SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
"Thày là Sự Sống"
Hiệp
Nhất Thần
Linh
Phụng Vụ Lời Chúa - Tuần VII Phục Sinh
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL
...
Nếu
"Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) là chủ đề chính yếu của toàn
Mùa Phục Sinh, trong đó, chủ đề "Thày là sự sống lại" cho
nguyên Tuần Bát Nhật Phục Sinh là thời điểm 8 ngày có
các bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc hoàn toàn liên quan đến các lần Chúa
Kitô Phục Sinh hiện ra mà thôi, thì chủ đề
"Thày là sự sống" là chủ đề cho những ngày còn lại, bao gồm cả Chúa Nhật
lẫn ngày trong tuần.
Vậy, nếu chủ đề
"Thày là sự sống" ở
Phụng Vụ Lời Chúa cho cả Chúa Nhật lẫn các ngày trong tuần lễ II và
III của Mùa Phục Sinh liên hệ tới chiều kích Tái Sinh Thần Linh, trong tuần lễ IV của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Mục Tử Thần Linh, trong tuần lễ V của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Liên
Hệ Thần Linh, và trong tuần của tuần lễ Thứ
VI của Mùa Phục Sinh liên quan đến chiều kích Hiện
Diện Thần Linh, thì
nội dung của Phụng Vụ Lời Chúa cho Tuần VII Phục Sinh này cho thấy chủ đề "Thày
là sự sống" liên
quan đến chiều kích Hiệp
Nhất Thần Linh, tột đỉnh
của sự sống thần linh và là chính thực tại thần linh nơi Vị Thiên Chúa Duy Nhất
3 Ngôi.
Có
thể nói và phải nói rằng tất cả dự án tạo dựng cùng cứu độ của Thiên Chúa và
công cuộc cứu chuộc cùng tân tạo của
Thiên
Chúa là ở chỗ Hiếp Nhất Thần Linh này.
Trong tuần
lễ cuối cùng của Mùa Phục Sinh này, Giáo Hội vẫn tiếp tục Phúc Âm Thánh Gioan và
Sách Tông Vụ cho cả Mùa Phục Sinh, nhưng cố ý chọn đọc toàn đoạn Phúc Âm 17 của
Thánh ký Gioan cho mấy ngày đầu trong tuần (từ Thứ Ba tới Thứ Năm), và hai ngày
còn lại (Thứ Sáu và Thứ Bảy) Giáo Hội chọn đọc phần
cuối của Phúc Âm
này, đoạn
21, liên quan đến riêng
vai trò chủ chiên của Tông Đồ Phêrô và
hướng về cánh chung nơi
hình ảnh "không chết" của vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu, vị tông đồ đã
viết cuốn Khải Huyền và đã được thị kiến thấy thời cánh chung với một "trời
mới đất mới" v.v.
Còn
Sách Tông Vụ được Giáo Hội chọn đọc những đoạn còn lại chưa đọc, liên quan đến
riêng vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, đặc biệt về cuộc hành trình định mệnh của
ngài về Giêrusalem, như cuộc hành trình cuối cùng của Chúa Kitô về Giêrusalem để
chịu khổ nạn, rồi từ đó ngài bị giải sang Rôma, nơi vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô
này cùng với
vị Tông Đồ
lãnh đạo
Tông Đồ Đoàn Phêrô,
như được Chúa Giêsu tiên báo trong bài Phúc Âm Thứ Sáu, cả
hai vị tông đồ chính yếu tiêu biểu nhất của Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập,
có thể làm
chứng bằng
chính mạng sống của các vị cho
Chúa Kitô tại chính thủ đô của Đế Quốc Rôma, nơi
còn các
di tích lịch sử một thời huy hoàng
của đế quốc đã
dữ dội bách
hại Kitô giáo 3 thế
kỷ đầu tiên nay đã
hoang tàn,
cũng chính là nơi đã trở
thành Giáo Đô uy nghi đồ
sộ về
kiến trúc và đầy thế giá về luân lý của
Giáo Hội Chúa Kitô trong thế
giới hiện nay!
Chúa
Nhật VII Phục Sinh: Sự
Sống - Hiệp Nhất Thần Linh
Chúa Nhật Thứ Bảy Mùa Phục Sinh là
Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội đã chọn đọc đoạn 17 của
Phúc Âm Thánh Gioan là đoạn trình thuật về Lời Nguyện Hiến Tế của Chúa Kitô
kết thúc Bữa Tiệc Ly, một lời nguyện cho thấy chủ đề "Thày là sự sống" ở
khía cạnh hiệp nhất thần linh là tột đỉnh linh đạo Kitô giáo cũng là
chủ đích tạo dựng và cứu chuộc loài người của Thiên Chúa, một hiệp nhất thần
linh của những ai thuộc về Thiên Chúa (Năm
A), một hiệp nhất thần linh của những
ai được thánh hóa trong chân lý (Năm B), và một
hiệp nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con (Năm C).
Năm A
Sự sống nơi cuộc hiệp nhất thần linh
của những ai thuộc về Thiên Chúa.
Phúc Âm (Gioan 17:1-11a):
"Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã kéo ra khỏi thế gian mà ban cho
Con. Chúng thuộc về Cha... Mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha
cũng là của Con, và Con được vinh hiển nơi chúng".
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 1:12-14) - sự sống
nơi cuộc hiệp nhất thần linh của
những ai thuộc về Thiên Chúa như
các tông đồ và các nữ môn đệ của Chúa Kitô qui tụ lại sau khi Người
Thăng Thiên:
"Mọi người đều đồng tâm kiên trì
cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, với
các anh em Người".
Bài đọc 2 (1Phêrô 4:13-16)
- sự sống
nơi cuộc hiệp nhất thần linh của
những ai thuộc về Thiên Chúa và được
chịu khổ vì Chúa Kitô:
"Nếu anh em bị xỉ nhục vì Danh
Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, bởi vì Thần Khi vinh quang, Thần Khí của
Thiên Chúa, sẽ ngự trên anh em".
Bài Ðọc I: Cv 1,
12-14
"Mọi người đều đồng tâm kiên trì
cầu nguyện".
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
(Sau khi Chúa Giêsu lên trời), các
Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Ô-liu mà trở về Giêrusalem, núi này ở gần
Giêrusalem, bằng quãng đường (được đi trong) ngày Sabbat.
Và khi đã trở vào thành, các ông lên
lầu gác, nơi Phêrô và Gioan, Anrê và Philipphê, Giacôbê con ông Alphê và
Simon Giêlôtê, và Giuđa con ông Giacôbê, trú ngụ.
Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu
nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, với các anh em
Người.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26,
1.4.7-8a
Ðáp: Tôi tin rằng
tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh.
Xướng 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu
độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều
tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui
hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nghe tiếng tôi kêu
cầu, xin thương xót và nhậm lời tôi. Về Chúa, lòng tôi tự nhắc lời: "Hãy tìm
ra mắt Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Pr 4,
13-16
"Nếu anh em bị xỉ nhục vì danh Ðức
Kitô, thì phúc cho anh em".
Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, được thông phần vào
các sự thống khổ của Chúa Kitô, anh em hãy vui mừng, để khi vinh quang của
Người được tỏ hiện, anh em sẽ được vui mừng hoan hỉ.
Nếu anh em bị xỉ nhục vì Danh Chúa
Kitô, thì phúc cho anh em, vì danh dự, vinh quang và sức mạnh của Thiên
Chúa, là chính Thánh Thần Người sẽ ngự trên anh em.
Ước rằng không ai trong anh em phải
khổ vì sát nhân, trộm cướp, gian phi hay là tham lam của kẻ khác; nếu chỉ vì
là kitô hữu thì đừng hổ thẹn, hãy ca ngợi Thiên Chúa vì danh hiệu đó.
Bởi chưng nay đã đến thời phán xét,
bắt đầu từ nhà Thiên Chúa.
Vậy nếu chúng ta chịu phán xét đầu
tiên, thì vận cùng của những kẻ không theo Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra
sao?
Nếu người công chính còn khó được cứu
độ, thì kẻ vô đạo và người tội lỗi sẽ chạy vào đâu?
Vì vậy những ai phải khốn cực theo ý
Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Ðấng Tạo Hóa trung tín mà cứ làm việc
lành.
Ðó là Lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia. - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
1-11a
"Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con
Cha".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
và nói: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm
vinh hiển Cha.
Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi
huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho
Con.
Sự sống đời đời chính là chúng nhận
biết Cha, là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu
Kitô.
Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con
đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con.
Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con
được vinh hiển nơi Cha, với sự vinh hiển mà con đã có nơi Cha, trước khi có
thế gian.
Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã
đưa khỏi thế gian mà ban cho Con.
Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban
chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha.
Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha
ban cho Con, đều bởi Cha mà ra.
Vì những lời Cha ban cho Con thì Con
đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha
mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.
Con cầu xin cho chúng, Con không cầu
xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của
Cha.
Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi
sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng.
Con không còn ở thế gian nữa, nhưng
chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha".
Ðó là Lời Chúa.
Năm B
Sự sống nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong
chân lý.
Tổng Quan Ý Hướng
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 1:15-17, 20a, 20c-26) - sự sống
nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong
chân lý, chẳng hạn
như trường hợp của Tông Đồ Mathias thay cho người môn đệ phản bội
Giuđa Íchca):
"Trong những người đi cùng với
chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan
Tẩy Giả, cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải
chọn lấy một người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã
sống lại".
Bài đọc 2 (1Gioan
4:11-16) - sự sống
nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được thánh hóa trong
chân lý và sống
trong yêu thương:
"Nếu chúng ta yêu thương nhau thì
Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Ngài nơi chúng ta đã được
tuyệt hảo".
Phúc Âm (Gioan 17:11b-19):
"Lạy Cha chí thánh, vì danh Cha xin
hãy gìn
giữ những ai Cha đã ban cho
Con, để chúng được nên một như Chúng Ta... Vì họ mà Con tự thánh hiến để
cả họ cũng được thánh hóa trong chân lý".
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv
1, 15-17. 20a. 20c-26
"Phải chọn lấy một người trong
những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống
lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô đứng
lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà nói: "Hỡi
anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã dùng miệng Ðavit
để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng
là một trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta.
Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép
rằng: "Một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó".
Vậy trong những người đi cùng với
chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày Gioan
thanh tẩy, cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta
phải chọn lấy một người trong những người có mặt đây, để cùng với chúng
ta làm chứng Người đã sống lại". Họ giới thiệu hai người: Giuse tức
Basabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Ðoạn họ cầu nguyện
rằng: "Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa
chọn ai trong hai người này, để nhận chức vụ và tước hiệu tông đồ thay
cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó". Thế rồi họ bắt thăm và
Matthia đã trúng thăm: Ông được kể vào với số mười một tông đồ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102,
1-2. 11-12. 19-20ab
Ðáp: Chúa
thiết lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh (c. 19a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy
chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người.
Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của
Người. - Ðáp.
2) Nhưng cũng như trời xanh cao
vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính
sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa
khỏi chúng tôi. - Ðáp.
3) Chúa thiết lập ngai vàng Người
ở cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy
chúc tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh thi hành lời
Chúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1
Ga 4, 11-16
"Ai ở trong tình yêu, thì ở
trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan
Tông đồ.
Các con thân mến, nếu Thiên Chúa
thương yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải thương yêu nhau.
Chẳng ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì
Thiên Chúa ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được
tuyệt hảo. Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người
ở trong chúng ta, là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta. Và chúng ta
đã thấy và chứng nhận rằng Chúa Cha đã sai Con mình làm Ðấng Cứu Thế. Ai
tuyên xưng Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở trong người ấy
và người ấy ở trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết và tin
nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, và
ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người
ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga
14, 18; 16, 22
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các
con sẽ vui mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
11b-19
"Ðể chúng được nên một như Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên
trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha
những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở
với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha
đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người
hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và
Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui
mừng của Con trong lòng.
Con đã ban lời Cha cho chúng, và
thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con
không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian,
nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian,
cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong sự
thật: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con
cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả
chúng cũng được thánh hoá trong chân lý".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh sau
Tuần Bát Nhật Phục Sinh đã
lên tới tột đỉnh ở bài Phúc Âm cho Chúa Nhật
VII Phục Sinh hôm nay. Tột đỉnh ở chỗ sự sống thần linh của Thiên Chúa
là tất cả những gì Ngài muốn thông ban cho chung con người nơi Chúa
Giêsu Kitô, nhờ đó, riêng các tông đồ là thành phần được tuyển chọn để
sai đi mới có thể được hiệp nhất nên một hay hiệp thông thần linh với
Thiên Chúa là Cha trên trời, đúng như lời Chúa Giêsu dâng lên Cha của
Người ở đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Lạy Cha
chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để
chúng được nên một như Ta". Việc hiệp thông thần linh hay hiệp nhất
nên một với Thiên Chúa đây là gì, và xẩy ra như thế nào?
Trước hết, việc hiệp nhất nên một hay hiệp thông thần linh với Thiên
Chúa là ở chỗ, như Thánh Gioan tông đồ đã dẫn giải trong Bài Đọc 2 hôm
nay như thế này:
"Thiên Chúa là Tình Yêu, và ai ở trong tình
yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người ấy".
Nhưng xẩy ra như thế nào, thì câu trả lời ở
ngay trong lời cầu Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người cho các môn đệ của
Người như sau:
"Xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật: lời Cha là
chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng
vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được
thánh hoá trong chân lý".
Câu Chúa Giêsu nói về cách thức để thành phần môn đệ của Người có thể
đạt đến tột đỉnh của sự sống thần linh là được hiệp nhất nên một với
Thiên Chúa, "nên một như Ta", nghĩa là
Chúa Cha làm cho chúng ta nhận biết "chân lý",
nghĩa là nhận biết một thực tại thần linh tối hậu, một thực tại thần
linh bất khả chối cãi, một thực tại thần linh là chính mục đích Ngài đã
tạo dựng nên con người, được Ngài từ từ tỏ cho họ thấy, nhất là vào "lúc
thời gian viên trọn" (Galata 4:4), đó là Ngài
yêu thương họ biết là chừng nào nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng
Nhập Thể Vượt Qua chỉ "để làm chứng cho chân lý"
(Gioan 18:37) bằng chính mạng sống tự nguyện bỏ đi của Người: "Con
tự thánh hiến cho họ được thánh hóa
trong chân lý".
Đó là lý do trong bài Phúc Âm của Thánh Gioan, cũng đoạn 17, về Lời
Nguyện Hiến Tế Xin Ơn Hiệp Nhất của Người dâng lên Cha của Người kết Bữa
Tiệc Ly, một đoạn Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc và chia ra làm 3 phần,
phần đầu cho chu kỳ phụng vụ Năm A, phần giữa cho chu kỳ phụng vụ Năm B
và phần cuối cho chu kỳ phụng vụ Năm C, Chúa Giêsu đã định nghĩa về sự
sống thần linh là nhận biết như thế này: "Sự sống đời đời là nhận
biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô"
(Gioan 17:3).
Đúng thế, về phương diện tự nhiên hay thể lý cũng vậy, áp dụng cho tất
cả mọi sinh vật, nhất là loài người, đó là khi còn sống là còn biết, và
chết là không còn biết gì nữa, có thể nói sự sống chính là nhận biết, là
ý thức! Và mức độ chân thực nhất và cao nhất của tác động nhận biết hay
ý thức đó là tác động yêu thương. Một khi hai vợ chồng ly dị nhau có
nghĩa là họ không còn nhận biết nhau, không chấp nhận nhau nữa, như khi
họ mới yêu nhau, chấp nhận lấy nhau. Đó là lý do khi Adong vừa thức
giấc, sau một giấc ngủ mê ly chưa bao giờ có do chính Thiên Chúa gây mê,
liền nhận biết và chấp nhận Evà "đây là xương bởi xương tôi, thịt
bởi thịt tôi ... và cả hai trở nên một xác thịt"
(Khởi Nguyên 2:23-24).
Cho dù Chúa Kitô là tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa theo
giòng Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái (xem Do Thái 1:1), và là tất cả
thần linh của Thiên Chúa "khi đến thời điểm viên trọn"
(Galata 4:4) của Ngài, đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha"
(Gioan 14:9), nhưng thành phần môn đệ thân tín nhất của Chúa Kitô, cho
dù đã sống kề bên Người suốt 3 năm trường, cuối cùng vẫn chối bỏ Người,
nghĩa là vẫn chưa thực sự nhận biết Người như Người tỏ ra cho các vị,
hay cho dù có tuyên xưng chính xác "Thày là Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nhờ được Cha
trên trời tỏ ra cho (xem Mathêu 16:17), tự mình, các vị vẫn bất khả thấu
chân lý thần linh vô cùng sâu nhiệm ấy nơi Con Người lịch sử Giêsu
Nazarét là Sư Phụ vô cùng đáng kính đáng mến của các vị, nên ngay sau đó
vị lên tiếng tuyên xưng thay cho tông đồ đoàn ấy đã phủ nhận ngay chân
lý mạc khải vừa mới tuyên xưng (xem Mathêu 16:23).
Để có thể được "dẫn vào tất cả sự thật"
đúng như mạc khải thần linh của Thiên Chúa (Gioan 16:13), các vị không
thể nào không có Đấng được Chúa Giêsu gọi là "Thần Chân Lý"
(Gioan 16:13), "Đấng thấu suốt mọi sự nơi Thiên Chúa"
(1Corinto 2:10). Và đó là lý do Thánh Gioan Tông Đồ trong Bài Đọc 2 hôm
nay đã đề cập đến vai trò bất khả thiếu của Thánh Linh, Đấng chính là Ý
Thức Thần Linh của Thiên Chúa được ban cho Kitô hữu, nhờ đó, nhờ Vị Thần
Linh Chân Lý này, Kitô hữu chúng ta mới có thể nhận biết Thiên Chúa như
Ngài là, cũng là mới có thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài đáng: "Chẳng
ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nếu chúng ta thương yêu nhau, thì Thiên Chúa
ở trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta đã được tuyệt hảo.
Do điều này mà chúng ta biết chúng ta ở trong Người và Người ở trong
chúng ta, là Người đã ban Thánh Thần cho chúng ta".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay,
chúng ta cũng thấy được vai trò bất khả thiếu của Chúa Thánh Thần,
Đấng thấu suốt mọi sự, nhất là ý định tối hậu của Thiên
Chúa và huyền nhiệm như chính Thiên Chúa, đặc biệt ở việc các
tông đồ
"phải chọn lấy một người trong những
người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người đã sống lại".
Trước hết, theo lời vị lãnh đạo tông đồ đoàn là Thánh Phêrô thì
chính "Thánh Thần đã dùng miệng Ðavit để tiên báo về Giuđa, kẻ hướng
dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng là một trong số chúng ta, đã
thông phần chức vụ của chúng ta. Vì chưng, trong Thánh vịnh có chép
rằng: 'Một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó'", và vì thế, chỉ
có Ngài mới có thể ứng nghiệm hóa những gì Ngài đã linh ứng, ứng nghiệm
vào đúng thời điểm của nó:
"Ðoạn
họ cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy
tỏ ra Chúa chọn ai trong hai người này, để nhận chức vụ và tước hiệu
tông đồ thay cho Giuđa, kẻ đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó'. Thế rồi họ
bắt thăm và Matthia đã trúng thăm: Ông được kể vào với số mười một tông
đồ".
Bài Đáp Ca hôm nay có thể nói là âm
vang tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng Vị Thiên Chúa tối cao của thành
phần được hiệp nhất nên một với Ngài, những tâm tình được tác động bởi
Thánh Linh, Đấng đã linh ứng cho tác giả Thánh Vịnh viết lên các câu
Thánh Vịnh tràn đầy ý nghĩa dưới đây:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi,
hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ
khá quên mọi ân huệ của Người.
2) Nhưng cũng như trời xanh cao
vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính
sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa
khỏi chúng tôi.
3) Chúa thiết lập ngai vàng Người
ở cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy
chúc tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh thi hành lời
Chúa.
Năm C
Sự sống nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được tham dự vào vinh hiển của Con.
Phúc Âm (Gioan 17:20-26):
"Con đã ban cho họ vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để họ nên
một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để
họ được hoàn toàn nên một".
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 7:55-59ab) - sự sống
nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được
tham dự vào vinh hiển của Con, như
trường hợp của vị tử đạo tiên khởi là Phó tế Stephano:
"Stephano đầy Thánh Thần, nhìn lên
trời, đã xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Đức Giêsu đứng bên hữu
Thiên Chúa: 'Kìa tôi xem thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên
Chúa'".
Bài đọc 2 (Khải
Huyền 22:12-14,16-17,20) - sự sống
nơi cuộc hiệp
nhất thần linh của những ai được tham
dự vào vinh hiển của Con,
nhất là vào giây phút cánh chung:
"Ta là Alpha và Omega, là thứ nhất
và cuối cùng, là nguyên ủy và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của
mình trong máu Con Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua
cửa để vào thành".
