SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Dẫn nhập vào Tuần Bát nhật trước Lễ Giáng Sinh:
Nếu Đại Lễ Phục Sinh có Tuần Bát Nhật, từ Chúa Nhật Lễ Phục Sinh đến Chúa Nhật Thứ II Phục Sinh kính LTXC, và Tuần Thánh trước Lễ Phục Sinh, thì Đại Lễ Giáng Sinh cũng có Tuần Bát Nhật, từ Lễ Giáng Sinh 25/12 đến Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, và Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh.
Thật vậy, Phụng Vụ Mùa Vọng, không kể 4 Chúa Nhật tượng trưng cho 4 ngàn năm trông đợi Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô, còn theo ngày thường trong tuần, và căn cứ vào các Bài Phúc Âm là những gì chính yếu trong phần Phụng Vụ Lời Chúa, thì Mùa Vọng có thể chia ra làm 3 phần như sau: phần thứ nhất, từ Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng đến hết Thứ Tư Tuần II Mùa Vọng, bao gồm những bài Phúc Âm ám chỉ gián tiếp về ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể; phần thứ hai, từ Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng đến hết Thứ Sáu Tuần Thứ III Mùa Vọng (tùy theo từng năm, ở đây căn cứ vào năm Lễ Giáng Sinh được cử hành vào chính Chúa Nhật), bao gồm những bài Phúc Âm Chúa Giêsu nói về Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người; và phần thứ ba là chính Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh, từ ngày 17/12 đến hết ngày 24/12, bao gồm các bài Phúc Âm trực tiếp về Mầu Nhiệm Nhập Thể và dẫn đến Biến Cố Giáng Sinh, thứ tự như sau:
Ngày 17/12: Phúc Âm về gia phả của Chúa Giêsu. Ngày 18/12: Phúc Âm về biến cố giấc mơ của Người Công Chính Giuse. Ngày 19/12: Phúc Âm về biến cố truyền tin Tiền Hô Gioan được thụ thai cách lạ. Ngày 20/12: Phúc Âm về biến cố Truyền Tin Lời Nhập Thể cho Trinh Nữ Nazarét Maria. Ngày 21/12: Phúc Âm về biến cố Trinh Nữ Nazarét Maria Thăm Viếng. Ngày 22/12: Phúc Âm về Ca Vịnh Ngợi Khen của Trinh Nữ Nazarét Maria; Ngày 23/12: Phúc Âm về biến cố Tiền Hô Gioan được sinh ra; và Ngày 24/12: Phúc Âm về Ca Vịnh Chúc Tụng Chúa Benedictus của thân phụ Tiền Hô Gioan.
Căn cứ vào 8 bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh trên đây, chúng ta thấy được 3 điều hiển nhiên sau đây: điều thứ nhất đó là hai bài Phúc Âm cho 2 ngày đầu 17-18/12 theo Thánh Mathêu, còn 6 bài sau cho 6 ngày còn lại theo Thánh Luca; điều thứ hai đó là 8 bài Phúc Âm này có thể chia ra làm 4 cặp Phúc Âm, mỗi cặp Phúc Âm là 2 bài cho 2 ngày liền nhau: 17-18/12, 19-20/12, 21-22/12 và 23-24/12; và điều thứ ba đó là 8 bài Phúc Âm cho Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh đều liên hệ đến Mầu Nhiệm Nhập Thể và dẫn đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh.
Đúng thế, hai bài Phúc Âm cho 2 ngày đầu tiên 17 và 18/12, cho chúng ta thấy Mầu Nhiệm Nhập Thể và Biến Cố Giáng Sinh là ở chỗ Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu là một nhân vật lịch sử, chứ không phải là một nhân vật hoang đường thần thoại, bởi nhân vật lịch sử Giêsu này có gia phả đàng hoàng, thuộc giòng dõi vương đế Đavít, và mang giòng máu dân tộc Do Thái có tổ phụ là Abraham; tuy nhiên, nhân vật lịch sử Giêsu này không phải là một con người thuần túy, mà là một vị Thiên Chúa Nhập Thể bởi Quyền Phép Thánh Linh, chứ không phải bởi loài người, trong cung dạ trinh nguyên của Trinh Nữ Nazarét Maria, một trinh nữ đã đính hồn với một người công chính tên là Giuse, vị đã đón nhận Maria khi được thiên thần báo mộng.
Hai bài Phúc Âm cho 2 ngày 19-20/12 liên quan đến Tiền Hô Gioan của vị Thiên Chúa Nhập Thể nơi nhân vật lịch sử Giêsu như được 2 bài Phúc Âm của ngày 17-18/12 cho thấy, và chính vì là Tiền Hô của vị Thiên Chúa Nhập Thể mà vị Tiền Hô đã được Thiên Chúa ưu đãi, xứng với ơn gọi và chức phận cùng vai trò Tiền Hô của ngài, ở chỗ ngài cần phải được thụ thai cách lạ, như thiên thần từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài trong Đền Thờ Giêrusalem, nhưng không hoàn toàn giống như mầu nhiệm Lời Nhập Thể bởi Quyền Phép Thánh Linh trong cung dạ của Trinh Nữ Nazarét Maria, như tổng sứ thần Gabiên đã truyền tin cho vị trinh nữ đầy ơn phúc này, tại tư gia của vị trinh nữ âm thầm hèn mọn là một nữ tỳ xin vâng.
Hai bài Phúc Âm cho ngày 21-22/12 liên quan đến cuộc hội ngộ thần linh giữa thai nhi Lời Nhập Thể trong cung dạ của Trinh Nữ Nazarét Maria với thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, trong cuộc thăm viếng bác ái yêu thương của Người Mẹ Thiên Chúa, để phục vụ người chị họ Isave của mình, ngay sau khi hay biết người chị luống tuổi son sẻ của mình đã thụ thai được 6 tháng, một cuộc thăm viếng tràn đầy Thánh Linh, từ Người Mẹ của Lời Nhập Thể truyền sang cho thai nhi Tiền Hô Gioan và thai mẫu Isave, đến độ đã biến thai mẫu Isave trở thành một nữ tiên tri nói về cả 2 Mẹ Con của Lời Nhập Thể, và Người Mẹ Thiên Chúa đã phải thốt lên Ca Vịnh Ngợi Khen LTXC đã chẳng những đoái thương đến phần hèn tớ nuữ của mình mà còn đến chung toàn thể dân Chúa, đúng như những gì Ngài đã hứa với tổ phụ Abaraham và giòng dõi của ông, cho tới khi Ngài hiện thực lời hứa ấy nơi lịch sử bấy giờ.
Hai bài Phúc Âm cho ngày 23-24/12 liên quan trực tiếp đến Tiền Hô Gioan nhưng gián tiếp đến Mầu Nhiệm Nhập Thể và Biến Cố Giáng Sinh ở chỗ Lời Nhập Thể là Đấng Thiên Sai Cứu Thế, là Vua Dân Do Thái, như được tổng sứ thần Gabiên loan báo trong biến cố Truyền Tin cho Mẹ của Người (xem Luca 1:31-33), cũng như được Ba Vương Gia Chiêm Tinh nhận biết và tìm đến bái thờ (xem Mathêu 2:1-12), thì Tiền Hô Gioan phải vừa là tiên tri vừa là tư tế của Người, do đó Tiền Hô Gioan được sinh ra bởi giòng dõi Levi, bởi cha ngài là tư tế Giacaria, và khi ngài vừa được sinh ra, tên gọi Gioan được trời cao đặt cho, thì thân phụ của ngài đã nói tiên tri về ngài trong Ca Vịnh Chúc Tụng Chúa Benedictus của ông rằng: "Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên" (Luca 1:76-77).
Thật vậy, theo lịch sử cứu độ của dân Do Thái, cũng là của Do Thái giáo, thì có ba chức phận chính yếu bất khả thiếu, đóng 3 vai trò khác nhau, nhưng liên quan mật thiết với nhau, đó là, theo thời gian hình thành: thứ nhất là vai trò tiên tri - như nơi Moisen, thứ hai là vai trò tư tế - như nơi Aaron, và thứ ba là vai trò vương đế - như nơi Đavít, một vị vua đã được tiên tri Samuel xức dầu phong vương. Có thể nói vai trò tiên tri quan trọng nhất và cao trọng nhất trong 3 vai trò làm nên Do Thái giáo này, vì tiên tri là ngôn sứ của Thiên Chúa, được Ngài trực tiếp sai đến như một vị thiên sai của Ngài, xuất phát từ Ngài, mở đầu là Moisen, vị đã xức dầu cho vai trò tư tế của Aaron anh mình (xem Xuất Hành 30:30; Levi 8:12), và Moisen đồng thời cũng nói tiên tri về số phận bị lưu đầy của dân Do Thái (xem Đệ Nhị Luật 3:1-5), cũng như tiên báo về vị tiên tri khác, như chính vai trò cứu dân vượt qua của ông, sẽ xuất hiện trong dân là Chúa Giêsu Kitô (xem Đệ Nhị Luật 18:15; Tông Vụ 3:22).
Ở đây, trong Tuần Bát Nhật trước Lễ Giáng Sinh, 2 Bài Phúc Âm cuối cùng cho ngày 23-24/12 đã tỏ tường cho thấy Tiền Hô Gioan đóng cả 2 vai trò Tư Tế lẫn Tiên Tri: Gioan Tiền Hô đóng vai trò tư tế khi ngài rao giảng và làm phép rửa thống hối, và Gioan Tiền Hô đóng vai trò tiên tri khi ngài dọn đường cho Đấng Đến Sau ngài, bằng chứng từ chân thật đầy uy tín của ngài, một Đấng Đến Sau Cao Trọng hơn ngài, vì Đấng ấy đóng vai trò là một Vương Đế của chẳng những dân Do Thái, với tư cách là Đấng Thiên Sai, mà còn của tất cả mọi dân tộc trên thế giới nữa, với tư cách là Đấng Cứu Thế, nhưng lại là một vị Vương Đế được Gioan Tiền Hô xức dầu phong vương cho ở Sông Jordan, bằng phép rửa ngài thực hiện cho Người.
Ba vai trò tiên tri, tư tế và vương đế nơi Do Thái giáo ngày xưa, chẳng những là những yếu tố làm nên đạo giáo từ trời này, mà còn được thể hiện nơi từng con người ta nữa. Thật vậy, nơi mỗi người đều có đủ 3 vai trò này, liên quan đến lương tâm của con người và ý chí của con người. Nếu vai trò tiên tri liên quan đến những sứ điệp chân thật và vai trò tư tế liên quan đến những gì là thiện hảo thì lương tâm bao gồm cả 2 vai trò này nơi con người, vì lương tâm luôn nhắc nhở con người làm những gì chân thật và thiện hảo. Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử cho thấy các vua thời Cựu Ước của dân Do Thái đã từng bất tuân các tiên tri thế nào, và vì thế đã sống bê bối tội lỗi bất xứng với Thiên Chúa là Đấng Thánh của họ, cũng như của dân Do Thái thế nào, thì ý chí đóng vai vương đế nơi từng người cũng thế, thường chống lại lương tâm, chống lại vai trò tiên tri và tư tế của lương tâm, mà sống theo đam mê nhục dục tính mê nết xấu là mầm mống nguyên tội, mà trở nên càng xấu xa tội lỗi như vậy. Bởi thế con người mới cần được cứu độ bởi Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng đã Vượt Qua sự chết mà vào sự sống, chẳng những đã tiêu diệt tội lỗi và sự chết nơi bản tính bị băng hoại của con người, mà còn thông ban cho họ sự sống và sự sống viên mãn hơn (xem Gioan 10:10).
Thật vậy, nhờ lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy Tái Sinh, Kitô hữu đã chẳng những được khỏi nguyên tội mà còn được thánh hóa, được tham phần vào bản tính thần linh của Thiên Chúa là Cha của mình, được sống sự sống thần linh trong Chúa Thánh Thần, nhờ đó, họ cũng được tham phần với Chúa Giêsu Kitô nơi 3 chức phận tiên tri, tư tế và vương đế (xem 1 Phêrô 2:9): "Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền". Kitô hữu là "hàng tư tế vương giả... để loan truyền những kỳ công của Người", tức Kitô hữu là thành phần con cái thánh hảo của Thiên Chúa Toàn Thiện Chí Thánh, chứ không còn làm nô lệ của vương quốc satan từ sau nguyên tội nữa, mà làm chủ tất cả mọi sự, cả bản thân mình lẫn trần gian, như một Đế Vương trong Vương Quốc được Chúa Kitô thiết lập trên trần gian này, nhờ đó, họ mới có thể "loan truyền", tức làm chứng cho LTXC là "những kỳ công của Chúa" nơi bản thân họ và qua họ cho phần rỗi của tất cả muôn dân cho đến tận cùng trái đất (xem Tông Vụ 1:8).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL
Ngày 17/12
Thứ Bảy
Lời Chúa
Bài Ðọc I: St 49, 2. 8-10
"Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa".
Bài trích sách Sáng Thế.
Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: "Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 3-4ab. 7-8. 17
Ðáp: Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người tới muôn đời (x. c. 7).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo. - Ðáp.
3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. - Ðáp.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 1-17
"Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Sala-thiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
nhập thể gia phả
Hôm nay, ngày 17 trong tháng 12 trong Tuần III Mùa Vọng, ngày đầu tiên của Tuần Bát Nhật trước đại lễ Giáng Sinh, một thời điểm sẽ kéo dài cho tới Đêm Vọng Phục Sinh 24/12.
Phụng niên của Giáo Hội chỉ có 2 đại lễ có Tuần Bát Nhật, đó là Đại Lễ Giáng Sinh và Đại Lễ Phục Sinh, được gọi là Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và Tuần Bát Nhật Phục Sinh, kể từ chính ngày của 2 đại lễ này. Tuy nhiên, cũng chỉ có 2 đại lễ này mới có thêm một tuần bát nhật đặc biệt trước chính đại lễ nữa.
Đúng thế, nếu Đại
Lễ Phục Sinh có Tuần Thánh, từ Chúa Nhật Lễ Lá mở màn cho Tuần Thương Khó và Tam
Nhật Vượt Qua bao gồm cả chính Chúa Nhật Phục Sinh là
8 ngày,
thì Đại Lễ Giáng Sinh cũng có tuần bát nhật trước,
kể từ ngày
17/12 đến hết 24/12 hay đến Đêm Vọng Giáng Sinh.
Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh là thời điểm sát với mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, nên bao gồm những Bài Phúc Âm liên quan trực tiếp đến mầu nhiệm và biến cố Giáng Sinh, vừa hướng đến vừa dẫn đến Giáng Sinh, như chúng ta sẽ thấy. Chẳng hạn Bài Phúc Âm hôm nay về gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế Giêsu Kitô.
Bài Phúc Âm hôm nay, nghe đọc có vẻ buồn chán, vì trong đó chất chứa toàn là tên với tên, và rất ư là đơn điệu, cứ lập đi lập lại cùng một công thức ngoại trừ thay tên của các nhân vật theo thứ tự được liệt kê trong gia phả. Thế nhưng, về nội dung lại rất ư là quan trọng và bất khả thiếu? Tại sao - vì chính gia phả này là chứng cớ hiển nhiên và hùng hồn nhất cho thấy có một nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét thật, có cha mẹ và tổ tiên trần gian đàng hoàng, chứ không phải là một nhân vật hoang đường, do loài người tạo tĩnh như trong tiểu thuyết hoặc thuộc dã sử.
Có hai gia phả được hai thánh ký thuật lại, nhưng hoàn toàn ngược chiều nhau. Gia phả thứ nhất được Thánh ký Mathêu ghi lại, và vì Phúc Âm của ngài được viết cho dân Do Thái nên gia phả ngài ghi lại để mở đầu của cuốn Phúc Âm của ngài (1:1-17), tính từ tổ phụ Abraham trở xuống dưỡng phụ Giuse của Chúa Kitô, còn gia phả được Thánh ký Luca thuật lại (3:23-38), và vì Phúc Âm của ngài viết cho dân ngoại, nên tính ngược lại từ chính chúa Giêsu về tới Adong là tổ tông của chung loài người.
Sở dĩ Giáo Hội không chọn gia phả trong Phúc Âm Thánh Luca, cho dù là chu kỳ phụng vụ Năm C, là vì gia phả của vị thánh ký này được liệt kê ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, chứ không phải ngay từ đầu trước khi Chúa Kitô sinh vào trần gian như Thánh ký Mathêu. Vả lại, Chúa Giêsu tuy mặc lấy chung bản tính loài người nhưng lại sinh ra bởi giòng dõi Do Thái, nên cần phải căn cứ vào gia phả liên quan đến huyết thống của Người nơi dân Do Thái, từ tổ phụ Abraham và vương phụ Đavít của Người.
Gia phả theo Thánh ký Mathêu trong Bài Phúc Âm hôm nay được chia làm 3 giai đoạn đều nhau, cứ 14 đời một giai đoạn, như chính bài Phúc Âm cho thấy: "Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời".
Ngoài chi tiết về đặc điểm có 3 giai đoạn đều nhau này, gia phả theo Thánh ký Mathêu trong bài Phúc Âm hôm nay còn có một đặc điểm khác nữa đó là bao gồm cả nữ giới thay vì chỉ có nam nhân như trong gia phả theo Thánh ký Luca. Mà thành phần nữ giới 5 vị này không phải toàn tòng Do Thái và hoàn toàn thánh đức. Chẳng hạn như 4 trong 5 phụ nữ au đây:
1- "Bà Thamar", vợ của Giuđa sinh ra Phares, đồng thời bà này cũng chính là con dâu góa chồng của tổ phụ Giuđa, đã đánh lừa để ăn nằm với chính bố chồng của mình vì ông không giữ lời hứa gả đứa con trai thứ ba cho cô (xem Khởi Nguyên 38:1-30);
2- "Bà Rahab", vợ của Salmon sinh ra Boaz, ông cố tổ của Vua Đavít, vốn là một con điếm thuộc dân ngoại, người đã từng cứu các thám tử của dân Do Thái dò tham Đất Hứa và đang bị truy lùng (xem Gioduệ 2:1-24);
3- "Bà Ruth", vợ của ông Boaz sinh ra Giobed là ông nội của Vua Đavít, là một người đàn bà xuất thân từ dân ngoại (xem Ruth 1:1-22);
4- "Vợ của Uria", vợ của Vua Đavít sinh ra Vua Solomon, người đàn bà đã ăn nằm với Vua Đavít khi chồng còn sống khi được vua triệu vào cung (xem 2Samuel 11:1-27).
Như thế, trong 5 người phụ nữ được liệt kê tên trong gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế này, 2 thuộc dân ngoại và 2 không trong sạch (ngoại tình), đúng hơn là 3 vì có một phụ nữ vừa dân ngoại vừa làm điếm nữa, chỉ có một mình Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu trọn đời trinh nguyên. Chúng ta có thể đặt vấn đề là tại sao Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa lại được sinh ra bởi một giòng dõi bao gồm những người nữ chẳng những thuộc dân ngoại mà còn không trong sạch nữa?
Xin thưa, vì là giòng dõi loài người mắc nguyên tội không thể nào tránh khỏi những gì là xấu xa gây ra bởi mầm mống nguyên tội, và vì thế bản tính bị hư hoại bởi nguyên tội mới cần phải được cứu chuộc bằng việc chính Con Thiên Chúa làm người mặc lấy. Tuy nhiên, chính nhân tính của Người được sử dụng như phương tiện bất khả thiếu để cứu chuộc nhân loại lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng huyết thống hư hoại tội lỗi này. Vì Người được thụ thai và hạ sinh bởi một trinh nữ và bởi quyền phép Thánh Linh chứ không phải bởi huyết nhục loài người.
