SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XI Thường Niên C 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: 2 Sm 12, 7-10. 13

"Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi và vua sẽ không phải chết".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Nathan thưa cùng Ðavít rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Ðavít liền nói với Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).

Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.

3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

4) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 2, 16. 19-21

"Không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em biết rằng con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa. Nhưng nếu có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Ðức Kitô đã chết cách luống công.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 36-50 {hoặc Lc 7, 36 - 8, 3}

"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".

 

 

- "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".

Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".

{Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.}

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm 

Suy Niệm

 

Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XI Thường Niên hôm nay được Giáo Hội chọn đọc nhấn mạnh đến nguyên tắc công chính hóa bởi đức tin vào Thiên Chúa (tức bởi ân sủng của Thiên Chúa) chứ không bởi việc mình làm như Thánh Phaolô xác tín và giảng dạy trong Bài Đọc 2, đó là "con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy".

 

Đó là lý do Giáo Hội có ý chọn đọc 2 câu chuyện liên quan đến lòng ăn năn thống hối của con người yếu đuối sa ngã phạm tội và đã được tha thứ bởi Lòng Thương Xót Chúa, một lòng thương xót chỉ thật sự được tỏ ra một cách rạng ngời nhất nơi việc tha thứ và chấp nhận những con người sa ngã phạm tội, miễn là họ để cho họ được thương xót, như Vua Đavít trong Bài Đọc 1 và người phụ nữ tội lỗi trong thành (mà dường như được Thánh ký Luca ám chỉ nhân vật "Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám") trong Bài Phúc Âm hôm nay.

 

Trước hết, về trường hợp của Vua Đavít, Giáo Hội không chọn đọc đoạn vị vua thứ hai của dân Do Thái này phạm tội mà là đoạn vua được tiên tri Nathan vạch trần tội lỗi của vua ra, khiến vua nhận biết tội lỗi của mình, nhờ đó vua đã được Thiên Chúa tha thứ:

 

"Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: 'Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình'. Ðavít liền nói với Nathan rằng: 'Trẫm đã phạm tội cùng Chúa'. Nathan thưa lại Ðavít rằng: 'Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết'".

 

Tuy trong Bài Đọc 1 chỉ nói rất đơn giản về lời nhận lỗi mau chóng của vua Đavít, chứ không diễn tả thêm hành vi cử chỉ cùng thái độ thống hối như thế nào của vua, như người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm cho thấy, nhưng trong Thánh Vịnh 22 vốn được gọi là Thánh Vịnh thống hối của Vua Đavít, đã gói ghém tất cả tấm lòng thống hối xót xa thảm thiết của vua. Bài Đáp Ca được Giáo Hội chọn đọc hôm nay cũng thật sự phản ảnh chẳng những lòng thống hối của vua (câu 2) mà còn cả lòng tin tưởng của vua nơi lòng từ bi cứu độ của Chúa nữa (câu 3):

 

"2- Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. 3- Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ".

 

Sau nữa, ở trường hợp của "người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong thành" (Luca 7:37) trong bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội không chọn đọc những câu Phúc Âm trước đó liên quan đến chính những hành vi cử chỉ ăn năn thống hối của chị, mà chỉ từ những câu liên quan đến lòng thương xót Chúa đối với chị mà thôi, một lòng thương xót được bộc lộ qua những lời được chính Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót Chúa và là dung nhan thương xót cảm nhận về chị và cảm thương chị nói với vị gia chủ biệt phái, thành phần tự coi mình là kẻ công chính và khinh bỉ tội nhân:

 

"'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít'. Rồi Người bảo người đàn bà: 'Tội con đã được tha rồi'".

 

Cảm Nghiệm 

 

Thật vậy, là tạo vật, loài người tự bản chất là loài bất toàn, không thể toàn hảo như chính Thiên Chúa Hóa Công, bởi thế, chắc chắn sẽ không thể nào không có những khiếm khuyết, sơ sót, lỡ lầm và tội lỗi theo khuynh hướng tự nhiên của mình. Biết trước như vậy nhưng Thiên Chúa vẫn tạo dựng nên loài người, đến độ Ngài không thể nào không dựng nên họ, bởi Ngài "là Tình Yêu" (1Gioan 4:8,16), là Tình Yêu Thương Xót (Merciful Love), một Tình Yêu với ưu phẩm Thương Xót là phẩm tính hướng về những gì là bất toàn, hèn kém, xấu xa, tội lỗi, bất xứng với mình.

 

Có thể nói và phải nói rằng loài người là của lòng thương xót Chúa và cho lòng thương xót Chúa. Nghĩa là loài người xuất phát từ lòng thương xót Chúa để Thiên Chúa có thể tỏ lòng thương xót của Ngài ra nơi họ và cho họ. Chính bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa thúc đẩy Ngài dựng nên loài người, một sản phẩm thần linh của Ngài và cho Ngài.

