phận Paris.
Đứng trước
nổi khó khăn này, Cha Gioan La San vẫn luôn giữ thái độ bình thản.
Cầu nguyện là phương thuốc duy nhất cha Gioan La San dùng để chữa
trị mọi nỗi âu lo và thử thách. Thế là, cha Gioan La San đã cùng với
anh em “cầu
nguyện suốt đêm ngày, không ăn, không uống, xin Chúa nâng đỡ trong
lúc âu sầu xao xuyến”[9]. Cuối
cùng giải pháp để giải quyết khó khăn cũng xuất hiện, cha Tổng Đại
Diện và cha chánh xứ Saint-Sulpice đã thương lượng với anh em một
giải pháp: là đặt cha Bricot là vị tân bề trên của anh em trên danh
nghĩa, và cha Gioan vẫn tiếp tục ở lại với anh em. Qua việc này,
đúng thật là có bàn tay can thiệp của Chúa để bảo vệ những con người
đang làm việc của Ngài khỏi sóng gió cuộc đời.
Nếu không có tinh thần đức tin vững mạnh, lòng kiên trì tín thác vào
Chúa, cha Gioan La San và anh em khó có thể vượt qua cơn đau khổ như
thể mà vẫn để lại trong lòng những người chống đối lòng cảm phục sâu
xa.
[1] Henri
Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô:
Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,
[2] Sh
Fortunat Trần Trọng An Phong, Góp Nhặt, Nội
Bộ, 19
[3] Henri
Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô:
Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,
120 -122
[4] Henri
Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô:
Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,
167
[5] Đức
Hồng Y De Noiailles thuộc phái Jeanséniste xem Jean Pungier FSC, Một
Linh Đạo Dành Cho Các Giáo Viên và Các Nhà Giáo Dục, Nội Bộ, 11
[6] Cha
Chetardy không phải là người mời các sư huynh đến mở trường tại xứ
Saint Sulpice. Cha Barmondière trước đó 1 nhiệm kỳ mới là người mời.
[7] Henri
Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô:
Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,
167
[8] Charles
Lapierre (1992), Cứ Theo Ta - Ngài La San, Bản
Việt Ngữ, Nội Bộ, Tỉnh Dòng LSVN, 95
[9] Henri
Bédel, Dẫn Vào Lịch Sử Dòng Anh Em Trường Kitô:
Nguồn gốc (1651 -1726), Bản dịch Việt Ngữ, nội bộ,
176
Thiên Văn
FSC
https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1492
|
“Thiên tài Sư Phạm”.
Quyển “Prions en Eglise” phổ biến khắp các nước nói tiếng Pháp, để các tín
hữu sử dụng trong Thánh Lễ hàng ngày, đã in trong những trang đầu một bài
tóm tắt nét độc đáo cuộc đời Thánh Gioan La San mang tựa đề “Génie
pédagogique” xin tạm dịch là “Thiên tài Sư Phạm”.
Để được người thời nay gọi “Thiên Tài Sư Phạm”, để được Đức Giáo Hoàng tôn
phong là Quan Thầy các Nhà Giáo dục, Gioan La san đã để các thầy giáo đầu
tiên chất vấn về quy chế và lời nói của Ngài. Trong một trang rất ngắn, tác
giả mô tả cuộc đời của Thánh Lập Dòng chúng ta và làm nổi bật sự phó thác
nơi Chúa Quan phòng của Gioan La San, không phải bằng lời rao giảng suông mà
bằng thực tế. Tôi xin tạm chuyển ngữ và chia sẻ cùng anh em là những người
nối nghiệp Gioan La San trên con đường giáo dục cho người trẻ và đặc biệt
người nghèo.
Làm sao để lời rao giảng có thể đáng tin, về tinh thần nghèo khó và phó thác
cho Chúa Quan Phòng, khi mà mình sống trong sung sướng và trong an toàn?