Bài Đọc 1 hôm nay ghi lại lời tổ phụ Giacóp trước kia qua đời đã nói tiên tri về Giuđa là đứa con trai thứ tư trong 12 người con trai của ông, vì Đấng Thiên Sai Cứu Thế được xuất phát từ chi họ Giuđa này:
"Ngày ấy, Giacóp triệu tập con cái lại và nói rằng: 'Hỡi con cái Giacóp, hãy hợp lại và nghe cha đây. Hỡi nhà Israel, hãy nghe lời cha của các con. Giuđa, anh em con sẽ ca tụng con. Bàn tay con sẽ đè trên ót quân thù; con cái của cha con sẽ phục lạy con. Giuđa là sư tử con, hỡi con của cha, con đã chồm lên bắt mồi, con đã nằm xuống nghỉ ngơi, như giống sư tử đực, tựa nòi sư tử cái, ai dám khiêu khích nó? Phủ việt sẽ không cất khỏi Giuđa, gậy chỉ huy không rời khỏi chân nó, cho đến lúc Ðấng thiên sai ngự đến, là Ðấng chư dân đợi trông'".
Bài Đáp Ca hôm nay cũng hướng về Đấng Cứu Thế Thiên Sai được gọi là "hoàng tử", một vị hoàng tử hòa bình với một triều đại vô cùng bất tận:
1) Lạy Chúa,
xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng
tử, để người xét đoán dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách
chính trực.
2) Núi non đem an hoà cho dân, và nổng đồi mang lại đức công chính. Người bênh chữa kẻ hèn trong dân, và cứu thoát con cái nhóm nghèo.
3) Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất.
4) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người.
Lạy Đấng Cứu Tinh, xin ngự đến,
Từ lòng Trinh Nữ, khấng ra đời !
Hoàng Thiên giáng thế : ôi huyền diệu !
Chỉ có Chúa làm mới được thôi.
Chẳng do ý định của nam nhân
Nhưng bởi quyền năng Chúa Thánh Thần,
Thiên Chúa Ngôi Lời đầu thai xuống
Làm con Thánh Mẫu, Đấng đầy ơn.
Lặng lẽ âm thầm, cảnh thai nhi,
Cao sang Thiên Tử, trọng ai bì,
Trời cao đổi lấy lòng Trinh Nữ
Để làm bệ ngọc Chúa uy nghi.
Mong mỏi tháng ngày mau thấm thoát,
Vua rời thánh điện, bỏ hoàng cung,
Lê dân nhìn mặt Ngôi Thánh Chúa
Đến ở trần gian, thật lạ lùng.
Ngang hàng Thượng Đế, Ngài không quản
Làm kẻ tôi đòi giữa phàm nhân.
Thân phận chúng con hèn yếu quá,
Chúa thương nâng đỡ kiếp phong trần.
Máng cỏ giờ đây rực sáng ngời,
Đêm tàn, ngày mới đã lên ngôi ;
Cho ngày khỏi bị đêm lấn lướt,
Xin giãi niềm tin tựa mặt trời.
Mừng ngôi Thánh Tử xuống trần gian,
Đấng nắm quyền Vua cõi thiên đàng,
Cùng với Thánh Linh và Thánh Phụ
Muôn đời chung hưởng phúc vinh quang.
Đã vang dội lời của bao ngôn sứ
Loan tin mừng Con Chúa đến trần gian,
Vị Cứu Tinh giờ đây đã tới gần
Sẽ giải thoát, đưa ta vào cõi phúc.
Và sáng nay lúc vầng hồng đỏ rực,
Niềm hân hoan dâng tràn ngập tấm lòng,
Khi rõ ràng nghe vọng khắp thinh không
Lời tiên báo ngày hiển vinh sắp tới.
Giáng lâm này, cuộc giáng lâm tiên khởi,
Lượng từ bi không nhắm phạt địa cầu,
Nhưng một niềm xoa dịu vết thương đau,
Tội nhân thế, Người ra tay cứu chữa.
Một mai Chúa giáng lâm lần chót nữa,
Đích thân Người ngự trước cửa nhà ta,
Kẻ trung kiên, bậc thánh đức hiền hoà
Được ân thưởng, được dẫn vào Nước Chúa.
Ôi chan chói, ánh hào quang muôn thuở,
Ôi huy hoàng, muôn tấc dạ lâng lâng,
Vị Cứu Tinh sẽ xuất hiện rỡ ràng,
Cho chung hưởng đời phúc vinh thiên giới.
Ôi Giê-su, chúng con hằng mong đợi
Một ngày nào được chung hưởng Thánh Nhan,
Giữa hoa hương và ánh sáng muôn vàn
Cùng nhã nhạc muôn đời không chấm dứt.
Ma-ri-a, lạy Nữ Trinh diễm phúc,
Xin mở lòng thanh tịnh tiếp rước vào,
Đón Ngôi Lời, Con Một Đấng Tối Cao
Sai xuống thế cứu loài người đau khổ.
Từ thiên giới, bóng Thánh Thần che phủ,
Mẹ đã cưu mang Con Đấng Cửu Trùng
Là Đức Ki-tô, Chúa Tể vô song,
Từ muôn thuở cùng Ngôi Cha hiển trị.
Mẹ là chính ngọ môn đền hùng vĩ,
Bao tháng năm vẫn cửa đóng then cài,
Nhưng tới ngày Vị Thánh Tử Ngôi Hai,
Người ngự đến : cửa đền vàng rộng mở.
Đấng sinh ra trước vầng hồng rực rỡ
Các ngôn sứ thuở xưa đã loan truyền,
Gáp-ri-en thần sứ cũng đưa tin
Đấng ở với loài người là Đức Chúa.
Ca lên hỡi triều thần, ca lên nữa !
Nào reo vui nhảy múa, hỡi muôn dân !
Đấng Chí Tôn giờ đây đã giáng trần
Nên bé nhỏ hầu cứu nhân độ thế.
Con sấp mình lạy Ngôi Lời nhập thể,
Ngài là Vua bên hữu Chúa Ngôi Cha,
Cùng Thánh Linh hằng ngự chốn thiên toà,
Xin dâng Chúa lời tụng ca muôn thuở.
Bí tích giao hoà của chúng ta
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 17/12 Bài đọc 2
Trích thư của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.
Nói rằng Chúa chúng ta là con Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là con người thật sự và trọn vẹn, mà không tin Người là một con người thuộc dòng giống loài người, như Tin Mừng công bố, thì chẳng ích lợi gì.
Thật vậy, thánh Mát-thêu viết : Gia phả của Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Như thế, thánh nhân theo thứ tự gia phả đi từ các thế hệ nối tiếp nhau cho đến thánh Giu-se, người đã thành hôn với Mẹ của Chúa.
Còn thánh Lu-ca lại đi ngược lên các thế hệ kế tiếp nhau, cho đến chính ông tổ của loài người, nhằm chứng minh A-đam tiên khởi và A-đam cuối cùng có chung một bản tính.
Dĩ nhiên, để dạy dỗ và làm cho loài người nên công chính, Con Thiên Chúa đã có thể biểu lộ quyền năng tuyệt đối của mình như xưa kia Thiên Chúa đã biểu lộ cho các tổ phụ và ngôn sứ qua hình dạng xác phàm : chẳng hạn giao đấu với ông Gia-cóp, đàm đạo với ông Áp-ra-ham, chấp nhận để cho ông đón tiếp, thậm chí còn dùng các món ăn ông thết đãi nữa.
Nhưng những cuộc xuất hiện như thế là những dấu chỉ của một con người. Những hình ảnh có tính cách tượng trưng của con người đó báo trước một thực tại. Đó là thực tại con người đó sẽ nhận lấy khi trở thành con cháu của các tổ phụ kia.
Và chính vì thế, chẳng có hình ảnh nào trong số những hình ảnh đó hoàn tất được mầu nhiệm giao hoà của chúng ta, tuy mầu nhiệm này đã được chuẩn bị từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trên Đức Trinh Nữ, và quyền năng của Đấng Tối Cao chưa rủ bóng trên Người. Phải như vậy, trong cung lòng tinh khiết, nơi Đức Khôn Ngoan xây cất nhà mình, Ngôi Lời mới thành xác phàm. Và cũng phải như vậy, khi bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại hợp nhất trong một ngôi vị, thì Đấng sáng tạo nên thời gian mới sinh ra trong thời gian, Đấng nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, mới được sinh ra giữa muôn loài thụ tạo.
Vì nếu con người mới này mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta, không mặc lấy thân phận cũ nát của chúng ta, nếu Đấng đồng bản thể với Chúa Cha đã chẳng đoái thương nên đồng bản thể với Mẹ Người, và nếu Người -Đấng duy nhất không mắc tội- không liên kết với bản tính của chúng ta, thì toàn thể nhân loại vẫn còn bị giam cầm dưới ách nô lệ ma quỷ và chúng ta cũng chẳng được hưởng gì do chiến thắng của Đấng đã khải hoàn, nếu như chiến thắng ấy đã diễn ra bên ngoài bản tính chúng ta.
Nhờ sự tham dự lạ lùng vào bản tính nhân loại, bí tích tái sinh đã toả sáng trên chúng ta : nhờ Thánh Thần, Đức Ki-tô đã thành hình trong lòng mẹ và sinh ra ; cũng nhờ chính Thánh Thần mà chúng ta lại được sinh ra từ một nguồn gốc thiêng liêng.
Vì thế, tác giả sách Tin Mừng đã nói về những người tin : Không phải do khí huyết, cũng chẳng phải do ý muốn của phái nam, nhưng chính Thiên Chúa đã sinh ra họ.
Từ ngàn xưa Chúa Cha đã sắp đặt chương trình cứu độ dân Người. Chúng ta hãy dâng lời nguyện xin :
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con.
Chúa đã hứa ban Đức Ki-tô, Đấng thánh hoá mọi người, - xin làm cho Giáo Hội ngày càng nên thánh.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con.
Xin uốn nắn lòng người biết sẵn sàng đón nghe Lời Chúa, - và củng cố tín hữu trong cuộc đời thánh thiện.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con.
Xin Thánh Thần Chúa giữ gìn chúng con trong tình bác ái, - để trong ngày Con Chúa ngự đến, chúng con đáng được Người xót thương.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con.
Lạy Chúa nhân từ, xin giúp chúng con được vững lòng bền chí, - mãi đến ngày Chúa Ki-tô vinh hiển giáng lâm.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con.
Chúa Giê-su là đường đi, là sự thật, là nguồn sống. Ta hãy tha thiết nài van Người mau đến cứu chuộc ta, và hãy thưa rằng :
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Chúa Giê-su là Con Đấng Tối Cao, chính sứ thần Gáp-ri-en đã báo cho Trinh Nữ Ma-ri-a biết tin Chúa mặc lấy xác phàm, - xin ngự đến lãnh đạo dân Chúa mãi mãi.
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Đấng Thánh Chúa Trời sai đến, trước nhan Chúa, vị tiền hô đã nhảy mừng lúc còn trong dạ mẹ, - xin ngự đến ban niềm vui cứu độ cho khắp cõi trần hoàn.
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Chúa Giê-su là Đấng cứu chuộc loài người, chính thiên sứ đã cho thánh Giu-se biết được danh hiệu của Chúa, - xin ngự đến cứu thoát dân Chúa khỏi xích xiềng tội lỗi.
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Chúa là ánh sáng trần gian, ông Si-mê-on và mọi người công chính đã từng đợi trông Chúa, - xin ngự đến an ủi chúng con.
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Chúa là vầng hồng bất biến, tự trời cao đã thăm viếng chúng con, như lời ông Da-ca-ri-a đã tiên báo, - xin ngự đến chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối tử thần.
Xin Chúa đến ở cùng chúng con.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành và cứu chuộc nhân loại, Chúa đã muốn Ngôi Lời mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Giờ đây, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn : ước gì Con Một Chúa đã làm người như chúng con, cũng cho chúng con được làm con Chúa như Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, này chúng con đang quằn quại dưới ách nô lệ tội lỗi từ ngàn xưa lưu truyền, xin cho mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Chúa đem lại cho chúng con ơn giải thoát và canh tân như chúng con hằng mong đợi. Chúng con cầu xin
Ngày 18/12
Chúa Nhật IV Mùa Vọng
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này trinh nữ sẽ thụ thai".
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa".
Và Isaia nói: "Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh (x. c. 7c và 10b).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 1, 1-7
"Ðức Giêsu, thuộc dòng dõi vua Ðavít, là Con Thiên Chúa".
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Phaolô, tôi tớ Chúa Giêsu Kitô, đã được kêu gọi làm Tông đồ và đã được tuyển chọn để rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi dòng dõi Ðavít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần, đã sống lại từ cõi chết. Ðó chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi.
Tôi chúc tất cả mọi người trong thành Rôma được Thiên Chúa yêu mến và kêu gọi nên thánh, được ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô là Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 1, 21
Alleluia, alleluia! - Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 18-24
"Chúa Giêsu sinh ra bởi Ðức Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội".
Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa bao gồm 2 Bài Đọc 1 và 2 cùng với bài Đáp Ca và bài Phúc Âm như mọi Chúa Nhật khác trong phụng niên. Tuy nhiên, vì Chúa Nhật IV Mùa Vọng thường rơi vào một ngày trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh, từ ngày 17 đến đêm vọng Giáng Sinh 24/12, nên Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm 2016 là ngày 18/12, tức ngày thứ hai trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh. Ngoài ra, chu kỳ phụng niên từ Mùa Vọng năm 2016 thuộc về chu kỳ phụng niên Năm A, năm theo Phúc Âm Thánh ký Mathêu, bởi thế, bài Phúc Âm theo Thánh mathêu cũng chính là bài Phúc Âm cho ngày 18/12, chỉ có Bài Đọc 1 và 2 cùng bài Đáp Ca là khác.
Đúng
thế, bài Phúc Âm Chúa Nhật IV
Mùa Vọng Năm A cũng chính là bài cho ngày 18/12 trong Tuần Bát Nhật tiền Giáng
Sinh hôm
nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 17/12. Vì
bài Phúc Âm 17/12 ghi lại gia phả của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, từ tổ phụ
Abraham tới dưỡng phụ Giuse của Người, và hôm nay về chính vị dưỡng phụ
Giuse này.
"Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn
với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh
Thần. Giuse bạn của Bà là người công chính, không muốn tố cáo Bà, định tâm
lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thiên thần Chúa
hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: 'Hỡi Giuse, con vua Ðavít, đừng ngại
nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần:
Bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu
dân mình khỏi tội'".
Theo gia phả
của Đấng Thiên Sai, như chúng ta đã thấy, trong 5 người phụ nữ được liệt kê,
có đến 3 người không trong sạch liên quan đến chuyện xác
thịt: 1 con điếm
dân ngoại và 2 người vợ ngoại tình, còn 1 người nữa là dân ngoại cũng kể như
không trong sạch trước mắt
dân Do Thái. Trường
hợp của người đàn bà thứ năm là Maria, theo con mắt tự nhiên nói chung, nhất
là trước con mắt của người chồng đã đính hôn của nàng là Giuse vốn là một "con
người công chính" thì
kể như nàng thậm chí còn tệ hơn nữa, vì nàng là
người vợ chưa cưới nhưng đã "chửa hoang"!
Chính trong
trường hợp này, trường
hợp thật sự là bất khả chấp trước con mắt thế gian nói chung và những ai
"công chính" nói riêng, như người chồng chưa cưới Giuse của nàng Maria, một
con người luôn
hết mình coi
trọng và hết sức tuân
giữ lề luật của Chúa với lương
tâm chân chính, thì
nàng Maria, đáng lẽ theo luật, cần phải bị tố
cáo và bị ném đá chết, như trường hợp của người đàn bà bị bắt quả tang phạm
tội ngoại tình ở Phúc Âm Thánh Gioan (xem 8:1-11).
Thế nhưng,
Thiên Chúa là Đấng vô cùng khôn ngoan thượng trí đã cố ý muốn,
(chứ không
phải làm ngơ để xẩy ra như vậy), câu
chuyện tình duyên của hai con người phải nói là thánh thiện nhất loài
người được Ngài liên kết trong tình nghĩa vợ chồng đây xẩy
ra một
cách vô cùng oái oăm oan nghiệt như
vậy. Để
làm gì? Phải
chăng chỉ để
khách quan cho thấy rằng: Đấy nhé, Đấng Thiên Sai là Con của Ngài được
Ngài sai
xuống trần gian hoàn toàn được "thụ
thai bởi phép Chúa Thánh Thần", chứ
"không phải bởi huyết nhục, bởi ý
muốn nhục
dục, hay bởi ý muốn của nam nhân" (Gioan 1:13).
Ở đây, ngay trong
trường hợp này, chúng ta đã thấy được bóng
thánh giá của Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, ở chỗ, vừa mới được thụ thai được ít
lâu, khoảng hơn 3 tháng, tức sau
biến cố thai mẫu của Người đi thăm viếng người chị họ Isave về (xem Luca
1:56), đã bị coi như là một đứa "con hoang" trước mắt trần gian, cùng
với người
mẹ đồng công của Người, cũng bị coi như là
một người vợ chưa cưới "chửa
hoang" theo cảm nghĩ của người đời.
Thế nhưng, chính vì
là việc của Thiên Chúa, mà cho
dù nàng
Maria có
linh cảm được
cái nguy hiểm gây ra bởi những bất hạnh theo luật có
thể xẩy ra cho nàng, vì trong thời gian đính hôn, có
những lúc nàng
không thể nào tránh né được chuyện gặp mặt vị hôn phu chưa cưới của nàng, nàng
vẫn nhất định không
hề đính chính hay tự vệ tí nào, trái
lại vẫn tiếp tục hoàn
toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, như nàng đã tin tưởng đến độ vô cùng liều
lĩnh khi đáp lời truyền tin của thiên
sứ Gabiên trong việc chấp
nhận thụ thai "Con Đấng
Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35).
Quả thật, vì
là việc của Thiên Chúa, nên chính Ngài đã ra tay can thiệp cho Con của Ngài
cũng là cho
người nữ đã được Ngài tuyển chọn từ đời đời làm người mẹ
trinh nguyên
thụ thai, cưu mang và hạ sinh Con
của Ngài trên trần gian, như được
bài Phúc Âm hôm nay thuật lại.
Việc Thiên Chúa can
thiệp đây đồng thời cũng là việc Thiên Chúa muốn cứu cả vị hôn phu chưa cưới
của người mẹ đồng công và
là vị dưỡng
phụ tương lai của
người con
cứu chuộc này, một con người công chính đã
có một quyết định, theo chủ quan, thật
là bác ái yêu
thương,
mặc
dù, theo khách quan, vẫn có thể nguy hại cho người vợ chưa cưới của
ngài, ở
chỗ, khi nàng sinh con mà lại không thấy chồng nàng đâu, nàng cũng
bị ném đá chết thôi.
Và như thế, tất cả những gì được tiên
báo về hai mẹ con được Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã tiền định
cùng nhau mang lại Ơn Cứu Độ cho trần gian (xem Khởi Nguyên 3:15) hoàn
toàn được ứng nghiệm, chẳng những nhờ lòng
tin của người mẹ mà còn nhờ đức
công chính theo tinh thần bác ái yêu thương hơn là duy
luật của vị dưỡng phụ
nữa, một cặp vợ chồng thật lý
tưởng của Con
Thiên Chúa làm người, như được
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Tất cả sự
kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa
rằng: 'Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta
sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'. K
Biến cố và sự kiện Đấng Thiên Sai Cứu Thế xuất hiện trên trần gian này không thể nào không xẩy ra, đúng như lời Thiên Chúa đã hứa với hai nguyên tổ ngay sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). Bởi thế, không có gì có thể gây trở ngại hay làm hỏng chuyện này, như trường hợp được Phúc Âm hôm nay ghi lại ở phần đầu.