 

Bởi thế, loài người tạo vật càng tội lỗi xấu xa khốn nạn càng là cơ hội để Thiên Chúa tỏ hết bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra, nhờ đó những ai không trốn tránh, xa lánh, chống cự hay chối bỏ Tình Yêu Thương Xót của Ngài mới là những con người được cứu độ. Tức những ai chấp nhận Tình Yêu Thương Xót của Ngài, để cho Thiên Chúa mạc khải bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra nơi họ và qua họ, nhất là  khi họ sa ngã phạm đến Ngài, khi họ chịu đựng hậu quả vô cùng nghiệt ngã do tội lỗi của họ gây ra v.v., sẽ được Tình Yêu Thương Xót Thiên Chúa chiếm đoạt và sống động nơi họ. 

 

Điển hình là trường hợp của một tên Saulê biệt phái hết sức trung thành với Do Thái giáo theo lề luật Moisen đã từng tự động và chủ động hung hăng bách hại đạo Chúa ngay từ ban đầu, nhưng sau đó, nhờ Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa và nhận biết Tình yêu Thương Xót này, đã trở thành một tông đồ dân ngoại Phaolô, đến độ được trở thành "ánh sáng chư dân cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47), nghĩa là thành phương tiện làm sáng tỏ Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa nơi bản thân ngài, như ngài đã tự thú trong Bài Đọc 2 hôm nay:

 

"Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi".

 

 

Thứ Hai

(Năm 2022, hôm nay là ngày 13/6, Giáo hội đồng thời cũng dâng lễ nhớ Thánh Antôn Padua - xin xem tiểu sử dài ở cuối cùng)

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 21, 1-16

"Noboth đã bị ném đá chết".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

Khi ấy, ông Naboth, người Giêrahel, có một vườn nho, sát cạnh đền của Acáp vua xứ Samaria. Acáp nói với Naboth rằng: "Hãy nhượng vườn nho cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó gần đền ta: bù lại, ta sẽ đổi cho ngươi vườn nho khác tương đương". Nhưng Naboth thưa lại rằng: "Xin Chúa đừng để tôi nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ tiên tôi". Acáp tức giận bỏ về nhà, và căm hờn vì lời ông Naboth, người Giêrahel đã nói: "Tôi sẽ không nhượng cho đức vua phần gia nghiệp của tổ tiên tôi". Vua nằm lăn xuống giường, quay mặt vào vách và không ăn uống gì.

Giêzabel, vợ vua, đến cùng vua và nói rằng: "Tại sao đức vua buồn phiền, và không ăn uống gì?" Vua đáp: "Tôi đã nói với Naboth người Giêrahel rằng: "Hãy bán vườn nho lại cho ta, hoặc nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho vườn nho khác tốt hơn". Nó lại nói: "Tôi không thể nhượng vườn nho tôi cho đức vua". Giêzabel vợ vua liền nói với vua rằng: "Quyền thế nhà vua cao cả biết bao, và nhà vua cai trị nước Israel khéo như thế nào! Thôi, dậy ăn uống đi, và cứ yên tâm. Thiếp sẽ tặng cho nhà vua vườn nho của Naboth người Giêrahel".

Bà ta nhân danh Acáp mà viết thơ, lấy ấn vua đóng vào, và gởi cho các bậc kỳ lão và chức sắc ở cùng thành với Naboth. Nội dung bức thư như thế này: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh, và đặt Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Hãy xúi hai đứa gian ác thuộc phường Bêlial đến trước mặt nó và cáo gian nó thế này: "Nó đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua". Các ngươi hãy điệu nó đi mà ném đá cho nó chết". Vậy dân chúng ở cùng thành với Naboth, các kỳ lão và chức sắc cùng ở một thành với ông, làm như Giêzabel đã truyền, đúng như đã viết trong thư bà gởi cho họ. Họ công bố một thời kỳ chay tịnh, đặt ông Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Họ dẫn đến hai thằng con cái ma quỷ, đặt chúng ngồi đối diện với ông. Và hai đứa này, đúng là hạng quỷ sứ, đã cáo trước mặt dân chúng rằng: "Naboth đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua". Nghe thế, họ liền điệu ông ra khỏi thành, và ném đá hạ sát ông. Rồi họ sai người đi nói với Giêzabel rằng: "Naboth đã bị ném đá chết rồi".

Khi nghe tin Naboth đã bị ném đá chết, Giêzabel liền nói với Acáp rằng: "Nhà vua hãy chỗi dậy và chiếm lấy vườn nho của Naboth người Giêrahel, kẻ đã không muốn theo ý nhà vua nhượng lại vườn nho mà lấy tiền: Naboth không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi". Khi hay tin Naboth đã chết, Acáp chỗi dậy và xuống chiếm lấy vườn nho của Naboth người Giêrahel.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 5, 2-3. 5-6. 7

Ðáp: Lạy Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở (c. 2b).