Trong rất nhiều tháng, câu hỏi nầy dày vò người kinh sĩ Gioan La San, kẻ
thừa kế một gia đình giàu có ở xứ sâm banh. Một thời gian ngắn sau khi Ngài
chịu chức linh mục vào năm 1678, cũng có hơi tình cờ, Ngài phụ giúp cho một
nhóm người sẽ trở thành những giáo viên của một trường miễn phí ở thành
Reims. Lo lắng về tương lai của mình, các thầy giáo khiêm tốn nầy một ngày
kia chất vấn thẳng thắn Gioan La San, về sự mâu thuẩn nầy, giữa cái quy chế
của Ngài và những lời nói của Ngài. Gioan La San đã cầu nguyện rất lâu giờ ,
bị chao đảo vì những bất an của Ngài. Sau khi đã nhận được lời khuyên, Ngài
từ bỏ phận vụ có lợi tức của chức kinh sĩ và sau đó phân phát tất cả
gia tài cho người nghèo. Một việc hy sinh thật khó hiểu, một sự vấp phạm đối
với gia đình Ngài cũng như đối với người dân trong môi trường của
Ngài!
Nhưng Gioan La San đã quyết định hiến mình trọn vẹn, không đem về cho mình
bất cứ điều gì có thể, đối với dự tính mà Thiên Chúa đã kêu gọi Ngài, đó là:
giáo dục nhân bản và Ki-tô cho trẻ em nghèo, và đào tạo các thầy có khả năng
dạy dỗ chúng. Vì ly’ do đó mà Dòng Anh Em Trường Ki-tô ra đời, mà Vị Sáng
Lập và các môn đệ của Ngài đã dấn thân bằng “Lời Khấn Anh hùng”, để duy trì
bằng bất cứ giá nào, cho dù phải vì đó mà “buộc phải đi ăn xin và chỉ sống
bằng bánh mì mà thôi”.
Những ngôi trường miễn phí cho con trai được mở ra tại thành Reims, rồi
Rethel, Guise, Laon…Và sau đó là đến Paris mà tại đó không biết bao nhiêu là
thử thách xảy đến với Gioan La San. Sự độc đáo về sư phạm và sự thành công
của những sáng kiến của Ngài gây nên sự ghen tuông, cáo gian và chống đối
dẫn đến cả việc kiện tụng! Vị Sáng Lập phải lánh đi Rouen, nơi đó Ngài tiếp
tục công việc của mình cho đến lúc qua đời vào năm 1719.
“Thiên tài Sư Phạm” như Chân Phước Gioan Phao Lô II đã gọi, Gioan La San
được phong hiển thánh vào năm 1900 và được tôn phong là Quan thầy các nhà
giáo dục vào năm 1950. Theo dấu chân của Ngài, các Anh Em Trường Ki-tô, hay
“La San” cố gắng là “anh em với nhau, là anh em với những người trưởng
thành, và anh cả của những người trẻ được trao phó cho các ngài” (hiện nay
có 5000 sư huynh hiện diện trên 80 quốc gia).
Xavier Lecoeur, Sử gia và phóng viên
Nhật Nhật Tân FSC (chuyển dịch)
https://www.lsvn.info/modules.php?name=News&op=viewst&sid=1172
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Tôi đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố
khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu
tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó
và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì
thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ thất bại bẽ bàng,
chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được.
Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm
can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng cho con, vì con đã
tỏ bày công việc con cho Chúa.
Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 5-6. 7
Ðáp: Trong
cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của tôi (x.c.
7).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá,
chiến luỹ, cứu tinh. - Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn,
là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa,
và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh hãi.
Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con rồi. -
Ðáp.
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa của
tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến tai
Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 10, 31-42
"Họ tìm bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng:
"Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà
các ngươi muốn ném đá Ta?"
Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành,
nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là
Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu
này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được
nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao
các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian
rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không
làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những
việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó,
để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua
bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó.
Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào.
Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Đấng
Thiên Sai không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên
tri trong Cựu Ước,
mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự mình biết
Thiên Chúa: "Ta
biết Ngài"
Ngày thứ 38 của
Mùa Chay hôm nay, Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay, hành trình Mùa Chay dẫn chúng
ta, cùng với Giáo Hội, qua phụng vụ lời Chúa nói chung và Bài Phúc Âm
nói riêng, vào tới tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô, một mầu nhiệm đã
khiến Người bị loài người, qua các nhân vật lịch sử thời ấy, bao gồm cả
dân Do Thái lẫn dân ngoại, sát hại, nhưng nhờ thế mầu nhiệm về Người
là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa càng trở nên rạng ngời sáng tỏ, đúng
với chiều hướng thần linh của lịch sử cứu độ dân Do Thái, một mầu nhiệm
làm nên tất cả lịch sử loài
người.