"Lời tiên tri phán xưa", được Thánh ký Mathêu là tác giả Phúc Âm thứ nhất viết cho dân Do Thái nên bao giờ ngài cũng dẫn chứng Cựu Ước để cho dân Do Thái thấy rằng Nhân Vật Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Đức Kitô Thiên Sai của họ, chính là lời tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: 'Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!' Nhưng vua Achaz thưa: 'Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử thách Chúa'. Và Isaia nói: 'Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'".
Trong Bài Đọc 2 chính vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cũng xác tín và loan báo cho Kitô hữu Roma về xuất xứ của một Đức Kitô Thiên Sai Cứu Thế là Đấng đã được tiên báo trước trong Cựu Ước qua "các vị tiên tri", vì Người được hạ sinh theo huyết nhục Do Thái "bởi dòng dõi Đavít", đúng như gia phả của Người được Phúc Âm Thánh ký Mathêu ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay, Đấng "chính là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người, chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy phục mọi dân tộc về Ðức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu đã kêu gọi".
Vì "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) nên con người không thể nào biết Ngài nếu chính Ngài không tỏ mình ra cho họ. Mầu nhiệm Nhập Thể là tác động thần linh tỏ mình ra của Thiên Chúa "vào lúc thời gian viên mãn" (Galata 4:4), "vào thời sau hết" (Do Thái 1:2), sau khi "chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh... ngự qua", như câu thưa của Bài Đáp Ca hôm nay, "ngự qua" bằng những cách thức khác nhau cho các vị cha ông trong Cựu Ước (xem Do Thái 1:1). Nếu Ngài không nhập thể thì loài người thấp hèn hữu hình hữu hạn tự mình không thể nào biết được Ngài là ai và như thế nào.
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) chăng nữa, nơi Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, chung loài người và riêng dân Do Thái của Ngài, có thể nói, lại càng khó có thể nhận biết Ngài, nhận ra Ngài nơi một con người thấp hèn như họ: "Ngài đã ở trong thế gian và nhờ Ngài mà thế gian đã đưọc tạo thành nhưng thế gian lại không nhận biết Ngài là ai. Ngài đã đến với dân riêng của Ngài nhưng dân riêng của Ngài không chấp nhận Ngài" (Gioan 1:10-11).
Vậy thì chẳng lẽ Thiên Chúa nhập thể là thực hiện một việc hoàn toàn sai lầm, bất khôn và thất sách, gây hại hơn là tác lợi hay sao? Câu trả lời cho vấn nạn nạn giải này có thể tìm thấy ngay trong Bài Đáp Ca hôm nay, trong đó, Thánh Vịnh gia trước hết đã xác tín và tuyên ngôn về đức khôn ngoan và quyền toàn năng của Vị Thiên Chúa Hóa Công tối cao rằng: "Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả (ám chỉ quyền năng), và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn (ám chỉ khôn ngoan)" (câu 1).
Vì Nhập Thể cho dù bề ngoài có là một biến cố lịch sử có thật, với những nhân vật lịch sử, như được liệt kê trong gia phả của Chúa Giêsu Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua 17/12 chăng nữa, nhất là đối với riêng cha mẹ trần gian của Người, nhưng tự bản chất là một mầu nhiệm, được Bài Đáp Ca ám chỉ như là một "cao sơn của Chúa", là "nơi thánh của Ngài" (câu 2), chỉ có thể nhận biết bằng "đức tin tuân phục" (Roma 1:5) mà thôi: "Ai chấp nhận Ngài thì Ngài ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Chính vì Nhập Thể là một mầu nhiệm vô cùng cao siêu, vượt tầm mức kiến thức hạn hẹp của con người vốn hướng hạ và gian ác mà, theo Thánh Vịnh gia của Bài Đáp Ca hôm nay, muốn cảm nhận và chấp nhận mầu nhiệm nhập thể này, tức là muốn "trèo lên cao sơn của Chúa" và muốn "đứng trong nơi thánh của Ngài", hay nói đúng hơn, muốn "tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp" (câu 3), họ cần phải là những con "người có bàn tay (ám chỉ việc làm) vô tội và tấm lòng (ám chỉ ý hướng) thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa", những con người được tiêu biểu nhất trong thành phần này đó là Mẹ Maria trinh nguyên và Bõ Giuse công chính, cha mẹ trần gian của Con Trẻ Giêsu.
Thiên Chúa đã mặc khải tình yêu của Người qua Chúa Con
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 18/12 Bài đọc 2
Trích thư gửi cho Đi-ô-nhê-tô.
Không ai trong loài người đã nhìn thấy Thiên Chúa, cũng chẳng ai đã biết Người. Chính Thiên Chúa đã tỏ mình ra. Người đã tỏ mình ra qua trung gian đức tin là phương thế duy nhất để nhìn thấy Thiên Chúa. Vì chưng Thiên Chúa là Chủ Tể và là Đấng làm nên vạn vật, chính Người đã làm nên vạn vật và sắp đặt cho mỗi vật có một trật tự riêng. Người không chỉ yêu thương nhân loại mà thôi, nhưng còn kiên nhẫn chịu đựng họ. Xưa Người đã luôn luôn xử sự như thế, nay vẫn như vậy và sau này cũng sẽ như thế : nhân từ, tốt lành, không giận dữ, chân thật. Duy một mình Người tốt lành. Khi cưu mang điều gì lớn lao và khôn tả trong trí, Người chỉ thông truyền cho Chúa Con mà thôi.
Vậy bao lâu Người còn giữ kín, còn để ý định khôn ngoan của Người trong vòng bí mật, thì xem ra như Người lơ là, chẳng săn sóc gì đến chúng ta. Nhưng một khi, nhờ Con yêu dấu, Người mặc khải và bộc lộ những gì đã được chuẩn bị từ lúc khởi đầu, thì đồng thời Người cũng tặng ban cho chúng ta tất cả : cho thừa hưởng các ân huệ của Người, cho xem và hiểu biết ; có ai trong chúng ta dám mong đợi những điều ấy bao giờ ?
Vì thế, sau khi đã sắp đặt mọi sự nơi chính mình cùng với Chúa Con, cho tới thời cuối cùng này, Người vẫn để những thúc đẩy hỗn độn lôi kéo chúng ta theo ý muốn riêng, để cho những ham muốn và đam mê lôi kéo chúng ta ra khỏi đường ngay nẻo chính. Làm như vậy, không phải vì Người vui thích gì tội lỗi chúng ta, nhưng Người tỏ ra khoan dung, chứ chẳng phải Người muốn chấp nhận thời kỳ của tội ác. Nhưng hiện nay Người thiết lập thời kỳ của đức công chính. Nếu trong thời gian trước chúng ta có bị các việc làm bất xứng với sự sống chế ngự, giờ đây Thiên Chúa lại đoái thương cho chúng ta được sống. Và một khi chúng ta thấy rõ : do sức riêng mình chúng ta không thể vào Nước Thiên Chúa được, thì Thiên Chúa lại dùng quyền năng của Người mà ban cho chúng ta khả năng ấy.
Nhưng khi sự bất chính của chúng ta lên đến cực điểm, và khi rõ ràng là phần dành cho sự bất chính, tức là hình khổ và cái chết đã kề bên, thì đã đến thời Thiên Chúa đã ấn định để bày tỏ lòng nhân từ và quyền năng (ôi tình thương và lòng yêu mến của Thiên Chúa đối với con người bao la biết mấy !). Người đã không ghét bỏ, không xua đuổi cũng không oán hờn chúng ta, nhưng hằng kiên nhẫn, chịu đựng. Vì thương xót, chính Người đã nhận lấy tội lỗi chúng ta, đã nộp Con của mình làm giá cứu chuộc chúng ta : Đấng Thánh đền thay cho tội nhân, Đấng không hề làm điều ác chịu thay cho những kẻ gian ác, Đấng Công Chính chịu thay cho những kẻ bất chính, Đấng không hề hư hỏng chịu thay cho những kẻ hư hỏng, Đấng không thể chết chịu thay cho những kẻ phải chết. Nào có gì che lấp được tội lỗi chúng ta, nếu không phải là sự công chính của Người ? Nhờ ai mà chúng ta, những kẻ gian ác và vô đạo, có thể được nên công chính, nếu không phải là nhờ duy mình Con Thiên Chúa ?
Ôi cuộc trao đổi mới kỳ diệu làm sao, sự sắp đặt thật khôn dò khôn thấu, những kỳ công vượt quá lòng mong đợi ! Tội ác của muôn người được chôn vùi trong sự công chính của một người, còn sự công chính của một người lại làm cho muôn người bất chính nên công chính !
Ngày 19/12
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Judic 13, 2-7, 24-25a
"Thiên Thần báo trước việc Samson sinh ra".
Bài trích sách các Thẩm Phán.
Ngày ấy có một người đàn ông, bởi đất Sara và thuộc chi họ Ðan, tên là Manuel, có người vợ son sẻ.
Thiên Thần Chúa hiện ra nói với bà ấy rằng: "Ngươi son sẻ không con; nhưng sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai.
Vậy ngươi hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch.
Vì ngươi sẽ được thụ thai, và hạ sinh một con trai.
Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó; nó là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ; chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel khỏi tay người Phi-li-tinh."
Bà nầy đi nói với chồng rằng: "Có một người của Thiên Chúa đến cùng tôi, với diện mạo Thiên Thần, rất đáng sợ.
Tôi hỏi người ấy là ai, bởi đâu đến, gọi tên gì.
Người ấy không muốn nói cho tôi biết.
Nhưng lại trả lời rằng: "Rồi đây, ngươi sẽ được thụ thai và hạ sinh một con trai: hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch.
Vì con trẻ sẽ là người được hiến dâng cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ trong lòng mẹ, cho đến ngày nó chết".
Bà đã hạ sinh một con trai, và gọi tên là Samson.
Hài nhi lớn lên, và Chúa đã chúc phúc cho nó.
Và thần tri Chúa bắt đầu ở với nó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 70, 3-4a, 5.6ab, 16-17
Ðáp: Xin cho miệng tôi chứa chan lời khen ngợi, để tôi ca tụng vinh quang của Chúa.
Xướng 1) Lạy Chúa, xin hãy nên núi đá trú ẩn và thành trì kiên cố cho tôi, để cứu tôi: Vì Chúa là núi đá và thành trì của tôi. Lạy Chúa, xin giựt tôi khỏi bàn tay gian ác. - Ðáp.
2) Vì Chúa là Ðấng tôi mong đợi, lạy Thiên Chúa của tôi! Lạy Chúa là Ðấng tôi cậy trông, từ thời còn niên thiếu. Từ lòng mẹ, tôi nương tựa nơi Chúa, từ dạ mẹ, Chúa là Ðấng bảo vệ tôi. - Ðáp.
3) Tôi sẽ thuật lại quyền năng Thiên Chúa, lạy Chúa, tôi ghi nhớ sự công chính của một mình Chúa, lạy Chúa, Chúa đã dạy tôi từ thời còn niên thiếu, các kỳ công Chúa, tôi cao rao đến bây giờ. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia - Hỡi gốc Giê-sê, Chúa đang đứng như báo hiệu của chư dân, xin hãy đến cứu thoát chúng tôi, và đừng trì hoãn nữa.- Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 5-25
"Thiên Thần Gabriel báo trước việc Gioan Tẩy Giả sinh ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth.
Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì.
Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương.
Ðang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương.
Bấy giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án.
Giacaria thấy vậy hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng: "Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi.
Elisabéth vợ ngươi sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan.
Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra.
Vì trẻ nầy sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa.
Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị.
Giacaria thưa với Thiên Thần rằng: "Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng đã cao niên?"
Thiên Thần liền đáp: "Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy.
Thì đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng".
Dân chúng đang trông đợi Giacaria, lấy làm lạ vì ông ở lâu trong cung thánh.
Nhưng lúc ra, ông không nói được, và họ biết ông đã thấy điềm lạ trong cung thánh.
Còn ông thì chỉ làm hiệu cho họ, và vẫn bị câm.
Khi những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà.
Sau những ngày ấy, Elisabéth vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: "Chúa đã làm cho tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người đời.
Ðó là lời Chúa.
Thụ thai cách lạ
Ngày
19/12 trong Tuần Bát Nhật trước Giáng Sinh hôm nay, bài
Phúc Âm theo Thánh ký Luca ghi lại biến
cố truyền tin về
sự kiện thụ
thai cách lạ của một con người đươc tiền định đóng
vai trò làm tiền hô cho Đấng
Thiên Sai Cứu Thế, một
con người thuộc giòng dõi Levi có cha mẹ sống công chính trước mặt Chúa cho dù
các
vị son
sẻ không con:
"Vào thời
Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Giacaria, thuộc phiên ban Abia, và
vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước
mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được
điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi
già".
Tình
trạng son sẻ của cặp vợ chồng công chính này cũng không ngoài ý định của Thiên
Chúa trong việc xuất hiện một con người cao trọng nhất được người nữ sinh ra,
như được
chính Chúa Giêsu
khẳng định trong bài Phúc Âm Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng tuần trước. Vì nhân vật
lịch sử này sẽ đóng vai trò trung gian giữa Cựu Ước
và Tân Ước như một vị "tiên tri của Đấng Tối Cao" được
sai đến để dọn đường
cho Chúa Kitô xuất hiện (xem
Luca 1:76), Đấng
cao trọng hơn ngài nhưng lại xin ngài làm
phép rửa cho, chẳng khác nào như làm cha
thiêng liêng của Người.
Vì vai trò cao
trọng này khiến nhân vật tiền hô trở thành đệ nhất
thiên hạ ấy
cần phải được xuất thân một cách lạ lùng, bắt đầu bằng biến cố truyền tin tương
tự như trường hợp truyền
tin của Đấng đến
sau ngài, với
cùng một vị tổng thần Gabiên, như được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:
"Xảy ra khi
Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình
như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng
hương. Ðang
lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy
giờ Thiên Thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy
hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Nhưng Thiên Thần nói với ông rằng:
'Giacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi
sẽ hạ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên trẻ là Gioan. Ngươi sẽ
được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc trẻ sinh ra".
Thật
vậy, vì được tiền định đóng vai tiền hô cho chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một
vai trò có thể nói còn cao trọng hơn cả vai trò làm dưỡng
phụ của Người, vị
dưỡng phụ dù sao cũng không được truyền tin trước khi được thụ thai một
cách long trọng như vị tiền hô này, với những lời lẽ tiên
báo thật
trịnh trọng về
một thiên chức hầu
như không
ai bằng:
"Vì trẻ nầy
sẽ nên cao trọng trước mắt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn
đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là
Thiên Chúa. Trẻ nầy sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Elia, để
đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngổ nghịch về lại với lương tri của
những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị'".
Không
biết có phải vì lời lẽ có vé "quá đáng" và thái độ có vẻ quá "trịnh trọng" của
vị thiên sứ bấy giờ đã khiến cho người cha tư tế Giacaria này cảm thấy hồ nghi
không thể nào tin được rằng mình lại diễm phúc đến như thế hay chăng, nên mới
xẩy ra chuyện chính ông
trở thành chứng cớ về những gì chân thật liên quan đến con ông đúng như lời sứ
thần truyền:
"Giacaria thưa
với Thiên Thần rằng: 'Làm sao tôi biết được, vì tôi đây đã già, và vợ tôi cũng
đã cao niên?' Thiên
Thần liền đáp: 'Ta là Gabriel, ta đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, ta được sai
đến nói với ngươi, và báo cho ngươi tin lành nầy. Thì
đây, ngươi sẽ nín câm và không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra; bởi vì
ngươi đã không tin lời ta, là những lời sẽ nên trọng khi đến thời của chúng'".
So với trường hợp của
Mẹ Maria trong biến cố truyền
tin Ngôi Lời Nhập Thể thì thực
sự là vị tư
tế Giacaria này đã vì không tin mà bị phạt câm. Ở chỗ, thứ nhất, ông và vợ ông
xin cho được một người con, trong khi đó Mẹ Maria lại muốn giữ mình đồng trinh,
không hề ham ước muốn làm Mẹ Đấng Thiên Sai như các phụ nữ Do Thái thời
Cựu Ước khác. Ấy
thế mà khi được thiên sứ hiện ra trong đền thờ linh thiêng để cho ông biết
rằng lời nguyện cầu của ông đã được nhận lời thì ông lại ngờ vực, ở chỗ đòi dấu
hiệu rõ ràng,
trong khi đó, cũng
vị thiên sứ này hiện ra với Mẹ Maria, ở một căn phòng thô sơ nghèo khó, để
truyền tin việc nhập thể của Con Đấng
Tối Cao, và
trinh nữ Nazarét
này chỉ
hỏi xem việc thụ thai làm sao có thể xẩy ra với một trinh nữ không biết đến nam
nhân như mình
thôi.
Đúng thế, sau
biến cố truyền tin xẩy ra trong đền thờ khi thân phụ của mình đang làm phận vụ
tư tế bấy giờ và
sau khi ông câm nín trở về nhà,
vị tiền hô của Đấng Thiên Sai Cứu Thế đã được
thụ thai: "Khi
những ngày thánh vụ của ông đã mãn, ông trở về nhà. Sau những ngày ấy, Elisabéth
vợ ông thụ thai, và bà ẩn mình trong năm tháng, bà nói rằng: 'Chúa đã làm cho
tôi thế nầy, trong những ngày Người đoái thương, cất nổi khổ nhục tôi khỏi người
đời'".
Bài Đọc 1
hôm nay cũng thuật lại một nhân vật đặc biệt khác
là Samson,
vị anh hùng cứu
tinh của dân Do Thái vào thời Các Quan Án, cũng được
thiên thần hiện ra báo tin thụ thai bởi một người mẹ son sẻ:
"Ngày ấy có một
người đàn ông, bởi đất Sara và thuộc chi họ Ðan, tên là Manuel, có người vợ son
sẻ. Thiên
Thần Chúa hiện ra nói với bà ấy rằng: 'Ngươi son sẻ không con; nhưng sẽ được thụ
thai, và hạ sinh một con trai. Vậy ngươi hãy cẩn thận, đừng uống rượu và thức có
men, cũng đừng ăn món gì không thanh sạch. Vì ngươi sẽ được thụ thai, và hạ sinh
một con trai. Lưỡi dao cạo sẽ không chạm đến đầu nó; nó là người được hiến dâng
cho Thiên Chúa từ thuở nhỏ và từ lòng mẹ; chính nó sẽ bắt đầu giải phóng Israel
khỏi tay người Phi-li-tinh'... Bà đã hạ sinh một con trai, và gọi tên là
Samson. Hài nhi lớn lên, và Chúa đã chúc phúc cho nó. Và thần tri Chúa bắt đầu ở
với nó".
Hai sự kiện thụ thai bởi
hai người đàn bà son sẻ trong cả bài Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1 hôm nay có thể nói là
thụ thai "cách lạ", vì theo tự nhiên đã son sẻ thì không thể sinh con mà nay lại
thụ thai và sinh nở sau khi được báo tin cho biết trước. Tuy
nhiên, hai chuyện thụ thai "cách lạ" này vẫn không thể nào giống như sự kiện của
chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế là Đấng được thụ thai sau khi mẹ Người được truyền
tin.
Bởi vì, Đấng
Thiên Sai Cứu Thế được
thụ thai bởi chính Thánh
Linh và trong
lòng của một trinh nữ chứ
không phải của một người đàn bà đã có chồng và đã từng ăn nằm với chồng song bị
son sẻ không thể sinh con như hai trường hợp trên đây (xem
Luca 1:34-35), trong khi đó hai thai nhi kia có thể được thụ thai bởi việc giao
hợp vợ chồng sau khi họ được
truyền tin, và
lần giao hợp vợ chồng của họ sau
khi họ được truyền
tin đó đã được Chúa
mở lòng dạ của người mẹ ra để bà có thể thụ thai như thường.