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Cv
7, 55-59ab
"Tôi thấy Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Têphanô đầy Thánh Thần, nhìn lên trời, đã
xem thấy vinh quang của Thiên Chúa, và Ðức Giêsu đứng bên hữu
Thiên Chúa. Ông đã nói rằng: "Kìa, tôi xem thấy trời mở ra, và
Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa". Bấy giờ họ lớn tiếng kêu la
và bịt tai lại, và họ nhất tề xông vào ông. Khi lôi ông ra ngoài
thành, họ ném đá ông, Và các nhân chứng đã để áo của họ dưới
chân một người thanh niên tên là Saolô. Rồi họ ném đá Têphanô,
đang lúc ông cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa Giêsu, xin đón nhận tâm
hồn con". Thế rồi ông quì xuống, lớn tiếng kêu lên rằng: "Lạy
Chúa, xin đừng trách cứ họ về tội lỗi này". Nói xong câu đó, ông
đã an giấc trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 2b. 6 và 7c. 9
Ðáp: Chúa
hiển trị, Người là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn
ngàn, hãy mừng vui. Công minh chính trực là nền kê ngai báu. -
Ðáp.
2) Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy
vinh hiển của Người. Bao nhiêu chúa tể hãy cúc cung bái lạy
Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất
đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Kh 22, 12-14. 16-17. 20
"Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nghe tiếng phán cùng tôi rằng: "Này Ta đến ngay,
Ta có phần thưởng để trả công cho mỗi người tuỳ các việc người
ấy đã làm. Ta là Alpha và Ômêga, là thứ nhất và cuối cùng, là
nguyên thuỷ và cùng đích. Phúc cho những ai giặt áo của mình
trong máu Con Chiên, để được hưởng dùng cây sự sống, và được qua
cửa để vào thành.
"Ta là Giêsu, đã sai thiên thần đến làm chứng cho các ngươi về
những điều có liên quan đến các giáo đoàn. Ta là gốc rễ, là dòng
dõi Ðavit, là sao mai sáng chói".
Thần Trí và tân nương nói: "Hãy đến!" Và kẻ nào nghe cũng hãy
nói: "Hãy đến!" Và ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy nhận lãnh
nhưng không nước sự sống.
Ðấng làm chứng những điều ấy phán: "Phải, Ta đến ngay". "Amen.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến!"
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 18; 16, 22
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ
côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng". -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17, 20-26
"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha
chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho
tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên
một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng
cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con
đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên
một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con,
để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã
sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con."
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu
chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà
Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành
thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng
Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con.
Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng
nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong
chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VII Phục
Sinh, tuần cuối cùng trước Đại Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, một Phụng
Vụ Lời Chúa nói chung, nhất là Năm C, một chu kỳ phụng vụ cuối của chu
kỳ phụng vụ 3 năm, được Giáo Hội chọn đọc thực sự là có một ý nghĩa hiệp
thông thần linh.
Thật vậy, căn cứ vào Lời Nguyện Hiến Tế và Hiệp Nhất cuối cùng kết thúc
Bữa Tiệc Ly trong bài Phúc Âm Năm C, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết
cuộc hiệp thông thần linh mà chính Người và Cha của Người mong muốn cho
loài người và nơi loài người, chứ không phải chỉ cho riêng Giáo Hội và
nơi Giáo Hội, đó là "như Chúng Ta là một".
Thế nhưng, muốn được hiệp nhất thần linh "như Chúng Ta là một"
như thế, nơi con người cần phải xẩy ra thực tại thần linh đó là "Con
ở trong họ và Cha ở trong Con" nhờ đó và chỉ có thế
"họ (mới có thể) được hoàn toàn nên một". Bởi vì, chỉ có
ai tin Chúa Kitô mới được "Con ở trong họ": "Những ai chấp
nhận Người thì Người ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa"
(Gioan 1:12).
Nghĩa là con người tin vào Người thì được "Con ban vinh hiển mà Cha
đã ban cho Con" ở chỗ được "vinh hiển" làm Con Cha như
Chúa Kitô và với Chúa Kitô, và vì được làm con Thiên Chúa mà loài người,
nhờ Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô, được thông phần vào bản tính thần linh
của Thiên Chúa, để sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và như Thiên
Chúa.
Ở Bài Đọc 1, đoạn Sách Tông Vụ được Giáo Hội cố ý chọn đọc liên quan đến
"vinh hiển mà Cha đã ban cho Con" trong Bài Phúc Âm, một "vinh
hiển" về Chúa Kitô và của Chúa Kitô đã vinh thắng cùng thăng thiên
về cùng Cha của Người, một vinh hiển của "Người Con duy nhất đến từ
Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan1:14), một "vinh hiển"
mà chính vị phó tế tử đạo tiên khởi của Kitô giáo này đã được chiêm
ngưỡng thấy và sắp sửa được hoan hưởng trong một thực tại hiệp thông
thần linh vĩnh hằng.
Ở Bài Đọc 2, đoạn cuối cùng của Sách Khải Huyền, Thánh ký Gioan đã thị
kiến thấy hình ảnh của thành phần "chấp nhận Người thì Người ban
chohọ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1;12), như trường hợp Phó tế
Stephanô trong Bài Đọc 1, vị đã chấp nhận Người đến độ trung thành với
Người cho đến cùng, không tham sống sợ chết mà phản bội bất trung với
Người, cho dù có phải "giặt áo của mình (ám chỉ thân xác hay sự
sống thể lý của con người) trong máu Con Chiên".
"Vinh hiển" mà vị tử đạo tiên khởi của Kitô giáo này được "Con
đã ban cho" đây đó là chẳng những ngài được "vinh hiển"
làm con Cha như Người mà còn được "vinh hiển" nên giống Người
trong việc "để Con cũng được làm rạng danh Cha" (Gioan 17:1),
bằng cái chết của mình hầu chứng tỏ mình quả thực là con Cha và Thiên
Chúa thực sự là Cha của mình, một hiệp thông thần linh trọn hảo và bất
diệt.
Vì chủ đề của 6 tuần cuối, trừ Tuần Bát nhật Phục sinh đầu tiên, của
Mùa Phục Sinh là sự sống thần linh: "Thày là sự sống" (Gioan 11:25),
mà tuần nào, cả Chúa Nhật lẫn ngày trong tuần, PVLC đều cho thấy sự
sống thần linh này.
Nếu Chúa Kitô Phục Sinh không phải chỉ chiến thắng tội lỗi và sự
chết của con người và nơi con người, mà chính yếu là thông ban cho
họ được hoan hưởng một "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" (Gioan
10:10).
Bởi thế, muốn được hưởng sự sống thần linh ấy, con người cần
phải được "tái sinh bởi trời", "bởi nước và Thánh Linh" (Gioan
3:3,5) - PVLC Tuần 2 PS, một sự sống thần linh ở nơi "bánh hằng
sống" - PVLC tuần 3 PS - là nhân tính vượt qua của Chúa Kitô, "vị
mục tử nhân lành đã hiến mạng sống cho chiên - PVLC tuần IV PS, và
vì vậy sự sống thần linh ấy đã được ban cho con người từ chính nguồn
mạch tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, nên
chỉ có con chiên nào "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con" -
PVLC tuần V PS - mới thực sự sống sự sống thần linh của Người và với
Người, nhưng sự sống thần linh được tỏ hiện nơi đức ái trọn hảo như
Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành này chỉ được hiện thực bởi "Thánh Linh
là Đấng Phù Trợ" mà thôi - PVLC tuần VI PS, Đấng là nội tại hiệp
thông thần linh của Cha và Con sẽ làm cho Giáo hội là nhiệm thể Chúa
Kitô hiệp nhất nên một "như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha"
- PVLC tuần VII PS.
Theo chiều hướng PVLC Mùa Phục Sinh trên đây, chúng ta tiến đến tuần
cuối cùng của Mùa Phục sinh, Tuần VII, liên quan mật thiết đến cả
mầu nhiệm và biến cố Thăng Thiên,
bởi vì chỉ có ở trên thiên đàng sự sống thần linh được ban cho con
người ngay trên trần gian này mới đạt tới tột đỉnh là chính thực tại
hiệp thông thần linh với Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh
Thần.
HAY
Chúa Nhật Lễ
Chúa Giêsu Thăng Thiên: Sự
Sống - Hiệp Nhất Thần Linh
cho những nơi chưa mừng Lễ Thăng Thiên Thứ Năm trong tuần vừa rồi
Ở những nơi không cử hành Lễ Chúa Giêsu Thăng
Thiên vào đúng Thứ Năm trong Tuần Thứ Sáu của Mùa Phục Sinh như ở Tòa Thánh
Rôma, tức không
cử hành vào đúng thời điểm 40
ngày sau khi Người Phục Sinh, thì
phụng vụ lời Chúa cho Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên sẽ hoàn toàn thay cho phụng
vụ Lời Chúa Chúa Nhật VII Phục Sinh.
Cho dù Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên được hầu hết các giáo phận trên thế giới cử
hành vào Chúa Nhật VII Phục Sinh,
nhưng chủ đề của phụng vụ Lời Chúa vẫn không gì thay đổi, vẫn là chủ đề "Thày
là Sự Sống" của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh, nhưng ở
khía cạnh Sự Sống - Hiệp Nhất Thần Linh như
Chúa Nhật VII Phục Sinh.
Phúc Âm (Mathêu
28:16-20; Marco 16:15-20; Luca
24:46-53)
Sự
Sống nơi cuộc Hiệp
Nhất Thần Linh với Chúa Kitô Thăng Thiên,
ở chỗ
luôn có sự hiện diện của Người: "Thày ở
cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Phúc Âm Thánh Mathêu - Năm A);
ở
chỗ luôn có Người đồng hành và hỗ trợ: "Các
vị đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các vị, và củng cố
lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo" (Phúc Âm Thánh Marco - Năm
B);
ở chỗ sống với Người bằng
một đức tin thuần túy đến độ khi "Người
rời khỏi các vị mà lên trời" thì
các vị chẳng những không buồn, trái lại còn "trở
về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các vị luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc
tụng Thiên Chúa".
Bài đọc 1 (Tông
Vụ 1:1-11) - sự sống ở chỗ hiệp
nhất thần linh càng vươn tới tột đỉnh vào lúc Chúa Giêsu Thăng
Thiên, vì cho dù con mắt xác thịt của các tông đồ không còn được nhìn thấy
Thày của các vị nữa nhưng nhờ đó mà các vị lại được rửa trong Thánh
Thần để được biến đổi nên như Thày mà trở thành chứng nhân trung thực và
sống động của Thày và cho Thày:
"Ít ngày nữa các con sẽ được rửa trong
Thánh Thần... Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên
các con, và các con sẽ nên nhân chứng cho Thày... cho đến tận cùng
trái đất".
Bài đọc 2 (Epheso
1:17-23) - sự sống ở
chỗ hiệp nhất
thần linh với chính Đấng đang ngự bên
hữu Cha trên trời và là Đấng trổi vượt trên tất cả mọi đẳng cấp thần trời:
"Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân
Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể của Người, và là
sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người".
Biến cố Chúa Kitô Thăng Thiên mang một ý nghĩa sâu xa, như đã chia sẻ ở cuối
tuần trước cho Lễ Chúa Kitô Thăng Thiên cử hành vào chính Thứ Năm Tuần VI
Phục Sinh:
"'Đám
mây bao phủ Người' đây ám chỉ Thánh Thần, như đã xẩy ra ở biến cố biến
hình trên núi của Người nơi sự kiện 'có
tiếng phán ra từ đám mây' (Mathêu 17:5; Marco 9:7; Luca 9:35). 'Một đám mây
bao phủ Người khuất mắt các ông' phải
chăng bao gồm mấy ý nghĩa sau đây:
"1- Các tông đồ không
còn được thấy Thày của mình bằng con mắt thể lý nữa, vì Người đã về cùng Cha
trong mối hiệp thông thần linh đời đời với Cha trong Thánh Thần;
"2- Sứ vụ trần thế của
Người đã hoàn toàn thật sự hoàn tất sau 40 ngày Người sống lại, khoảng thời
gian 40 ngày Người hiện diện một cách linh thiêng giữa các vị để 'nói
với các vị về triều đại Thiên Chúa' (Tông Vụ 1:3);
"3- Các vị cần phải tiếp
tục sứ vụ của Người 'cho đến
tận cùng trái đất' (Tông Vụ 1:8) bằng 'quyền
năng của Thánh Thần' (Tông Vụ 1:8; xem Luca 24:49) là Đấng
Người sẽ từ Cha sai đến và cũng là Đấng đến để làm chứng về Người với họ và
qua họ (xem Gioan 15:26-27).
Chưa hết, theo đề tài Hiệp Nhất Thần Linh cho riêng của Tuần VII Phục Sinh
này thì biến cố Thăng Thiên của Chúa Kitô còn mang một ý nghĩa khác nữa, bất
khả thiếu, liên quan đến biến cố Thánh Linh Hiện Xuống, liên quan đến đời
sống của Giáo Hội và liên quan đến việc truyền giáo của Giáo Hội.
Thật vậy, nếu Chúa Kitô không thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người,
thì nhân tính của Người, cho dù đã phục sinh nơi thân xác của Người và thân
xác của Người đã trở thành thiêng liêng như các thần trời duy linh, vẫn chưa
đạt đến tột đỉnh hiệp thông thần linh Cha.
Thật ra, ngay từ giây phút "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14)
trong cung lòng trinh nguyên của mẹ của mình là Trinh Nữ Nazarét Maria trong
biến cố Truyền Tin, mầu nhiệm nhân tính của Người và thiên tính của Người đã
trở nên một nơi mầu nhiệm Ngôi Hiệp, có nghĩa là Người là một Ngôi Vị có hai
bản tính, bản tính Thiên Chúa - thiên tính, và bản tính nhân loại - nhân
tính.
Thế nhưng, trong thời gian, nhân tính trở thành phương tiện hay đường lối
hoặc dấu chỉ với tính cách bí tích của thiên tính, hay nói cách khác hoặc
nói ngược lại, thiên tính tỏ mình ra và thông mình ra nơi nhân tính và qua
nhân tính của Người, một cách càng ngày càng trọn vẹn, nhất là ở mầu nhiệm
Vượt Qua.
Tuy nhiên, cho dù thần xác của Chúa Kitô có phục sinh và hoàn toàn trở nên
thiêng liêng như các thần trời chăng nữa, tự mình vẫn chưa có thể ở trong
các môn đệ của Người và "ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế"
(Mathêu 28:20), và vì thế vẫn không thể nào xẩy ra tình trạng hay thực trạng
hiệp thông thần linh như Người mong muốn đó là "như Cha ở trong Con và
như Con ở trong Cha... như Chúng Ta là một. Con sống trong họ, Cha sống
trong Con để sự hiệp nhất của họ đưoọc trọn vẹn" (Gioan 17:21-23). Nếu
Chúa Kitô không thăng thiên về cùng Cha là Đấng đã sai Người thì Người không
thể "sống trong" chúng ta và chúng ta không thể "lưu lại - remain -
trong Người" hay "sống trong - live in - Người và Người sống trong"
chúng ta như cành nho liên hợp với thân nho để trổ sinh muôn vàn hoa trái
(xem Gioan 15:4-7).
Đó là lý do, khi hiện ra với riêng người nữ đang tìm kiếm xác của mình ngoài
mộ vào tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu đã nói với nàng là
người đang tính chạm đến Người bấy giờ rằng: "Đừng đụng đến Ta, vì ta
chưa về cùng Cha" (Gioan 20:17), và Người mới chỉ có thể "mở trí
cho các vị hiểu lời Thánh Kinh" (Luca 24:45), thậm chí có thể thông Thánh
Thần của Người cho các tông đồ vào buổi tối cùng ngày khi Người hiện ra với
các vị lần đầu tiên: "Các con hãy nhận lấy Thánh Linh..." (Gioan
20:22), nhưng vẫn chưa có khả năng sai Thánh Thần từ Cha xuống trên các vị
như Người hứa... cho đến khi Người thăng thiên về cùng Cha...
Biến cố Thăng Thiên của Chúa Kitô quả thực cho chúng ta thấy chung nhân tính
của Người, cũng là của chúng ta đã được Người mặc lấy khi Nhập Thể để Vượt
Qua, và riêng thân xác của Người, không phải chỉ được biến đổi thành thiêng
liêng sáng láng tốt đẹp sau khi Người sống lại từ cõi chết, mà còn được hoàn
toàn hiệp thông thần linh với Cha trên thiên đàng, trong cõi vĩnh hằng, một
nhân tính sẽ trở thành một Tân Thành Thánh Giêrusalem từ trời ở nơi Thiên
Chúa mà xuống (xem khải Huyền 21:2,10), một Tân Giêrusalem chẳng những có 12
cửa vào ám chỉ 12 chi tộc Do Thái (xem Khải Huyền 21:13-14) là giòng dõi
theo huyết thống về phần xác của Chúa Kitô, mà còn có 12 bức tường bằng đá
tông đồ ám chỉ Giáo Hội Chúa Kitô bao gồm toàn thể nhân loại, một Tân
Giêrusalem vĩnh viễn trở thành nơi Thiên Chúa ở giữa loài người - Emmanuel
(xem Khải Huyền 21:3; Gioan 1:14))!
Thứ Hai sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 19,
1-8
"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần
chưa?"
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Xảy ra là khi Apollô ở Côrintô, thì
Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một số môn đồ, và ngài hỏi họ:
"Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?" Họ trả lời: "Nguyên việc có Thánh
Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói". Ngài lại hỏi: "Vậy các ngươi
đã chịu phép rửa của ai?" Họ thưa: "Phép rửa của Gioan". Phaolô liền bảo:
"Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy tin vào Ðấng
sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu". Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự xuống trên
họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông chừng
mười hai người.
Ngài vào hội đường, và trong suốt ba
tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và thuyết phục về nước Thiên
Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 67, 2-3.
4-5ac. 6-7ab
Ðáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa đứng lên, quân
thù của Người tan rã, và những kẻ ghét Người chạy trốn khỏi long nhan. Như
làn khói toả, chúng rã tan, như mẩu sáp ong gần lửa chảy ra, những đứa ác
nhân tiêu vong trước nhan Thiên Chúa. - Ðáp.
2) Những người hiền đức mừng rỡ hỉ
hoan, trước nhan Thiên Chúa họ mừng vui sung sướng. Hãy hát mừng Thiên Chúa,
hãy đàn ca danh Người, danh hiệu Người là Chúa, hãy mừng rỡ hân hoan trước
nhan Người. - Ðáp.
3) Là Cha kẻ mồ côi, là Ðấng bênh vực
người quả phụ, Thiên Chúa ngự trong thánh điện của Người. Thiên Chúa tạo nhà
cửa cho những người bị bỏ rơi, dẫn đưa những người tù tội ra nơi thịnh đạt.
- Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 16,
29-33
"Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế
gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu
rằng: "Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây
giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi
đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra". Chúa Giêsu đáp lại các ông:
"Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát
mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì
có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được
bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can
đảm lên, Thầy đã thắng thế gian".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
16:29-33)
"Khi
ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: 'Ðúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và
không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần
có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra'. Chúa Giêsu
đáp lại các ông: 'Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con
sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình
đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con
được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can
đảm lên, Thầy đã thắng thế gian'".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề "Thày là sự sống" cho Mùa Phục Sinh
hậu Tuần Bát Nhật Phục Sinh được mở màn ở bài phúc âm hôm nay, Thứ Hai Tuần VII
Phục Sinh, dường như không thấy gì là đúng như thế, thậm chí còn lạc đề nữa
là đằng khác, vì nội dung của bài Phúc Âm hôm nay, qua những lời Chúa nói với
các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, chỉ liên quan đến phản ứng của các vị trước cuộc
tử nạn của Người và số
phận gian nan khốn khó của các vị trên
thế gian này.
Tuy nhiên,
nếu chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh còn bao gồm cả tính cách nên giống nhau trong
mối liên hệ thần linh giữa Chúa Kitô và các tông đồ thì số phận các vị bị gian
nan khốn khó trên thế gian cũng là những gì Người đã trải qua trước các vị,
những gì Người đã đi để dọn chỗ cho các vị, để
"Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3).
Và
những gì các vị phải chịu vì danh Thày và như Thày để làm chứng về Người đều
xuất phát từ niềm tin bất khuất của
các vị nơi Người, như chính lời các vị tuyên xưng trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Chúng con tin Thày bởi Thiên Chúa mà ra", một
niềm tin đã làm cho các vị được hiệp nhất nên một với Người, sống động và tác
hành như Người.
Bài Phúc Âm hôm nay có 2 điểm chính yếu có liên hệ mật thiết với nhau, một ở
đầu và một ở cuối. Điểm chính yếu ở đầu bài Phúc Âm hôm nay đó là
"bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết
rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin
Thầy bởi Thiên Chúa mà ra"; và điểm chính yếu cuối bài Phúc Âm hôm nay
đó là "giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên,
Thầy đã thắng thế gian".
Ý nghĩa của "dụ ngôn" được Chúa Giêsu nói đến ở bài Phúc Âm Thứ Bảy
tuần trước và được các tông đồ lập lại trong bài Phúc Âm Thứ Hai tuần này,
đó là những gì diễn tả một thực tại hay một sự thật ở bên trong các "dụ
ngôn" ấy. Bởi thế, các "dụ ngôn" ở đây, nhất là trong Phúc Âm
Thánh Gioan là Phúc Âm nhấn mạnh đến các dấu lạ hơn là phép lạ hay đến các
dụ ngôn bằng lời nói như ở Phúc Âm Thánh Mathêu, có thể hiểu là bao gồm tất
cả lời nói và việc làm của Chúa Kitô vì qua những lời nói và việc làm của
mình, Người đã tỏ ra một sự thật duy nhất, đó là Người là Đấng Thiên Sai,
Người từ Cha mà đến, đúng như các tông đồ cuối cùng, trong bài Phúc Âm hôm
nay, đã khám phá ra cái bí mật của những gì Thày của các vị vẫn nói và làm
từ trước đến nay, cái sự thật bí mật trong các "dụ ngôn" đó là: "Thầy
bởi Thiên Chúa mà ra".