Đúng thế, tận cùng của mầu nhiệm Chúa Kitô là gì, hay nói
khác hơn, tột đỉnh của mầu nhiệm Chúa Kitô là
chi, nếu không phải Người là Con Thiên Chúa. Trong
bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Kitô đã dẫn dân Do Thái, qua thành phần thính
giả đại diện họ đang nghe Người
bấy giờ, vào đến cung thánh mầu nhiệm về Người, thì qua bài Phúc Âm hôm
nay, Người đã dẫn
họ vào tận nơi
cực thánh là chính bản tính Thiên Chúa của Người.
Hôm qua, theo bài
Phúc Âm của Thánh ký Gioan, Chúa
Kitô đã sử dụng ngôn từ của Người để tỏ mình ra,
khi dẫn dân Do Thái vào tới cung thánh của mầu nhiệm về Người, ở chỗ,
Người đã tỏ mình ra cho họ thấy Người là Đấng Thiên Sai của Thiên
Chúa, Đấng Thiên Sai có trước tổ phụ Abraham:
"Khi
Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi", Đấng mà
chính vị tổ phụ là cha của tất cả những kẻ tin hướng về: "Cha
các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông
đã thấy và đã vui mừng".
Hôm
nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan tiếp tục cho thấy Chúa Giêsu từ đó,
từ chỗ Người là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa, liên quan đến nhân tính
của Người, dù trên trái đất này và trong xã hội Do Thái bấy giờ, Người
chỉ là một con người lịch sử, Người vẫn là Đấng có
trước cả tổ phụ Abraham và là Đấng chính tổ phụ Abraham phải hướng
về ấy, Đấng
cuối cùng đã dẫn
dân
Do Thái, qua thành
phần thính giả của Người bấy
giờ, vào
tận nơi cực thánh của mầu nhiệm về Người là thần tính của Người.
Bởi vì, Đấng Thiên Sai như
Người không phải chỉ là Đấng được Thiên Chúa sai đến, như các vị tiên
tri trong Cựu Ước, mà là chính Đấng từ Thiên Chúa mà đến, Đấng tự
mình biết Thiên Chúa: "Ta
biết Ngài", như
Người đã khẳng định 2
lần
liền trong Bài Phúc Âm hôm qua, chứ
kiến
thức thần linh của Người không
phải làm
nên bởi những gì được
Thiên Chúa tỏ mình ra bằng mạc khải thần linh của Ngài, như Ngài đã làm
"bằng
nhiều thể nhiều cách" với
các vị tổ
phụ Abraham, Isaac và Giacóp,
hay với Moisen hoặc với
các vị tiên tri xưa (xem
Do Thái
1:1).
Thần tính của nhân vật lịch sử Giêsu
Nazarét, trong
bài Phúc Âm hôm nay, đã được
chính Người tự chứng bằng ngôn từ của Người như sau: "Ta
đã nói Ta là Con Thiên Chúa". Và
chính vì chủ trương này của Người, vì lời tuyên bố mà đối với
người Do Thái có vẻ vô cùng bậy bạ đầy ngạo mạn ngông cuồng ấy, mà Người đã
bị họ ném đá,
như
Thánh ký Gioan cho chúng ta biết chi tiết này ở đầu bài Phúc Âm hôm nay:
"Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi
rằng: 'Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì
việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?' Người Do-thái trả lời: 'Chúng tôi
muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi
vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa'".
Tuy nhiên,
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nhẫn nại nhấn mạnh đến yếu tố then chốt nhất mà
Người đã từng sử dụng để chứng thực về Người quả là "Đấng
Thiên Sai", và
cũng chính là "Con
Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu
16:16), ở
chỗ,
như Người tiếp tục dẫn chứng Người
không bao giờ làm theo ý của Người mà là ý của Cha là Đấng đã sai Người:
"Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta.
Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta,
cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong
Ta, và Ta ở trong Cha".