Bài Đáp
Ca hôm nay như đã chất
chứa tâm tình của thai nhi Gioan Tẩy Giả, một
thai nhi đã có
thể nhẩy mừng trong lòng mẹ khi được Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến thăm viếng qua
sự xuất hiện và lời chào tràn đầy
thần lực của
mẹ Người (xem Luca 1:40-44):
1) Lạy Chúa,
xin hãy nên núi đá trú ẩn và thành trì kiên cố cho tôi, để cứu tôi: Vì Chúa là
núi đá và thành trì của tôi. Lạy Chúa, xin giựt tôi khỏi bàn tay gian ác.
2) Vì Chúa là
Ðấng tôi mong đợi, lạy Thiên Chúa của tôi! Lạy Chúa là Ðấng tôi cậy trông, từ
thời còn niên thiếu. Từ lòng mẹ, tôi nương tựa nơi Chúa, từ dạ mẹ, Chúa là Ðấng
bảo vệ tôi.
3) Tôi sẽ thuật lại quyền năng Thiên Chúa, lạy Chúa, tôi ghi nhớ sự công chính của một mình Chúa, lạy Chúa, Chúa đã dạy tôi từ thời còn niên thiếu, các kỳ công Chúa, tôi cao rao đến bây giờ.
Mầu nhiệm Nhập Thể đem ơn cứu chuộc
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 19/12 Bài Đọc 2
Trích khảo luận Chống lạc giáo của thánh I-rê-nê, giám mục.
Thiên Chúa là vinh quang của con người, nhưng con người lại đón nhận hoạt động của Thiên Chúa với tất cả sự khôn ngoan và quyền năng của Người.
Thầy thuốc chứng tỏ tài năng của mình nơi các con bệnh thế nào, thì Thiên Chúa cũng biểu lộ quyền năng của Người nơi loài người như thế. Vì vậy, thánh Phao-lô nói : Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người. Nói như thế là có ý chỉ con người : không tuân phục Thiên Chúa và đã bị loại, không còn được hưởng ơn bất tử. Sau đó, nhờ Con Thiên Chúa, con người lại được hưởng lòng thương xót khiến họ nhận được ơn làm nghĩa tử.
Quả thật, người nào không kiêu căng, không tự phụ mà hiểu biết chân lý vững vàng về loài thụ tạo cũng như về Đấng tạo thành, tức Thiên Chúa rất mực quyền năng, Đấng dựng nên muôn loài muôn vật đã cho chúng hiện hữu ; người nào sống trong tình yêu của Thiên Chúa lại biết vâng phục và tạ ơn, người ấy sẽ được Thiên Chúa ban cho vinh quang lớn lao hơn và được tăng triển cho đến khi nên giống Đấng đã chịu chết vì mình.
Bởi vì chính Ngôi Lời đã nên giống như thân xác tội lỗi, để lên án tội lỗi. Và khi kết án rồi, Người trục xuất tội lỗi ra khỏi thân xác. Làm như vậy, Người thúc đẩy phàm nhân nên giống như Người, giao cho họ nhiệm vụ noi gương Thiên Chúa, đặt họ vào mối dây liên hệ cha con để họ được nhìn thấy Thiên Chúa, và giúp họ hiểu được Chúa Cha. Quả thật, Ngôi Lời Thiên Chúa ngự trong con người và trở thành Con của loài người để làm cho con người quen nhận biết Thiên Chúa và để Thiên Chúa quen ngự trong con người. Đó là điều hợp với thánh ý Chúa Cha.
Vì thế, chính Chúa đã cho chúng ta dấu hiệu ơn cứu độ là Đấng Em-ma-nu-en sinh bởi Đức Trinh Nữ. Quả thật, chính Chúa cứu độ con người, vì con người không thể tự cứu mình được. Thánh Phao-lô đã nói về sự yếu đuối của con người : Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Nói thế có nghĩa là ơn cứu độ của chúng ta không do chúng ta mà có, nhưng do Thiên Chúa. Thánh nhân còn nói : Tôi thật là một người khốn nạn ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này !, rồi thánh nhân nhắc đến Đấng giải thoát : Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Về điều này, ngôn sứ I-sai-a cũng nói : Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan : Can đảm lên, đừng sợ ! Thiên Chúa chúng ta đây rồi, Người sẽ xét xử và thưởng phạt : chính Người sẽ đến để cứu thoát chúng ta. Chúng ta đã được cứu độ không phải nhờ sức riêng mình, nhưng là nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Ngày 20/12
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai".
Bài trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo cùng vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao". Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa".
Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít: Làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Chúa ngự qua, chính Ngài là Hoàng Ðế hiển vinh (x. c. 7c và 10b).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chìa khoá Ðavít, Ngài mở cửa thiên quốc, xin hãy đến cứu thoát người bị xiềng xích đang ngồi trong bóng tối tăm khỏi cảnh ngục tù! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà. Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít, tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với Thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?" Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già, và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ, vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên thần cáo biệt Bà.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh, từ 17 đến 24/12 hằng năm, Giáo Hội chọn đọc các bài đọc nói chung, nhất là Bài Phúc Âm liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến biến cố nhập thể và giáng sinh của Con Thiên Chúa làm người: đầu tiên là 2 bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu, và tiếp theo 6 ngày liền sau đó toàn là Phúc Âm theo Thánh ký Luca, bao gồm tất cả đoạn 1 của Phúc Âm này, đoạn Phúc Âm dài nhất, bao gồm tất cả là 80 câu, dài hơn cả đoạn 6 Phúc Âm Thánh ký Gioan, đoạn Phúc Âm dài thứ hai, bao gồm 71 câu.
Hôm nay, ngày 20/12, tức là ngày thứ bốn trong tuần bát nhật hướng đến Đại Lễ Giáng Sinh, sau bài Phúc Âm về sự kiện truyền tin Tiền Hô Gioan được thụ thai cách lạ, và trước bài Phúc Âm về biến cố thai nhi Tiền Hô Gioan được Lời Nhập Thể đến viếng thăm, là Bài Phúc Âm về sự kiện Truyền Tin Con Thiên Chúa xuống thế làm người, thụ thai bởi quyền phép Thánh Linh nơi cung dạ trinh nguyên của một thôn nữ vô danh tiểu tốt ở Nazarét, như được Thánh ký Luca thuật lại: "Khi ấy Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria".
Ngay trong câu đầu tiên này, người ta đã thấy 2 điểm then chốt, đó là đối tượng được truyền tin và thời điểm được Trời Cao cố ý chọn để truyền tin Lời Nhập Thể. Trước hết về đối tượng được truyền tin không phải là một người đàn bà đã có chồng, mà là "một trinh nữ", hoàn toàn ứng nghiệm những gì đã được Trời Cao loan báo qua miệng tiên tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Sau nữa, thời điểm của biến cố truyền tin không thể nào xẩy ra và không bao giờ xẩy ra trước khi "trinh nữ" này lập gia đình, mà là sau đó: "trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse", nghĩa là đã lấy chồng, nhưng chưa về nhà chồng, vì mới đính hôn, và chỉ xẩy ra vào khoảng giữa thời gian đính hôn và về chung sống với chồng thôi. Như thế mới chứng tỏ "trinh nữ" này quả thực, về thể lý và sinh lý, hoàn toàn trinh nguyên khi thụ thai "Con Đấng Tối Cao", nhờ bởi, như vị Thiên Thần khẳng định: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà, và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa".
Đúng thế, nếu "trinh nữ" Maria đã về sống với chồng là Giuse rồi, sau đó mới được truyền tin thụ thai Lời Nhập Thể thì mọi sự đã hoàn toàn không còn gì là thần linh nữa, và người con được hạ sinh bởi hai vợ chồng này chỉ là một con người thuần túy, chứ không thể nào là "Con Thiên Chúa", có tác nhân là chính Thiên Chúa, là Thánh Thần. Thậm chí việc cô nàng Maria thụ thai sau khi đã về chung sống với chàng Giuse cũng không thể nào gọi là "được thụ thai cách lạ", như trường hợp của bà chị Isave của nàng, bởi nàng đang thanh xuân dễ dàng có thai, chứ đâu có già nua son sẻ. Tuy nhiên, việc thụ thai cách lạ của bà chị Isave của nàng, vẫn biết là việc Chúa làm, dầu sao cũng không hoàn toàn bởi nguyên Thánh Linh, vẫn có vấn đề giao hợp với chồng, và Chúa đã làm cho việc giao hợp tự nhiên ấy sinh hoa kết trái một cách ngoại lệ.
Nếu "trinh nữ... tên là Maria" thực sự thụ thai "Con Đấng Tối Cao", "Con Thiên Chúa" thì Vị Trinh Nữ "đầy ơn phúc" và "được ơn nghĩa với Chúa" như lời thiên sứ chào kính và trấn an này, không phải chỉ ở chỗ thân xác của nàng Trinh Nữ đây chưa hề đụng chạm gì với đàn ông, dù đã đính hôn và đã được ăn nằm với chồng theo tục lệ Do Thái, bằng không thì trong dân Israel bấy giờ có biết bao thiếu nữ còn trinh và chưa chồng khác sao lại không được "Thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét" như Trinh Nữ Nazarét này. Nghĩa là người Trinh Nữ diễm phúc này phải có một cái gì đó nổi bật và đặc biệt nữa mới xứng đáng làm Mẹ Con Thiên Chúa?
Thật vậy, người Trinh Nữ Nazarét này trổi vượt "hơn mọi người nữ", ở 3 nhân đức trọn lành là trinh khiết, khiêm hạ và tuân phục. Trinh Nữ Maria trinh khiết ở chính trong cõi lòng của mình, một cõi lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, không yêu thương hay yêu quí gì hơn Ngài, đúng như Trinh Nữ đã thân thưa với sứ thần: "Tôi không hề biết đến nam nhân". Tuy nhiên, vì việc giữ mình trinh khiết không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện để nhờ đó tâm hồn dễ dàng hơn trong việc tiến đến chỗ được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa vô cùng thánh hảo tinh tuyền, mà nếu Trinh Nữ Maria trinh khiết vẹn toàn cả trong tâm hồn lẫn thân xác chỉ cố chấp theo ý riêng của mình hơn là tuân theo ý muốn tối thượng của Thiên Chúa thì nàng Trinh Nữ này cũng chẳng xứng đáng thụ thai và hạ sinh "Con Đấng Tối Cao", "Con Thiên Chúa".
Thực tế cho thấy, như Thánh ký Luca thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, Vị Trinh Nữ được Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và khôn ngoan thượng trí tuyển chọn làm Mẹ sinh ra Người Con Duy Nhất của Ngài trên thế gian này cho loài người đã hoàn toàn mau mắn thuận phục ý muốn tối hậu của Thiên Chúa nơi bản thân của mình và cuộc đời của mình, với tất cả lòng khiêm nhượng của mình chỉ là một kẻ làm tôi tớ phục vụ vị chủ tối cao của mình: "Này tôi là tôi tớ của Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền". Trinh Nữ Maria đã xin vâng với tất cả đức tin của mình, cho dù có được vị sứ thần trấn an và dẫn giải một phần nào về những gì sẽ xẩy ra nơi bản thân mình và riêng thân xác của mình, hoàn toàn trái với tự nhiên: trinh nữ mà lại sinh con, đúng hơn hoàn toàn vượt trên tự nhiên: "không có việc gì mà Chúa không làm được".
Tiếng thưa xin vâng của Trinh Nữ Maria trong biến cố truyền tin Lời Nhập Thể không phải chỉ ở chỗ Vị Trinh Nữ diễm phúc này tỏ ra tuyệt đối tin vào quyền năng của Thiên Chúa có thể làm cho "một trinh nữ... không hề biết đến nam nhân" thụ thai và sinh con, không biết bằng cách nào, mà còn ở chỗ phó mình cho việc quan phòng thần linh vô cùng huyền nhiệm của Ngài nữa. Bởi vì, nếu Trinh Nữ Maria vốn có thói quen "lưu giữ những sự ấy mà suy niệm trong lòng" (Luca 2:19,51) thì người Trinh Nữ này chắc chắn đã nghĩ đến chuyện cô có thể bị phu quân đã đính hôn của mình là Giuse đặt vấn đề khi thấy cô tự nhiên mang một cái bầu lạ lùng từ đâu tới! Nhưng chính "sự cố" Giuse, như ở Bài Phúc Âm ngày 18/12 của Thánh ký Mathêu trình thuật, lại càng cho thấy ngay cả sau khi được truyền tin thụ thai Con Thiên Chúa, Trinh Nữ Maria vẫn không hề có một liên hệ nào về sinh lý với người đã đính hôn với mình, cho dù được phép!
Tất cả mọi diễn biết trước và sau biến cố truyền tin, như được nhận định và phân tích trên đây, cho thấy toàn diện sự thật là: Con Thiên Chúa xuống thế làm người hoàn toàn do quyền phép Thánh Linh là nguyên lý đệ nhất, và qua phương tiện một Trinh Nữ Maria là nguyên nhân đệ nhị, một con người chẳng những hoàn toàn không biết đến nam nhân mà còn tuyệt đối tin tưởng vào Đấng Tối Cao để Ngài có thể tỏ mình ta cho dân Ngài và mang phần rỗi đến cho toàn thể nhân loại là "giòng dõi người nữ" (Khởi Nguyên 3:15), giòng dõi một Người Nữ Trinh! Nội dung của Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là câu 2 và 3, hoàn toàn xứng hợp với con người của Vị Trinh Nữ diễm phúc Maria của Bài Phúc Âm hôm nay:
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm kiếm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.
Cả thế giới chờ đợi câu trả lời của Đức Ma-ri-a
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 20/12 Bài Đọc 2
Trích bài giảng Ca ngợi Mẹ Đồng Trinh của thánh Bê-na-đô, viện phụ.
Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ đã nghe báo tin Mẹ sẽ thụ thai và sinh một con trai : không phải do con người nhưng do Chúa Thánh Thần. Thần sứ đang chờ câu trả lời của Mẹ vì đã đến lúc người phải trở về cùng Thiên Chúa, Đấng đã sai người. Cả chúng con nữa, lạy Mẹ là bà chúa, chúng con cũng chờ đợi câu trả lời của lòng Chúa xót thương, vì chúng con là những kẻ đang phải khốn khổ bởi mang án tội tình.
Này đây, giá phải trả cho ơn cứu độ chúng con được trao vào tay Mẹ. Mẹ mà chấp thuận là chúng con được cứu thoát. Nhờ Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa, tất cả chúng con đã được tạo thành. Nhưng này sự chết đang hoành hành nơi chúng con : chỉ một câu trả lời vắn tắt của Mẹ thôi là chúng con được tái tạo, để lại được kêu gọi đón nhận sự sống.
Ôi, lạy Đức Trinh Nữ dịu hiền, nguyên tổ A-đam đang khóc lóc cùng với dòng dõi đáng thương của mình, vì bị đuổi ra khỏi địa đàng. Này tổ phụ Áp-ra-ham, vua Đa-vít cũng khóc than. Này cả các thánh tổ phụ khác, nghĩa là tổ tiên của Mẹ, cũng đang khẩn khoản nài van, chính các ngài đang phải chìm ngập trong bóng tối tử thần. Này toàn thể thế giới đang sấp mình dưới chân Mẹ mà đợi chờ.
Và như thế không phải là không có lý do chính đáng, vì niềm an ủi của những kẻ khốn nạn, ơn cứu chuộc của những kẻ bị tù đày, sự giải phóng của những kẻ bị kết án, và cuối cùng ơn cứu độ của con cháu A-đam, tức của toàn thể dòng giống Mẹ, đều tuỳ thuộc câu trả lời từ miệng Mẹ thốt ra.
Lạy Đức Trinh Nữ, xin mau trả lời. Xin mau mau trả lời cho thần sứ, hay nói đúng hơn, trả lời cho Thiên Chúa qua thần sứ. Xin Mẹ đáp lời và đón nhận Ngôi Lời : Xin nói lên lời của Mẹ và cưu mang Lời của Thiên Chúa. Xin nói lên lời chóng qua và ôm ấp Lời vĩnh cửu.
Mẹ lưỡng lự làm gì, run sợ làm chi ? Mẹ cứ việc tin, cứ tuyên xưng và đón nhận. Mẹ khiêm tốn nhưng xin Mẹ cứ can đảm, Mẹ e ngại nhưng xin Mẹ cứ tin tưởng. Lúc này đơn sơ trong trắng mà quên lãng khôn ngoan thì chẳng xứng hợp chút nào. Lạy Đức Trinh Nữ khôn ngoan, trong sự việc có một không hai, xin Mẹ đừng sợ phải liều. Mẹ làm thinh vì e ngại, đó là điều đẹp lòng Chúa, nhưng bây giờ Mẹ nói ra vì hiếu thảo thì lại là điều cần thiết hơn.
Lạy Đức Trinh Nữ diễm phúc, xin Mẹ mở tâm hồn để tin, mở miệng nói lên lời ưng thuận và mở lòng để đón Đấng tạo thành ra Mẹ. Này Đấng mọi dân tộc khao khát đang đứng bên ngoài và gõ cửa. Ôi, nếu như vì Mẹ chần chừ mà Người đi qua mất, thì Mẹ lại phải khổ công tìm kiếm Đấng lòng Mẹ mến yêu ! Xin Mẹ trỗi dậy, chạy ra, mở cửa. Xin Mẹ trỗi dậy với lòng tin, chạy ra với lòng mến và mở cửa bằng sự ưng thuận. Đây Mẹ đã nói : Vâng, này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa làm cho tôi như lời thần sứ nói.
Ngày 21/12
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Dc 2, 8-14
"Ðây người tôi yêu đến, nhảy qua núi".
Bài trích sách Diễm Ca.
Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song.
Này người tôi yêu nói với tôi: "Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!
"Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xp 3, 14-18a
"Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy sung sướng và hết lòng hân hoan!
Chúa đã rút án phạt ngươi, đã xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi, ngươi không còn lo sợ tai hoạ nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và Sion, chớ buông thả đôi tay! Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng vui mừng vì ngươi, sẽ thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc mừng ngươi, như trong ngày đại lễ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Ðáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vầng Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-45
"Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
nhập thể sinh động
Theo thứ tự các bài Phúc Âm trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh từ ngày
17 đến hết 24/12, thì hai ngày đầu theo Phúc Âm Thánh Mathêu và 6 ngày cuối theo
Phúc Âm Thánh Luca.
Thật vậy, ngày 17 với bài Phúc Âm của Thánh Mathêu về gia phả của Chúa Giêsu, và
ngày 18 với bài Phúc Âm của Thánh Mathêu về biến cố báo mộng cho Thánh Giuse về
sự thật Mẹ Maria thụ thai Con Thiên Chúa. Và các bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho
những ngày còn lại là: ngày 19 về biến cố truyền tin cho vị tư tế thân phụ của
thai nhi Gioan; ngày 20 về biến cố truyền tin Lời Nhập Thể cho Mẹ Maria; ngày 21
về biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng thai mẫu của thai nhi Gioan; ngày 22 về Ca
Vịnh Magnificat Ngợi Khen của Mẹ Maria; ngày 23 về biến cố hài nhi Gioan được hạ
sinh, và ngày 24 về Ca Vịnh Benedictus Chúc
Tụng của vị tư tế thân phụ Zacaria của hài nhi Gioan.