Nếu Chúa Kitô chỉ chiến thắng thế gian khi Người sống lại từ trong cõi chết,
thì tại sao trong bài Phúc Âm hôm nay, lời Người khẳng định trong Bữa Tiệc
Lý trước cuộc Vượt Qua từ tử giá đến phúc sinh, Người lại nói: "Thày
đã chiến thắng thế gian". Nghĩa là
cho dù Người chưa sống lại Người cũng "đã chiến thắng thế gian"
rồi. Vậy phải hiểu ý nghĩa cái "đã" thuộc về quá khứ hay đã qua này
ra sao, trong khi chính lúc Người khẳng định như thế lại chưa xẩy ra như
vậy? Căn cứ vào các "dụ ngôn" là lời Người nói và việc Người làm
như là các dấu lạ ẩn tàng một mầu nhiệm bên trong để chứng thực sự thật "Thày
bởi Cha mà ra", có 2 "dụ ngôn" liên quan đến mầu Nhiệm Vượt
Qua, mầu nhiệm tột đỉnh chứng tỏ sự thật "Thày bởi Cha mà ra", và
chứng tỏ "Thày đã thắng thế gian", dù theo thời gian chưa thực sự
xẩy ra như thế.
"Dụ ngôn" thứ nhất đó là biến cố Người chay tịnh 40 đêm ngày và
cuối cùng bị ma quỉ cám dỗ, một biến cố ám chỉ và hường về mầu nhiệm khổ nạn
và tử giá, một biến cố mang tính cách "dụ ngôn" cho thấy Người quả
thực "đã chiến thắng thế gian", ở chỗ Satan đã hoàn toàn bị thảm
bại, một thảm bại sẽ được lập lại trên Đồi Canvê sau này.
"Dụ ngôn" thứ hai đó là biến cố Người biến hình trên núi cao, một
biến cố liên quan đến mầu nhiệm phục sinh vinh hiển của Người, một mầu nhiệm
cho thấy quả thực "Người đã chiến thắng thế gian", sau khi để cho
thế gian, qua giáo quyền Do Thái giáo và chính quyền Đề quốc Rôma hợp nhau
sát hại Người nhưng vẫn chẳng những không làm gì được Người mà nhờ đó Người
biến thập giá là tiêu biểu cho tội lỗi và chết chóc thành ân sủng và sự
sống.
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 19:1-8)
"Xảy
ra là khi Apollô ở Côrintô, thì Phaolô đi miền thượng du, rồi đến Êphêxô gặp một
số môn đồ, và ngài hỏi họ: 'Anh em tin mà đã nhận Thánh Thần chưa?' Họ trả lời:
'Nguyên việc có Thánh Thần hay không, chúng tôi cũng chưa nghe nói'. Ngài lại
hỏi: 'Vậy các ngươi đã chịu phép rửa của ai?' Họ thưa: 'Phép rửa của Gioan'.
Phaolô liền bảo: 'Gioan thanh tẩy dân chúng bằng phép rửa sám hối mà rằng: Hãy
tin vào Ðấng sẽ đến sau ông, tức là Ðức Giêsu'. Nghe vậy, họ đã chịu phép rửa
nhân danh Chúa Giêsu. Và khi Phaolô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần đến ngự
xuống trên họ, họ liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri. Tất cả đàn ông
chừng mười hai người. Ngài
vào hội đường, và trong suốt ba tháng, Ngài mạnh dạn rao giảng, tranh luận và
thuyết phục về nước Thiên Chúa".
Nếu
không ở trong tình trạng Hiệp Nhất Thần Linh, không ai có thể làm được những gì
như chính Chúa Kitô đã làm, bởi không có Thánh Thần của Người ở nơi họ, Vị Thánh
Thần được Người chẳng những thông cho họ từ chính thân xác phục sinh của
Người ngay sau khi Người sống lại tử trong cõi chết (xem Gioan 20:22) mà còn là
Vị Thánh Thần được Người từ Cha sai đến với Giáo Hội (xem Gioan 15:26 và Tông Vụ
1:8).
Trong bài đọc
1 hôm nay cho thấy vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã thật sự được Hiệp Nhất Thần
Linh đến độ việc đặt tay của ngài đã gây ra một tác dụng thần linh đó là làm cho
"Thánh Thần ngự xuống trên họ", thành phần "đã nhận phép rửa nhân danh
Chúa Giêsu", và chỉ nhờ lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Kitô, chứ không
phải phép rửa thống hối của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, mà
nhờ đó "Thánh
Thần ngự xuống trên họ"
và họ
cũng được Hiệp Nhất Thần Linh với Chúa Kitô, khiến "họ
liền nói được nhiều thứ tiếng và nói tiên tri".
Thứ Ba
Ngày 31 tháng 5
ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
lễ kính
Trong khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh Nhật thánh
Gio-an Tẩy Giả, Hội Thánh mừng lễ Đức Ma-ri-a đi thăm viếng bà
Ê-li-sa-bét. Lễ này mừng biến cố hai bà mẹ gặp nhau, nhưng nhất là,
mừng Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ gặp gỡ vị Tiền Hô của mình trong
lòng bà Ê-li-sa-bét. Lễ này tràn ngập niềm vui của bài thánh ca
“linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”.
Phụng Vụ Giờ
Kinh
Bài đọc 2
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Qua những lời đó, trước hết Đức Mẹ muốn tuyên xưng những ơn riêng
Chúa đã ban cho Người cách đặc biệt, sau là kể ra những ơn chung
Thiên Chúa không ngừng ban cho nhân loại đến muôn đời.
Linh hồn ngợi khen Đức Chúa, khi đem hết mọi tình cảm con người bên
trong ra mà ca ngợi phụng sự Chúa, khi tỏ ra luôn suy tưởng về quyền
lực oai phong của Chúa qua việc tuân giữ các huấn lệnh của Người.
Thần trí hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, khi lấy làm
vui vì tưởng nhớ đến một mình Chúa là Đấng Hoá Công và là Đấng ban
cho niềm hy vọng được ơn cứu độ muôn đời.
Những lời đó thật thích hợp cho mọi người hoàn thiện, nhưng đặc biệt
thích hợp cho Mẹ diễm phúc, khi Người tuyên xưng những lời ấy, vì
nhờ đặc ân lạ lùng mà Người được cháy lửa yêu mến thiêng liêng đối
với Đấng Người đã hoan hỷ cưu mang trong thân xác mình.
Người thật có lý để vui mừng một cách đặc biệt hơn các vị thánh khác
trong Đức Giê-su, nghĩa là trong Đấng cứu độ Người, vì Người nhận
biết Đấng là tác giả ơn cứu độ muôn đời sẽ sinh ra trong thời gian
bởi thịt của Người, để trong cùng một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su
thật sự vừa là con, vừa là Chúa của Người.
Bởi vì Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn. Người
không kể gì là do công trạng riêng, vì cho tất cả sự cao trọng của
mình là do ơn của Đấng tự bản tính vốn là quyền năng và vô cùng cao
cả thường làm cho các tín hữu từ chỗ nhỏ bé thấp hèn nên mạnh mẽ cao
sang.
Đức Mẹ còn khéo léo nói thêm : Danh
Người thật chí thánh chí tôn, để khuyên nhủ thính giả và dạy tất
cả những ai nghe được lời của Người biết mau đón nhận đức tin và kêu
cầu danh Chúa, hầu chính họ có thể thông phần sự thánh thiện muôn
đời và ơn cứu độ đích thực, như lời ngôn sứ : Phàm
ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ. Đó chính là danh Đức Mẹ nói
tới trong câu : Thần
trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Vì thế, trong Hội Thánh có thói quen rất tốt lành là hằng ngày mọi
người hát thánh thi của Đức Mẹ khi nguyện kinh chiều, nhờ đó tâm hồn
các tín hữu vừa năng tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa mà thêm lòng
sốt mến, vừa năng suy niệm các gương lành của Thánh Mẫu mà thêm vững
mạnh trên đường nhân đức. Đọc như thế vào giờ kinh chiều thật là
thích hợp, vì tâm trí chúng ta sau một ngày làm việc mệt mỏi và ngổn
ngang trăm mối, lúc sắp được nghỉ ngơi, có thể hồi tâm để cùng nhau
suy gẫm.
Đấng cứu độ chúng ta đã chẳng nề sinh làm con Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a. Ta hãy chúc tụng và tha thiết nguyện cầu :
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Mặt Trời soi đường công chính, đã muốn cho Đức Mẹ
xuất hiện tựa hừng đông, - xin cho chúng con biết theo Người
mà bước đi trong ánh sáng của ngày cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Ngôi Lời hằng hữu, Thánh Mẫu Chúa đã chọn phần tuyệt
hảo là lắng nghe và tuân giữ lời Chúa, - xin cho chúng con
hằng noi gương Thánh Mẫu mà gắn bó cùng Chúa trọn đời.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, Chúa đã muốn cho Đức Mẹ
đứng kề bên thánh giá, - xin nhậm lời Người chuyển cầu mà
cho chúng con hưởng nhờ ơn cứu độ.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Chúa là Con Đức Trinh Nữ, và là anh của chúng con, xưa trên
thánh giá, Chúa đã xin Đức Mẹ làm mẹ thánh Gio-an, - xin cho
chúng con cũng nhận biết Người là mẹ, và trọn niềm hiếu thảo
với Người.
Lạy Chúa,
xin nhậm lời Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng con.
Thiên Chúa là Cha toàn năng đã muốn cho mọi đời phải ca
ngợi Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Ki-tô. Vậy ta hãy tôn
vinh Thiên Chúa Cha, và xin Đức Mẹ chuyển cầu cho chúng
ta :
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Thân Mẫu Chúa Giê-su, - xin
cho các bà mẹ biết gây tinh thần bác ái và đời sống
thánh thiện trong gia đình.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã đặt Đức Ma-ri-a làm Từ Mẫu của nhân loại, - xin
cho tất cả những ai đang gặp cảnh gian truân được cảm
nghiệm tình mẫu tử của Người.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã làm cho Đức Mẹ biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa,
và tận tâm phục vụ Chúa, - xin cho chúng con được trở
thành những môn đệ trung tín của Đức Ki-tô.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Chúa đã phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương thiên quốc, - xin
cho các anh chị em đã lìa thế được chung hưởng vinh
quang với thần thánh trên trời.
Vì lời Đức Mẹ chuyển cầu,
xin Chúa thương nhậm lời chúng con.
Lời nguyện cho chung các giờ kinh
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Ma-ri-a
vừa cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm
viếng bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo
Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Ma-ri-a ngợi khen
Cha muôn đời. Chúng con cầu xin
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xp 3,
14-18a
"Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca!
Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và hãy nhảy
mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi, và đã đẩy lui quân thù
của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa.
Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ
sẽ nói rằng: "Hỡi Sion, đừng sợ! Tay đừng bủn rủn! Chúa là Thiên Chúa ngươi,
là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan
vui mừng vì ngươi. Với ngươi, Người làm mới lại tình yêu của Người. Vì
ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui, như thuở tao phùng".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: Rm
12, 9-16
"Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu
thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà".
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, đức ái không được giả
hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong
tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ
biếng nhác: Hãy sốt mến trong tâm hồn và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong
niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp
đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà.
Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh
em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc
lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một
hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3.
4bcd. 5-6
Ðáp: Ðấng Thánh
cao cả của Israel ở giữa ngươi (c. 6b).
Xướng: 1) Này là Thiên Chúa, Ðấng cứu
độ tôi, tôi sẽ tin tưởng hành động và không sợ hãi: vì Chúa là sức mạnh và
là sự ngợi khen của tôi, và Người đã đem lại cho tôi ơn cứu độ. - Ðáp.
2) Hãy tuyên xưng Chúa và kêu cầu
thánh danh Người; hãy làm cho các dân tộc biết việc Chúa sáng tạo; hãy nhớ
rằng danh Người thật cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca mừng Chúa, vì người đã làm
những việc trọng đại; hãy công bố việc đó trong khắp hoàn cầu. Hỡi dân thành
Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì Ðấng Thánh cao cả của Israel ở giữa
ngươi. - Ðáp.
Alleluia: Lc 1, 45
Alleluia, alleluia! - Hỡi Trinh Nữ
Maria, phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực
hiện. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1,
39-56
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến
viếng thăm tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy,
vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria
và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài
nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà
kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ
nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến
viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng
trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được
thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen
Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi, vì Chúa đã
đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng
tôi có phước, vì Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh
Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho
những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần
lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống
khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát
no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc
Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán
cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba
tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Viếng Thăm Là Dạo Khúc Cho Sứ Vụ Của Chúa Giêsu
1- Trong đoạn trình
thuật về Cuộc Viếng Thăm, Thánh Luca cho chúng ta thấy, sau khi tràn đầy
hồng ân Nhập Thể, Đức Maria đã mang ơn cứu độ và niềm vui đến cho gia đình
bà Êlizabét ra sao. Đấng Cứu Thế nhân trần, được cưu mang trong lòng Mẹ
mình, đã tuôn đổ Thánh Linh xuống, qua việc tỏ mình ra ngay từ lúc mới vào
trần gian của mình.
Khi diễn tả việc khởi hành của Đức Maria lên đường đi xuống Giuđêa, Thánh Ký
đã dùng động từ “anistemi”, nghĩa là “chỗi dậy”, là “bắt đầu di chuyển”. Nếu
động từ này được các Phúc Âm sử dụng để nói đến việc Phục Sinh của Chúa
Giêsu (Mk 8:31, 9:9,31; Lk 24:7,46), hay những tác động thể lý ám chỉ nỗ lực
về tâm linh (Lk 5:27-28, 15:18,20), chúng ta có thể cho rằng Thánh Luca muốn
dùng cách diễn tả này để nhấn mạnh đến cái nhiệt tình mạnh mẽ, theo ơn soi
động của Thánh Linh, đã thúc đẩy Đức Maria ban tặng cho thế giới Vị Cứu Tinh
của nó.
2- Bản văn Phúc Âm cũng trình thuật rằng Đức Maria “vội vàng” (Lk 1:39) lên
đường. Ngay cả ghi chú về việc Người “đến một miền đồi núi”, Phúc Âm Thánh
Luca cũng cho thấy một ý nghĩa sâu xa của nó, hơn là chỉ cố ý nói đến một
địa dư vậy thôi, vì nó gợi lại cho chúng ta thấy hình ảnh một vị sứ giả loan
báo tin mừng trong Sách Tiên Tri Isaia: “Đẹp thay trên các núi đồi bước chân
của người loan báo tin vui, của người rao truyền an bình, của người mang tin
thiện phúc, của người rao truyền ơn cứu độ, của người nói với Sion rằng:
‘Thiên Chúa của các người hiển trị’” (Is 52:7).
Như Thánh Phaolô, vị nhìn nhận đoạn sách tiên tri này đã được nên trọn ở
việc loan truyền phúc âm (Rm 10:15), Thánh Luca hình như cũng muốn mời gọi
chúng ta hãy nhìn nơi Đức Maria như là “vị truyền bá phúc âm” tiên khởi, vị
loan truyền “tin mừng”, khai mào các cuộc hành trình thừa sai cho Người Con
thần linh của Người.
Sau hết, hướng đi trong cuộc hành trình của Đức Trinh Nữ cũng có một ý nghĩa
đặc biệt, ở chỗ, Người đi từ Galilê xuống Giuđêa, giống như cuộc hành trình
truyền giáo của Chúa Giêsu vậy (x 9:51).
Thật thế, cuộc viếng thăm bà Eâlizabét của Đức Maria là một dạo khúc cho sứ
vụ truyền giáo của Chúa Giêsu, và ngay từ ban đầu, với vai trò làm mẹ cộng
tác vào công cuộc cứu chuộc của Con mình, Người đã trở nên một mẫu gương cho
những ai thuộc về Giáo Hội muốn ra đi mang ánh sáng của Chúa Kitô và niềm
vui đến cho con người ở mọi thời và khắp mọi nơi.
3- Cuộc gặp gỡ bà Elizabét có tính cách của một biến cố cứu độ vui mừng,
vượt lên trên những cảm xúc tự nhiên của tình nghĩa gia đình. Nơi đang ở vào
hoàn cảnh bối rối về hành động thiếu tin tưởng, được tỏ hiện qua tình trạng
bị câm lặng của ông Zacaria, thì Đức Maria đã làm bừng lên niềm vui của một
đức tin mau mắn và cởi mở của Người: “Người đã vào nhà ông Zacaria và chào
bà Elizabét” (Lk 1:40).
Thánh Luca cho thấy mối liên hệ này là: “Khi bà Elizabét nghe lời chào của
Đức Maria thì con trẻ trong lòng bà liền nhẩy mừng” (Lk 1:41). Lời chào của
Đức Maria đã khiến cho người con trai của bà Elizabét nhẩy lên vui sướng, ở
chỗ, qua việc làm của Đức Maria, việc Chúa Giêsu vào nhà của bà Elizabét đã
mang đến cho vị tiên tri thai nhi này một niềm vui được Cựu Ước tiên báo như
là dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đấng Thiên Sai.
Với lời chào của Đức Maria, niềm vui cứu độ đã đến với cả bà Elizabét nữa,
để rồi, “được đầy Thánh Linh… bà đã lớn tiếng kêu lên rằng ‘Người có phúc
hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái trong lòng của Người’ (Lk 1:41-42).
Nhờ được ơn soi sáng từ trên cao, bà hiểu được sự cao trọng của Đức Maria,
vị còn hơn cả Jael và Judith là những nhân vật tiền thân của Người trong Cựu
Ước, Người có phúc hơn mọi người nữ bởi quả phúc trong lòng Người là Chúa
Giêsu, Đấng Thiên Sai.
4- Lời bà Elizabét hô lên ấy, hô một cách “lớn tiếng”, chứng tỏ cho thấy cả
một tấm lòng nhiệt thành sốt sắng chân tình, một tấm lòng nhiệt thành sốt
sắng chân tình sẽ được tiếp tục vang vọng trên môi miệng của tín hữu qua
kinh “Kính Mừng”, một kinh nguyện như một bài ca của Giáo Hội chúc tụng
những việc trọng đại được Đấng Tối Cao thực hiện nơi Người Mẹ của Con Ngài.
Trong việc tuyên tụng Người “có phúc hơn mọi người nữ”, bà Elizabét muốn nói
đến đức tin của Đức Maria là lý do đã làm cho Người được diễm phúc: “Phúc
cho Người vì đã tin rằng những gì Chúa nói cùng Người sẽ được thực hiện” (Lk
1:45). Sự cao cả và niềm vui của Đức Maria phát xuất từ việc Người là một
con người tin tưởng.
Thấy được vai trò tuyệt hạng nơi Đức Maria, bà Elizabét cảm thấy cái vinh dự
mình được Người đến viếng thăm: “Tôi làm sao lại có diễm phúc là được Mẹ
Chúa tôi đến thăm tôi?” (Lk 1:43). Bằng lời xưng tụng “Chúa tôi”, bà
Elizabét đã nhìn nhận phẩm vị hoàng tộc, đúng hơn, phẩm vị thiên sai nơi
Người Con của Đức Maria. Trong Cựu Ước, lời này quả thực được dùng để xưng
tụng đức vua (x 1Kgs 1:13,20,21 v.v.) cũng như để nói về Vị Vua Thiên Sai
(Ps 110:1). Thiên Thần đã nói về Chúa Giêsu rằng: “Chúa là Thiên Chúa sẽ ban
cho Người ngôi báu của Đavít tổ phụ của Người” (Lk 1:32). “Được đầy Thánh
Thần”, bà Elizabét cũng có cùng một minh thức như thế. Cuộc vinh hiển vượt
qua của Chúa Kitô sau này mới tỏ cho thấy ý nghĩa cần phải hiểu về danh hiệu
này, một ý nghĩa siêu việt (x Jn 20:28; Acts 2:34-36).
Bằng việc vang lên lời chúc tụng ấy, bà Elizabét mời gọi chúng ta hãy cảm
nhận tất cả những gì do sự hiện diện của Đức Maria mang đến như là một ân
phúc cho đời sống của mọi tín hữu.
Qua việc Viếng Thăm này, Người Trinh Nữ đã mang Chúa Giêsu đến cho mẹ của Vị
Tẩy Giả, một Chúa Kitô là Đấng tuôn đổ Thánh Linh. Vai trò trung gian môi
giới này phát xuất từ chính những lời của bà Elizabét: “Này, khi tai tôi vừa
nghe thấy tiếng Người chào thì con trẻ trong lòng tôi liền nhẩy mừng” (Lk
1:44). Với tặng ân Thánh Linh được ban phát bấy giờ, sự hiện diện của Đức
Maria đóng vai trò như một dạo khúc cho Cuộc Hiện Xuống, một Cuộc Hiện Xuống
xác nhận việc hợp tác, được bắt đầu từ Biến Cố Nhập Thể, cần phải được thể
hiện nơi toàn cục diện cứu độ thần linh.