Chứng
từ Người tự chứng về Người thực
sự vừa là Đấng Thiên Sai và vì thế cũng là Con Thiên Chúa ở chỗ chỉ làm
theo ý Cha là Đấng đã sai Người đã gây một tác dụng trái chiều, ở chỗ tự
chứng ấy của Người đã khiến cho một
số là
thành phần thính giả bấy giờ vẫn
không
tin và không
thể nào tin được,
còn một số khác, ở
nơi khác, lại
tin vào Người, như phần kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy:
"Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại
qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở
lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: 'Gioan đã không làm một phép
lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả'. Và có nhiều
kẻ tin Người".
Sở
dĩ còn "có
nhiều kẻ tin Người" là
vì lòng họ còn cởi mở, còn tha thiết với sự thật, còn muốn biết tất cả
sự thật hoàn toàn khách quan về một nhân vật mà trước khi nhân vật ấy
xuất hiện, họ đã từng được nghe Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị họ coi như
tiên tri nói tới là "Đấng đến sau tôi, nhưng hơn tôi vì Người có
trước tôi..." (Gioan 1:30). Họ đã
chấp nhận chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả về Đấng
cao cả đến sau ngài mà
họ nhờ đó đã có
thể tin vào chính Đấng đến sau đó.
Mầu nhiệm thần linh về một Đấng
Thiên Sai, Con Thiên Chúa, như được chính Chúa Kitô tỏ ra cho dân Do
Thái biết vào "thời điểm viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "sau
hết" (Do Thái 1:1) của
Người bấy giờ, một mầu nhiệm đã trở thành nguyên cớ cho cuộc khổ nạn và
tử giá của Người, từ chỗ "họ tìm
cách bắt Người" trong bài
Phúc Âm hôm nay, đến chỗ "họ
quyết định giết Người" trong bài
Phúc Âm ngày mai, đã được chính Người, qua miệng Tiên Tri Giêrêmia,
trong Bài Đọc 1 hôm nay, thốt lên có vẻ thảm não như
sau:
"Tôi
đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: 'Người này gieo khủng bố
khắp nơi. Chúng ta hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó'. Tất cả bạn
hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: 'Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta
thắng nó và sẽ trả thù nó'. Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến
hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức. Chúng sẽ
thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên
được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính,
thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù chúng
cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa".
Tuy nhiên,
chính vì "Tôi tự bỏ sự
sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan
10:17), chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà Người sẵn
sàng chấp nhận những gì xẩy ra cho Người, vì Người là Đấng
Thiên Sai, Đấng chỉ đến để
làm theo ý Cha là Đấng đã sai Người, dù ý của Ngài có khiến Người phải
vô cùng khốn khổ đến đâu chăng nữa.
Nhưng cuối cùng Người vẫn có thể "lấy
lại sự sống" của Người, nghĩa là sự sống vô giá của Người không phải
là đồ bỏ hay có thể bị tận diệt, mà là cái giá quí báu duy nhất bất khả
thiếu để cứu chuộc nhân loại và để trở thành sự sống đời đời vô giá cho
loài người nói chung và những ai tin Người nói riêng.
Đó là lý do cuối Bài Đọc 1 hôm nay,
qua miệng Tiên Tri Giêrêmia, Người đã tỏ ra hân hoan phấn khởi mà vang
lên những lời lẽ đầy hứa hẹn như sau: "Hãy
hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người
bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".
Tâm
tình của Chúa Kitô Thiên Sai trong Bài Đọc 1 hôm nay, phản ảnh Bài
Phúc Âm cùng ngày, còn được tiếp tục âm vang ở Bài Đáp Ca trong ngày như
sau:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Tảng Ðá,
chiến luỹ, cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên
thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu
cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Sóng tử thần đã bao bọc thân con, và thác nước ôn dịch làm con kinh
hãi. Thừng chão địa ngục đã quấn lấy con, lưới tử thần đã chụp bắt con
rồi.
4) Trong cơn đại hoạ, tôi đã cầu khẩn Chúa, tôi đã kêu xin Thiên Chúa
của tôi; từ nơi thánh đài, Ngài nghe rõ tiếng, và tiếng tôi kêu thấu đến
tai Ngài.
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Ed 37, 21-28
"Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân
tộc mà chúng đang cư ngụ; từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng
về quê hương. Ta sẽ làm cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất
của chúng, ở trên núi Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không
còn là hai dân tộc, cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa.