Tuy nhiên, phụng vụ chu kỳ Năm C có một trùng hợp là bài Phúc Âm cho Chúa Nhật
IV Mùa Vọng và bài Phúc Âm cho ngày 21/12 bao giờ cũng trùng
nhau,
như
trong năm 2015 hay 2018 hoặc năm 2021m cứ 3 năm một lần, nghĩa
là cùng một bài Phúc Âm về biến cố Mẹ Maria đi thăm viếng Bà Thánh Isave cho cả
2 ngày này.
Cho dù có trùng hợp nhưng cùng bài Phúc Âm về biến cố Mẹ Maria thăm viếng thai
mẫu của thai nhi Gioan này vẫn mang một ý nghĩa khác nhau theo chung phụng vụ
Chúa Nhật IV Mùa Vọng hay riêng ngày 21/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ
Giáng Sinh.
Bài Phúc Âm cho
ngày 21/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm
nay được tiếp
ngay sau bài Phúc Âm cho ngày 20/12, bài Phúc Âm về biến cố truyền tin Lời Nhập
Thể cho Trinh Nữ Nazarét Maria. Nếu bài Phúc Âm này, trong Chúa Nhật IV Mùa Vọng
(hôm qua - năm 2015) liên quan đến những tác
dụng thần linh nơi cả thai mẫu lẫn thai nhi Gioan để
chứng tỏ "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) trong cung dạ trinh
nguyên của Mẹ Maria, thì bài Phúc Âm thăm viếng cho ngày 21/12 hôm nay liên
quan đến tác dụng thần linh của Lời Nhập Thể nơi chính bản thân của Mẹ Maria,
thai mẫu của Lời Nhập Thể.
Thật vậy, nếu "Thiên
Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) và "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến ban
Con Một của Ngài để ai tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự
sống đời đời" (Gioan 3:16), thì một khi được diễm phúc thụ thai và cưu mang
Người, mẹ của Người không thể không được thúc đẩy sống đức ái trọn hảo và để cho
Tình Yêu Cứu Độ của Thiên Chúa tỏ hiện qua đời sống của mình, nơi từng lời nói
cũng như nơi mỗi hành
vi cử chỉ của mình.
Chứng từ đầu tiên chứng
tỏ thực sự "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) nơi Trinh Nữ Nazarét
Maria và thực sự hiện diện thần linh trong cung dạ trinh nguyên của Vị Trinh Nữ
diễm phúc này, đã được Thánh ký Luca diễn tả ở ngay câu đầu của Bài Phúc Âm hôm
nay: "Ngày
ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa...".
Tác động "Maria
chỗi dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi", ngay sau biến cố truyền tin
Lời Nhập Thể và thụ thai Lời Nhập Thể của Vị Trinh Nữ diễm phúc này chứng
tỏ trong Vị Trinh
Nữ này có một cái gì hoàn toàn khác lạ và mới lạ, như thể người trinh nữ trẻ
trung nghèo hèn quê mùa này đã
thực sự được "Quyền
Phép Đấng
Tối Cao bao phủ" (Luca 1:35), đã được Thánh Linh chiếm đoạt
và thôi thúc làm
tất cả những gì yêu thương cứu độ như
Con Thiên Chúa sẽ làm sau này theo tác động của cùng một Vị Thánh Linh.
Thật vậy, theo
kinh nghiệm tu đức cho thấy, tâm
hồn nào được Thiên Chúa chiếm đoạt thì: trước hết, không
thể ngồi yên, dửng
dưng lạnh lùng,
mà là ở chỗ, như
Mẹ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay:
"chỗi
dậy"; sau nữa, không thể chậm chạp, băn khoăn do dự, mà là ở
chỗ, như Trinh Nữ
Nazarét trong bài Phúc Âm hôm nay: "vội vã" mà không hấp tấp hơn là mau
mắn; sau hết, không thể khép kín, lo âu ngần ngại, mà là ở chỗ, như bà mẹ trẻ
vừa thụ thai trong bài Phúc Âm hôm nay: "ra đi", ra
khỏi nhà của
mình, ra khỏi con người của mình, và không phải "ra đi" đến một nơi nào
gần gũi, mà là đi tới tận những miền xa xôi, những chỗ dốc dác khó đi khó tới
nữa, đó là: "tiến
lên miền núi".
Chủ trương của vị giáo
hoàng đương kim Phanxicô của Giáo Hội Công Giáo Rôma hiện nay hoàn
toàn phản ảnh đúng tinh thần của vị thôn nữ Nazarét Maria trinh nguyên trong bài
Phúc Âm hôm nay. Bởi vì, ngài luôn nhấn mạnh và thúc đẩy Giáo Hội chẳng
những đừng khép kín, mà cần phải liên lỉ mở
cửa đón nhận
những tâm hồn đáng thương, chẳng những thế, còn phải xông pha ra đi
lên đường tìm kiếm họ nữa, và không phải chỉ đi đến những nơi gần gần và dễ
dàng, mà phải đến tận những
nơi hẻo lánh xa xôi nhất (peripheries),
về cả nhân bản lẫn địa dư, nghĩa
là phải chú trọng tới những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô (xem
Mathêu 25:40,45), cho dù Giáo Hội có bị lem luốc và bầm dập gây ra bởi những
thứ xuyên tạc, chụp mũ, vu khống và bôi nhọ của thành phần bảo thủ thiên
kiến đầy thiển cận và mù tối, như chính bản thân của ngài đã và đang trở thành
nạn nhân của họ.
Hình ảnh của vị
thai mẫu trinh nguyên "Maria chỗi
dậy vội vã ra đi tiến lên miền núi" để
thực hiện một tác động đức ái trọn hảo trong
bài Phúc Âm hôm
nay ấy đã hiện
lên trong Sách Diễm Tình Ca ở Bài Đọc 1 hôm nay, như một người tình tuyệt
vời duyên dáng dễ thương nhất của
Thánh Linh:
"Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu
giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó
qua cửa sổ, nhìn vào chấn song. Này người tôi yêu nói với tôi: 'Hãy chỗi dậy,
mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa
phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim
gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm
ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến! Bồ câu ta trong hốc đá,
trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta,
vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi'".
"Người
tôi yêu" trong Bài Đọc 1 hôm nay đây
là ai, nếu không
phải là Thánh Linh, Vị Thần Linh không có hình dạng như Chúa Kitô, mà chỉ
là Đấng luôn âm thầm kín đáo trong nội tâm của linh hồn,
như thể "người
đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song".
Nhưng thật
ra Ngài không phải chỉ là một bóng hình hay bóng ma hoang tưởng không có
thật, mà là một Vị Thần Linh sinh động, là một linh hứng đầy quyền
lực thúc đẩy tác
hành: "Hãy
chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! ... Hãy chỗi
dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!" Và
Ngài mong tác động thần linh của Ngài được tâm hồn Ngài tuyển chọn nhiệt
liệt hưởng ứng và mau mắn đáp ứng
xứng với và trọn
vẹn những gì Ngài làm: "Bồ
câu ta nấp trong
hốc đá, ẩn trong
kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt nàng,
tiếng nàng hãy
vang lên thánh
thót ở tai ta, vì tiếng nàng
thì êm
ái, nét mặt nàng
lại xinh
tươi'".
Còn ai là
người tình lý tưởng của Thánh Linh như Trinh Nữ Nazarét Maria hay bằng Vị Trinh
Mẫu Diễm Phúc hơn mọi người nữ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay chứ! Mẹ chính là
"bồ câu" của Vị Tình Nhân Thánh Linh, nghĩa là Mẹ tràn đầy Thánh Linh, vì
"bồ câu" là biểu hiệu cho Thánh
Linh (xem Luca 3:22), nhờ Mẹ
sống rất
khiêm hạ và tuyệt đối tin tưởng vào Ngài, như thể "nấp trong
hốc đá, ẩn trong
kẹt ghềnh",
khiến cho Thánh
Linh lại càng say mê Mẹ hơn ai hết và hơn bao giờ hết, đến độ rất
mong muốn được "thấy
mặt nàng" và được nghe "tiếng
nàng".
Tác động tràn đầy Thánh Linh của Mẹ Maria trong bài Phúc Âm hôm nay khiến Mẹ "chỗi
dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa..." hoàn
toàn bộc
lộ cho thấy tâm hồn của Mẹ "hân
hoan mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng
Cứu Độ tôi" (Luca 1:47), những
tâm tình được chất chứa và vang vọng trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ngợi
khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng
Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời
kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp
riêng mình.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người.
Đức Mẹ đi thăm bà Ê-li-sa-bét
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 21/12 Bài Đọc 2
Trích bài diễn giải của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về Tin Mừng theo thánh Lu-ca.
Khi loan báo những điều huyền nhiệm cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a thì thần sứ cũng báo cho Người biết việc một phụ nữ cao niên và hiếm muộn đã thụ thai. Thần sứ dùng sự việc này như một ví dụ để minh xác rằng bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn thì Người sẽ thực hiện.
Vậy khi nghe biết chuyện đó, Đức Ma-ri-a đã vội vàng lên miền núi. Người hành động như vậy không phải vì không tin vào lời sấm, hay không chắc chắn về lời truyền tin, cũng chẳng phải vì hồ nghi về thí dụ điển hình. Nhưng Người lên đường như kẻ mừng vui vì được điều mong ước, sốt sắng chu toàn một bổn phận và lẹ làng vì phấn khởi hân hoan.
Vậy sau khi được đầy tràn Thiên Chúa, Người vội vã ra đi. Hướng về đâu, nếu không phải là những thực tại cao vời ? Ân sủng của Chúa Thánh Thần không cho phép ngập ngừng hay chậm trễ. Chẳng mấy chốc, việc Đức Ma-ri-a đến và sự hiện diện của Chúa cho thấy ân huệ các ngài mang tới, bởi vì ngay lúc bà Ê-li-sa-bét nghe tiếng Đức Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên và bà được đầy tràn ơn Thánh Thần.
Ở đây, bạn hãy phân biệt ý nghĩa của mỗi lời. Bà Ê-li-sa-bét là người đầu tiên nghe tiếng nói, nhưng Gio-an lại là người đầu tiên cảm nhận được ân sủng. Bà mẹ nghe theo lẽ tự nhiên, nhưng cậu con lại nhảy mừng vì lẽ mầu nhiệm. Bà mẹ đón nhận Đức Ma-ri-a đến thăm, còn người con lại cảm thấy Chúa ngự đến. Phụ nữ đón tiếp phụ nữ, con trẻ đón tiếp con trẻ. Hai bà mẹ nói với nhau những lời thân ái, còn hai người con thì hoạt động ở bên trong làm cho các bà tăng thêm lòng yêu mến và nhờ phép lạ đó, dưới sự thúc đẩy của hai người con, các bà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa.
Con trẻ nhảy mừng, bà mẹ đầy tràn ơn thánh. Không phải bà mẹ được đầy ơn trước con, nhưng vì con được đầy tràn Thánh Thần, nên cũng làm cho mẹ được đầy tràn. Gio-an hớn hở vui mừng, thần trí Đức Ma-ri-a cũng hớn hở mừng vui. Khi Gio-an hớn hở vui mừng thì bà Ê-li-sa-bét được đầy tràn ơn thánh ; còn Đức Ma-ri-a, Kinh Thánh không nói Người đầy tràn Thánh Thần, mà chỉ nói : Thần trí Người hớn hở mừng vui vì Đấng không ai hiểu thấu đã hoạt động một cách mầu nhiệm trong lòng thân mẫu. Bà Ê-li-sa-bét được đầy tràn ơn thánh sau khi thụ thai, còn Đức Ma-ri-a thì trước khi thụ thai. Bà Ê-li-sa-bét nói : Em thật diễm phúc vì đã tin.
Phần anh em, anh em cũng thật diễm phúc vì đã nghe và tin ; quả thật bất cứ tâm hồn nào tin, thì cũng cưu mang và sinh hạ Ngôi Lời Thiên Chúa và nhận biết các công việc của Người.
Ước chi tâm hồn của Đức Ma-ri-a ở nơi mỗi người để ngợi khen Đức Chúa. Ước chi thần trí Đức Ma-ri-a cũng ở nơi mỗi người, để hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa. Theo huyết thống, chỉ có một người là mẹ Đức Ki-tô, nhưng theo đức tin, Đức Ki-tô là hoa quả của mọi người. Quả thật, mọi tâm hồn đều được đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa, miễn là sống tinh tuyền, sạch mọi nết xấu và giữ mình thanh khiết vẹn toàn.
Vậy bất cứ tâm hồn nào sống như thế đều có thể ngợi khen Đức Chúa, cũng như tâm hồn Đức Ma-ri-a đã ngợi khen Đức Chúa và thần trí Người đã hớn hở mừng vui vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Quả vậy, Thiên Chúa được ngợi khen, như anh em đã đọc thấy ở chỗ khác : Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa. Không phải vì Thiên Chúa có thể thêm được một cái gì đó, nhờ tiếng nói của con người, nhưng vì Người được ngợi khen ở nơi chúng ta : quả thật Đức Ki-tô là hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, nếu một linh hồn làm điều gì công chính và đạo đức, thì tán dương hình ảnh của Thiên Chúa, vì linh hồn đã được sáng tạo giống hình ảnh Người. Cũng vì vậy, khi ngợi khen hình ảnh Thiên Chúa, linh hồn cũng được nên cao trọng hơn, để phần nào tham dự vào sự cao cả của Người.
Thánh Phêrô Camisiô, Linh mục Tiến sĩ
21/12
9/2/2011 – Bài 131 về Thánh Peter Canisius
(ĐTC Biển Đức XVI - bài giáo lý về vị thánh này ở cái link trên đây)
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Thánh Phêrô Canisiô sinh tại Hà Lan năm 1521. Thân phụ của Phêrô muốn ngài trở thành một luật sư. Để làm hài lòng thân phụ, cậu nhỏ Phêrô đã học môn luật trước các môn học khác. Tuy vậy, Phêrô sớm nhận thấy mình không được hạnh phúc trong cuộc sống. Lúc ấy, dân chúng khắp nơi đang bàn tán về tài thuyết giảng tuyệt vời của chân phước Phêrô Faber là một trong số các vị tổ phụ của dòng Tên. Sau khi Phêrô nghe cha Faber thuyết giảng, Phêrô cảm thấy sung sướng muốn xin đi tu để dâng mình phụng sự Thiên Chúa. Vì thế, Phêrô đã gia nhập dòng Tên. Sau nhiều năm học hành và cầu nguyện, Phêrô Canisiô được thụ phong linh mục. Thánh cả Inhaxiô đã sớm nhận ra Phêrô Canisiô đích thật là một tông đồ rất hăng say nhiệt thành. Vì vậy, Thánh nhân đã gởi Phêrô sang Đức, nơi Phêrô sẽ phục vụ suốt bốn mươi năm dài. Thật không thể kể hết được những hy sinh, những lời nguyện và những công việc cao cả mà Thánh Phêrô Canisiô đã làm trong thời gian này.
Thánh nhân quan tâm tới việc làm sáng lên những giáo huấn của Giáo hội tại nhiều thành phố bên nước Đức. Phêrô Canisiô cũng nỗ lực đem những người lạc giáo trở về với đức tin chân thật. Người ta nói rằng Thánh Phêrô Canisiô đã đi khoảng 20000 dặm trong ba mươi năm. Ngài thường đi bộ hoặc dùng ngựa để làm phương tiện. Dầu vậy, Thánh nhân vẫn tìm thời giờ để viết các sách bàn về đức tin. Ngài nhận thấy sách vở thật quan trọng dường nào và Phêrô Canisiô đã tổ chức một chiến dịch ngăn chặn các sách vở có nội dung độc hại. Phêrô Canisiô cũng gắng hết sức mình truyền bá những sách báo tốt để dạy đức tin cho dân chúng.
Ngài đã viết rất nhiều, các bài của Ngài được phổ biến khắp nơi trong số đó có cuốn “Tổng luận về Giáo lý Công giáo” viết năm 1555 và cuốn “Giáo lý” viết năm 1556 được hoan nghênh khắp nơi và rất nổi tiếng. Thánh nhân dù thuyết giảng, viết hay trò chuyện, tiếp xúc, hoặc qua những hoạt động chỉ nhắm một mục đích duy nhất là “Phục vụ Giáo Hội, làm vinh danh Chúa và chống lại học thuyết của Luthêrô lúc đó đang hoành hành, phát triển mạnh tại nước Ðức. Thánh Phêrô có công rất lớn vào thế kỷ XVI tại Ðức vì Ngài đã dùng tư tưởng đạo đức, chân chính theo Giáo lý của các tông đồ làm cho rất nhiều người tại nước Ðức còn giữ được lòng trung thành với Hội Thánh Chúa Kitô.
Thánh nhân đã sống những năm tháng còn lại cuộc đời tại thế của mình ở nước Thụy Sĩ miền Fribourg.
Với những người nói Phêrô Canisiô đã làm việc quá vất vả, Thánh nhân chỉ trả lời rằng: “Nếu bạn có nhiều việc để làm, thì với ơn Chúa giúp, bạn sẽ có nhiều giờ để hoàn tất những việc ấy.”
Vị Thánh tuyệt vời này về trời năm 1597. Thánh Phêrô Canisiô được Đức Thánh Cha Piô XI tôn tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội Thánh năm 1925.
Như Thánh Phêrô Canisiô, chúng ta hãy nhiệt thành trao dồi một sự hiểu biết sâu xa về đức tin Công giáo. Học hỏi Kinh Thánh và các chân lý đức tin là tiến trình hằng ngày, liên tục và kéo dài trong suốt đời sống chúng ta.(Theo tinmung.net)
II. BÀI HỌC.
Có nhiều bài học chúng ta có thể học được từ cuộc đời của thánh Phêrô Canisiô nhưng tinh thần say mê viết sách để loan truyền Giáo Lý chân chính của Chúa Chúa là nổi bật nhất. Ngài làm tất cả cả các việc ấy chỉ nhắm một mục đích duy nhất là “Phục vụ Giáo Hội, làm vinh danh Chúa và chống lại học thuyết của Luthêrô lúc đó đang hoành hành, phát triển mạnh tại nước Ðức.”
Ngay nay không còn ai nghi ngờ gì về vai trò của sách vở trong cuộc sống của mỗi người nữa.
Ngày 13/12/2021 tôi vào Google nhập cụm từ “Vai trò của Sách đối với con người trong vòng 0,75 giây tôi nhận được gần 263 000 000 kết quả”
Sách cung cấp cho con người những hiểu biết, những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, vượt thời gian và vượt không gian. ... - Sách cho ta hiểu biết về chính mình. Đọc quyển sách tốt, ta được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm. Ta biết phần chưa hoàn thiện trong con người mình để phấn đấu rèn luyện.
Chính vì thế mà chúng ta thấy thánh Phêrô Canisiô đã chú trọng đến việc viết sách cũng như các tài liệu khác trong việc loan truyền Tin Mừng cho mọi người.
Chúng ta hãy tập cho mình thói quen đọc sách nhất là những sách hay để làm giàu cho kho tàng kiến thức của chúng ta đồng thời cũng biết dùng để chia sẻ với mọi người nhất là Tin Mừng và Giáo Lý của Hội Thánh.
Tác giả Lê Thị Nghệ đã có một bài chia sẻ về Sách rất hay. Tôi chỉ xin trích một vài đoạn.
Từ xa xưa, con người đã biết đến sự kỳ diệu của sách, đó là cái thần kỳ trong những cái thần kỳ mà nhân loại đã sáng tạo nên. Khi chưa có chữ in, chưa có máy in thì nhân loại đã nghĩ đến sách. Sách là công cụ dùng để ghi chép, lưu trữ và lưu truyền những hiểu biết của con người về thế giới khách quan.
Ông cha ta đã rất đề cao vai trò của sách, coi sách như gia tài đáng giá nhất mà cha mẹ để lại cho con cháu: “Để vàng bạc chẳng bằng để sách cho con”, và cho rằng “Một kho vàng không bằng một nang sách”.