(ĐTC Gioan Phaolô II, Thứ Tư 2/10/1996,
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/10/1996)
Thứ Ba sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
(Nếu không bị Lễ Kính Đức Mẹ Thăm Viếng át đi)
Bài Ðọc I: Cv 20,
17-27
"Tôi đi cho hết quãng đường đời và
hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, từ Milê, Phaolô
sai người đi Êphêxô mời các trưởng giáo đoàn đến. Khi họ đến với ngài và hội
họp, ngài nói với họ: "Các ông biết ngay tự ngày đầu khi tôi vào đất Tiểu Á,
tôi đã cư xử thế nào với các ông trong suốt thời gian đó, tôi hết lòng khiêm
nhường phụng sự Chúa, phải khóc lóc và thử thách do người Do-thái âm mưu hại
tôi. Các ông biết tôi không từ chối làm một điều gì hữu ích cho các ông, tôi
đã rao giảng và dạy dỗ các ông nơi công cộng và tại tư gia, minh chứng cho
người Do-thái và dân ngoại biết phải hối cải trở về với Thiên Chúa, phải tin
Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi
Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ
thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng: xiềng xích và
gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem. Nhưng tôi không sợ chi cả, không kể mạng
sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn tất nhiệm
vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng về Tin
Mừng ơn Thiên Chúa. Và giờ đây, tôi biết rằng hết thảy các ông là những
người được tôi ghé qua rao giảng nước Thiên Chúa, các ông sẽ chẳng còn thấy
mặt tôi nữa. Vì thế hôm nay tôi quả quyết với các ông rằng: tôi trong sạch
không dính máu người nào cả. Vì chưng, tôi không trốn tránh, khi phải rao
giảng cho các ông mọi ý định của Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 67,
10-11. 20-21
Ðáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài làm mưa
ân huệ xuống cho dân Ngài, và khi họ mệt mỏi, Ngài đã bổ dưỡng cho. Ôi Thiên
Chúa, đoàn chiên Ngài định cư trong xứ sở, mà do lòng nhân hậu, Ngài chuẩn
bị cho kẻ cơ bần. - Ðáp.
2) Chúc tụng Chúa ngày nọ qua ngày
kia. Thiên Chúa là Ðấng cứu độ, Ngài vác đỡ gánh nặng chúng ta. Thiên Chúa
chúng ta là Thiên Chúa cứu độ, Chúa là Thiên Chúa ban ơn giải thoát khỏi tay
tử thần. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! - Thầy sẽ xin cùng
Cha, và Người sẽ ban cho các con Ðấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con
luôn mãi. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
1-11a
"Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con
Cha".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
và nói: "Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm
vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng
ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời
chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Ðấng Cha
đã sai, là Giêsu Kitô.
"Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất,
Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin
hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi
Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi
thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và
chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con,
đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và
chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin
rằng Cha đã sai Con.
"Con cầu xin cho chúng, Con không cầu
xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của
Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con
đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn
còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
17:1-11a)
"Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: 'Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm
vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền
trên mọi huyết nhục, để Con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó
cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất
chân thật, và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô. Con
đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho
Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh
hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ
Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng
cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban
cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho
chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng
tin rằng Cha đã sai Con. Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian,
nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của
Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi
chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con,
Con về cùng Cha'".
Chiều kích
Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề
"Thày là sự sống" trong bài phúc âm cho Thứ Ba Tuần VII Phục Sinh hôm
nay được
hiện tỏ nơi lời cuối cùng của Chúa
Giêsu:
"mọi
sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh
hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian,
phần Con, Con về cùng Cha".
Thật vậy, chiều
kích hiệp nhất không thể nào thiếu tính chất thuộc về nhau và ở với nhau. Thuộc
về nhau: "mọi
sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con", và ở
với nhau: "phần
Con, Con về cùng Cha".
Thế nhưng,
"mọi sự của Con" được Chúa Kitô nói đến ở đây là gì, nếu không phải là thành
phần các môn đệ của người bấy giờ và sau này làm nên Nhiệm Thể của Người là Giáo
Hội. Đó là lý do chính Chúa Giêsu đã xác nhận các môn đệ của Người là tất cả
"mọi sự của Con là
của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con":
"mọi
kẻ Cha đã giao phó cho Con", "mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho
Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con", và
"những
kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha".
Chính vì "mọi
sự của Con là
của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con"
như thế mà Chúa
Kitô đã muốn cho họ cũng được hiệp nhất thần linh với Người và qua Người với Cha
của Người nữa, bằng cách, như Người thưa cùng Cha của Người trong bài Phúc Âm: 1- ban sự sống đời đời cho họ: "Vì
Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để Con cũng ban sự sống đời đời
cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con"; 2- và tỏ
danh Cha cho họ: "Con
đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con... những lời
Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích
thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con".
Bài Phúc Âm hôm nay là phần thứ nhất trong 3 phần
của Đoạn Phúc Âm 17 được Thánh ký Gioan ghi lại, bao gồm tất cả Lời Nguyện
kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô. Phần đầu (hôm nay - Thứ Ba) của Lời
Nguyện này liên quan đến chính bản thân Chúa Kitô và vinh hiển của Người,
phần hai (ngày mai - Thứ Tư) liên quan đến các tông đồ và đặc ân thánh hóa
của các vị, và phần ba (ngày kia - Thứ Năm) liên quan đến chung nhân loại và
mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa.
Trước hết, "vinh hiển" của Chúa Kitô đây là gì? Tại sao Người lại
xin Cha của Người làm cho Người được "vinh hiển"? Xin thưa, "vinh
hiển" của Chúa Kitô đây là
"vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian". Tức vinh hiển
là "Con Thiên Chúa" của Chúa Kitô, một vinh hiển mà Người xin Cha
của Ngài xin hãy làm sáng tỏ trước chung thế gian và riêng các môn đệ của
Người, nhờ đó, Người cũng làm cho Cha được "vinh hiển" ở chỗ các môn đệ của
Người cũng như thế gian nhận biết Cha là Đấng đã sai Người vì yêu thương
nhân loại.
Nếu "Sự
sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật,
và Ðấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô", thì cách thức làm sao cho họ nhận
biết chính là cách thức Cha làm "vinh hiển" Người và đồng thời nhờ
đó Người cũng làm "vinh hiển" Cha của Người. Mà cách thức ấy là gì,
nếu không phải hoàn trọn ý muốn của Cha là Đấng đã sai Người:
"Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao
phó cho Con".
Phải, Chúa Cha đã làm "vinh hiển" Con ở chỗ muốn Con của Ngài phải
chịu khổ nạn và tử giá, và chính Chúa Kitô cũng chẳng còn cách nào khác hơn
là tuân phục Cha của Người: "tuy thân phận là Con, Người cũng đã biết
tuân phục nơi những gì phải chịu, để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn
nguyên cứu độ đời đời cho tất cả những ai tín phục Người" (Do Thái
5:8), nghĩa là làm cho các môn đệ của Người và thế gian nhận biết Người là
Con của Thiên Chúa, hay qua Người mà nhận biết Cha là Đấng đã sai Người, hầu
được "sự sống đời đời".
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 20:17-27)
"Trong những ngày ấy, từ Milê, Phaolô sai người đi Êphêxô mời các
trưởng giáo đoàn đến. Khi họ đến với ngài và hội họp, ngài nói với họ: 'Các ông
biết ngay tự ngày đầu khi tôi vào đất Tiểu Á, tôi đã cư xử thế nào với các ông
trong suốt thời gian đó, tôi hết lòng khiêm nhường phụng sự Chúa, phải khóc lóc
và thử thách do người Do-thái âm mưu hại tôi. Các ông biết tôi không từ chối làm
một điều gì hữu ích cho các ông, tôi đã rao giảng và dạy dỗ các ông nơi công
cộng và tại tư gia, minh chứng cho người Do-thái và dân ngoại biết phải hối cải
trở về với Thiên Chúa, phải tin Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và giờ đây được
Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì xảy đến cho
tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước cho tôi rằng:
xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem. Nhưng tôi không sợ chi cả,
không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết quãng đường đời và hoàn
tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi Chúa Giêsu là làm chứng
về Tin Mừng ơn Thiên Chúa. Và giờ đây, tôi biết rằng hết thảy các ông là những
người được tôi ghé qua rao giảng nước Thiên Chúa, các ông sẽ chẳng còn thấy mặt
tôi nữa. Vì thế hôm nay tôi quả quyết với các ông rằng: tôi trong sạch không
dính máu người nào cả. Vì chưng, tôi không trốn tránh, khi phải rao giảng cho
các ông mọi ý định của Thiên Chúa'".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần Linh trong chủ đề "Thày là sự sống" trong Mùa Phục
Sinh sau Tuần Bát Nhật Phục Sinh được tỏ hiện một cách cụ thể nơi trường hợp của
Thánh Phaolô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại. Ở chỗ, ngài cảm nhận được tác động thần linh
của Thánh Thần nơi ngài, như chính ngài nói: "Và
giờ đây được Thánh Thần bắt buộc đi Giêrusalem mà không biết ở đó có những gì
xảy đến cho tôi, chỉ biết là từ thành này qua thành khác, Thánh Thần báo trước
cho tôi rằng: xiềng xích và gian lao đang chờ tôi ở Giêrusalem".
Nếu
không đạt được mức độ hiệp nhất thần linh cao cả, thì kinh
nghiệm sống đạo
cũng là sống đức tin cho
thấy, không ai có thể nhậy cảm và cảm nghiệm được tác động thần linh của Chúa
Thánh Thần như ngài. Mà
cho dù có cảm nghiệm được tác động thần linh của
Thánh Thần chăng
nữa, nhiều khi Kitô hữu vẫn chối bỏ tác động ấy, bởi đụng đến bản thân của họ,
bắt họ phải hy sinh hay chịu khổ, đến nỗi họ trốn chạy hay trấn át tác động thần
linh của Ngài, điển hình là trường hợp của tiên tri Giona được sai đến rao giảng
thống hối cho thành Ninivê (xem Giona 1:1-3).
Thế nhưng, ở đây, với
Tông Đồ Phaolô, được hiệp nhất thần linh với Chúa Kitô là Đấng sống trong ngài
(xem Galata 2:20), đến độ không gì có thể tách ngài ra khỏi tình yêu của Chúa
Kitô (xem Roma 8:35-39), thì như ngài quả quyết trong bài đọc 1 hôm nay: "Nhưng
tôi không sợ chi cả, không kể mạng sống tôi làm quý, miễn là tôi đi cho hết
quãng đường đời và hoàn tất nhiệm vụ rao giảng lời Chúa mà tôi đã lãnh nhận nơi
Chúa Giêsu là làm chứng về Tin Mừng ơn Thiên Chúa".
Thứ Tư sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 20,
28-38
"Tôi xin ký thác các ông cho Thiên
Chúa, Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia
nghiệp".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phaolô nói với
các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng: "Các ông hãy thận trọng, và săn sóc đoàn
chiên mà Thánh Thần đã đặt các ông làm giám quản điều khiển giáo đoàn của
Chúa đã được Người cứu chuộc bằng máu. Phần tôi, tôi biết rằng sau khi tôi
đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa các ông, chúng không dung tha đoàn
chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ ăn nói xảo trá nổi dậy để lôi kéo
các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh thức, và nhớ rằng trong ba năm
trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người. Và bây giờ,
tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, Người
là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp
làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn bạc,
vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và
những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi
cách, tôi đã chỉ bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ
những người yếu đuối, và ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: "Cho thì có phúc
hơn là nhận"."
Nói xong, ngài quỳ xuống cầu nguyện
với mọi người. Ai nấy đều khóc lớn tiếng, và ôm cổ Phaolô mà hôn, họ đau
buồn nhất là vì lời ngài vừa nói rằng họ sẽ không còn thấy mặt ngài nữa. Rồi
họ tiễn đưa ngài xuống tàu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 67,
29-30. 33-35a. 35b-36c
Ðáp: Chư quốc trần
ai, hãy ca khen Thiên Chúa (c. 33a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin tỏ ra
quyền năng của Chúa. Ôi Thiên Chúa, xin củng cố sự việc Chúa đã làm cho
chúng con! Vì thánh đài của Chúa ở Giêrusalem, các vua sẽ tiến dâng Ngài lễ
vật. - Ðáp.
2) Chư quốc trần ai, hãy ca khen Thiên
Chúa, hãy xướng lên bài ca mừng Chúa, mừng Ðấng ngự giá qua cõi trời, cõi
trời ngàn thu! Kìa Ngài lên tiếng, tiếng nói quyền năng: "Các ngươi hãy nhìn
biết quyền năng Thiên Chúa". - Ðáp.
3) Oai nghiêm Ngài chiếu giãi trên
Israel, và quyền năng Ngài trên cõi nước mây. Từ thánh điện của Ngài, Thiên
Chúa đáng tôn sợ. Thiên Chúa của Israel, chính Ngài ban cho dân Ngài được
quyền năng và mãnh lực. - Ðáp.
Alleluia: Mt 28, 19
và 20
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận
thế". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
11b-19
"Ðể chúng được nên một như Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ
Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng,
Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho
Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh
Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi
Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
"Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế
gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không
thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin
gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con
không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là
chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào
thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá
trong chân lý".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
17:11b-19)
"Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: 'Lạy Cha chí thánh, xin
hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một
như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ
những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con
người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con
nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con
trong lòng. Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng
không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha
đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không
thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng
trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con
cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng
được thánh hoá trong chân lý'".
Chiều
kích
Hiệp Nhất Thần Linh trong Mùa
Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự sống" cho Thứ Tư của Tuần Lễ VII Phục
Sinh hôm nay lại càng rõ ràng hơn nữa, qua lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm
nay: "để
chúng được nên một như Ta".
Thế
nhưng, để thực hiện tình trạng Hiệp Nhất Thần Linh này nơi các môn đệ của mình,
không phải chỉ giữa
mình và họ, mà còn giữa
họ với Cha nữa,
Chúa Kitô "đã tự thánh hóa để cả chúng được
thánh hóa trong chân lý",
nghĩa là để cho
các môn đệ của Người có thể nhận biết "Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất
và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô", như lời Người thưa cùng Cha của Người
trong bài
Phúc Âm hôm qua.
Vì nhờ nhận biết
như thế các môn đệ mới được sự sống, sự sống thần linh của Chúa Kitô, như Chúa
Kitô và với Chúa Kitô là Đấng đã thông ban cho họ qua cuộc Vượt Qua của Người.
Và nhờ sự sống thần linh này mà các môn đệ của Người mới ở thế gian mà "không
thuộc về thế gian", trái lại thế gian nhờ các vị mà nhận biết Chúa Kitô
mà được thông phần vào mối Hiệp Nhất Thần Linh, như lời Người thưa cùng Cha
trong bài Phúc Âm ngày mai.
Trong bài Phúc Âm hôm nay
chúng ta còn thấy Chúa Kitô tỏ ra rất trân trọng và yêu thương các môn đệ
của Người là
"những kẻ Cha đã ban cho Con",
thành phần mà trong bài Phúc Âm hôm qua Người cũng
đã khẳng định là "mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con", "mọi kẻ Cha đã đưa
khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho
Con... chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha
cũng là của Con".
Người đã tỏ ra hết sức quan tâm lo lắng cho những kẻ thuộc về
Người như Cha đã trao phó cho Người, khi Người sắp
"về cùng Cha" của Người, về tiêu cực, làm sao
"gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ", và về phần tích cực, "thánh hoá
chúng trong chân lý". Việc "gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ" không
phải ở chỗ
"xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian" mà là "thánh hoá chúng
trong chân lý" bằng "lời Cha là chân lý". Mà "lời Cha"
đây chính là Chúa Kitô, là tất cả những gì Cha muốn tỏ mình ra cho
họ, nhất là nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô: "vì chúng mà Con
đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý'".
Đó là lý do, một lý do trước hết và trên hết
"vì chúng" (ám chỉ cả Giáo Hội) hơn là vì chung loài người, mà
trong việc lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Kitô, khi trao bánh và
rượu cho các môn đệ tông đồ, thành phần thuộc về Người và được Cha trao phó
cho Người, Người đã khẳng định như sau: "Này là mình Thày sẽ bị nộp
vì các con..." và "Chén này là
chén tân ước trong máu của Thày là máu sẽ đổ ra
cho các con" (Luca 22:19-20).
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 20:28-38)
"Trong những ngày ấy, Phaolô nói với các trưởng giáo đoàn Êphêxô rằng: 'Các ông
hãy thận trọng, và săn sóc đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt các ông làm giám quản
điều khiển giáo đoàn của Chúa đã được Người cứu chuộc bằng máu. Phần tôi, tôi
biết rằng sau khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập giữa các ông, chúng
không dung tha đoàn chiên; và ngay giữa các ông sẽ có những kẻ ăn nói xảo trá
nổi dậy để lôi kéo các môn đồ theo họ. Vì thế, các ông hãy tỉnh thức, và nhớ
rằng trong ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người.
Và bây giờ, tôi xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người,
Người là Ðấng có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp
làm một với tất cả mọi người đã được thánh hoá. Tôi đã không ham muốn bạc, vàng,
hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những đồ gì tôi và những kẻ ở
với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra. Bằng mọi cách, tôi đã chỉ
bảo cho các ông rằng phải làm việc như vậy, để nâng đỡ những người yếu đuối, và
ghi nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: 'Cho thì có phúc hơn là nhận'".
Chiều kích Hiệp Nhất Thần Linh của Mùa Phục Sinh theo
chủ đề
"Thày là sự sống"
tiếp tục với Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô
trong bài đọc 1 hôm nay. Ở chỗ ngài đã tỏ
ra lo cho lợi ích thiêng liêng của những ai đã được ngài phục vụ trong 3 năm
liền, như Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm cũng bày tỏ cùng Cha của Người về mối
quan tâm của Người đối với số phận của những ai thuộc về Người
còn ở thế gian vậy.
Nếu
Chúa Kitô đã "đến không phải để được hầu hạ mà
là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28)
thế nào, thì Thánh Phaolô, được Hiệp Nhất Thần Linh với Người cũng đã phản ảnh
Người như vậy, cũng chủ trương đúng như lời Người khuyên dạy "cho đi
hơn nhận lãnh",
bằng
cách "tôi
đã không ham muốn bạc, vàng, hay y phục của ai hết, như chính các ông đã biết. Những
đồ gì tôi và những kẻ ở với tôi cần dùng, thì chính hai bàn tay này đã làm ra", hoàn
toàn không phiền đến ai, trái lại, ngài
tỏ ra rất ân
cần lưu tâm đến lợi ích thiêng liêng của chung cộng đồng dân Chúa và riêng từng
người mà ngài được sai đến phục vụ: "trong
ba năm trời, đêm ngày tôi không ngừng sa lệ mà khuyên bảo từng người".
Trong bài Phúc Âm
hôm nay, Chúa Giêsu đã trao phó các môn đệ cho Cha của Người thế nào, thì mối
Hiệp Nhất Thần Linh nơi Thánh Phaolô với Chúa Kitô cũng khiến ngài tác hành y
như Chúa Kitô vậy, khi ngài trấn an họ rằng: "tôi
xin ký thác các ông cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, Người là Ðấng
có quyền năng kiến tạo và ban cho các ông được dự phần gia nghiệp làm một với
tất cả mọi người đã được thánh hoá".
Ngày 1 tháng 6
Thánh Giút-ti-nô, tử đạo
Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại
Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Sa-ma-ri, trong một gia đình ngoại giáo, đầu
thế kỷ II. Sau khi tin Chúa Ki-tô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực
Ki-tô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng
đế An-tô-ni-ô và “Đối thoại với ông Tri-phông”, tranh luận với người
Do-thái. Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rô-ma. Bị một đồng
nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan
toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Ki-tô hữu khác, quãng năm 165,
thời hoàng đế Mác-cô Au-rê-li-ô.
Sau khi bị bắt, các thánh được điệu tới tổng trấn Rô-ma, tên là
Rút-ti-cô. Lúc các ngài ra trước toà án, tổng trấn Rút-ti-cô nói với
thánh Giút-ti-nô : “Trước hết ngươi phải tin các thần minh và tôn
kính các hoàng đế.” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Các ông không thể tố
cáo hay bắt giam chỉ vì chúng tôi tuân lệnh Đức Giê-su Ki-tô, Đấng
cứu độ chúng tôi.”