Chúng sẽ không còn dơ nhớp vì thần tượng, vì các điều ghê tởm và mọi tội lỗi
của chúng. Ta sẽ cứu thoát chúng khỏi mọi nơi tội lỗi. Ta sẽ thanh tẩy
chúng; chúng sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. Ðavit tôi tớ Ta
sẽ là vua của chúng, chúng sẽ chỉ có một chủ chăn mà thôi. Chúng sẽ tuân giữ
và thực thi các giới răn của Ta. Chúng sẽ cư ngụ trong đất mà Ta đã ban cho
Giacóp tôi tớ Ta, và là đất tổ phụ chúng đã cư ngụ; chúng và con cái cùng
cháu chắt của chúng sẽ cư ngụ ở đó đến muôn đời. Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là
vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với chúng một giao ước hoà bình: Ðó
sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho
chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn
đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân
Ta. Các dân tộc sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập
nơi thánh Ta ở giữa chúng đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gr 31, 10. 11-12ab. 13
Ðáp: Chúa
sẽ gìn giữ chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các
đảo xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ
gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình". - Ðáp.
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu
thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh
phúc của Người. - Ðáp.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ
già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan,
sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 11, 45-56
"Ðể quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có
nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giê-su. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt
phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt
phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm
nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ
tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta". Một người
trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không
hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn
là toàn dân bị tiêu diệt". Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh
nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết
thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái
Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn
công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến
thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ
Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước
lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán
với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và
biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt
Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Lạ
lùng thay họ tưởng rằng
họ đã
thắng
bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối
phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa,
không ngờ lại là
cú đá phản bội đã phá
rách toạc tan tành chính mạng lưới "mưu lược"
gian ác họ bẫy địch thủ...
Hôm nay là ngày áp
chót của Mùa Chay, cũng có thể nói là ngày cuối cùng (trong tuần)
của Mùa Chay, ngày Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chủ đề "Tôi tự bỏ sự sống
mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) càng hiện lộ trong phụng vụ
lời Chúa, cả ở Bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1.
Cũng như Thứ Bảy
tuần trước, bài Phúc Âm hầu như vắng bóng Chúa Giêsu, mà chỉ vang bóng
của Người thôi, tức là về tình trạng dân chúng và thành phần lãnh đạo
của họ chia rẽ nhau về Người, sau khi Người đã tự chứng về Người bằng
ngôn từ hay bằng phép lạ.
Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy cái âm hưởng quá sức là mãnh
liệt gây ra bởi phép lạ cả thể nhất Người làm, một phép lạ không được
thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay, mà ở trong bài Phúc Âm cho Chúa
Nhật Năm A (hay các Năm B và C nếu muốn thay thế các bài Phúc Âm theo
chu kỳ Chúa Nhật) Tuần V Mùa Chay đầu tuần.
Đó là phép lạ Người hồi sinh cho người bạn thân Lazarô
chết đã 4 ngày của Người, để chứng tỏ một thực tại thần linh về Người,
một thực tại thần linh đúng như
Người đã xác nhận và tuyên bố với Matta là chị của người quá cố: "Thày
là sự sống lại và là sự sống" (Gioan
11:25), và phép lạ này cũng là một dấu chỉ thần
linh báo trước về biến cố Vượt Qua của Người, biến cố Người vượt qua từ
cõi chết mà vào cõi sống, chẳng những hoàn toàn chiến thắng tội lỗi và
sự chết mà
còn ban cho chung con người và riêng Giáo Hội của Người "sự sống và
là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10).
Trước một phép lạ cả thế như
thế, Thánh ký Gioan đã cho biết thành quả là: "những
người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin
vào Chúa Giê-su". Nhưng
cũng chính vì phép lạ này, hay nói đúng hơn, chính
vì tác dụng thần linh của phép lạ này nơi lòng tin của nhiều người được
tận mắt chứng kiến thấy Đấng "là sự sống lại và là sự sống" tỏ
mình ra bấy
giờ, mà
thành phần giáo
quyền lãnh đạo
không thể nào không chính thức ra tay can
thiệp, như
Thánh ký Gioan tường thuật như sau:
"Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc
Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và
nói: 'Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu
chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân
Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta'. Một người trong nhóm là
Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: 'Quý vị không hiểu gì cả!
Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn
dân bị tiêu diệt'".
Ở đây chúng ta thấy rõ ràng là thành
phần lãnh đạo Do Thái bấy giờ nói
chung có
thành kiến rất nặng về Chúa Giêsu, đến nỗi thành kiến đó đã làm cho họ
trở thành mù quáng với đầy những ác cảm, đến độ họ bất chấp sự thật
trước mắt họ, như họ cũng đã phải công nhận rằng: "người
này làm nhiều phép lạ", chứ không
phải là nhân vật tầm thường như họ, chẳng làm được phép lạ như Người,
chẳng được dân chúng tin theo như Người.
Thế mà, vì thành kiến và ác cảm đã
biến thành ghen tị, đố
kỵ và ghen ghét,
họ đã tìm cách triệt hạ Người, tìm cách loại trừ Người cho bằng được,
với lý do bề ngoài có vẻ tốt đẹp theo công ích, mị dân, như Thánh ký
Gioan cho chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân
Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi
này và dân tộc ta".
Lý
do được viện ra này quả là tuyệt vời, hoàn toàn vừa che đậy được thành
kiến, ác
cảm, lòng
ghen tị và ghen
ghét của họ,
vừa có tính cách lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc của họ như
thế, đã được vị có thẩm quyền nhất trong họ bấy giờ là thượng tế Caipha,
như một tay túc cầu chuyên nghiệp ở hàng tiền đạo vừa được đồng
bạn chuyền banh cho liền đá lọt lưới một
cách ngoạn mục vào gôn (goal = đích) của đối
phương:
"Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng:
'Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay
cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt'".
Thế
nhưng, lạ lùng thay họ tưởng rằng họ đã
thắng
bằng quả banh họ chuyền nhau đã làm tung lưới đối
phương là dự án cứu độ của Thiên Chúa, không ngờ lại là
cú đá phản pháo đã phá
lưới chính "gôn
- đích
nhắm, mưu đồ"
của chính họ, như lời dẫn giải của vị Thánh
ký Gioan của
bài Phúc Âm hôm nay ngay
sau cú đá đầy ngoạn
mục hết
sức thần
tình của vị thượng tế Caipha này:
"Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm
ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không
phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản
mát về một mối".
Tuy nhiên,
về phía
họ, họ
vẫn tưởng rằng họ đã nắm chắc phần thắng trong tay, nên họ đã bắt đầu
lấy quyền bính của mình để "ra
lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người", để
có thể đạt được cái "gôn" của mình là "họ quyết
định giết Người" cho
bằng được, để
diệt trừ
hậu hoạn cho toàn dân.
Chắc ai cũng biết được thượng lệnh
bất tuân như thế, một thượng lệnh có lợi cho toàn dân đang bị quân đế
quốc Rôma như vậy, nên đều tỏ ra hết sức quan tâm và muốn tuân hành,
nhưng hình như chỉ ở giáo đô Giêrusalem thôi, chứ không bao gồm ở các
nơi khác.
Bởi vậy mà Chúa Giêsu vẫn trở thành
một nhân vật, cho dù "không
còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang
địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ", vẫn
có
sức thu
hút dân
chúng, có thể nói, chính sự vắng khuất của Người vào thời điểm quan
trọng nhất trong năm lại càng khiến dân chúng chú ý đến Người hơn, như
Thánh ký Gioan diễn tả cho thấy trong Bài
Phúc Âm hôm nay:
"Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các
miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ
đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: 'Anh em nghĩ sao? Người có đến
hay không?'"
Câu phát ngôn tiêu biểu trên đây cho
thấy thái độ như thể hào hứng trông mong của "nhiều
người từ các miền lên Giêrusalem" và
muốn "tìm
Chúa Giêsu", để được
gặp Người là Đấng họ cảm phục và trông đợi, nhưng lại là nhân vật, trái
lại, như Thánh ký Gioan cho biết ở câu kết thúc của bài Phúc Âm hôm nay:
"Còn
các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì
phải tố cáo để họ bắt Người".