Sách chính là người thầy vĩ đại, có tác dụng lớn đối với việc giáo dục nhân cách con người. Mỗi cuốn sách đều thể hiện giá trị nhân văn cao cả, dạy cho chúng ta biết sống, biết yêu thương, sẻ chia với những người xung quanh. Bởi khi viết sách, người viết đã gửi gắm những kinh nghiệm, tâm tư, tình cảm, khát vọng trong cuộc sống và trong mọi mối quan hệ xã hội, để từ đó giúp người đọc hiểu, cảm nhận và thay đổi chính mình. Sách giúp con người cảm nhân được tình yêu thương con người, cho ta hiểu biết về các giá trị văn hóa, xã hội và giá trị cuộc sống…kiến thức đó có trong thơ ca, những tác phẩm văn học của nhân loại qua các thời kỳ.
Sách giúp chúng ta có được những phút giây thư giãn thật thoải mái và hiệu quả, mang lại cho ta những tiếng cười sảng khoái và hữu ích. Qua những câu chuyện, bài viết, con người được chu du thả mình vào những khoảng không gian tĩnh lặng với những ước mơ, khát vọng mà trong cuộc sống thực tại chưa hẳn đã có được. Ngoài ra, những cuốn sách hay còn đưa ra những lời khuyên bổ ích và cách thức vượt qua áp lực, mệt mỏi để sống vui vẻ và hạnh phúc hơn. Đó cũng là liều thuốc bổ giúp con người ta bình lặng và hồi phục sau những tổn thương về mặt tinh thần.
Không chỉ thế, sách còn là công cụ gắn kết con người trên toàn thế giới. Tác giả, bằng tài năng và tình yêu thương con người đã kết tinh thành tác phẩm, gửi đi những thông điệp đầy tính nhân văn làm lay động lòng người, cho chúng ta biết tôn trọng và quý mến lẫn nhau dù chưa một lần biết đến. Qua những trang sách đó, con người trên khắp thế giới sẽ tìm thấy một tiếng nói chung để xây dựng một thế giới hòa bình, phồn vinh, không có chiến tranh và không còn những số phận bất hạnh, mất mát.
Thật sự rất khó để kể hết những vai trò tuyệt vời của sách, cuộc sống con người không thể không có sách. Sách là kho tàng tri thức được đúc kết qua dòng thời gian và lịch sử. Qua sách, chúng ta có thể trở về quá khứ, nhìn lại chính mình và rồi tiếp bước đến tương lai. Với biết bao lợi ích từ sách, mỗi người trong chúng ta đặc biệt là những người trẻ tuổi cần tạo cho mình thói quen đọc sách mỗi ngày. Giữa những bộn bề của cuộc sống, bận rộn của công việc nhưng chúng ta đừng quên mang theo sách bên người. Hãy đọc lúc nào chúng ta có thời gian rảnh, hoặc bớt đi thói quen dành phần lớn thời gian cho việc tán gẫu với bạn bè trên facebook, zalo.
Để tiếp thu được cái hay từ sách, chúng ta cần có phương pháp lựa chọn sách kỹ càng. Nên chọn những cuốn sách ý nghĩa, tốt để đọc và phải đọc kỹ để ghi chép những điều bổ ích. Chúng ta thậm chí có thể vươn xa hơn nữa nếu có thể thể vận dụng những điều trong sách vào đời sống. Do đó, để có thể nâng tầm tri thức, nuôi dưỡng tâm hồn, hãy đọc sách thật nhiều và tận hưởng nó như một thú vui hữu ích.
Ngày nay, sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, truyền thông đã tác động trực tiếp và vô cùng mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Con người có thể tìm kiếm thông tin, kiến thức về website, mạng xã hội…một cách thuận tiện, dễ dàng. Tuy nhiên, giữa muôn ngàn thông tin có trên mạng internet thì sách vẫn là một kho tàng vô giá cho những người yêu thích đọc sách.
Chúng ta không thể phủ nhận giá trị to lớn từ sách mang lại cho cuộc sống của con người. Cũng không thể để mất đi giá trị truyền thống lâu đời vốn có của nó, gắn bó với con người trong hàng ngàn năm lịch sử. Cho đến tận hôm nay, sách vẫn là nguồn sống quý giá nhất mà không có món ăn tinh thần nào có thể so sánh được.
Tóm lại: “Sách giúp ta hiểu biết về mọi lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Càng đọc sách nhiều, con người càng hạnh phúc. Những câu chuyện cảm động, những bài học về nghị lực, ước mơ, đức hi sinh mà sách kể đến giúp con người biết quý trọng sự sống, quý trọng tình cảm, sống gắn kết, yêu thương nhau hơn.”
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-21-12-thanh-phero-canisiolinh-muctien-si-hoi-thanh-59077
Ngày 22/12
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1 Sm 1, 24-28
"Bà Anna tạ ơn Chúa vì được sinh Samuel".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Ngày ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi, lấy ba cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn nhỏ bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: "Kính lạy ngài, chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây trước mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin. Vậy tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa". Và họ thờ lạy Chúa ngay ở đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: 1 Sm 2, 1. 4-5. 6-7. 8abcd
Ðáp: Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Lòng tôi nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi, miệng tôi rộng mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi. - Ðáp.
2) Cung nỏ người hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy nay làm thuê vì miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại con đàn cháu đống, kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn. - Ðáp.
3) Chúa cho chết và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho nghèo rồi cho nên giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao. - Ðáp.
4) Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến, cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vua muôn dân và Ðá Góc toà nhà Hội thánh, xin hãy đến cứu độ con người mà Chúa đã tạo dựng bằng bùn đất! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 46-56
"Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Maria nói rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
nhập thể ngợi khen
Hôm
nay là ngày 22/12 trong Tuần Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh.
Vẫn
theo Phúc Âm của Thánh ký Luca cho 6 ngày còn lại của tuần bát
nhật tiền Giáng
Sinh này,
mầu
nhiệm cứu độ nơi "Lời đã
hóa thành nhục thể"
(Gioan 1:14) được tiếp tục với Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria.
Thật vậy, sau khi được "thụ
thai Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35) trong cung dạ trinh
nguyên của mình từ biến cố truyền
tin, và
sau khi được thai mẫu "đầy Thánh Linh" (Luca 1:41) của
thai nhi Gioan Tiền Hô Tẩy Giả nhận biết cùng khen tặng, thì
người thôn nữ Nazarét được Sách Diễm Tình Ca trong Bài Đọc 1 hôm qua diễn tả
như "Bồ
câu trong hốc đá, trong kẹt ghềnh", đã "cho
thấy mặt mình", với "tiếng
thánh thót... êm
ái" cùng
với "nét
mặt mình xinh tươi'" trong Ca Vịnh
Ngợi Khen Magnificat như sau:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng
Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Từ nay muôn thế hệ
sẽ khen tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và
danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho
những ai kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai
lòng trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng
cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để
người giàu có trở về tay không. Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại
lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho
Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Nơi bài Ca Vịnh
Ngợi Khen Magnificat quen thuộc này, một ca vịnh được Giáo Hội chọn đọc trong
Tuần Bát Nhật tiền Giáng Sinh này, cũng như nơi Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của
tư tế thân phụ hài nhi Tiền
Hô Gioan Tẩy Giả bao giờ
cũng vào
ngày 24/12, chất chứa một niềm trông mong và tin tưởng vào Vị Thiên
Chúa cứu độ, cách
riêng của
dân Do Thái.
Đúng thế, nội dung của
Ca Vịnh
Ngợi Khen Magnificat của Mẹ Maria trong Bài Phúc Âm hôm nay đã
chú trọng đến Vị Thiên Chúa cứu độ, thứ tự như sau: Vị Thiên Chúa đã cứu độ
chính cá nhân Mẹ (1); Vị Thiên Chúa cứu độ những ai đáng thương (2), và là Vị
Thiên Chúa đặc biệt cứu độ
dân Do Thái của
Ngài (3).
1- Vị Thiên Chúa đã cứu độ chính cá nhân Mẹ: "Linh
hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ
tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa". Qua
câu
này, Mẹ Maria đã công nhận là Mẹ cũng được Thiên Chúa cứu độ, như thể chính Mẹ
nhận biết Mẹ được đặc ân vô
nhiễm ngay từ lúc Mẹ được hoài thai trong lòng thai mẫu của Mẹ, như chúng ta vẫn
tin theo tín điều được Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố ngày 8/12/1854.
Mẹ được Thiên Chúa cứu độ ở đây, trong trường hợp chuyên biệt duy nhất của Mẹ, không
phải vì
Mẹ "khi còn là những tội
nhân" (Roma 5:8) như tất cả loài người là giòng dõi của Mẹ, mà Mẹ được
Thiên Chúa cứu độ ở
chỗ Ngài đã gìn giữ riêng một mình Mẹ khỏi nhiễm lây nguyên tội, cùng các tì vết
và hậu
quả của nguyên tội, ở
chỗ, Ngài đã cho Mẹ được hưởng trước Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ, cho
dù Người chưa nhập thể giáng sinh, bởi Mẹ đã được Thiên Chúa từ đời đời tuyển
chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
2- Vị Thiên Chúa
cứu độ những ai đáng thương:
"Lòng
thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa. Chúa
đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng. Chúa lật
đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa
đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không".
Những ai đáng
Thiên Chúa cứu độ được Mẹ Maria cảm nghiệm thấy và liệt kê trong
Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat này, thứ
tự như sau:
Trước hết là "những
ai kính sợ Chúa", chứ
không phải "những
ai lòng trí kiêu căng", thành
phần đầy những tự
phụ tự đắc cho mình là nhất, ở
chỗ kỹ càng tuân giữ lề luật, và
tỏ ra khinh người, theo khung hướng tự nhiên của đa số hay hầu hết thành phần
biệt phái và luật sĩ trong dân Do Thái.
Sau nữa là "những
người phận nhỏ" trước
tôn nhan Chúa, chứ
không phải "người
quyền thế", thành
phần lạm dụng quyền bính trời ban của mình để
hưởng thụ hơn là phục vụ, điển
hình như một quận vương Hêrôđê trong việc sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả hay tìm
giết hài nhi Giêsu.
Sau hết là "người đói khát", cảm thấy mình nghèo hèn thiếu thốn chỉ biết tìm kiếm chân lý và tin tưởng và Đấng Tối Cao, chứ không phải "người giàu có", thành phần tự cho mình viên mãn và tự mãn, chẳng cần gì, có thể "tự độ", tự cứu được bản thân mình, chẳng cần đến Thiên Chúa cứu độ.
Một nhân vật tiêu biểu cho thành phần hội đủ 3 yếu tố đáng được Chúa thương hay đáng trở thành nơi cho Lòng Thương Xót Chúa tỏ hiện, đó là thai nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đang ở trong lòng mẹ bấy giờ. Tác động nhẩy mừng trong lòng thai mẫu của thai nhi Gioan khi được gặp gỡ Lời Nhập Thể trong cung dạ trinh nguyên của Mẹ Maria không phải là tác động "kính sợ Chúa" đầu tiên của vị tiền hô này hay sao? Sau này, cho dù được chung dân chúng và riêng thành phần lãnh đạo dân chúng tưởng mình là Đấng Thiên Sai, vị tiền hô này đã không tỏ ra mình thuộc "những người phận nhỏ" hay sao, ở chỗ chẳng những phủ nhận mà còn nhận mình không đáng cởi giây giầy cho Đấng đến sau cao trọng hơn mình hay sao, như bài Phúc Âm Chúa Nhật II và III Năm B cho thấy. Và vị tiền hô này cũng đã không phải là "người nghèo khó" hay sao, ở lòng "đói khát" trông đợi Lòng Thương Xót Chúa tỏ mình ra nơi Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến sau mình, khi thân xác của vị tiền hô tẩy giả này chỉ mặc áo lông thú vật và ăn châu chấu ở trong hoang địa, như Phúc Âm Chúa Nhật II Mùa Vọng thuật lại về ngài.
Tuy nhiên, vì là
Vị Thiên Chúa cứu độ, Vị Thiên Chúa là Tình Yêu vô cùng nhân hậu, Ngài cũng muốn
cứu tất cả mọi người, kể cả thành phần "lòng trí kiêu căng", "quyền
thế" và "giàu có" nữa, mà càng như vậy thì Ngài càng cần phải cứu họ
và tìm hết cách để cứu họ, như Ngài đã từng thực hiện trong suốt giòng lịch sử
cứu độ của dân Do Thái của Ngài.
3- Vị Thiên Chúa đặc
biệt cứu độ
dân Do
Thái của Ngài: "Chúa
săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã
phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Dân Do Thái nói
chung, qua giòng lịch sử cứu độ của mình, một lịch sử cho thấy tình yêu thương
vô cùng nhân hậu của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, đã
liên lỉ tỏ ra bất
trung với Ngài, bằng những thái độ bất xứng của họ, được tiêu biểu nơi "con
bò vàng" (Xuất Hành đoạn 32), một thứ ngẫu tượng cho thấy họ vừa "kiêu
căng" (ở chỗ từ bỏ và hoàn toàn bất tuân phục Vị Thiên Chúa đã tỏ tường cứu
họ ra khỏi thân phận nô lệ ở Ai Cập), vừa "quyền thế" (ở chỗ ngang
nhiên truất phế quyền bính của vị Thiên Chúa chân thật duy nhất nơi họ), và
vừa "giầu có" (vì "con bò vàng" được làm nên bởi chính vàng
bạc của họ đóng góp, như ám chỉ họ tự độ hay tự có thể cứu độ họ mà không cần
Thiên Chúa). Thế nhưng, "dù chúng ta có bất trung, Ngài vẫn
trung thành, vì Ngài không
thể chối bỏ chính mình Ngài" (1Timôthêu
2:13).
Đó là lý do, Ca Vịnh
Ngợi Khen Magnificat đã kết luận ở câu then chốt và chính yếu nhất làm nên lịch
sử cứu độ của dân Do Thái, cũng là câu phản ảnh chính bản chất của Đấng đã xưng
mình với Moisen: "Ta là Ta - I am who am" (hay) "Ta là hiện hữu"
(hoặc) "Ta là Đấng Có" (Xuất
Hành 3:14), tức là
"Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp"
(Xuất Hành 3:15), Vị Thiên Chúa bất biến, Vị Thiên Chúa luôn hiện hữu, Vị Thiên
Chúa luôn ở với dân Ngài, Vị Thiên Chúa thủy chung trước sau như một, đã hứa là
làm, bất chấp con người có bất trung và bất xứng:
"Chúa
săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã
phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!"
Theo tinh thần
của Bài Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat về thành phần "kính sợ", "nhỏ bé"
và "đói khát" đáng được Thiên Chúa cứu độ ấy, có một người nữ điển hình
trong Bài Đọc 1 hôm nay, đó là thân mẫu của bé Samuel, một bà mẹ luôn "kính
sợ" Thiên Chúa, nhưng lại bị Ngài để cho son
sẻ, nhưng bà vẫn "đói
khát" tin tưởng cầu xin cùng Chúa bằng
tất cả thân phận "nhỏ
bé"
của mình, để rồi
khi được nhận lời, bà đã giữ lời hứa dâng con mình cho Chúa:
"Ngày ấy, sau khi đã cho Samuel dứt sữa, bà Anna liền bắt một con bò ba tuổi,
lấy ba cân bột, một vò rượu, và dẫn con đến nhà Chúa ở Silô. Con trẻ lúc đó còn
nhỏ bé. Họ tế lễ con bò và dâng con trẻ cho ông Hêli. Anna thưa: 'Kính lạy ngài,
chúc ngài khang an! Tôi là người đàn bà nọ đã đứng cầu xin Chúa nơi đây trước
mặt ngài. Tôi đã cầu xin vì trẻ này, và Chúa đã cho tôi được như tôi xin. Vậy
tôi xin dâng lại cho Chúa, trót mọi ngày nó thuộc về Chúa'. Và họ thờ lạy Chúa
ngay ở đó".
Bài Đáp Ca hôm
nay được trích trong đoạn Sách Samuel, tiếp ngay sau Bài Đọc 1 trên đây, một Ca
Vịnh Ngợi Khen Magnificat Cựu Ước được vang lên từ môi miệng mẹ của hài nhi Samuel,
cũng chất chứa và
bộc lộ tâm tình tương tự như trong
Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat Tân Ước của
Mẹ Maria ở Bài
Phúc Âm hôm nay, một
tâm tình tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa và chúc tụng ngợi khen cảm tạ Lòng
Thương Xót của Vị Thiên Chúa cứu độ:
1) Lòng tôi
nhảy mừng trong Chúa, khí phách tôi hướng lên Thiên Chúa của tôi, miệng tôi rộng
mở chống quân thù, tôi vui mừng vì Chúa cứu độ tôi.
2) Cung nỏ người
hùng bị bẻ tan, người kiệt sức lại nai nịt dũng khí; kẻ no đầy nay làm thuê vì
miếng bánh, người đói lả nay lại được no nê. Người son sẻ lại con đàn cháu đống,
kẻ nhiều con lại trở nên héo tàn.
3) Chúa cho chết
và Chúa làm cho sống, cho đi xuống mồ rồi lại đem lên, làm cho nghèo rồi cho nên
giàu có, hạ xuống thấp rồi lại nhắc lên cao.
4) Cho kẻ bần cùng đứng dậy khỏi bụi tro, nâng cao kẻ nghèo khỏi phân nhơ rác rến, cho ngồi chung với vua quan tướng lãnh, đặt cho họ một ngai báu vinh quang.
Bài thánh ca Magnificat
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 22/12 Bài Đọc 2
Trích bài diễn giải của thánh Bê-đa Khả Kính, linh mục, về Tin Mừng theo thánh Lu-ca.
Bấy giờ Đức Ma-ri-a nói :
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Như thế là Người muốn nói : Đức Chúa đã làm cho tôi nên cao trọng khi ban ân huệ rất lớn lao và chưa từng nghe nói, đến nỗi không miệng lưỡi nào giải thích nổi, mà phải có lòng mến yêu sâu thẳm mới mong hiểu phần nào. Vì thế, tôi đem hết sức lực của linh hồn để dâng lời cảm tạ. Đời sống của tôi cùng với mọi cảm nghĩ và hiểu biết, tôi dùng tất cả để chiêm ngưỡng ân huệ cao quý vô song đó với tâm tình tri ân cảm tạ, bởi vì trong chính Đức Giê-su, Đấng cứu độ tôi, thần trí tôi được hớn hở vui mừng vì Người là Thiên Chúa vĩnh cửu, và thân xác tôi trở nên phong phú vì Người đã đầu thai để sống trong thời gian.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả.
Danh Người thật chí thánh chí tôn.
Điều này có liên quan đến lời mở đầu bài thánh ca : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Hẳn chỉ có linh hồn được Đức Chúa đoái thương làm cho những việc trọng đại, mới có thể ngợi khen Người, bằng những lời tán dương xứng hợp, và mới có thể mời người khác chia sẻ ước nguyện và ý hướng của mình khi nói : Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Quả thật, ai biết Thiên Chúa mà lại chểnh mảng, không làm hết sức để ngợi khen Người, để làm cho danh thánh Người vinh hiển thì sẽ bị coi là người nhỏ nhất trong Nước Trời. Danh Người được gọi là thánh, bởi vì Người có quyền năng vô song và do đó, Người vượt trên mọi loài thụ tạo và tách biệt hẳn với nhân loại Người đã dựng nên.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của
Người,
vì Người nhớ lại lòng thương xót.