Xướng: 1) Xin lắng tai nghe lời con, thân lạy Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở. Xin để ý nghe tiếng con cầu khẩn, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con! - Ðáp.

2) Ngài không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.

3) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian xảo thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 38-42

"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Đức ái trọn hảo mới có thể thắng vượt kẻ hung ác và ngăn chặn sự ác

Suy Niệm

 

Chủ đề sự sống thần linh của Mùa Phục Sinh tiếp tục vói bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về một sự sống Phúc Đức Trọn Lành cho Thứ Hai Tuần XI Thường Niên hôm nay. 


Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô về Phúc Đức Trọn Lành được Phúc Âm Thánh ký Mathêu thuật lại đây, tiếp theo Tuần X Thường Niên, không còn liên quan đến các điều răn nữa, như điều răn thứ 5 "chớ giết người" (Thứ Năm tuần trước), điều răn thứ 9 "chớ muốn vợ chồng người" (Thứ Sáu tuần trước), và điều răn thứ 8 "chớ làm chứng dối" (Thứ Bảy tuần trước). 

 

Hôm nay (và cả ngày mai nữa), Bài Giảng Trên Núi bắt đầu sang đến chính đức bác ái trọn lành, cốt lõi của Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành. Tuy nhiên, không phải vì không còn liên quan đến những điều răn trong Thập Giới nữa, như tuần trước cho thấy, mà Chúa Kitô không còn so sánh giữa những gì là cũ, liên quan đến ý hệ hay văn hóa hoặc tâm thức tự nhiên của Dân Do Thái trong Cựu Ước, những gì bất toàn (tuy đúng lý, hoàn toàn hợp lý theo phép công bằng), hay đúng hơn những gì chưa thực sự trọn lành so với những gì mới được Người chỉ dạy cho thành phần môn đệ ở Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, để nhờ đó sau này các vị mới có thể trở thành "muối đất... (và) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14) theo đúng bản chất và ơn gọi là môn đệ Chúa Kitô của các vị.

 

Một trong hai điều liên quan đến đức bác ái trọn lành được Chúa Kitô nhắc đến ở bài Phúc Âm (Mathêu 5:38-42) riêng cho ngày hôm nay đó là: 

 

"Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

 

Trong những lời khuyên dạy trọn lành này của Chúa Kitô, có một số chi tiết cần phải lưu ý như sau:

 

Trước hết, về mặt tiêu cực, Chúa Kitô bảo chúng ta "đừng chống cự lại với kẻ hung ác", nghĩa là cho dù chúng ta có là nạn nhân của họ, chúng ta vẫn phải tôn trọng con người phạm nhân, không được hận thù ghen ghét chính con người của họ, tìm cách trả thù họ theo luật công bình, hơn là chống lại việc làm gian ác của họ mà không phải vì hận thù họ v.v.

 

Sau nữa, về mặt tích cực, Chúa Kitô dạy chúng ta lấy lành thắng dữ, phản ứng của chúng ta cần phải làm sao để sự dữ bị tiêu tan như bóng tối gian ác tan biến trước ánh sáng chân thật. Ở chỗ, như Người dạy: "ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa", (chứ đừng vả lại), hay "ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa" (chứ đừng kiện lại), hoặc "ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ". 

 

Ý nghĩa của vấn đề "vay mượn" trong lời Chúa Giêsu dạy đây đó là những gì tha nhân phạm đến chúng ta, như chúng ta đã phạm đến Chúa nên chúng ta xin Ngài "tha nợ" cho chúng ta. Một khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xúc phạm, thì chúng ta không có quyền lên án và trừng phạt họ, cho bằng có quyền tha cho họ, hơn là chấp nhất. Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bị tha nhân phạm đến - "đừng từ khước" cho tha nhân "vay mượn" là như thế.


Đúng thế, nếu so sánh nguyên tắc công bằng ăn thua đủ - nợ máu phải trả bằng máu: 'Mắt đền mắt, răng đền răng', như tình hình giữa nước Do Thái và dân tộc Palestine ở Trung Đông gần 3/4 thế kỷ cho tới nay, bên khủng bố (Palestine) bên tấn công (Do Thái), liên tục hầu như bất tận và bất khả giải quyết. 


Thế nhưng, để có thể giải quyết một cách tốt đẹp, họ không còn cách nào khác ngoài những gì được Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ thắng vượt nguyên tắc công bình bằng tinh thần bác ái vị tha, lấy lành thắng dữ, một tinh thần chắc chắn họ sẽ không thể nào làm được nếu không có Vị Thánh Linh của Đấng Phục Sinh đã thông ban cho các tông đồ để các vị có thể tha tội cho tha nhân (xem Gioan 20:22-23). 