Đúng thế, chính
vì "Tôi tự ý bỏ sự sống mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17),
chủ đề cho chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, mà
cho dù giáo quyền của dân Do Thái bấy giờ có muốn tận diệt Người chăng
nữa, một cách hết sức khôn ngoan và hoàn toàn tự do theo lòng ác cảm và
ghen ghét của họ, họ chẳng những không làm gì được Người mà
còn trở thành dụng cụ bất đắc dĩ của dự án thần linh trong công cuộc
cứu độ trần gian, trong đó bao gồm cả dân tộc của họ, không phải chỉ
thoát khỏi quyền lực chính trị và quân sự, mà là quyền lực tội lỗi và sự
chết.
Dự án cứu độ thần linh vô cùng huyền
diệu của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô đã được chính Thiên Chúa, qua
miệng Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, báo trước về một
viễn
tượng dân
Do Thái thống
nhất và duy
nhất, đúng
như ý Chúa muốn khi Ngài lập giao ước với tổ phụ Abraham của họ, một dân
tộc bao gồm cả dân ngoại trong công cuộc cứu độ do Con của Ngài, Người
Con về nhân tính thuộc
giòng giống của họ thực hiện:
"Này
Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ; từ
khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương. Ta sẽ làm
cho chúng trở nên dân tộc duy nhất sống trong đất của chúng, ở trên núi
Israel; chỉ có một vua cai trị chúng; chúng sẽ không còn là hai dân tộc,
cũng chẳng còn chia làm hai nước nữa".
Hình ảnh
về một dân Do Thái thống nhất và duy nhất tiêu biểu cho một dân tộc như
sao trời cát biển bao gồm cả dân ngoại là tất cả những ai tin tưởng vào
Chúa Kitô ấy,
cũng đã được
Thánh ký Gioan tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa
Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn
để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối", một
lời dẫn giải hoàn toàn hợp với những gì Thiên Chúa phán trong Bài Đọc 1
hôm nay qua miệng Tiên Tri Đaniên:
"Và Ðavit, tôi tớ Ta, sẽ là vua của chúng đến muôn đời. Ta sẽ ký kết với
chúng một giao ước hoà bình: Ðó sẽ là một giao ước vĩnh cửu đối với
chúng. Ta sẽ gầy dựng chúng, sẽ cho chúng sinh sản ra nhiều và sẽ thiết
lập nơi thánh Ta giữa chúng cho đến muôn đời. Nhà Tạm Ta sẽ ở giữa
chúng. Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân Ta. Các dân tộc sẽ
biết rằng Ta là Chúa, Ðấng thánh hoá Israel, khi đã lập nơi thánh Ta ở
giữa chúng đến muôn đời".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa những tâm tình tràn đầy hy vọng và hoan hỉ như
thể ơn cứu độ thực sự đã
đến, một ơn
cứu độ được hiện thực nơi Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế vào
thời điểm viên trọn của Người, một biến cố Vượt
Qua chẳng
những được dân Do Thái cử hành hằng năm mà còn được chính chung Kitô
giáo và riêng Giáo
Hội
Công giáo Roma cử hành vào Tuần Thánh, nhất là vào Tam Nhật Vượt Qua,
bắt đầu từ ngày mai, Chúa Nhật Lễ Lá, kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần
Thương Khó:
1) Hỡi các dân tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo
xa xăm; hãy nói rằng: "Ðấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ
gìn giữ nó, như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình".
2) Vì Chúa đã giải phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người
cứu thoát nó. Chúng sẽ đến và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về
phía hạnh phúc của Người.
3) Bấy giờ người thiếu nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các
cụ già cũng làm y như thế; Ta sẽ biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân
hoan, sẽ an ủi chúng và cho chúng hết đau khổ.
Bài Đáp Ca hôm nay, Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay, chất chứa những tâm tình
hân hoan như một dạo khúc hướng về một Chúa Nhật Lễ Lá ngày mai, thời
điểm Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Thánh Giêrusalem, giáo đô của
Do Thái Giáo, nơi chứng kiến thấy tột đỉnh mạc khải thần linh của lịch
sử cứu độ dân Do Thái cũng là tất cả mạc khải thần linh của lịch sử nhân
loại nơi Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế trong Tam Nhật Vượt Qua của Người
trong Tuần Thánh, kể từ Chúa Nhật Lễ Lá, bắt đầu Tuần Thương Khó của
Người được Giáo Hội Nhiệm Thể Người hằng năm long trọng cử hành như tột
đỉnh của phụng niên.