Gọi Ít-ra-en là tôi tớ của Chúa thật là đẹp, bởi vì Ít-ra-en đã được Người đoái thương cứu độ, nhờ biết tuân phục và sống khiêm nhường, như ngôn sứ Hô-sê nói : Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó.
Ai khinh thường không chịu sống khiêm tốn thì vừa không thể được cứu độ vừa không thể cùng với vị ngôn sứ nói : Có Thiên Chúa phù trì, thân con đây Chúa hằng nâng đỡ. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
Như Chúa đã hứa cùng cha ông chúng
ta,
Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.
Đây không có ý nói về dòng dõi huyết thống của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng là dòng dõi tinh thần, nghĩa là không phải những người sinh ra bởi huyết thống, nhưng là những người dõi bước theo đức tin của tổ phụ, dù họ có chịu phép cắt bì hay không. Bởi vì trước khi cắt bì, tổ phụ đã tin, và nhờ đã tin mà được kể là công chính.
Vì vậy, việc Đấng Cứu Thế đến, được hứa cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời, nghĩa là cho những người con của lời hứa. Có lời chép về những người ấy rằng : Nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi tổ phụ Áp-ra-ham, là những người thừa kế, chiếu theo lời hứa.
Quả là thích hợp việc Chúa và ông Gio-an chào đời được hai bà mẹ tiên báo. Như vậy, cũng như tội lỗi đã bắt đầu từ người phụ nữ, thì ơn phúc cũng bắt đầu từ những người phụ nữ, đồng thời sự sống đã mất đi, vì sự sa ngã của một người phụ nữ, nay được hoàn lại cho thế giới, nhờ hai người phụ nữ đang cùng nhau ca hát.
Ngày 23/12
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4; 4, 5-6 (Hr 3, 1-4, 23-24)
"Ta sẽ sai tiên tri Êlia đến cùng các ngươi trước ngày Chúa đến".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Ðây là những điều Thiên Chúa phán: Này đây, Ta sai sứ thần Ta đi dọn một con đường trước mặt Ta. Và bỗng chốc, Ðấng Chủ tể các ngươi tìm kiếm, Sứ Thần Giao Ước các ngươi mong ước, Người ngự đến trong thánh điện Người. Này đây, Người ngự đến, Chúa các cơ binh phán: Ai biết được ngày nào Người đến? Ai đứng vững mà trông xem Người? Vì Người như ngọn lửa hoả lò, như lá thuốc của phường thợ giặt. Người sẽ ngồi nung nấu luyện bạc, sẽ tẩy luyện con cái Lêvi, lọc chúng nó như vàng như bạc, để chúng trở thành cho Chúa những người dâng lễ tế trong công chính. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa, như những năm đầu.
Này đây, Ta sai Tiên tri Êlia đến cùng các ngươi, trước ngày trọng đại và kinh khủng của Ta. Người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu, và lòng con cháu trở về cùng cha ông, kẻo Ta ngự đến tiêu diệt địa cầu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 8-9. 10 và 14
Ðáp: Hãy nhìn xem và hãy ngẩng đầu lên, vì ơn cứu chuộc các ngươi đã gần đến (Lc 21, 28).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Emmanuel, là Vua và là Ðấng ban lề luật, lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin hãy đến cứu độ chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 57-66
"Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: "Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan".
Họ bảo bà rằng: "Không ai trong họ hàng bà có tên đó". Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: "Tên nó là Gioan". Và mọi người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa.
Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: "Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó".
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Tên gọi từ ái
Ngày 23/12 trong Tuần
Bát Nhật trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm nay, Thánh ký Luca trình thuật lại biến cố
hài nhi Tiền hô Gioan Tẩy Giả được hạ sinh, một bài Phúc Âm tiếp liền với bài
Phúc Âm hôm qua về Ca Vịnh Ngợi Khen Magnificat của Mẹ Maria.
Thật vậy, ở cuối bài Phúc Âm
hôm qua, Thánh ký Luca đã ghi nhận như thế này: "Maria
ở lại với bà Isave độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình". Tuy
vị
thánh ký này không
cho biết là Mẹ Maria "trở về nhà mình" trước hay sau biến
cố hài
nhi Gioan được sinh ra, chúng ta cũng có thể suy đoán
rằng cho tới khi hài nhi Gioan xuất hiện. Bởi
vì thời gian "ba tháng" này là thời gian bao gồm cho
tới khi hài nhi Gioan được sinh ra, và mục đích của Mẹ Maria đến thăm bà
là để giúp đỡ bà chị họ của mình thì phải bao gồm cả chính lúc bà lâm bồn cần
giúp đỡ nhất nữa mới phải.
Vậy, nếu quả thực Mẹ
Maria ở lại nhà Bà Isave cho đến khi hài nhi Gioan được sinh ra thì Mẹ đã chứng
kiến thấy biến
cố này xẩy ra như
thế nào, Thánh ký Luca đã trình thuật lại như sau:
"Khi
đến ngày sinh, bà Isave hạ sinh một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa
đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám,
người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Giacaria của cha nó mà
đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: 'Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan'. Họ
bảo bà rằng: 'Không ai trong họ hàng bà có tên đó'. Và họ làm hiệu hỏi cha con
trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: 'Tên nó là Gioan'. Và mọi
người đều bỡ ngỡ. Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi
người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan
truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: 'Con trẻ
này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó'".
Trong bài Phúc Âm
hôm nay, Thánh ký Luca không nhấn mạnh đến chính biến cố hạ sinh của hài nhi
Gioan cho bằng đến biến
cố cắt bì của
ngài và
biến cố đặt
tên cho ngài, một biến cố bao gồm cả phép lạ xẩy
ra cho vị
thân phụ tư tế của ngài được khỏi câm nữa.
Trước hết, luật cắt bì
là luật của Chúa, bắt đầu từ thời tổ phụ Abraham (xem Khởi Nguyên 17:9-14) chứ
không phải từ thời Moisen, thời được ghi thành luật (xem
Levi 12:1-3) những gì vốn đã được thực hành theo truyền thống.
"Thiên Chúa phán với ông Áp-ra-ham: 'Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì. Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với các ngươi. Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào không thuộc dòng dõi các ngươi. Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu. Kẻ không được cắt bì, người đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ: nó đã phá vỡ giao ước của Ta'".
Tục
lệ và luật lệ cắt bì này của dân Do Thái mang ý nghĩa thuộc về Chúa và trở
nên thanh sạch, nhờ đó
họ mới được
tham dự vào Lễ Vượt Qua (xem Xuất Hành 12:44,48), như
thể phải lãnh nhận Phép Rửa rồi mới hợp lệ để được Rước Lễ của Giáo Hội Công
Giáo bây giờ vậy. Tuy nhiên, tục lệ và luật lệ cắt bì này còn mang một ý nghĩa
khác nữa về phía lãnh nhận nhân, đó
là cắt
bì tấm lòng của mình (xem Levi 26:41; Đệ Nhi Luật 10:16;30:6), nghĩa là kẻ cắt
bì không sống theo xác thịt và cho mình nữa mà là sống theo Thần Linh và cho
Chúa, như
Kitô hữu sau khi lãnh nhận Phép Rửa đã
cởi bỏ con người cũ mà
mặc lấy con người mới là Chúa
Kitô vậy
(xem Roma 6:6; Epheso 4:24).
Tất cả ý nghĩa của tục lệ và luật lệ cắt bì liên quan đến tính cách thánh hiến
và tinh thần tận hiến được nên trọn nơi hài nhi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, như sau
này ngài đã được các Phúc Âm thuật lại về sứ vụ và đời sống cùng thế giá của
ngài trong dân Do Thái, đến độ qua biến cố cắt bì và đặt tên của ngài này đã xẩy
ra những việc lạ lùng liên quan đến cả tên gọi của ngài cũng như đến sự kiện vị
thân phụ tư tế của
ngài được chữa lành khỏi bị câm, và cả hai sự kiện này đã khiến "mọi
người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan
truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết, đều để bụng nghĩ rằng: 'Con trẻ
này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó'".
Nếu tên gọi của Đấng Thiên Sai Cứu Thế là "Giêsu", một tên gọi được trời cao đặt cho (xem Mathêu 1:21), và có nghĩa là "Chúa cứu độ", thì tên gọi vị tiền hô của Người là "Gioan" cũng do trời cao đặt cho (xem Luca 1:13), một tên gọi được chính thân phụ bé là tư tế Zacaria đang bị câm, bởi ngờ vực về chính sự kiện bé được sinh ra, đã bất ngờ bật lên cất tiếng gọi, có ý nghĩa là Giavê từ ái, Giavê ưu ái.
Như thế, hài nhi Gioan xuất hiện mang tên "Gioan" có nghĩa là dấu hiệu Thiên Chúa tỏ lòng từ ái và ưu ái, không phải cho riêng gia đình của bé, cho mẹ của bé khỏi bị hổ ngươi bẻ mặt bởi son sẻ, và cho cha của bé khỏi bị câm, mà còn cho toàn dân Do Thái nữa, một dân tộc đang trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một dân tộc bấy giờ được đại diện bởi hàng xóm láng giềng kéo đến chúc mừng chung gia đình bé và riêng bản thân bé. Và thực sự bé Gioan đã sống một cuộc đời xứng với vai trò cao trọng của mình là Tiền Hô báo trước Đấng Thiên Sai Cứu Thế là chính hiện thân sống động của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất vô cùng từ bi thương xót.
Vị tiền hô Gioan tẩy giả thật sự được Chúa thương, phải nói là hơn hết mọi con người được người nữ sinh ra (xem Mathêu 11:11; Luca 7:28), chính yếu là ở chỗ được đóng vai trò làm "bố" thiêng liêng của Chúa Giêsu Kitô, qua việc ngài làm phép rửa cho Người, và vì thế, vì thiên chức làm "bố thiêng liêng" cao trọng duy nhất này của Lời Nhập Thể mà ngài là một nhân vật duy nhất đã:
- Được tiên tri báo trước trong Thánh Kinh Cựu Ước - Isaia 40:3, (trong khi đó, chính Thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Kitô hay bất cứ một tông đồ nổi tiếng nào của Giáo Hội Tân Ước cũng không được tiên tri báo trước, tất nhiên không kể Mẹ Maria);
- Được cả Thiên Sứ từ trời xuống trịnh trọng báo tin hạ sinh cách lạ, (chính Mẹ Maria cũng chẳng thấy một đoạn Thánh Kinh Tân Ước hay Cựu Ước thuật lại sự kiện Mẹ được Trời Cao truyền tin thụ thai như nơi trường hợp của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhưng chỉ có Mẹ mới xuất hiện ngay ở đầu Thánh Kinh nơi hình ảnh "người nữ" - Khởi Nguyên 3:15);
- Được chính Trời Cao đặt tên cho là "Gioan" (nghĩa là Thiên Chúa từ ái), cùng báo trước là "sẽ được đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng thai mẫu", như bài Phúc Âm ngày 19/12 cho thấy;
- Được chính Lời Nhập Thể trong cung dạ Mẹ Maria đến thăm, ban ơn cứu độ cho khi mới được 6 tháng, chưa sinh vào trần gian;
- Được sinh ra có Lời Nhập Thể đang hiện diện trong cùng một ngôi nhà của mình;
- Được chính Đấng "đầy ơn phúc" là Mẹ Thiên Chúa ẵm bế trên tay, như Mẹ ẵm bế Lời Nhập Thể sau này, trong thời gian "Maria ở lại với bà Isave độ ba tháng" để chăm sóc cho cả mẹ lẫn con; và
- Được Phúc Âm thuật lại một cách đặc biệt biến cố hạ sinh của mình, trong khi đó, cả Mẹ Maria và Thánh Giuse đều không có một đoạn Thánh Kinh Cựu Ước hay Tân Ước nào thuật lại về biến cố sinh ra của hai Đấng được tuyển chọn làm cha nuôi và làm mẹ thật của Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể.
Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri Malachy, Vị Giavê từ ái, Vị Giavê ưu ái, như nơi tên gọi của bé Gioan, đã báo trước về bé như là một "sứ thần" của Ngài, đóng vai như "Êlia", được
Ngài sai đến trước để dọn đường cho "Đấng chủ tể" là Con của Ngài đến sau, như thế này:
"Này đây, Ta sai sứ thần Ta đi dọn một con đường trước mặt Ta. Và bỗng chốc, Ðấng Chủ tể các ngươi tìm kiếm, Sứ Thần Giao Ước các ngươi mong ước, Người ngự đến trong thánh điện Người. Này đây, Người ngự đến, Chúa các cơ binh phán: Ai biết được ngày nào Người đến? Ai đứng vững mà trông xem Người? Vì Người như ngọn lửa hoả lò, như lá thuốc của phường thợ giặt. Người sẽ ngồi nung nấu luyện bạc, sẽ tẩy luyện con cái Lêvi, lọc chúng nó như vàng như bạc, để chúng trở thành cho Chúa những người dâng lễ tế trong công chính. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa, như những năm đầu. Này đây, Ta sai Tiên tri Êlia đến cùng các ngươi, trước ngày trọng đại và kinh khủng của Ta. Người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu, và lòng con cháu trở về cùng cha ông, kẻo Ta ngự đến tiêu diệt địa cầu".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa lời nguyện cầu và nhận thức thần linh về một Vị "Chúa nhân hậu và công minh" của những tâm hồn như cha mẹ của hài nhi Gioan trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng như của chính Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả sau này:
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
2) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
3) Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành, dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa. Chúa thân mật với những ai tôn sợ Chúa, và tỏ cho họ biết lời minh ước của Ngài.
Biểu lộ mầu nhiệm được giấu kín
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 23/12 Bài Đọc 2
Trích khảo luận Chống lạc thuyết No-ê-tô của thánh Hi-pô-ly-tô, linh mục.
Anh em thân mến, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất, Đấng chúng ta nhận biết, không do bất cứ một nguồn mạch nào ngoài Kinh Thánh. Vì thế, chúng ta hãy tìm hiểu tất cả những gì Kinh Thánh rao giảng và nhìn nhận hết mọi điều Kinh Thánh truyền dạy. Chúa Cha muốn được chúng ta tin thế nào, chúng ta hãy tin như thế. Chúa Cha muốn Chúa Con được tôn vinh thế nào, chúng ta hãy tôn vinh như vậy. Và Chúa Cha muốn Chúa Thánh Thần được ban tặng thế nào, chúng ta hãy đón nhận như thế ! Chúng ta đừng theo ý muốn, cảm nghĩ và sức lực riêng, mà tìm hiểu những gì Thiên Chúa ban cho, nhưng chính Thiên Chúa muốn dùng Kinh Thánh mà dạy dỗ chúng ta thế nào, chúng ta hãy hiểu như vậy.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất đã có từ trước muôn đời, không có gì đồng thời với Người, chính Người đã muốn tạo thành thế giới. Người nghĩ, Người muốn, Người phán là thế giới được tạo thành. Ngay lập tức, thế giới hiện hữu như Người muốn và Người đã làm cho nó nên hoàn hảo theo ý muốn của Người. Chỉ cần chúng ta biết điều này là không có gì đồng thời với Thiên Chúa. Ngoài Người ra, trước kia chẳng có gì. Chỉ có một Thiên Chúa, nhưng có nhiều ưu phẩm. Vì Người không hiện hữu mà không có trí tuệ và khôn ngoan, quyền năng và kế hoạch. Tất cả ở nơi Người, và Người là tất cả. Khi Người muốn và theo cách thế Người muốn, Người đã bày tỏ Lời của Người, vào thời gian do chính Người ấn định, chính nhờ Lời ấy mà muôn vật được tạo thành.
Lời ấy, Người đã có nơi mình. Lời vốn dĩ vô hình, nhưng vì thế giới thụ tạo, Người đã làm cho nên hữu hình. Trước hết, Người sai phái Lời như thốt ra tiếng nói, sinh ra như ánh sáng phát xuất từ ánh sáng. Lời là trí thông minh của Người, được Người sai đi làm Đức Chúa của thụ tạo. Trí thông minh này, ban đầu chỉ mình Người thấy được mà thôi, còn thế giới thụ tạo thì không thấy, nhưng Người đã làm cho thấy được, để khi thế giới thụ tạo thấy xuất hiện thì được cứu độ. Đó chính là trí thông minh của Thiên Chúa, trí thông minh đã đi vào trần gian, đã tỏ ra mình là tôi trung của Thiên Chúa, đúng như lời Kinh Thánh : Mọi sự nhờ Ngôi Lời mà có, còn chính Ngôi Lời thì phát xuất từ Chúa Cha.
Chúa Cha đã ban Lề Luật và các ngôn sứ. Và khi ban như thế, Người dùng Thánh Thần bắt họ nói, để một khi được sức mạnh của Chúa Cha linh hứng, các ngài loan báo quyết định và ý muốn của Người.
Vậy Ngôi Lời đã xuất hiện như thánh Gio-an nói. Quả thật, Người thâu tóm tất cả những gì các ngôn sứ đã nói, khi minh chứng rằng chính Người là Ngôi Lời, nhờ Người vạn vật được tạo thành. Lúc khởi đầu, vẫn có Ngôi Lời. Ngôi Lời hằng hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Sau đó thánh Gio-an lại nói : Thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón tiếp.
Thánh Gioan Kanty, Linh mục
23/12
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ.
Thánh nhân sinh vào năm 1390 tại miền Krakow nước Ba Lan ở Kenty. Thánh nhân có óc thông minh, khôn khéo, học hành giỏi giang, trổi vượt các bạn bè. Ngài sống suốt cuộc đời tại miền Krakow, sau khi mãn trường ở đây, Ngài trở thành giáo sư văn chương, khoa trưởng triết học năm 1432 và Ngài cũng là giáo sư thần học vào năm 1443. Ngài được bổ nhiệm làm cha sở Olkusz, một họ đạo nhỏ bé ở gần Krakow. Với chức vụ nào, Ngài cũng tỏ ra là một người nổi tiếng, xuất sắc không chỉ vì kiến thức sâu rộng, mà còn bởi đức bác ái, lòng thương xót, cảm thông đối với mọi người, đặc biệt là những con người nghèo khó, bơ vơ, vất vưởng. Ngài có tấm lòng hoán cải rất đặc biệt. Thiên Chúa luôn có con đường của Ngài. Thánh nhân luôn sẵn sàng bảo vệ đức tin, luôn gắn chặt lấy Ðức Kitô cho dù chiến tranh lúc đó lan tràn và thảm khốc trên khắp nước Ba Lan. Thánh nhân có tâm hồn thống hối và ý thức việc hành hương Giêrusalem như một phương thế để đền tội, đồng thời cầu nguyện cho các linh hồn. Thánh nhân đã hành hương đất thánh Giêrusalem, viếng mộ Chúa Giêsu nhiều lần và đi Roma viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ bốn lần.
Với tuổi đời 83, thánh nhân già yếu. Thiên Chúa đã kêu mời Ngài về với Chúa vào áp ngày lễ Noen năm 1473. Thánh nhân đã làm hết sức mình, đã sống đời sống kết hợp mật thiết Thiên Chúa và hoàn thành một cách xuất sắc nhất mọi công việc bề trên trao phó cho Ngài. Ðó là nét rất đặc biệt nơi cuộc sống Ngài.
Thánh Gioan Kanty sống thọ 83 tuổi. Trong suốt những năm ấy, rất nhiều lần Thánh nhân đã bán những của ngài có để giúp đỡ người nghèo. Khi người ta bật khóc vì nghe biết Gioan Kanty đang hấp hối, Thánh nhân đã an ủi họ: “Anh em đừng lo lắng cho cái nhà tù hay hư nát này; một hãy nghĩ tới linh hồn sắp sửa được thoát khỏi chốn ngục tù ấy!” Thánh Gioan Kanty về trời năm 1473; và được Đức Thánh Cha Clêmentê XIII tôn phong lên bậc Hiển Thánh năm 1767.