Quan Rút-ti-cô nói : “Nhà ngươi xưng tụng học thuyết gì vậy ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Tôi đã cố học đủ mọi thứ học thuyết, nhưng tôi
đã theo đạo lý chân thật của các Ki-tô hữu, dù đạo lý ấy không minh
nhiên đối với những người đang chìm đắm trong sự lầm lạc.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Đạo lý ấy mà ngươi cho là minh nhiên ư,
hỡi tên khốn kiếp ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Phải, vì giáo huấn
đúng nên tôi theo đạo lý đó.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Giáo huấn đó thế nào ?” Thánh Giút-ti-nô
trả lời : “Chúng tôi thờ Thiên Chúa của các Ki-tô hữu ; chúng tôi
tin Người là Đấng Tạo Thành duy nhất từ ban đầu, là Hoá Công toàn
thể thụ tạo hữu hình và vô hình ; và chúng tôi tin Chúa Giê-su Ki-tô
là Con Thiên Chúa, Đấng được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến rao giảng
ơn cứu độ cho loài người và dạy dỗ các môn đệ Người tuyển chọn. Và
vì tôi là người phàm, nên tôi nghĩ chỉ có thể nói được một vài điều,
bởi lẽ thần tính của Người thì vô biên. Tôi công nhận uy tín của các
ngôn sứ khi các ngài tiên báo Người là Con Thiên Chúa như tôi vừa
nói. Quả thật, tôi biết các ngôn sứ được ơn trên báo cho biết trước
về cuộc giáng lâm của Người đến với nhân gian.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi là Ki-tô hữu ư ?” Thánh
Giút-ti-nô trả lời : “Đúng thế, tôi là Ki-tô hữu.”
Tổng trấn nói với thánh Giút-ti-nô : “Hãy nghe đây, hỡi kẻ được
tiếng là thông thái và tưởng mình biết đạo lý thật : nếu ngươi bị
đánh đòn và bị chặt đầu, ngươi có tin chắc là ngươi sẽ được lên trời
không ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Tôi hy vọng sẽ được ở trên đó,
nếu tôi chịu được những điều này, vì tôi biết rằng cho đến tận thế,
Chúa vẫn dành ơn ấy cho những ai ăn ở ngay lành.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Vậy ngươi tưởng là ngươi sẽ được lên trời
và nhận phần thưởng đích đáng sao ?” Thánh Giút-ti-nô trả lời :
“Không phải là tưởng mà là biết rõ và chắc chắn như vậy.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Thôi, ta hãy đi vào vấn đề, vào công việc
cần thiết và khẩn trương. Vậy các ngươi hãy đồng lòng tế thần đi.”
Thánh Giút-ti-nô trả lời : “Không ai là người có lương tri mà lại bỏ
con đường đạo nghĩa để bước vào con đường vô đạo.”
Tổng trấn Rút-ti-cô nói : “Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ phải
chịu khổ hình không chút xót thương.” Thánh Giút-ti-nô trả lời :
“Chúng tôi ao ước chịu khổ hình vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng tôi,
để được cứu độ, vì điều ấy mang lại cho chúng tôi ơn cứu độ và làm
cho chúng tôi vững tin trước toà chung thẩm của Chúa là Thiên Chúa
và Đấng cứu độ chúng tôi.”
Các vị tử đạo khác cũng nói như sau : “Ngài muốn làm thế nào tuỳ ý,
chúng tôi là Ki-tô hữu, chúng tôi không tế thần.”
Tổng trấn Rút-ti-cô tuyên án : “Ai không muốn tế thần và tuân lệnh
hoàng đế, đều phải bị đánh đòn và mang đi chặt đầu, phải chịu án tử
hình theo luật định.”
Các thánh tử đạo ngợi khen Chúa, đi tới pháp trường, bị chặt đầu và
hoàn tất cuộc tử đạo khi tuyên xưng Đấng Cứu Độ.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Giút-ti-nô tử đạo ơn hiểu biết sâu
xa về Đức Ki-tô, nhờ suy tưởng mầu nhiệm Thập Giá mà thế gian coi là
điên dại. Nhờ lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con
thoát khỏi mọi tư tưởng sai lầm và cương quyết giữ vững niềm tin.
Chúng con cầu xin
Thánh JUSTINO, Tử đạo (+165)
Thánh Giustinô tử đạo sinh tại Nablus, Samaria, ở vào đầu thế kỷ
thứ II. Sinh trưởng trong một gia đình ngoại giáo, nhưng ngài
luôn nuôi dưỡng nhiệt tình tìm kiếm Thiên Chúa chân thật. Với
nhiệt tình này, ngài đã tiếp xúc với mọi người triết thuyết
đường thời và không thoả mãn được các đòi hỏi của trí khôn.
Trong tác phẩm “Đối thoại với Tryphon” (Dialogus cum Tryphone),
chính Thánh Giustinô kể lại cuộc tìm kiếm của mình: Trước hết,
ngài tin tưởng vào một người theo phái khắc kỷ. Những người này
chẳng dạy gì về Thiên Chúa. Ông ta nói rằng sư hiểu biết ấy
không cần thiết gì. Sau đó, ngài đến với một người theo thuyết
của Aristote. Ông này đòi thù lao quá cao, khiến sinh viên trẻ
là Giustinô phẫn uất: người ta không rao bán triết học.
Một người theo lý thuyết của Pythagore hỏi Ngài: Anh đã học âm
nhạc, thiên văn và địa lý chưa? Bởi vì để chiêm ngưỡng điều góp
phần tạo nên hạnh phúc cần phải biết học giải thoát tâm hồn khỏi
các đối tượng hữu hình để có thể tiếp nhận được những đối tượng
trong trí khôn và cho phép thấy được sự thiện mỹ nội tại.
Giustinô chưa biết gì về những môn học, nhưng lại thấy mình bị
thúc bách tìm kiếm Thiên Chúa hơn. Ngài gặp một người theo phái
Platon. Ngài nói: Sau nhiều đàm luận, tôi hiểu được những điều
vô hình ở mức độ cao hơn. Việc chiêm ngưỡng thế giới tư tưởng
chấp cánh cho tinh thần của tôi.
Dầu vậy, không có gì làm cho ngài thoả mãn được cơn khát chân
lý. Tại Ephesô, Giustinô gặp một cụ già đầy khôn ngoan. Ông
trách ngài đã thích lý sự về từ ngữ hơn sự kiện. Ông đã cho ngài
một lời khuyên cao cả là hãy tìm đọc Kinh Thánh: phải vượt qua
những giới hạn của trí khôn, phải đi xa trong thời gian hơn các
triết gia, phải nghe các tiên tri là những người nói bởi Chúa
Thánh Thần, nhất là phải cầu nguyện vì: Không ai có thể thấy hay
nghe được những điều này nếu Thiên Chúa và Đức Kitô không cho họ
hiểu biết.
Theo lời khuyên này, Giustinô đã khám phá ra Kitô giáo bảo đảm
hơn triết học nhiều. Từ đấy đức tin là quy luật xử thế và sự
thánh thiện lý tưỏng của ngài, ngài mở một trường học tại Rôma
và sống đời tông đồ đích danh. “Tôi sẽ nói sự thật, không một
đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thay thành trăm mảnh”.
Gương mẫu của các thánh tử đạo đánh động ngài rất nhiều: Thấy
các ngài kiên vững trước cái chết, tôi thầm nói rằng họ không
thể sống trong sự dữ và ham mê các khoái lạc được nữa.
Ngài sẽ tìm được ở đâu sự thăng hoa cuộc sống lớn lao hơn là
trong Kitô giáo? Bởi vậy, ngài đã tìm mở rộng môi trường hoạt
động ra ngoài ranh giới lớp học và những cuộc tranh luận, bằng
việc viết nhiều tác phẩm để phổ biến tư tưởng tôn giáo. Ngày
nay, chúng ta chỉ còn giữ lại được 2 cuốn: Đối thoại với
Tryphone, và Hộ giáo (Apologiae). Nhưng với hai tác phẩm ấy,
Thánh Giustinô cũng tỏ ra là một nhà minh giáo có thế giá được
thế kỷ thứ II và là người đã phác hoạ ra nền thần học Kitô giáo.
Từ một đức tin vững chắc vào các chân lý Kitô giáo. Thánh
Giustinô đã không ngần ngại tìm hết khả năng trổi vượt của trí
khôn để 2 lần viết thơ can ngăn các bạo vương. Lần thứ nhất vào
năm 138. Ngài viết cho Antonin Le Pieux, và lần thứ hai cho
Marcô Aurelio. Cả hai lần ngài cố gắng chỉ dẫn đến kết quả là bị
kết án tử hình.
Giustinô và các bạn bị dẫn tới trước mặt tổng trấn Rusticus, một
người theo triết thuyết Khắc Kỷ. Ngài lớn tiếng tuyên xưng đức
tin. - Không ai có lương tri mà lại bỏ rơi chân lý để theo sự
lầm lạc cả.
Thánh nhân từ chối không chịu tố giác nơi các Kitô hữu hội họp.
Sau cùng, ngài và các bạn bi đánh đòn rồi bị chém đầu. Tài liệu
còn ghi lai nhiều chân lý mà thánh nhân đã phát biểu trong cuộc
đối thoại với Rustisus, chẳng hạn: Mọi nguyên tắc chính đáng mà
các triết gia và các nhà lập luật khám phá được và trình bày
cũng phải nhớ ở điều mà Ngôi Lời đã diễn tả một phần.
Ngài còn nói: Không ai tin Socrate đến độ chết vì điều ông ta
dạy. Chính vì những lý do khác hẳn với lĩnh vực văn chương mà
bao nhiêu giáo phụ đã lấy máu mình để ký nhận các công trình của
các ngài, chính tình yêu Thiên Chúa nhập lòng các ngài.
1.
Thánh Justin người Samaria (miền
Trung nước Dothái thời Chúa Giêsu). Ông sống vào thế kỉ thứ 2. Cha ông không
dạy ông về tôn giáo nào cả.
Khi còn nhỏ, Justin ưa đọc văn thơ, lịch sử, khoa học. Lớn lên ông
tiếp tục học như thế, nhưng trong lòng ông muốn tìm hiểu đạo nào là thật?
Người ta kể: Một hôm, trong khi đi dạo bờ biển, Justin gặp một ông già. Hai
người nói chuyện. Justin nói rằng mình không có hạnh phúc và muốn tìm vị
Chúa thật mà trong các sách chàng đọc, không thấy nói tới. Ông già chỉ cho
Justin đọc Kinh thánh để biết về Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Ông khuyến khích
Justin cầu nguyện để được hiểu biết về Thiên Chúa thật.
Justin từ hôm đó, bắt đầu cầu nguyện và đọc Kinh thánh, càng ngày ông càng
thích thú Lời Chúa, ông cũng rất thán phục người Công giáo đã dám chết cho
đức tin và tình yêu Chúa Giêsu.
Sau khi học đủ điều trong đạo, Justin xin được rửa tội để làm người Công
giáo.
2.
Theo đạo, viết sách bênh đạo, chết vì đạo: Ông
đến Rôma, mở trường triết học Kitô, tổ chức những cuộc tranh luận công khai
về đạo.
Một số người thời đó công kích niềm tin và sống đạo Kitô giáo, vì thế Justin
bắt đầu nói và viết để bênh vực đạo Chúa. Các sách của ông giúp chúng ta
hiểu hơn về Giáo hội Công giáo thời đầu. Ngày nay chỉ còn cuốn “Bênh đạo và
cuốn Đối thoại với Trypho”. Nhờ đó ta biết về nghi lễ Rửa tội quãng năm 160,
nghi lễ thời đó rất giống như nghi lễ ngày nay. Ông còn viết về sách “Nghi
thức Thánh lễ Misa sáng Chúa nhật” của các cộng đoàn Kitô hữu thời đó gồm:
đọc sách Thánh, bài dẫn giải Tin mừng, dâng bánh rượu, cho giáo dân rước lễ…
Năm 165, Justin bị bắt, vì ông là Kitô hữu. Nhưng ông quyết liệt không bỏ
đạo Chúa để tế thần theo ý vua quan.
3. Tranh
luận bênh vực đức tin:
Chúa đã ban cho thánh Justinô nhiều ơn, và người đã dùng những ơn này đáp
lại ơn Chúa kêu gọi. Khi người đã tìm ra sự thật, người đã theo đến cùng.
Quan Tổng Đốc Roma
truyền lệnh :–
Hãy tế thần và vâng lệnh hoàng đế.
– Justin nói: Chẳng ai có quyền bắt chúng tôi tuân lệnh tế thần, vì
chúng tôi đã theo Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng tôi.
– Vậy anh theo chủ thuyết nào ?
– Tôi theo giáo lý chân thật của Chúa Kitô, mặc dù giáo lý ấy các
người lầm lạc không chấp nhận.
– Nếu không tuân lệnh, các ngươi sẽ bị phạt không nương tay.
– Chúng tôi ao ước được chịu khổ vì Chúa Kitô, vì sự khổ ấy sẽ đem
chúng tôi về Thiên đàng trên trời.
– Anh có nghĩ rằng anh sẽ được lên trời và lãnh phần thưởng xứng đáng
không?
– Không phải nghĩ, nhưng Thiên đàng có thực, tôi biết rất rõ và nắm
vững chắc chắn.
– Tất cả những kẻ không chịu tế thần và bất tuân lệnh hoàng đế đều bị đánh
đòn và bị chặt đầu đúng theo luật.
Quan án đã kết án tử hình cho ông Justin. Người đã bị chém đầu ngày 1 tháng
6 năm 166 tại Roma.
Phần
tôi, tôi có tìm Chúa trong Kinh thánh và cầu nguyện không? Xin Chúa Thánh
Thần giúp sức cho con.
http://linhthao.bplaced.net/2015/06/01/thanh-justino-tu-dao/
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có
những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy,
chúng ta biết về cuộc đời ngài.
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100. Cha mẹ
ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và
đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai
trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận
thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời
sống và sự hiện hữu.
Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh
hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi.
Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở
nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các
yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của
ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Ðức Kitô, một nhà giáo dục dẫn
đưa người ta đến với Ðức Kitô.
Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi
đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái
Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã
công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong
các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản
văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.
Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là
Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời:
“Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật”.
Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
Lời Bàn
Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy
dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để
phục vụ Ðức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm
chúng ta. Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu
xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi
và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô
Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của
Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.
Lời Trích
“Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ
ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự
hiểu biết đó” (Thánh Justin, Ðối Thoại Với Trypho, 3).
https://dongten.net/2019/05/31/hanh-cac-thanh-01-06-thanh-justino/
Thứ Năm sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 22,
30; 23, 6-11
"Con phải làm chứng về Ta tại
Rôma".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, toà án muốn biết
đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và
truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô
đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc phe Sađốc, và một
số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị rằng: "Thưa
anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy
vọng và vì sự sống lại của những người đã chết". Ngài vừa nói thế, thì xảy
ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra
chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có thiên
thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la
lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: "Chúng tôi
không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với
người này thì sao?" Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ
Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn.
Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và
phán: "Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì
cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a
và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa,
vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con; Chúa là
phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. -
Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho
con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con
luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không
nao núng. - Ðáp.
3) Bởi thế, lòng con vui mừng và linh
hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa
chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài
thấy điều hư nát. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối
trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu
Chúa, tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 17,
20-26
"Xin cho chúng nên một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
cầu nguyện rằng: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả
những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở
trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian
tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho
Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong
Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai
Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha
ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng
chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước
khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha,
nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã
tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu
Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
17:20-26)
"Khi
ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: 'Con không cầu xin cho
chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con,
để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả
chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban
cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là
một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một
và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã
yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu,
chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho
Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính,
thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết
rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho
chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng
nữa'".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần Linh trong Mùa Phục Sinh theo chủ đề "Thày là sự
sống" không phải chỉ bao gồm giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người,
giữa Người với Cha và các môn đệ của Người với Cha, mà còn giữa Giáo Hội
qua các
môn đệ của
Người với thế gian và giữa thế gian với Người cũng như với Cha nữa, như lời
Người đã cầu nguyện trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ
lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và
Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha
đã sai Con".
Thế
nhưng, để các môn đệ của Người có thể trở thành trung gian môi
giới cho cuộc
Hiệp Nhất Thần Linh giữa thế gian với Người và với Cha, thì Người cần phải
thực hiện những gì Người thưa cùng Cha trong bài Phúc Âm hôm nay, đó là:
"Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một
như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được
hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến
chúng như Cha đã yêu mến Con".
"Vinh hiển mà Cha đã ban cho Con" đây
là gì nếu không phải là cho Con được cơ hội làm rạng danh Cha trên Thánh
Giá, nên các môn đệ của Người được
Người cho thông
phần vinh hiển của Người nghĩa là được lấy chính mạng sống của mình để làm
chứng về Người và cho Người như Người đã làm chứng về Cha và tỏ Cha ra vậy,
như trường hợp của Tông Đồ Phêrô trong bài Phúc Âm ngày mai.
Trong lời nguyện
dâng lên Cha của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô còn cho thấy mối
Hiệp Nhất Thần linh giữa Người và các môn đệ được Người cho
tham phần vinh hiển của Người là
chịu khổ với Người ấy nhờ thế mới được thực sự Hiệp Nhất Thần Linh với
Người: "Lạy
Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy
với Con",
một ý định
phản ảnh những gì Người đã nói trước với
các tông đồ về
thân phận tôi tớ không hơn chủ của các vị rằng:
"Thày đi để dọn chỗ cho các con, Thày sẽ trở lại với các con để đưa các
con đi với Thày để Thày ở đâu các con cũng ở đó" (Gioan 14:3).
Lời nguyện hiến tế của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly được Giáo Hội chọn đọc
cho 3 ngày giữa tuần VII Phục Sinh (Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm) này bao gồm 3
phần rõ ràng: Phần nhất (Thứ Ba) Chúa Giêsu cầu cùng Cha cho chính bản thân
Người để xin Cha làm rạng danh Người, nhờ đó Người cũng được làm rạng danh
Cha. Phần thứ hai (Thứ Tư), Người cầu cho các tông đồ là nền tảng Giáo Hội
Người thiết lập, liên quan đến thân mệnh của các vị, thành phần "thuộc về
Cha" và "là của Cha" nhưng còn ở thế gian và sẽ bị thế gian bách hại, cần
phải được "thánh hóa trong chân lý", để chẳng những ở trong thế gian mà
không thuộc về thế gian mà còn có thể làm chứng cho chân lý là Chúa Kitô
nữa. Phần thứ ba (Thứ Năm hôm nay), Người cầu cho thế giới tin Người qua
chứng từ của các tông đồ nói riêng và Giáo Hội của Người nói chung, để nhờ
đó "tất cả được hiệp nhất nên một, như Cha ở trong Con và như Con ở trong
Cha".
Tuy nhiên, ở phần thứ ba của Lời Nguyện Hiến Tế này của mình, về nội dung,
Chúa Kitô vẫn tiếp tục cầu cho các tông đồ, thành phần sau khi đã "được
thánh hóa trong chân lý", tức đã nhận biết sự thật là Chúa Kitô, hay "đã
nhận biết Con bởi Cha mà ra", thì sẽ làm chứng cho Người trước thế gian. Thế
nhưng, để làm chứng cho một Đấng đã chịu khổ nạn và tử giá, các vị cần phải
được thông phần với Người, ở chỗ "Con
đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con", tức là đã tạo cho
các vị có cơ hội để Thiên Chúa có thể tỏ mình ra, hay tỏ vinh hiển của Ngài
ra, qua họ như qua chính Chúa Kitô trên Thánh Giá cứu độ. Nhờ đó mà các vị
mới được hiệp nhất nên một với Người, mới hoàn toàn nên giống Người:
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở
đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con".
Và như thế, các vị mới tiến tới chỗ "tình Cha yêu Con ở trong chúng, và
Con cũng ở trong chúng nữa" - "Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để
chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con
đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con".
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 22:30; 23:1-6)
"Trong những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô
về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn
thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có
một số người thuộc phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu
lớn tiếng giữa công nghị rằng: 'Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người
biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người
đã chết'. Ngài vừa nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người
biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng
không có sự sống lại, không có thiên thần và thần linh; còn các người biệt
phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái
đứng lên bênh vực rằng: 'Chúng tôi không thấy người này có tội gì; và nếu
thần linh hay thiên thần nói với người này thì sao?' Cuộc tranh luận đã đến
hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo
ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn. Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán:
'Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng
phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy'".
Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã thưa cùng Cha của
Người về số phận diễm phúc của các tông đồ được Người tuyển chọn để có thể
thông phần vinh hiển của Người và với Người bằng hy sinh khổ ải
thế nào để có
thể nên giống Người và được Hiệp Nhất Thần Linh với người, thì trong bài đọc
thứ nhất hôm nay cũng thế, chính Người cũng đã trấn an Vị
Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô và
phấn khích ngài, sau khi bị điệu ra trước công nghị để "bị xét xử vì niềm
hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết", và đang
bị nhốt trong một "đồn" canh, tiếp tục làm chứng về Người chẳng
những ở Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo, mà còn tại chính Rôma là
thủ đô của đế quốc Rôma, một địa điểm là tương lai của Giáo Đô Rôma của Kitô
giáo: "Hãy
can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải
làm chứng về Ta tại Rôma như vậy".
Chính việc
làm chứng của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô ở hai địa điểm chính yếu bao gồm
cả Do Thái giáo lẫn Dân Ngoại Kitô giáo này cho thấy mối Hiệp Nhất Thần Linh
giữa ngài và Chúa Kitô đến đâu, đến độ ngài đã trở thành đúng như ý định
chọn lựa của Chúa Kitô, Đấng đã tỏ mình ra cho ngài trên đường đi Damascô và
sai ngài đi: "Ta đã làm cho ngươi trở thành ánh sáng chư dân,
thành phương
tiện cứu độ cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47).