Chúng ta hãy học nơi Thánh Gioan Kanty sự chuyên cần chu toàn việc học cũng như việc nhà. Thiên Chúa chỉ mong đợi chúng ta cố gắng hết mình và Người sẽ chúc lành cho những nỗ lực của chúng ta. Chúng ta hãy nài xin Thánh Gioan Kanty giúp chúng ta làm việc với tinh thần vui tươi phấn khởi.
II. BÀI HỌC
Mỗi vị thánh đều nổi bật về một nhân đức nào đó, chẳng hạn có thánh làm gương về sự trong sạch, có vị thánh về sự khó nghèo hay vâng phục. Tựu trung các vị thánh tuy có nổi bật về một vài nhân đức nào đó, họ vẫn có chung một mẫu số là sống càng giống Chúa Giêsu Kitô bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Một triết gia nổi tiếng ngày xưa, mỗi khi dạy học, thường bắt học sinh trả tiền. Ngày đó, có một thanh niên nghèo đến xin làm đệ tử. Ông hỏi:
- Anh có gì trả cho tôi không?
Chàng thanh niên khôn ngoan đáp:
- Con sẽ cho thầy cả con người của con.
Ông thầy nhìn anh rồi nói:
- Được tôi nhận anh. Nhưng anh phải cố gắng mỗi ngày để thăng tiến hơn con người hiện tại của anh.
Những ai muốn tận hiến cho Chúa cũng phải cố gắng mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn.
Ngày nay, bất cứ du khách nào đến Copenhague, Đan mạch, cũng sẽ hối tiếc nếu không chiêm ngắm cho bằng được tuyệt tác “Chúa Kitô và 12 Tông đồ”. Thế nhưng điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên là tác phẩm này có hai ấn bản được trưng bày tại hai nơi khác nhau, ấn bản tại Bảo tàng viện quốc gia có màu xám ảm đạm, nhưng ấn bản tại nhà thờ chính tòa Copenhague lại có một nét trắng toát thanh cao.
Làm gì để nên thánh
Ngày 1.10.2000 Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đệ nhị đã phong thánh Cho một phụ nữ Sudan ở châu Phi tên là Josephine Bakhita với những lời nhận định thấm thía:
- Cô gái khiêm tốn Châu Phi này đã nhắc nhở cho thế giới một nhu cầu khẩn thiết phải giải phóng phụ nữ khỏi sự đàn áp, bất công và bạo lực, phục hồi phẩm giá của họ trong việc thực thi hoàn toàn các quyền lợi của mình.
Chị Josephine Bakhita sinh năm 1896 tại nước Sudan. Năm lên bảy, chị bị bắt cóc và bắt đi làm nô lệ. Chị phải chịu bao cay đắng cực hình cho đến năm 1882, lúc chị được ông lãnh sự Calisto Lugnani mua về. Sau đó chị được ông đưa về nước Ý. Ở đây, chị được gia nhập đạo công giáo. Một niềm vui tràn ngập cuộc đời Chị. Chị thường đến hôn lên chiếc giếng rửa tội và nói:
- Đây là nơi tôi đã được trở nên con cái Thiên Chúa.
Sau đó, chị được vào dòng Canossian và suốt đời chị được phân công làm những công việc âm thầm nhỏ nhặt. Tuy vậy, sự thánh thiện của chị ngày càng được mọi người biết đến. Chị đón tiếp mọi người rất niềm nở, luôn có những lời nâng đỡ ủi an khích lệ, sẵn sàng trả lời những câu hỏi thắc mắc của trẻ em. Chị chia sẻ:
- Nếu tôi gặp lại người buôn nô lệ đã bắt cóc tôi và ngay cả những người đã đánh đập tra tấn tôi, tôi sẽ quì xuống và hôn lên tay họ, bởi nếu những điều đáng buồn ấy không xảy ra thì chắc hôm nay tôi đã không có được cơ hội trở thành một Kitô hữu, trở thành một nữ tu.
Khi chị qua đời vào ngày 8.2.1947, hàng ngàn người đã đến viếng linh cữu chị. Quả thật, ngọn lửa thần linh Đức Giêsu đã ném vào trần gian đã làm cuộc đời chị Josephine Bakhita bừng cháy lòng yêu mến và tha thứ. Tha thứ cho cả những ai đã từng làm hại chị.
Con chỉ có một công việc quan hệ: Bổn phận. Không kể lớn nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của cha con”, trên trời Ngài chỉ định cho tôi thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử. Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là kho! (ĐHV 999)
Các thánh chỉ làm bổn phận mình, theo ơn Chúa ban cho mỗi người. Thánh Giuse và Mẹ Maria không làm gì khác hơn là chu toàn bổn phận âm thầm, khiêm tốn mỗi ngày, nói được là bổn phận tầm thường hơn con nữa.
Chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ lo làm việc nội trợ trong nhà kín như các chị em khác.
Thánh Isiđôrô cứ đi cày như các nông dân khác.
Thánh Gioakim và Anna là cha mẹ gia đình vất vả như cha mẹ của mọi gia đình khác.
Thánh Gioan Vianney chỉ ngồi toà giải tội như bất cứ một Linh mục nào khác. Có Linh mục nào mà giải tội không được đâu! Như cha Vianney rất ý thức về bổn phận cao cả của ngài và đã chu toàn một cách rất tuyệt hảo, mặc dầu ngài dốt đặc. Trước ngài ngồi toà mỗi tuần ít giờ, dần dần mỗi ngày ít giờ, rồi sau cùng, suốt mấy chục năm cuối đời, ngồi toà giải tội mỗi ngày 18 giờ. Ngài chỉ làm chừng ấy thôi mà ma quỷ cũng phải thét lên: “Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao phải bó tay thất nghiệp”.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-12-thanh-gioan-kentylinh-muc-43775
Ngày 24/12
Thứ Bảy
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 1-5. 8b-12. 16
"Vương quốc Ðavít sẽ tồn tại trước mặt Chúa đến muôn đời".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Khi ấy vua Ðavít ngự trong đền và khi Chúa cho ông được bằng yên tư bề, khỏi mọi quân thù chung quanh, thì vua nói với tiên tri Nathan rằng: "Ông thấy không? Ta ở trong nhà làm bằng gỗ bá hương, còn hòm bia Chúa thì để ở trong lều bằng da ư?" Nathan trả lời với vua rằng: "Ðiều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy đi thực hiện, vì Chúa ở với vua".
Nhưng xảy ra (là) đêm ấy có lời Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: "Chúa phán thế này: Có phải ngươi sẽ xây cất cho Ta một ngôi nhà để ở chăng?" Ta đã đem ngươi ra khỏi đồi cỏ lúc ngươi còn theo sau đoàn chiên, để ngươi trở nên thủ lãnh Israel dân Ta, và Ta đã ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi; Ta đã tiêu diệt mọi quân thù trước mặt ngươi. Và Ta sẽ làm cho danh ngươi nên cao trọng, như danh các bậc vĩ nhân trên mặt đất. Ta sẽ đặt chỉ một nơi cho Israel dân ta, và Ta sẽ vun trồng nó tại đó. Nó sẽ ở đó và sẽ không còn bị quấy rối nữa. Con cái sự dữ sẽ không còn đến đàn áp nó như xưa nữa, như ngày Ta thiết lập các vị Thẩm phán trên Israel dân Ta. Ta sẽ cho ngươi được bằng yên khỏi mọi quân thù. Và Chúa phán trước cho ngươi biết là Chúa sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Ðức Thượng Trí của Ðấng Tối Cao, Ngài an bài mọi sự cách mạnh mẽ và dịu dàng, xin hãy đến dạy dỗ chúng con con đường khôn ngoan. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 67-79
"Vầng đông từ cao thẳm tới viếng thăm chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế? để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
"Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Xin chúc tụng Chúa
Hôm nay, ngày 24/12
trong Tuần Bát Nhật ngay trước Đại Lễ Giáng Sinh, Bài Phúc Âm của Thánh
ký Luca ghi lại
Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus của vị tư tế thân phụ của bé Gioan, ngay trong biến
cố bé được cắt bì và đặt tên, như được cùng vị Thánh ký này đề cập đến trong bài
Phúc Âm hôm qua.
Qua bài Ca Vịnh Chúc Tụng
Benedictus này, tư tế Zacaria ở đây có thể nói là vị tiên tri cuối cùng của
Cựu Ước, vì ông nói tiên tri chẳng những về Đấng Thiên Sai Cứu Tinh mà còn nói
tiên tri về chính người con trai mới được cắt bì và đặt tên cho là Gioan. Nguyên
văn Ca Vịnh mà "Giacaria,
cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri" như
sau:
"Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta, như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa: Sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù, thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét; sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham: rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù, và cho ta chẳng còn sợ hãi, để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta. Hài nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao: Con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là tha cho họ hết mọi tội khiên. Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Nghe Bài Ca Vịnh Chúc Tụng này của tư tế Giacaria, ở phần đầu, chúng ta thấy như văng vẳng Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria, ở chi tiết về Lòng Thương Xót Chúa: "Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi Người đến muôn đời!" (Ca Vịnh Ngợi Khen) - "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel, Người đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người... trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ Abraham" (Ca Vịnh Chúc Tụng). Có thể nói Ca Vịnh Chúc Tụng là ca vịnh tiếp theo Ca Vịnh Ngợi Khen và khai triển thêm Ca Vịnh Ngọi Khen của Mẹ Maria, bằng cách cho thấy rõ hơn Lòng Thương Xót Chúa đối với dân của Ngài là ở chỗ: "Từ dòng dõi trung thần Ðavít, Người đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta... để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người mà phụng thờ Người suốt cả đời ta".
Sở dĩ tư tế "Giacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri" như thế, một con người khi được Tổng Thần Gabiên truyền tin cho ông biết rằng con trai của ông sẽ được hạ sinh thì ông không tin, nay lại "được đầy Thánh Thần" đến độ "liền nói tiên tri" là vì ông được tham hưởng Thánh Thần từ người con trai của ông, như chính vợ của ông đã được tham hưởng khi thai nhi Gioan nhẩy mừng trong lòng bà khiến bà cũng đã "được đầy Thánh Linh" và cất tiếng chúc tụng Mẹ Maria.
Tuy nhiên, cha mẹ của thai nhi và hài nhi tiền hô Gioan không thể nào "được đầy Thánh Linh" như vậy, nếu không có sự hiện diện của Lời Nhập Thể trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ Maria, qua việc Mẹ đến viếng thăm ông bà, một biến cố và một sự hiện diện thần linh khiến cho cả gia đình của ông, từ thai nhi đến thai mẫu, từ hài nhi đến thân phụ. Đó là lý do ngay câu đầu tiên của bài Phúc Âm về biến cố thăm viếng của Mẹ Maria, Thánh ký Luca đã ghi nhận sự kiện Mẹ Maria "vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave". Mẹ Maria "vào nhà ông Giacaria". Đấy, chính lúc Mẹ Maria "vào nhà ông Giacaria" là lúc gia đình ông bắt đầu có sự hiện diện thần linh của Lời Nhập Thể, và qua tác động đầu tiên của Mẹ Maria là lời Mẹ chào bà Isave mà Thánh Thần từ Lời Nhập Thể trong cung dạ Mẹ đã được thông ban cho thai nhi tiền hô Gioan.
Trong Bài Ca Vịnh
Chúc Tụng Benedictus này của tư tế Zacaria thân phụ của bé Gioan là Vị Tiền
Hô tương lai
của Đấng Thiên Sai Cứu Thế, được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày 24/12 ngay
trước Đại Lễ Giáng Sinh hôm nay, bao gồm 2 phần rõ ràng: phần đầu về chính "Ðức
Chúa là Thiên Chúa Israel", và
phần sau về vị "ngôn
sứ của Ðấng Tối Cao" là
chính Gioan con của ông.
Trước hết, về chính "Ðức
Chúa là Thiên Chúa Israel", tư
tế Zacaria đã "chúc
tụng" Ngài, vì Ngài là Vị Thiên Chúa cứu độ, Đấng "đã
viếng thăm và cứu chuộc dân Ngài", bằng
chính việc "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) cuối cùng "Ngài
đã cho xuất hiện Vị Cứu Tinh quyền thế từ dòng dõi trung thần Ðavít", hoàn
toàn ứng nghiệm với
tất cả những gì "Người
đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ mà phán hứa tự ngàn xưa", bất
chấp dân của Ngài có thất trung bội tín với Ngài, chỉ vì Ngài là Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất của họ, ở chỗ, trong suốt giòng lịch sử cứu độ của
họ, Ngài đã liên
tục tỏ
ra "trọn
bề nhân nghĩa với tổ tiên, và nhớ lại lời xưa giao ước Chúa đã thề với tổ phụ
Abraham".
Nghĩa là Thiên
Chúa cứu độ dân của Ngài, một dân tộc trong tất cả mọi dân tộc được Ngài nhưng
không tuyển chọn và tỏ mình ra cho, là
vì chính Ngài thương họ, hơn
là họ đáng công, trái lại, còn đáng tận diệt nữa, và vì họ là một
dân tộc càng phản bội thất trung bội tín với Ngài lại càng đáng thương và càng cần
Ngài cứu độ để chứng thực Ngài là Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ và là
vị Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân hậu, đúng
như cảm nhận của vị tư tế xướng lên Ca Vịnh Chúc Tụng Benedictus này: "Thiên
Chúa ta đầy lòng trắc ẩn".
Sau nữa, về vị "ngôn
sứ của Ðấng Tối Cao" là
chính "hài
nhi" Gioan con của ông, ông đã nói tiên tri rằng "Con
sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ, là
tha cho họ hết mọi tội khiên". Và
thực sự bé Gioan này đã hoàn thành sứ mệnh của mình, chẳng những bằng chính lời
kêu gọi của ngài nhắn gửi chung dân Do Thái: "Hãy
hoán cải cuộc sống! Nước Thiên Chúa đã gần" (Mathêu 3:2), mà
còn bằng chính phép rửa thống hối của ngài nữa, một phép rửa tiên báo cho Cuộc
Vượt Qua của Đấng Thiên Sai Cứu Thế để là Đấng đến sau ngài nhưng cao trọng hơn
ngài, Đấng đến làm phép rửa "bằng Thánh
Thần" (Gioan 1:33), để "tha
cho họ hết mọi tội khiên", Đấng
xuất hiện như "Vầng
Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và trong
bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Bài Đọc 1 hôm nay
cũng chất chứa những lời Thiên Chúa tiên báo về chính Đấng Thiên Sai của Ngài
sẽ được sai đến và xuất phát từ giòng dõi vuơng gia Đavít, một Đấng Thiên Sai sẽ
cai trị bất diệt với một triều đại
vô cùng bất tận,
như đã được chính Sứ Thần Gabiên tái xác định với Trinh Nữ Nazarét Maria trong
biến cố truyền tin (xem Luca 1:32-33), những lời đã được chính Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất phán qua tiên tri Nathan về ý định Vua Đavít muốn xây một
ngôi nhà đàng hoàng cho hòm bia của Ngài rằng: "Chúa
sẽ tạo lập cho ngươi một nhà. Nhà của ngươi và triều đại ngươi sẽ vững chắc đến
muôn đời trước mặt Ta; ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Bài Đáp Ca hôm
nay là lời "ca
ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời", Vị
Thiên Chúa chân thật duy nhất của riêng dân Do Thái cũng là Vị Thiên Cúa cứu độ
của chung nhân loại, nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài, Đấng sẽ thiết lập vương quốc
yêu thương của Ngài giữa muôn dân bền vững đến vô cùng bất tận:
1) Tôi sẽ ca
ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng tôi loan truyền
lòng trung thành Chúa, vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời";
trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của
Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai
báu ngươi qua muôn thế hệ".
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì.
Chân lý mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao
Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 24/12 Bài Đọc 2
Trích bài giảng của thánh Âu-tinh, giám mục.
Hỡi con người, thức dậy đi : vì bạn, Thiên Chúa đã làm người. Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào ! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng bạn. Tôi xin lặp lại : vì bạn, Thiên Chúa đã làm người.
Bạn sẽ phải chết muôn đời, nếu Người đã không sinh ra trong thời gian. Bạn sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi xác thịt tội lỗi, nếu Người đã không chấp nhận mang xác thịt tội lỗi giống như bạn. Bạn sẽ phải khốn nạn mãi mãi nếu Người không tỏ lòng thương xót bạn. Bạn sẽ chẳng tìm lại được sự sống, nếu Người đã chẳng chết như bạn. Bạn sẽ ngã quỵ, nếu Người chẳng đỡ nâng. Bạn đã phải tiêu vong, nếu như Người không đến.
Chúng ta hãy hoan hỷ đón mừng Đấng cứu độ và giải thoát chúng ta đang đến. Chúng ta hãy mừng ngày lễ, ngày mà ánh sáng vĩ đại và vĩnh cửu phát xuất từ ánh sáng vĩ đại và vĩnh cửu đến chiếu sáng ngày vắn vỏi mau qua của chúng ta.
Chính Người đã làm cho chúng ta nên công chính, đã thánh hoá và giải thoát chúng ta, hợp như lời đã chép : Ai tự hào, thì hãy tự hào vì Chúa.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : Chúa Ki-tô đã nói : Thầy là Chân Lý sinh ra từ lòng Đức Trinh Nữ. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : bởi vì khi tin vào Đấng đã giáng sinh, con người được nên công chính, không phải bởi sức riêng mình, nhưng bởi Thiên Chúa.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : bởi vì Ngôi Lời đã làm người. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : vì mọi ân huệ tốt lành, mọi phúc lộc hoàn hảo đều từ trời cao ban xuống.
Chân lý mọc lên từ đất thấp : thân xác được sinh ra từ Đức Ma-ri-a. Và công lý nhìn xuống tự trời cao : bởi vì chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.
Vì chúng ta được nên công chính nhờ đức tin, nên giờ đây chúng ta được sống hoà hợp với Thiên Chúa : vì hoà bình công lý đã giao duyên. Nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta : bởi vì chân lý mọc lên từ đất thấp. Người đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay. Chúng ta lại còn tự hào vì được trông đợi hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô không nói : vinh quang của chúng ta nhưng nói vinh quang của Thiên Chúa : bởi vì công lý không phát xuất từ chúng ta, nhưng nhìn xuống tự trời cao. Thế nên, ai tự hào thì đừng tự hào vì mình, nhưng hãy tự hào vì Chúa.
Bởi đó, các thiên thần lên tiếng hát mừng Chúa sinh ra do Đức Trinh Nữ : Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Bình an dưới thế bởi đâu, nếu không phải bởi chân lý mọc lên từ đất thấp, nghĩa là Đức Ki-tô sinh ra bởi xác phàm ? Chính Người là bình an của chúng ta, Người đã liên kết đôi bên nên một để chúng ta nên những người thiện tâm, liên kết mật thiết với nhau bằng mối dây hợp nhất.
Bởi vậy chúng ta hãy vui mừng hoan hỷ vì ân sủng này, để lời chứng của lương tâm làm cho chúng ta được vinh quang : chúng ta được vinh quang không phải ở nơi mình, nhưng nơi Chúa. Vì thế có lời rằng : Ngài là vinh quang của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất khuất. Liệu Thiên Chúa có giãi sáng trên chúng ta bằng một ân sủng nào lớn hơn ân sủng này : là làm cho Con Một của Người nên một con người, để ngược lại, làm cho con người nên con của Thiên Chúa chăng ?
Hãy tìm coi đâu là công phúc, hãy tìm coi đâu là lý do, hãy tìm coi đâu là công lý và hãy xem bạn có thấy gì khác, ngoài ân sủng.