2/6
Dường như không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai Thánh
Tử đạo Marcellino và Phêrô cả. Lịch sử chép rất vắn tắt về đời sống hai
Thánh Marcellino và Phêrô Tử đạo. Các ngài được phúc Tử đạo dưới thời
hoàng đế Diocletiano.
Theo truyền thuyết, Marcellino là một Linh mục chuyên lo việc dạy giáo
lý và Rửa tội cho tân tòng. Ngài nhiệt thành dạy đạo và đem nhiều người
trở lại với Chúa, nên bị những kẻ thờ thần ganh ghét, tố cáo.
Còn Phêrô là một người trừ quỷ nổi tiếng ở La Mã. Thánh nhân đã cứu
nhiều người khỏi ma quỷ ám hại, do đó, họ tin theo Chúa.
Nhờ được ơn trừ quỷ, Thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại
cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Những người
phù thủy ghen tương vì bị mất quyền lợi. Thế là cả hai vị Thánh đều bị
tố giác, dưới thời hoàng đế Diocletiano bắt đạo. Tỉnh trưởng Serene ra
lệnh tống giám Ngài. Bạn ông là Antemi có đứa con gái bị quỷ ám. Nghe
biết Phêrô có quyền trừ quỷ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục thất để
gặp Thánh nhân. Gặp ông, Thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa
Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng Chúa không cứu nổi
Phêrô thì làm sao Thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi
quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì Thánh nhân đã có mặt ở nhà
Antemi. Cả gia đình Antemi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina, con gái
Antemi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antemi thành nơi tụ tập của các
tín hữu, Phêrô thường hay lui tới dạy đạo và Rửa tội cho các tân tòng.
Tức giận, Sereno ra lệnh hành hạ hai Thánh nhân một cách dã man rồi giam
ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các ngài cho chết. Tuy nhiên
Chúa đã giải thoát cho các ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng
được chịu phép Rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt
thoát này, Sereno ra lệnh giết cả gia đình ông.
Các ngài chịu thống khổ vì Chúa bao nhiêu, thì cũng được an ủi, được
phần thưởng lớn lao bấy nhiêu, như Linh mục Origene xác quyết: “các sự
thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng ta thế nào, thì nhờ Đức Kitô, sự
an ủi chúng tôi cũng được tràn đầy thế ấy. Nếu vậy, thì chúng ta hãy hăm
hở nhận lấy những sự thống khổ của Đức Kitô; và ước gì chúng tràn đến
trên chúng ta, nếu chúng ta muốn được đầy tràn an ủi, bởi vì ai khóc lóc
sẽ được an ủi, nhưng không bằng nhau cho hết mọi người đâu. Bởi vì, nếu
sự an ủi bằng nhau cho hết mọi người thì đã không có lời chép rằng: Các
sự thống khổ của Đức Kitô tràn đến chúng tôi thế nào thì sự an ủi chúng
tôi cũng được đầy tràn thế ấy.
Sự chia sẻ những thống khổ của Đức Kitô thì tương đương với sự thống khổ
mà họ chịu với Người. Điều này bạn hãy nghe Đấng đã nói rất tin tưởng
rằng: chúng tôi biết rằng anh em đã thông phần thống khổ thế nào, thì
cũng được thông phần an ủi thế ấy.
Các ngài bị hành hình khổ sở và giam trong ngục tối. Cuối cùng, khoảng
năm 304, hai Thánh Marcellino và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành
án quyết, đao phủ Dorote đã thấy linh hồn hai ngài bay về trời. Quá xúc
động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành Thánh. Còn xác hai Thánh
nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi Giáo Hội được sống trong an bình, hoàng đế Constantin cho xây trên
mộ hai ngài một đại Thánh Đường rất nguy nga trên con đường Via
Merulana, nằm giữa đại Thánh Đường Đức Bà Cả và Đền Thờ Laterano. Chính
nơi đây hoàng đế đã cho chôn cất mẹ ngài. Tên hai Thánh nhân đã được
nhắc đến trong lễ quy Roma.
Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai Thánh Tử đạo Marcellino và Phêrô cùng anh
dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng: Chúa
hằng gìn giữ che chở Giáo Hội. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con. Amen.
Nguồn: Hạnh Các Thánh
https://danchuahiepthong.wordpress.com/2017/06/02/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304/
Không có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo
Marcellino và Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.
Thánh Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại
cũng có nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng
Sêrênô ra lệnh tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ
ám. Nghe biết Phêrô có quyền trừ quỉ, ông giới thiệu bạn mình tới ngục
thất để gặp thánh nhân. Gặp ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào
Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa. Ông bực tức cho rằng: Chúa không
cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi con ông được. Rồi ngay đêm
ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì thánh nhân đã có
mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo. Paulina,
con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập
thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.
Tức giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam
ngục tối, nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên
Chúa đã giải thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng
được chịu phép rửa tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt
thoát này, Sêrênô ra lệnh giết cả gia đình ông.
Cuối cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi
hành án quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá
xúc động ông đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai
thánh nhân được chôn cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài
một thánh đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong
lễ quy Roma.
http://conggiao.info/thanh-marcellino-va-phero-tu-dao-304-d-16084
Ca hiệp lễ, lễ chung các thánh tử đạo có ghi:” Anh em đã một lòng gắn bó
với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp gian nan thử thách. Vì thế, Thầy sẽ
ban quyền cai trị cho anh em, để anh em được đồng bàn ăn
uống với Thầy, trên vương quốc của Thầy”( Lc 22, 28-30 ).
Thánh Marcellinô và Phêrô là những chứng nhân cho Chúa, đã đổ máu đào để
minh chứng cho tình yêu của Chúa.
THÁNH MARCELLINÔ VÀ THÁNH PHÊRÔ:
Lịch sử không ghi lại nhiều về hai thánh này, người ta chỉ biết rõ rằng
thánh Phêrô được đặc ân Chúa ban cho trừ quỉ, Ngài đã làm nhiều phép lạ
do tình thương của Chúa, xua trừ ma quỉ ra khỏi nhiều người bị chúng ám
hại. Tiếng tăm của Ngài được loan truyền khắp nơi, Ngài đã thu hút được
nhiều thành phần trong xã hội, có nhiều người mộ mến Ngài, nhưng cũng
lắm kẻ ghen ghét, ganh tỵ, hận thù Ngài vì Ngài được nhiều người quí
mến, yêu chuộng. Thánh nhân đã sống đúng lời Chúa:” Ai liều mất mạng
sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (
Mc 8, 35 ). Chính vì Ngài có ảnh hưởng rộng lớn và lôi cuốn được nhiều
người theo Chúa. Viên tỉnh trưởng Sérène bắt Ngài và ra
lệnh tống ngục Ngài. Trong tù, thánh nhân đã làm gương sáng: sống hiền
lành, khiêm nhượng, làm phép lạ và đời thánh thiện của Ngài đã làm cho
cả gia đình Antêmi trở lại theo Chúa do phép lạ thánh nhân đã chữa khỏi
bệnh cho con gái Antêmi.
Thánh Marcellinô cũng bị tống ngục vì tội rao giảng và tội làm phép lạ,
tội rửa tội cho nhiều tân tòng. Thánh nhân dù bị tù tội, dù bị tra tấn
dã man vẫn một lòng kiên trung rao giảng, dậy giáo lý và tiếp tục rửa
tội cho nhiều người. Tỉnh trưởng Sérène quá bực tức vì
tinh thần kiên cường của hai thánh nhân, nên đã dùng nhiều cực hình dã
man nhất, tàn bạo nhất hầu làm nhụt chí hai vị, nhưng” vàng thử lửa,
gian nan thử đức”. Hai vi thánh vẫn kiên trì theo Chúa và không hề nản
lòng, nhụt chí. Chúa đã sai các thiên thần ban đêm đến giải cứu các Ngài
để các Ngài củng cố niềm tin cho các tân tòng. Tỉnh trưởng Sérène nghi
ngờ Antêmi đã tiếp tay để thánh Phêrô và Marcellinô trốn ngục, nên đã hạ
lệnh giết cả gia đình của Antêmi.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG HAI THÁNH MARCELLINÔ và PHÊRÔ:
Thánh vịnh 33, 18 có viết:” Người công chính kêu xin, và Chúa đã nhận
lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn”. Thánh Marcellinô và Phêrô đã
được phúc tử đạo vào năm 304. Khi chém đầu các Ngài, tên đao phủ Đôrôtê
đã trông thấy linh hồn các Ngài bay về thiên quốc. Ông đã hối hận, xin
trở lại, chịu phép rửa và chết bình an trong tay Chúa.
“Lạy Chúa, khi ban ơn cho hai thánh tử đạo Marcellinô và Phêrô cùng anh
dũng tuyên xưng đức tin, Chúa đã cho chúng con nghiệm thấy rằng:” Chúa
luôn gìn giữ chở che Giáo Hội”. Vì lời hai thánh nguyện giúp cầu thay,
xin cho chúng con được bắt chước các Ngài luôn giữ vững niềm tin như thế
“( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Marcellinô và Phêrô tử đạo ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang6/Ngay2.htm
Thứ Sáu sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 25,
13-21
"Ðức Giêsu đã chết mà Phaolô quả
quyết là vẫn sống".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vua Agrippa và
Berni xuống Cêsarêa chào Phestô. Vì hai người lưu lại đó nhiều ngày, nên
Phestô đem chuyện Phaolô trình nhà vua rằng: "Ở đây có một người tù Phêlixê
để lại. Lúc tôi ở Giêrusalem, các thượng tế và kỳ lão Do-thái đã đến xin tôi
lên án hắn. Tôi đã trả lời với họ rằng: "Người Rôma không có thói quen lên
án người nào trước khi bị cáo đối diện với nguyên cáo, và có cơ hội bào chữa
để thanh minh tội mình". Vậy họ liền đến đây, ngày hôm sau tôi ngồi toà án,
truyền điệu bị cáo đến. Các nguyên cáo đều có mặt, nhưng không đưa ra một
tội trạng nào, như tôi đã ngờ trước; họ chỉ tố cáo hắn mấy điều về mê tín,
về một Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống. Ðang phân vân
về vấn đề ấy, tôi hỏi hắn có muốn đi Giêrusalem để được xét xử tại đó về các
điều ấy không. Nhưng Phaolô nại đến thẩm quyền của hoàng đế Augustô, nên tôi
đã truyền giữ hắn lại để nạp cho hoàng đế".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102,
1-2. 11-12. 19-20ab
Ðáp: Chúa thiết
lập ngai vàng Người ở cõi cao xanh (c. 19a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc
tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh
hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Cũng như trời xanh cao vượt trên
trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng
như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. -
Ðáp.
3) Chúa thiết lập ngai vàng Người ở
cõi cao xanh, và vương quyền Người phủ trị trên khắp muôn loài. Hãy chúc
tụng Chúa đi, chư vị thiên thần, dũng lực hùng anh, thi hành lời Chúa. -
Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy
sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui
mừng". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21,
15-19
"Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và
chiên con của Thầy"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các
môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: "Simon, con ông
Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?" Ông đáp: "Thưa Thầy:
Có, Thầy biết con yêu mến Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên
con của Thầy".
Người lại hỏi: "Simon, con ông Gioan,
con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến
Thầy". Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy".
Người hỏi ông lần thứ ba: "Simon, con
ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?" Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi
lần thứ ba "Con có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết mọi
sự: Thầy biết con yêu mến Thầy" Người bảo ông: "Con hãy chăn dắt các chiên
mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt
lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác
sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến". Chúa nói thế có
ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời
ấy đoạn, Người bảo ông: "Con hãy theo Thầy".
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
21:15-19)
"Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và
hỏi Simon Phêrô rằng: 'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những
người này không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy'.
Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy'. Người lại hỏi:
'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy: Có,
Thầy biết con yêu mến Thầy'. Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên con
của Thầy'. Người hỏi ông lần thứ ba: 'Simon, con ông Gioan, con có yêu mến
Thầy không?' Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba 'Con có yêu mến
Thầy không?' Ông đáp: 'Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến
Thầy'. Người bảo ông: 'Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy
bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc
ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con
và dẫn con đến nơi con không muốn đến'. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ
chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo
ông: 'Con hãy theo Thầy'".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần Linh trong bài Phúc Âm của Thứ Sáu Tuần VII Phục
Sinh hôm nay là ở chỗ: 1- lòng yêu mến Thày nơi Tông Đồ Phêrô, và 2- vai trò
thay Thày chăn đàn chiên của Thày và cho Thày. Thật vậy, nếu không yêu mến
Thày, không phải bằng một lòng yêu tầm thường, mà là bằng một
lòng yêu mến trổi vượt,
"hơn những người này",
tức là hơn các tông đồ khác, thì mới có khả
năng và đủ tư cách để thay
Thày chăn dắt đoàn chiên của Thày và chăn
dắt đàn chiên như
Thày.
Mà chăn
dắt đàn chiên của Thày như Thày đây nghĩa là gì, nếu không phải, như
Người đã tiên báo trong bài Phúc Âm hôm nay cho vị tông đồ sẽ đại diện Người
cai quản đàn chiên Giáo
Hội của
Người, đó là sẽ chịu chung số phận tử nạn giống
Thày:
"Thật,
Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu
mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra,
người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến'. Chúa
nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa".
Ở ngay câu tiên báo về số phận của tông đồ Phêrô, Chúa Giêsu đã cho thấy
trước linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ con người có thể chủ động làm được
gì cho Ngài theo ý mình:
"khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý", mà là
chính Thiên Chúa làm việc của Ngài qua con người và nhờ con người:
"nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra,
người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến",
miễn là con người tin tưởng phó thác mọi sự: "Con hãy theo Thày",
kể cả chính bản thân mình cho Ngài. "Người cần phải lớn lên còn tôi sẽ
phải nhỏ lại" (Gioan 3:30).
Linh đạo Kitô giáo là linh đạo ngược chiều với đường lối tự nhiên: ở chỗ,
thay vì trưởng thành, lớn lên thì lại phải càng nhỏ bé mới càng lớn trên
Nước Trời (xem Mathêu 18:4). Chúa Kitô sau 3 năm đi khắp nơi rao giảng và
làm phép lạ, cuối cùng đã trở thành bất lực trên thập tự giá, không thể
xuống khỏi thập giá đúng như lời thách thức đầy mỉa mai khinh bỉ của thành
phần đầu mục Do Thái, thì lại chính là lúc cứu độ, là lúc Thiên Chúa tỏ hết
mình ra nơi Người và qua Người. Các môn đệ được Người kêu gọi "hãy theo
Thày" cũng thế, theo đúng như nguyện vọng của Người:
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở
đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con".
Về
phần mình, cho dù biết trước thân phận của mình như thế, vì yêu Thày hơn ai
hết, nhất là sau 3 lần trắng trợn chối bỏ Người mà vẫn được Người thứ tha và
tin tưởng trao phó đàn chiên cao quí của Người cho mình, vị tông đồ này vẫn đáp ứng
lời kêu gọi của Thày:
"Con
hãy theo Thầy", trong việc đóng
vai trò là "vị mục tử tốt lành hiến mạng sống mình vì chiên" (Gioan
10:11) như Thày, một đàn
chiên không phải chỉ toàn dân Do Thái mà bao gồm cả dân ngoại trong đế quốc
Rôma bấy giờ, một đế quốc đã sát hại ngài tại chính thủ đô Rôma mà cho tới
nay đã trở Giáo đô của Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng.
Bài Phúc Âm hôm nay và ngày mai là hai bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn
đọc để kết thúc Mùa Phục Sinh về chủ đề "Thày là sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25). Hai bài Phúc Âm này của Thánh Gioan là những câu cuối cùng
của Phúc Âm Thánh Gioan. Tuy nhiên, nếu để ý chúng ta sẽ thấy đoạn cuối cùng
của các Phúc Âm nói chung và Phúc Âm Thánh Gioan nói riêng này không phải là
một két thúc đóng mà là một kết thúc mở, ở chỗ, hướng về tương lai, hướng về
Giáo Hội, hướng về truyền giáo, hướng về toàn thể thế giới nhân loại, hướng
về cánh chung (như bài Phúc Âm ngày mai của Thánh ký Gioan sẽ cho thấy).
Thật vậy, đáng lẽ sau 3 bài Phúc Âm cho Thứ Ba, Thứ Tư và Thứ Năm tuần VII
Phục Sinh này, theo Phúc Âm Thánh ký Gioan, đoạn 17 là đoạn về lời nguyện
của Chúa Kitô kết thúc Bữa Tiệc Ly, một lời nguyện bao gồm tất cả dự án cứu
độ và công cuộc cứu độ của Thiên Chúa, phụng vụ lời Chúa của chung Mùa Phục
Sinh đã kết thúc rồi mới phải.
Thế nhưng, Giáo Hội vẫn còn giành 2 bài Phúc Âm, cũng của Thánh ký Gioan, 2
bài Phúc Âm cuối cùng của vị thánh này, một liên quan đến tông đồ Phêrô (hôm
nay), và một liên quan đến tông đồ Gioan (ngày mai), để kết thúc phụng vụ
lời Chúa Mùa Phục Sinh, vì thật ra Mầu Nhiệm Chúa Kitô không kết thúc ở Mầu
Nhiệm Vượt Qua là Tử Giá (được Giáo Hội cử hành trong Tuần Thánh) và Phục
Sinh (được Giáo Hội cử hành trong Mùa Phục Sinh), mà ở Mầu Nhiệm Cánh Chung,
bao gồm cả Mầu Nhiệm Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, nơi Người "sẽ ở cùng
cho đến tận thế" (Mathêu 28:20) bằng chính Thánh Thần của Người từ Cha
sai đến trên các Tông Đồ vào Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, nhờ đó Người tiếp tục
tỏ mình ra cho chung nhân loại, "cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 1:8),
cho đến khi "Người lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Nước Người sẽ không bao giờ cùng".
Bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến Thánh Phêrô là thủ lãnh Giáo Hội, là chủ
chiên thay cho chính Chúa Kitô, một Chúa Kitô tiếp tục chẳng những chăn dắt
đàn chiên của mình, cả chiên nhỏ (là giáo dân - lamb) lẫn chiên lớn (bao gồm
cả hàng giáo sĩ - sheep, và giáo phẩm - sheep), nơi các vị giáo hoàng đại
diện của Người trên trần gian này, mà còn "hiến mạng sống mình vì
chiên... cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan
10:11,10) qua các ngài nữa, như Người đã báo trước cho tông đồ Phêrô trong
bài Phúc Âm hôm nay, vị tông đồ đã được Người gọi "hãy theo Thày"
để có thể tỏ Thày ra cho thế gian bằng chứng từ của lòng mến đã đạt tới độ
hiệp nhất nên một với Người "để thế gian tin rằng Cha đã sai Con"
(Gioan 17:23).
Bài Phúc Âm hôm nay còn chất chứa một câu Chúa Giêsu nói với tông đồ Phêrô
về số phần chứng nhân là: "Chúa
nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm
sáng danh Thiên Chúa", một câu đã cho
thấy ý nghĩa đích thực của những gì Người đã nguyện cùng Cha của Người ở Lời
Nguyện Hiến tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: "Con đã ban cho chúng
vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng
nên một như Chúng Ta là một". Đúng thế, chính lời kêu gọi của Chúa
Giêsu với vị chủ chăn tối cao đại diện Người trên trần gian là tông đồ
Phêrô: "Con hãy theo Thày" kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy
ý nghĩa đích thực về thân phận bất khả phân ly giữa Thày trò với nhau ở câu:
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn
rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng
vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha
đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian"
Ý nghĩa ấy là vinh hiển hay vinh dự của Người là Con Thiên Chúa cũng như
vinh quang hay vinh danh của thành phần môn đệ tông đồ của Người đó là trở
thành chứng từ của Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra, qua Con cũng như qua những
ai "thuộc về Cha" và "là của Cha" mà "Cha đã ban cho Con trên thế gian", để
nhờ đó Ngài được vinh hiển, ở chỗ được thế gian nhận biết mà hoàn thành ý
muốn cứu độ tối cao của Ngài trong việc tạo dựng nên con người theo hình ảnh
thần linh như Ngài và tương tự như Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-27): "Con
không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời
chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con
ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã
sai Con".
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 25:13-21)
"Trong những ngày ấy, vua Agrippa và Berni xuống Cêsarêa chào
Phestô. Vì hai người lưu lại đó nhiều ngày, nên Phestô đem chuyện Phaolô
trình nhà vua rằng: 'Ở đây có một người tù Phêlixê để lại. Lúc tôi ở
Giêrusalem, các thượng tế và kỳ lão Do-thái đã đến xin tôi lên án hắn. Tôi
đã trả lời với họ rằng: 'Người Rôma không có thói quen lên án người nào
trước khi bị cáo đối diện với nguyên cáo, và có cơ hội bào chữa để thanh
minh tội mình'. Vậy họ liền đến đây, ngày hôm sau tôi ngồi toà án, truyền
điệu bị cáo đến. Các nguyên cáo đều có mặt, nhưng không đưa ra một tội trạng
nào, như tôi đã ngờ trước; họ chỉ tố cáo hắn mấy điều về mê tín, về một
Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống. Ðang phân vân về vấn
đề ấy, tôi hỏi hắn có muốn đi Giêrusalem để được xét xử tại đó về các điều
ấy không. Nhưng Phaolô nại đến thẩm quyền của hoàng đế Augustô, nên tôi đã
truyền giữ hắn lại để nạp cho hoàng đế'".
Trong bài đọc
1 hôm nay, Thánh ký Luca chỉ thuật lại lời của nhân vật Phesto của đế quốc
Rôma ngỏ cùng vua Agrippa về trường hợp của bị cáo Phaolô, mà nguyên cáo của
bị cáo này "chỉ
tố cáo hắn về
mê tín, về một Giêsu nào đó đã chết mà Phaolô quả quyết là vẫn sống".
Đây là chi tiết cho thấy tất
cả chứng
từ của vị tông đồ dân ngoại này là một Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã tỏ mình
ra cho ngài trên đường ngài đang rong ruỗi bắt bớ Kitô hữu, và là Đấng đã
làm cho ngài sáng mắt ra bằng quyền năng phục sinh của mình để biến đổi ngài
thành "ánh sáng chư dân, thành phương tiện cứu độ cho đến
tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47).
Thế nhưng vị
tông đồ dân ngoại này sẽ không thể nào hoàn thành sứ vụ vô cùng khó khăn đầy
khổ nạn của mình nếu không Hiệp Nhất Thần Linh với Đấng đã tuyển chọn mình
và sai mình đi. Đến độ, ngài đã cảm nghiệm thấy rằng: "sự sống tôi đang
sống đây không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata
2:20).
Ngày 3 tháng 6
Thánh Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn, tử đạo
lễ nhớ bắt buộc
Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng
Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó
chỉ mới là Ki-tô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được thánh
Ca-rô-lô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị
bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (năm 1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu
đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.
Bài đọc 2
Các vị tử đạo Phi Châu này đã thêm một trang mới vào Danh Bộ Các Thánh
Tử Đạo, vào cuốn sổ ghi tên những người chiến thắng. Trang sách đó cho
thấy những sự việc vừa bi thảm, lại vừa cao đẹp. Chúng tôi coi đó là
trang sử xứng đáng tiếp nối những bài tường thuật hiển hách về Châu Phi
ngày xưa. Chúng ta, những con người của thời đại hôm nay, những người
kém lòng tin, chúng ta vẫn tưởng rằng sẽ không bao giờ lại có những
trang sử hùng tráng như xưa.
Thánh Âu-tinh và nhà thơ Pơ-ru-đen-xi-ô đã kể lại những thành tích đầy
xúc động của các vị tử đạo ở Si-li-um, ở Các-tha-gô, và của các vị tử
đạo trong “Đoàn Người Trắng thành U-ti-ca” (300 vị chết trong hầm vôi
đang sôi). Thánh Gio-an Kim Khẩu thì hết lời tán dương các vị tử đạo
Ai-cập. Những thành tích của tất cả các vị vừa được nhắc đến cùng với
thành tích của các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người
Văng-đan xưa, ai có thể ngờ rằng thời nay lại được tiếp nối bởi những
câu chuyện mới không kém nét hào hùng, không kém phần hiển hách.
Phi Châu ngày xưa có các vị đại tử đạo và các bậc chứng nhân đức tin,
những nhân vật nghìn năm không quên như thánh Síp-ri-a-nô, thánh
Phê-li-xi-ta, thánh Pe-pê-tu-a, và nhất là thánh cả Âu-tinh. Trước đây,
ai có thể tiên đoán rằng sau các vị đó sẽ có ngày chúng ta còn được kể
thêm danh tánh rất thân thương của thánh Ca-rô-lô Loan-ga, thánh
Mát-thi-a Mu-lum-ba, thánh Ca-lem-ba và hai mươi đồng bạn tử đạo. Cả
những vị thuộc Giáo Hội Anh Giáo đã chịu chết vì danh Đức Ki-tô cũng cần
phải được nêu danh nữa.
Các thánh tử đạo Phi Châu nói đây đã mở đầu một kỷ nguyên mới, không
phải là kỷ nguyên bách hại và tranh chấp, nhưng là kỷ nguyên tái sinh về
cả hai mặt đạo cũng như đời.
Phi Châu đã được tưới gội bằng máu của các vị tử đạo mới này, những vị
tử đạo đầu tiên trong kỷ nguyên chúng ta -ước chi cũng là những vị cuối
cùng, vì lễ toàn thiêu của các ngài cao quý và đắt giá biết bao !- Phi
châu đã được tự do và độc lập. Quả thật, Phi châu đang tái sinh.
Người ta đã nghiền nát các ngài một cách tàn bạo. Thật khủng khiếp,
nhưng cũng đầy ý nghĩa, vì sự tàn bạo đó ai cũng thấy là đã làm phát
sinh những động lực mạnh mẽ khiến hình thành một dân mới -mới về phương
diện đạo đức-. Một nếp sống tinh thần mới phải được kiến tạo để truyền
lại cho hậu thế. Nếp sống đó phải là một biểu tượng nói lên sự chuyển
biến và phải chuyển biến thật sự. Trước đây là một lối sống đơn sơ mộc
mạc, tuy không thiếu những giá trị nhân bản đáng quý, nhưng người ta lại
bị ràng buộc trong tình trạng nô lệ chính mình, khiến cho lối sống đó
không còn đáng trọng, không đứng vững được nữa. Nay phải bước qua một
nền văn minh hướng tới những biểu lộ cao quý nhất của tinh thần con
người, tới những hình thái thượng đẳng của cuộc sống xã hội.
THÁNH CARÔLÔ LWANGA và CÁC BẠN TỬ ĐẠO, (St. Charles Lwanga)
Ngày 03/6
Kitô giáo còn hoàn toàn mới lạ đối với Phi châu cho tới khi việc truyền
bá đạo Công giáo bắt đầu khai mào từ năm 1879. Các linh mục là những tu
sĩ dòng Thừa Sai Phi Châu. Các ngài được mọi người biết đến dưới tước
hiệu “các cha áo trắng” vì các ngài mang bộ tu phục màu trắng. Vua
Mwanga chẳng biết Kitô giáo rao giảng những gì nhưng ông cảm thấy bực
mình khi một tín hữu Công giáo là Giuse Mkasa khiển trách lối sống của
ông. Vua đã sát hại một nhóm Kitô hữu và cả vị giám mục thân yêu của họ.
Vua cũng can dự vào sinh hoạt đồng tính luyến ái. Ông đặc biệt ưa thích
các chú tiểu đồng. Rồi sự bực mình của vua Mwanga trở nên phẫn nộ và căm
thù đối với Giuse Mkasa và tôn giáo của anh. Một số giới chức tham tham
của nhà vua đã kích động tâm trạng vua với những lời xu nịnh gian trá.
Thế là vào ngày 18 tháng Mười Một năm 1885, Giuse Mkasa bị đem ra xử
trảm. Cuộc bách hại khủng bố bắt đầu. Trước khi nó kết thúc, hàng trăm
người đã bị thiệt mạng. Hai mươi hai người trong số họ được tôn phong
lên bậc hiển thánh.
Với cái chết của Giuse Mkasa, Carôlô Lwanga trở thành thầy dạy đạo chính
yếu cho các chú tiểu đồng của vua. Vào ngày 26 tháng Năm năm 1886, vua
Mwanga nhận thấy một số tiểu đồng của ông là tín hữu Công giáo. Ông cho
gọi Đênis Sêbugwawo vào. Ông hỏi có phải Đênis đã dạy đạo cho các tiểu
đồng không. Đênis trả lời phải. Nhà vua liền chụp lấy ngọn giáo của mình
và phóng xuyên qua cổ họng chàng thanh niên. Rồi ông la lớn tiếng không
cho phép ai được rời khỏi tổng hành dinh của ông. Tiếng trống đấu tranh
vang lên thâu đêm. Trong một căn phòng kín ẩn, Carôlô Lwanga đã bí mật
rửa tội cho bốn chú tiểu đồng. Một em trong bọn trẻ là thánh Kizitô, chú
bé mười ba tuổi có tính tình vui tươi quảng đại. Kizitô là người bé nhất
trong nhóm. Thánh Carôlô Lwanga thường hay bảo vệ Kizitô thoát khỏi lòng
ham muốn dâm dật của vua Mwanga.
Hầu như hai mươi hai vị thánh tử đạo Uganđa này đã bị giết chết vào cùng
ngày mùng 3 tháng Sáu năm 1886. Các ngài bị bắt đi bộ chừng năm mươi
chín cây số đến nơi hành quyết. Sau ít ngày bị giam tù, người ta ném các
ngài vào một đống lửa lớn. Mười bảy người trong số ấy là những chú tiểu
đồng thuộc vương gia. Một trong các cậu bé tử đạo là thánh Mbaga. Hôm ấy
chính thân phụ ngài là người đao phủ. Một vị tử đạo khác là thánh Anrê
Kagwa, mất ngày 27 tháng Giêng năm 1887, cũng ở trong số hai mươi hai vị
tử đạo được đức thánh cha Phaolô VI tôn phong lên bậc hiển thánh năm
1964.
Carôlô
Lwanga là thánh bổn mạng của giới trẻ da mầu Phi châu. Ngài và các bạn
tử đạo đã hết sức hiểu rõ và quý trọng ơn đức tin của mình. Các ngài đã
là những anh hùng! Chúng ta hết thảy hãy cầu xin cùng thánh Carôlô
Lwanga và các thánh tử đạo Phi châu này. Hãy xin các ngài chỉ cho chúng
ta biết cách làm chứng cho Đức Chúa Giêsu và Giáo hội như các ngài.
http://giaophanvinhlong.net/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao.html
Dân da đen sống ở miền Ouganda, Trung Phi
thuở ấy chưa hề nghe đến tên Chúa. Ma quỷ còn thống trị họ với mọi
thứ phù phép. Họ chém giết lẫn nhau và ăn thịt nhau nữa. Trẻ em bị
bỏ rơi. Đàn bà bị coi như thú vật phải làm việc mệt nhọc và bị sát
hại theo sở thích của đàn ông.
Ngày kia hai cha thừa sai Lourdel và Livinhac đến với họ sau một
cuộc hành trình đầy cực khổ. Các Ngài đến gặp nhà vua trong chòi của
ông và buổi đầu mọi sự tốt đẹp. Các Ngài tận tụy phục vụ.
Dân da đen đã không bao giờ tưởng tượng được điều các vị thừa sai
nói cho lại là điều tốt đẹp như vậy: Họ có một người cha trên trời
đã yêu thương họ đến nỗi đã ban con mình là Chúa Giêsu đến cứu chuộc
họ, và Chúa Giêsu lại chết trên thánh giá đã họ được về trời với
Người, như thế họ lại không yêu mến vâng phục Người để được gặp lại
Người trong hạnh phúc bất tận sao? Để được như vậy, họ quyết yêu
thương nhau theo luật Chúa để nên tốt hơn. Khi đã cố gắng lãnh phép
Rửa tội. Chúa Giêsu đổ tràn ơn thánh vào trong lòng họ và kết hợp
với họ trong Bàn tiệc Thánh Thể.
Nhà Vua cũng rất thích điều các Cha nói. Những điều các Ngài rao
giảng làm cho các phù thủy và bọn người Ả rập buôn người giận dữ.
Một thị động bị vu oan và bị thiêu sống. Anh ta xin được rửa tội và
đã can đảm chịu cực hình, các nhà thừa sai cảm thấy cơn bách hại đã
đến nên vội rửa tội cho những người đã được chuẩn bị rồi rút lui với
một số trẻ em các Ngài đã chuộc lại được. Các Ngài rút lui về bờ hồ
phía nam, là nơi bệnh đậu mùa đang giết hại rất nhiều người. Số đông
trẻ em sắp chết đều được rửa tội.
Các Ngài nói với một em bé 9 tuổi: Hãy cầu nguyện xin Chúa Giêsu cứu
chữa con. Nhưng em bé trả lời: – Bây giờ được làm con Thiên Chúa,
con không sợ chết nữa.
Được ba năm, nhà vua qua đời, các vị thừa sai trở lại, dân chúng
mừng rỡ. Dân được rửa tội trước đã rửa tội cho nhiều người khác nữa.
Việc tông đồ khởi sắc nhưng một viên chức của Tân vương đã gieo nghi
ngờ đối với các thành quả của các Kitô hữu, nhất là đối với Giuse
Mukasa, thủ lãnh các thị đồng, người đã chống lại sự vô luân của
ông. Ông ta tâu vua rằng: các Kitô hữu mưu chiếm ngôi vua. Các phủ
thủy bảo rằng bọn khởi xướng phải chết. Vua tin họ và Giuse bị thiêu
sống. Lý hình muốn trói Ngài lại nhưng Ngài nói: – Tôi chết vì đạo
mà lại tìm cách thoát thân sao? Một Kitô hữu không có sợ chết đâu.
Nhà vua nghĩ rằng bản án nầy sẽ làm cho các Kitô hữu khiếp sợ. Trái
lại, ngày càng có nhiều người theo đạo. Khi đi săn về, ông gọi tiểu
đồng Mwafou 14 tuổi lại, và khi biết rằng em đang học đạo với một
thiếu niên tên là Denis, ông truyền dẫn Denis lại, la lớn:
Tên nô lệ khốn khiếp, ngươi dạy đạo hả? Và ông dùng lưỡi dao tẩm
thuốc độc hạ sát Denis.
Giận dữ đi ra, ông gặp Honôrat và hỏi: – Mày cũng là Kitô hữu hả? –
Phải.
Và Hônôrat bị tra khảo, bị xẻ thịt. Bấy giờ vua khám phá ra một tân
tòng là Giacôbê và tra gông vào cổ. Về nhà ông thúc trống tập họp
các đao phủ lại. Bọn đao phủ và các phù thủy nhảy múa như được thoát
khỏi ngục. Ngược lại tại các nhà thị đồng quang cảnh như thần tiên.
Carôlô Lwanga, chiến sĩ anh dũng nhất của triều đình đã rửa tội cho
em bé Kizitô và ba trẻ em khác, dọn mình cho các em chịu chết cách
thánh thiện.
Ngày 28 tháng 5, nhà vua truyền thiêu sống các thị đồng dám cầu
nguyện. Mwa-Ga là con một đao phủ. Ba em khẩn khoản xin em trốn đi,
nhưng em từ chối. Một chiến sĩ Kitô giáo nói với vua: – Con lên trời
và cầu nguyện cho Đức Vua.
Các phạm nhân mạnh dạn tiến đi chịu khổ hình, gặp Pontianô tên đao
phủ hỏi anh: – Mày biết cầu nguyện không?
Vừa trả lời "biết" Pontianô bị chém đầu ngay. Những người khác nói:
– Ở trên trời Pontianô sẽ cầu nguyện cho chúng ta được can đảm chịu
chết.
Các vị tử đạo bị kềm cứng trong gông cùm trong khi người con của đao
phủ bị ép đến với cha mẹ. Họ phải đợi sáu ngày để chuẩn bị giàn
thiêu, đã đến ngày xử, Mwaga nhảy xổ đến nhập bọn tại pháp trường,
các vị tử đạo nói với nhau: – Chính tại nơi đây chúng mình được thấy
Thiên Chúa.
Các Ngài bị đặt trên các tấm phên như những cây đuốc sống. Người ta
đốt chân các vị tử đạo để mong các Ngài thôi cầu nguyện, nhưng các
Ngài đã trả lời: – Còn sống, chúng tôi sẽ không ngừng cầu nguyện.
Một phù thủy nói với các Ngài: Thiên Chúa sẽ không giải thoát các
Ngài đâu. Brunô trả lời: – Ông không đốt cháy linh hồn chúng tôi
được đâu, nhưng nó sẽ bay lên thiên đàng.
Giàn thiêu được đốt lên. Lời kinh lạy cha của các thánh còn vượt
trên những tiếng la hét man rợ và những tiếng nổ lốp đốp của lò lửa.
Người ta biết được là các Ngài đã chết khi hết nghe tiếng các Ngài
cầu nguyện.
Ông vua da đen tự nhiên chắc rằng sau tội ác này, chẳng còn bóng
dáng Kitô hữu nào trong xứ sở của ông nữa. Nhưng ngày nay, Ouganda
có hơn nửa triệu tín hữu.
“ Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc,
dành sẵn cho các ngươi, ngay từ lúc tạo thành trời đất”( Mt 25, 34
).Thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo đã làm cho Hội Thánh Ouganda
càng lúc càng phát triển. Các Ngài xứng đáng lãnh nhận triều thiên
trên trời.
HỘI THÁNH OUGANDA ĐƯỢC LỚN LÊN NHỜ MÁU CÁC THÁNH CARÔLÔ LWANGA và
CÁC BẠN TỬ ĐẠO: “ Máu của các Kitô
hữu làm nẩy sinh Giáo Hội” hay “ Máu vị tử đạo là hạt giống của các
Kitô hữu”. Thánh Carôlô Lwanga luôn khích lệ, động viên các bạn kiên
cường, tuyên xưng danh Chúa dẫu có phải hy sinh tới cả mạng sống của
mình. Các thánh tử đạo Ouganda thuộc mọi lứa tuổi: có vị như
Matthias mới lên 5 tuổi, thánh Kitô mới có 13 và các vị khác lớn hơn
từ 16 tới 24 tuổi đời. Các Ngài đã hy sinh thí mạng sống của mình,
đã đi con đường đức tin, con đường thập giá, con đường tình yêu như
Thầy chí thánh Giêsu, những hình phạt như ném đá, voi dày, đòn vọt,
gông cùm, xiềng xích không làm chùn bước các Ngài. Các Ngài đã cảm
nghiệm sâu xa lời của Chúa:”Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì
khác, ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào
thập giá”( 1Co 2, 2 ) . Hai mươi hai thánh tử đạo Ouganda trong đó
có bốn vị chưa được chịu phép rửa tội, thánh Carôlô đã động viên,
dậy dỗ và rửa tội cho họ trước khi các Ngài được phúc tử đạo. Hội
Thánh Ouganda chỉ thực sự được phát triển và lớn mạnh nhờ máu của
các vị tử đạo mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
CHÚA THƯỞNG CÔNG CÁC NGÀI:
Cảm nghiệm sâu xa lời sách khải huyền:” Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả
cây sự sống, trồng ở trên thiên đàng của Thiên Chúa”( Kh 2, 7 ).
Thánh Carôlô Lwanga và hai mươi mốt bạn được phúc tử đạo, đã lãnh
triều thiên nước trời. Chúa thưởng công các Ngài, Giáo Hội trần thế
tôn vinh các Ngài. “Lạy Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nẩy sinh
thêm nhiều Kitô hữu. Xin cho máu của thánh Carôlô Lwanga và các bạn
đã tưới xuống cánh đồng Hội Thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”(
Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Carôlô Lwanga và các bạn tử đạo ).
https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-carolo-lwanga-va-cac-ban-tu-dao-0306.html
Gương thánh nhân: Năm 1880, giữa lúc
dân nước U-găn-đa còn sống trong lầm lạc, thờ lạy bụt thần, thánh
Ca-rô-lô Loan-ga và các bạn đã đem đạo Chúa đến cho họ.
Lúc đầu, nhà vua rất vui mừng đón tiếp và sẵn sàng ủng hộ ngài. Nhờ đó,
thánh nhân được tự do đi khắp nơi rao giảng cho mọi người biết Chúa. Dân
chúng rất cảm kích khi nghe Ngài nói đến sự thương khó và cuộc tử nạn
của Chúa Giêsu. Họ không thể tưởng tượng được một vị Chúa cả vì thương
họ đã bỏ trời sinh xuống làm người nghèo khổ như họ, và chịu chết đóng
đinh khổ nục trên thập giá để cứu rỗi họ, đem hạnh phúc đến cho họ. Từ
đó họ hết lòng thương mến Chúa và xin lãnh nhận bí tích rửa tội, để thờ
kính Đấng đã hết lòng thương mến họ.
Thấy thế, các thầy phù thuỷ và
buôn bán nô lệ ghen tức, vì họ bị mất ảnh hưởng, quyền lợi. Họ tố cáo
với nhà vua là những người theo đạo Thiên Chúa mưu phản. Sẵn lúc đó, nhà
vua đang bực tức vì những người có đạo chỉ trích đời sống vô luân của
ông ta. Thế nên ông ta ra lệnh bắt Ca-rô-lô và 18 người Công giáo. Và để
cho dân chúng khiếp sợ không còn ai dám theo đạo nữa, ông ta kết án
thiêu sống thánh nhân cùng với những người bị bắt. Nhưng thay vì làm cho
đạo Chúa bị bế tắc, ông đã giúp cho Châu Phi mở ra một kỷ nguyên mới:”
Kỳ nguyên tái sinh về phương diện Tôn giáo
và xã hội”, như lời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, vì máu các thánh tử
đạo là hạt giống sinh ra người có đạo. Chúng ta hãy nghe
lời Đức Giáo Hoàng nói, trong dịp lễ phong thánh cho thánh Ca-rô-lo-
Loan-ga và các bạn của Ngài:
“Ai có thể đoán được rằng tiếp theo các thánh tử đạo và tu sĩ thời danh
ngày xưa ơ Phi châu như: Síp-ri-a-nô, Fê-li-xi-ta và Pê-pê-tu-a, nhất là
thánh Aâu-tinh, ngày nay lại có những vị thời danh như Ca-rô-lô-
Loan-ga, Mát-thi-a Mô-lum-ba, Ca-len-ba cùng với 20 đồng bạn tử đạo
người công giáo. Ta cũng không thể quên những vị khác thuộc Anh giáo đã
dám bỏ mạng mình vì danh Chúa Kitô. Các vị tử đạo này của Châu Phi mở ra
một kỷ nguyên mới…dĩ nhiên không nên nghĩ là kỷ nguyên cấm đạo và đàn áp
tôn giáo mà là kỷ nguyên tái sinh về phương diện tôn giáo và xã hội.
Được tưới gội bằng máu của các thánh tử đạo mới này, những tử đạo đầu
tiên của thời đại mới ( và ước gí là những tử đạo cuối cùng, vì lẽ, lễ
hy sinh của các Ngài thật cao quý! ) một Phi Châu tự do và độc lập đang
được tái sinh.
Sự chết bi thảm của các ngài thật quá lạ lùng
và ý nghĩa, đến nỗi có thể tìm thấy ở đó đủ những bài học, để kiến tạo
một dân mới
về lòng đạo đức: xây dựng một truyền thống tinh thần mới để truyền lại
cho hậu thế, một truyền thống đủ khả năng tượng trưng diễn tả và đem lại
một tiến bộ cho dân tộc, đi từ một nền vănhoá thô
sơ có nhiều giá trị nhân bản cao quý, nhưng cũng không tránh khỏi còn
hoen ố nhược điểm và phần nào đang đóng kín, hẹp hòi, để tiến tới một
nếp sống chân chính cởi mở, thuận lợi cho tinh thần con người có được
những bộc lộ cao thượng hơn, và cuộc sống xã hội có được những hình thức
cao cấp hơn.”
Quyết tâm:Noi
gương thánh Ca-rô-lôLoan-ga, tôi sẵn sàng chịu gian nan khốn khó, để đem
Chúa đến cho những người chưa biết Chúa và để làm chứng đạo Chúa là đạo
thật.
Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho máu
thánh tử đạo làm nảy sinh nhiều Kitô hữu, xin cho máu thánh Loan-ga và
các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi
dào.
http://giaoxutanviet.com/ngay-3-thang-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao/
1. Ghi nhận lịch sử – Phụng Vụ
Người ta ấn định ngày này để nhớ đến 22 vị thánh tử đạo Châu Phi da
đen, bị giết tại Ouganda giữa 26 tháng 5; 3 tháng 6 năm 1886; và 27
tháng 1 năm 1887. Ngày 3 tháng 6 nhắc lại cuộc tử đạo của Thánh
Charles Lwanga và 12 bạn chịu thiêu sống sau khi chịu nhiều cực hình
khủng khiếp, tại Rubaga (03.06.1886). Các ngài là những của lễ hy tế
đầu tiên trong cuộc bách hại do Mwanga chủ xướng. Ông là vị vua thâm
độc và khát máu trong miền Đại Hồ (Grands Lacs). Các ngài được Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XV phong chân phước năm 1920 và được Đức Phaolô
VI phong hiển thánh năm 1964, nhân chuyến viếng thăm của ngài tại
Châu Phi.
Ouganda trước tiên được các linh mục Hội truyền giáo Châu Phi (Pères
Blancs) rao giảng Tin Mừng năm 1879. Năm 1882, họ bị đuổi khỏi nơi
này, nhưng hai năm sau họ trở lại theo lời yêu cầu của vua Mwanga.
Sau đó, chính ông lại bách hại các Kitô hữu hết sức tàn bạo.
Để trả thù, một viên chức bị bắt trong khi âm mưu chống vua Mwanga
đã thúc đẩy vua trước hết giết một số Kitô hữu và giám mục Anh Giáo
Hannington (1885), bị cáo gian làm gián điệp. Sau đó vua sai chém
đầu Joseph Mukusu, trưởng đội những người phục vụ. Họ bị cáo là “những
người cầu nguyện”
(17 tháng 11 năm 1885).
Charles Lwanga là người đầu bếp mới của triều đình, đã chuẩn bị cho
mười hai bạn được phúc tử đạo. Sau khi bị kết án tử hình, các ngài
bị dẫn đến địa điểm hành hình ở Kampala. Trong lúc đó, người bạn của
vua là André Kagwa, bị chặt đầu rồi hỏa thiêu. Hôm sau, một nhân vật
nổi tiếng khác cũng bị giết cách tàn bạo, đó là Matthias K.Mulumba.
Các văn kiện của vụ án phong thánh đều ví Matthias K. Mulumba như “đoá
hoa đẹp nhất trên chiếc triều thiên”
của các thánh tử đạo này.
Sau khi trở lại đạo và chịu phép thánh tẩy, ngài không còn quan tâm
đến các danh vọng bổng lộc ban cho ngài với tư cách là nhân vật cao
cấp trong triều, ngài nói: “Tôi không phải là một người nô lệ, nô lệ
của Đức Giêsu Kitô sao ?”
Sau vài ngày cần thiết chờ đợi để chuẩn bị ra pháp trường và trong
khi vài kiếm đồng đã bị giết chết dọc đường, người ta xiềng xích các
tù nhân. Người đầu tiên phải lên giàn hỏa thiêu là Charles Lwanga.
Rồi những người khác, lần lượt bị thiêu sống. Trong nhóm họ có con
trai của người trưởng toán lý hình. Anh không chấp nhận được tha
bổng và trả lời cha: “Vua
đã ra lệnh cho cha phải giết con. Con muốn chết vì Đức Giêsu Kitô”.
Jean-Marie Jamari được mệnh danh là bậc “tiền
bối” do
bởi dáng vẻ oai nghi trang trọng và luôn sẵn sàng giúp đỡ người thân
cận, hai năm sau cũng bước theo các bạn tử đạo của mình; ngài bị
nhấn chìm trong hồ ngày 27 tháng 1 năm 1887.
Do đó, thật xứng đáng khi Đức Piô XI công bố Charles Lwanga là thánh
Bảo Trợ cho Công Giáo Tiến Hành và giới trẻ châu Phi.
2.
Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện trong ngày lễ được mở đầu bởi câu nói danh tiếng của
Tertullien, cũng là một giáo dân châu Phi: “Lạy
Chúa, Chúa đã cho máu tử đạo làm nảy sinh thêm nhiều Kitô hữu...”
và lời nguyện tiếp theo:
“Xin cho máu của thánh Lwanga và các bạn đã tưới xuống cánh đồng Hội
thánh cũng đem lại một mùa lúa dồi dào”.
Nhân chuyến hành hương sang châu Phi năm 1964, Đức Phaolô VI đã cử
hành Thánh lễ phong thánh trên các hũ đựng di hài các thánh tử đạo.
Như thế Ngài lặp lại truyền thống của thánh Cyprien là cử hành hy tế
Tạ Ơn trên các mộ thánh tử đạo thành Carthage. Như để nhấn mạnh câu
nói danh tiếng của Tertullien, Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng các tân
thánh tử đạo này của châu Phi như thêm một mắc xích mới vào chuỗi
các vị tử đạo của châu Phi xưa: “Thánh Augustinô và nhà thơ Prudence
đã kể lại những thành tích đầy xúc động của các vị tử đạo ở
Scillium, ở Carthage, và của các vị tử đạo trong “Đoàn Người Trắng
thành Utique” (300 vị chết trong hầm vôi đang sôi). Thánh Gioan Kim
Khẩu hết lời tán dương các vị tử đạo Ai-cập, cùng với thành tích của
các vị tử đạo trong cuộc bách hại của những người Vandales xưa…”
b. Lời nguyện trên lễ vật gợi lại việc các thánh tử đạo trẻ tuổi đã
từ chối và chống lại những lời khiếm nhã của Đức vua, họ thà chết
hơn là phạm tội. Như thế, họ làm sống dậy các hành vi và cử chỉ của
các thánh tử đạo vào những thế kỷ đầu tiên trong lòng Giáo hội trẻ
trung vừa được rao giảng Tin Mừng từ thế kỷ XIX.
c. Lời nguyện hiệp lễ giúp chúng ta nắm được ý nghĩa hiện thực của
ngày lễ nhớ các thánh tử đạo Ouganda. “Chính
trong hy lễ Tạ Ơn mà các ngài đã tìm được sự dũng cảm để chịu đựng
các nỗi cực hình”.
Chúng ta cũng thế, giữa muôn vàn thử thách, chúng ta sẽ nhận lấy,
trong mầu nhiệm hy lễ Tạ Ơn, một niềm tin và lòng bác ái tinh tuyền,
không khiếm khuyết.
Enzo Lodi
Nguồn: https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/11592-ngay-03-6-thanh-ca-ro-lo-loan-ga-va-cac-ban-tu-dao-1886-1887.html
Thứ Bảy sau Chúa
Nhật VII Phục Sinh
Bài Ðọc I: Cv 28,
16-20. 30-31
"Ngài ở lại Rôma, rao giảng nước
Thiên Chúa".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi chúng tôi đến Rôma, Phaolô được
phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba hôm, ngài mời các đầu mục người
Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ: "Thưa anh em, dầu tôi đây không
làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ tiên, mà tôi đã bị bắt tại
Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi đã điều tra, họ muốn thả tôi
vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người Do-thái chống lại, nên tôi
buộc lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải là tôi có gì kiện cáo dân
tôi. Do đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện: Chính vì niềm hy vọng của
Israel mà tôi phải mang xiềng xích này".
Suốt hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã
thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa
và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một cách dạn dĩ, không có ai ngăn
cấm.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 10, 5. 6
và 8
Ðáp: Lạy Chúa,
người chính trực sẽ nhìn thấy tôn nhan Chúa (c. 8b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa kiểm soát người hiền
đức, kẻ ác nhân, ai chuộng điều ác, thì linh hồn Người ghét bỏ. - Ðáp.
2) Trên lũ tội nhân Người làm mưa than
đỏ diêm sinh, và phần chén của chúng là luồng gió lửa. Bởi Chúa công minh,
nên Người thích chuyện công minh, người chính trực sẽ nhìn thấy thiên nhan.
- Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 16
Alleluia, alleluia! - Thánh Thần sẽ
dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói
với các con. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21,
20-25
"Chính môn đệ này làm chứng về
những việc đó và đã viết ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ
Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn
tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó,
Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu
Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần
con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không
chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ
nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến
con".
Chính môn đệ này làm chứng về những
việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật.
Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi
thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
Ðó là lời Chúa.
Phúc Âm (Gioan
21:20-25)
"Khi
ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người
nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi 'Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp
Thầy?' Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: 'Còn người này thì
sao?' Chúa Giêsu đáp: 'Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến
thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy'. Vì thế, có tiếng đồn trong anh
em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: 'Nó sẽ
không chết', mà Người chỉ nói: 'Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi
Thầy đến thì việc gì đến con'. Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó
và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều
việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng
cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần Linh trong bài
Phúc Âm của ngày Thứ Bảy của Tuần VII Phục Sinh hôm nay, thời điểm áp Đại Lễ
Thánh Thần Hiện Xuống, không còn liên quan đến Tông Đồ Phêrô là đại diện
Chúa Kitô trong việc chăn dắt đàn chiên của Người và chăn dắt thay
Người nhưng chăn
dắt như
Người, mà
liên quan đến "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu", một người môn đệ
theo như lời Chúa Giêsu nói với Tông Đồ Phêrô thì "nó
cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến".
Ở đây chính Thánh ký Gioan là
"người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" đã
chú thích câu nói trên đây của Chúa Giêsu rằng: "Nhưng
Chúa Giêsu không nói với Phêrô: 'Nó sẽ không chết'", nghĩa
là người môn đệ này vẫn chết như thường về thể lý, (theo lịch
sử thì vào khoảng năm 100 AD), nhưng
không chết một cách tử đạo như Tông Đồ Phêrô là người sau khi được Thày báo
trước cho biết về số phận của mình đã lên tiếng hỏi về số phận của tông đồ
Gioan: "Còn
người này thì sao?".
Sở dĩ
Tông Đồ Gioan không chết tử đạo như tất cả mọi tông đồ
khác không
trừ vị nào là vì ngài đã tử đạo rồi khi cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân
thập giá Chúa Kitô (xem Gioan 19:25). Có thể nói ngài là tiêu biểu cho chính
Giáo Hội đã được Chúa Kitô trên cây thập giá trao phó cho Mẹ Maria chăm sóc
và là một Giáo Hội phải lấy Mẹ làm gương mẫu - "đem Mẹ về nhà mình"
(Gioan 19:27). Phải chăng Tông Đồ Gioan là người môn đệ được ngồi bên
hữu Chúa Kitô, khi chỉ có một mình ngài trong số 11 tông đồ được đứng kề bên
Thánh Giá của Người với Mẹ Maria, như ngài và người anh Giacôbê của ngài đã
sẵn sàng chấp nhận uống chén với Người (xem Marco 10:36-39).
Chưa hết, như
Tông Đồ Phêrô biểu hiệu cho đức tin thế
nào thì Tông Đồ Gioan cũng tiêu
biểu cho đức mến
như vậy, một đức mến nhậy cảm hơn đức tin, như trường hợp Tông Đồ Gioan chạy
nhanh hơn Tông Đồ Phêrô ra mồ và thấy thì tin, trong khi Tông Đồ Phêrô
còn đang ngẫm nghĩ chưa tin (xem Gioan 20:4,8), hay như trường hợp đi đánh
cá ở biển hồ Tibêria sau khi Chúa Kitô phục sinh, cũng người môn đệ được
Chúa Giêsu yêu này nhận ra Người trước tiên và nói với Tông Đồ Phêrô (xem
Gioan 21:7).
Như thế cho thấy
mối Hiệp Nhất Thần Linh nơi Tông Đồ Gioan là người môn đệ được
Chúa Giêsu yêu này sâu
nhiệm biết là
chứng nào, đến độ, vị tông đồ này
"không chết"
mà còn
"ở lại mãi cho tới khi Thày đến",
ở chỗ ngài còn được
Thày tỏ mình ra cho thấy Người lại đến trong vinh quang như ngài thị kiến
thấy và thuật lại trong sách Khải Huyền, nhất là đoạn 21 và 22 là 2 đoạn
cuối cùng của sách Khải Huyền nói riêng và toàn bộ Thánh Kinh Kitô giáo nói
chung, một sự kiện lịch sử có thể nói là đã ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên
báo chung các tông đồ và riêng tông đồ Gioán rằng: "Trong số các kẻ đang
ở đây có một số sẽ không chết cho tới khi được xem thấy Vương Quốc của Thiên
Chúa..." (Mathêu 16:28; Marco 9:1; Luca 9:27).
Trong bài Phúc
Âm còn 1 chi tiết rất đáng lưu ý nữa được Thánh ký Gioan bày tỏ nhận định
của ngài, đó là “Còn nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nhưng nếu kể ra từng
việc một thì tôi không nghĩ cả thế gian này chứa nổi những gì được viết ra”
(Gioan 21:25). Căn cứ vào những lời này thì thoạt nghe hay mới đọc tôi có
cảm tưởng là vị thánh ký này nói thật là thái quá, quá sức là phòng đại. Thế
nhưng, hiểu theo nghĩa bóng thì hoàn toàn chân thực.
Đúng vậy, nếu
Chúa Giêsu chẳng những “là đường” mà còn là chính “sự thật và sự sống”
(Gioan 14:6) thì chẳng có trí khôn hữu hạn nào của loài người có thể hiểu
thấu và có thể viết ra đủ sách vở để nói về Người một cách chính xác, có
nghĩa là “cả thế gian này cũng không chưa hết”.
Chính Chúa Giêsu
cũng đã nói với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly rằng “Thày còn cần phải nói
nhiều với các con nữa, nhưng nay các con chưa thể thâu nhận được. Khi Ngài
đến, là Thần Chân Lý, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Gioan
16:12-13).
Nghĩa là chỉ nhờ
Thánh Thần con người phàm trần mới có thể thấu hiểu được Chúa Kitô là Đấng
không có một con người trần gian nào có thể tự mình triệt thấu. Và đó là lý
do biến cố Người về cùng Cha (vượt trên thế gian này) thì có lợi cho các
tông đồ, cho Giáo Hội vậy.
Ngoài ra, câu “còn nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nhưng nếu kể ra
từng việc một thì tôi không nghĩ cả thế gian này chứa nổi những gì được viết
ra”, nếu liên quan đến câu ngay trước đó:
"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi
biết lời chứng của người ấy xác thật", thì ở đây có thể hiểu rằng thánh
ký Gioan có ý nói về "lời chứng" hay "chứng từ" và việc "làm
chứng" liên quan đến chứng nhân. Mà chứng nhân đây là ai nếu không phải
thành phần môn đệ của Chúa Kitô từ Giáo Hội sơ khai cho đến tận thế. Những
chứng nhân làm chứng này, hay chứng từ của họ về đức tin, về một thực tại
thần linh siêu việt, về một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, về một tình yêu vô cùng
nhân hậu của Thiên Chúa, về những gì thế gian này không thể nào hiểu được,
tức không "chứa nổi", như chính các vị tông đồ cũng không thể nào
thấu hiểu cho đến khi Thánh THần được sai đến với các vị.
Bài Phúc Âm hôm
nay, những câu cuối cùng của Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, được giáo Hội chọn
đọc để kết thúc Mùa Phục Sinh, như hôm qua đã chia sẻ, là một bài Phúc Âm
kết thúc theo chiều hướng cởi mở, chiều hướng cánh chung, thời điểm cánh
chung đã được khai mở từ "khi thời gian viên trọn" (Galata 4:4), thời điểm "Lời
đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), cho đến khi "Người lại đến trong
vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ
cùng" (Kinh Tin Kính), chứ không đóng lại hay thắt nút.
Thật vậy, nếu
bài Phúc Âm hôm qua, chiều hưóng cởi mở của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, sau Mầu
Nhiệm Vượt Qua, còn tiếp tục nơi Mầu Nhiệm Giáo Hội, một mầu nhiệm liên quan
đến vai trò mục tử của tông đồ Phêrô, vị tông đồ biểu hiệu cho lòng tin,
cũng như của các vị giáo hoàng kế vị ngài, là thành phần đại diện Chúa Kitô
chăn dắt đàn chiên của Người trên thế gian cho đến khi Người lại đến, thì
bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến tông đồ Gioan, vị tông đồ biểu hiệu cho
lòng mến, có tính cách cởi mở hướng đến Mầu Nhiệm Cánh Chung của Chúa Kitô
đối với toàn thể nhân loại vào ngày cùng tháng tận của loài người nhưng lại
là thời điểm của một "trời mới đất mới...: Thành Thánh
Giêrusalem mới từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống... là nơi Thiên Chúa ngự giữa
loài người" (Khải Huyền 21: 1-3).
Bài Đọc
1 (Tông Vụ 28:16-20,30-31)
"Khi
chúng tôi đến Rôma, Phaolô được phép ở nhà riêng với người lính canh. Sau ba
hôm, ngài mời các đầu mục người Do-thái đến. Khi họ đến, ngài nói với họ:
'Thưa anh em, dầu tôi đây không làm điều gì phạm đến dân tộc hay tục lệ tổ
tiên, mà tôi đã bị bắt tại Giêrusa-lem và bị nộp trong tay người Rôma. Khi
đã điều tra, họ muốn thả tôi vì tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng người
Do-thái chống lại, nên tôi buộc lòng phải nại đến hoàng đế, nhưng không phải
là tôi có gì kiện cáo dân tôi. Do đó tôi đã xin gặp anh em và nói chuyện:
Chính vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này'. Suốt hai
năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp ngài,
ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô một
cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm".
Chiều
kích Hiệp Nhất Thần linh trong bài đọc 1 hôm nay tiếp tục được thể hiện
nơi Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, ở chỗ chính khi ngài bị giam lỏng ở Rôma:
"được
phép ở nhà riêng với người lính canh", với
lý do duy nhất: "chính
vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này", thì ngài
vẫn hiên ngang theo đuổi cho tới cùng sứ vụ làm chứng về Chúa Kitô: "Suốt
hai năm, ngài trú tại ngôi nhà đã thuê, tiếp nhận tất cả những ai đến gặp
ngài, ngài rao giảng nước Thiên Chúa và dạy dỗ những điều về Chúa Giêsu Kitô
một cách dạn dĩ, không có ai ngăn cấm".
Chiều kích hiệp nhất thần linh nơi trường hợp của Thánh Phaolô ở trong bài
đọc 1 hôm nay còn ở chỗ rất đặc biệt như sau. Đó là ngài được sai đến với
Dân Ngoại, như Thánh Phêrô với Dân Do Thái (Galata 2:7-8), nhưng cuối cùng
cả hai vị đều gặp nhau (hiệp nhất) ở Rôma là thủ đô của Đế Quốc Rôma, một đế
quốc vào thời bấy giờ tiêu biểu cho quyền lực toàn trị của thế gian, quyền
lực đã sát hại Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai Con Thiên Chúa. Riêng Tông Đồ
Phaolô, cho dù được sai đến với Dân Ngoại, cuối đời,
“chính vì niềm hy vọng của Israel”,
ngài
vẫn được quan phòng thần linh trở
về với dân của mình ở Rôma, một thủ đô quyền lực chính yếu của Dân Ngoại, vì
thế có thể nói là Rôma đã trở thành hay chính là một Giêrusalem mới của Kitô
giáo như lịch sử đã chứng thực từ đó cho
tới nay.