 

Bởi vậy, huấn dụ bác ái trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi không phải chỉ là đích điểm hay tầm vóc viên trọn cho cuộc sống và ơn gọi làm người nói chung và làm môn đệ của Người nói riêng, mà còn là chính đường lối để còn người có thể sống an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình cũng như cho xã hội loài người, một đường lối phản ảnh nơi giáo huấn tổng hợp như một học thuyết nhân bản đích thực về xã hội của Giáo Hội Chúa Kitô từ cuối thể kỷ 19 cho tới nay.

  

Cảm Nghiệm

 

Theo tâm lý tự nhiên nơi con người đã vướng mắc nguyên tội, con người hướng nội hơn là hướng ngoại, hướng về bản thân mình hơn là về tha nhân, yêu mình hơn là yêu tha nhân, vị kỷ hơn là vị tha. Bởi thế, con người không thể nào tự nhiên mà có thể thực hiện được những gì Chúa Giêsu khuyên dạy sống trọn lành như trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

Một trường hợp điển hình cho thấy con người chỉ tham lam vơ vét hơn là ban phát cho đi, thậm chí còn sử dụng quyền lực của mình để cướp đoạt những gì họ muốn nơi người khác và của người khác một cách bất công, được Sách Các Vua Quyển Thứ Nhất thuật lại liên quan đến "Vua Acáp vua xứ Samaria", nhất là liên quan đến "Giêzabel, vợ của vua", một người đàn bà tinh quái và ác độc, đã sử dụng thủ đoạn pháp lý là quyền bính của vua nhưng gian trá xảo quyệt để chiếm hữu những gì bà ta biết rằng quân vương của bà đang muốn.

Ở chỗ: "Bà ta nhân danh Acáp mà viết thơ, lấy ấn vua đóng vào, và gởi cho các bậc kỳ lão và chức sắc ở cùng thành với Naboth. Nội dung bức thư như thế này: 'Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh, và đặt Naboth ngồi giữa hàng nhân sĩ trong dân. Hãy xúi hai đứa gian ác thuộc phường Bêlial đến trước mặt nó và cáo gian nó thế này: Nó đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua'. Các ngươi hãy điệu nó đi mà ném đá cho nó chết'".

Cuối cùng bà đã thỏa mãn ước muốn của vương quân của bà, như Bài Đọc 1 hôm nay cho biết: "Khi nghe tin Naboth đã bị ném đá chết, Giêzabel liền nói với Acáp rằng: 'Nhà vua hãy chỗi dậy và chiếm lấy vườn nho của Naboth người Giêrahel, kẻ đã không muốn theo ý nhà vua nhượng lại vườn nho mà lấy tiền: Naboth không còn sống nữa, nhưng đã chết rồi'. Khi hay tin Naboth đã chết, Acáp chỗi dậy và xuống chiếm lấy vườn nho của Naboth người Giêrahel".

Ở đây, Bài Đọc 1 không cho biết phản ứng của nạn nhân bị cướp giật là Noboth ra sao, có trọn lành như lời khuyên dạy của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay hay chăng, có tha cho bà vợ gian ác của vua và cho vua hay chăng, ở chỗ: "Ai muốn vay mượn thì đừng khước từ", mà chỉ thuật lại sự vụ xẩy ra như thế, một sự vụ bất công có thể xẩy ra cho bất cứ ai trên đời này, ở bất cứ thời đại nào, không thể nào tránh được, vì lòng tham vô đáy nơi con người, mà chỉ có thể thắng vượt bằng lòng bác ái vị tha, tha cho phạm nhân, cho dù có chống lại sự dữ họ làm hay có đòi hỏi công lý nơi họ.

Kinh nghiệm cho thấy, trên thế gian này, tình trạng "cá lớn nuốt cá bé", "mạnh được yếu thua" hằng liên lỉ xẩy ra cho đến tận thế, từ khi Cain sát hại đứa em hiền lành dễ thương Abel của mình (xem Khởi Nguyên 4:1-16). Cho dù ngày nay con người, có thể nói, đã đạt đến tuyệt đỉnh văn minh về nhân bản trong việc tôn trọng nhân quyền, như Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc được công bố ngày 10/12/1948 cho thấy, nhưng vẫn không tránh khỏi tình trạng sống theo luật rừng (jungle law) này, thậm chí còn khủng khiếp hơn nữa, một thứ luật rừng văn minh chưa từng thấy, nhân danh nhân quyền để phạm đến nhân quyền, chẳng hạn như quyền được phá thai, quyền sinh dục của người mẹ ưu tiên hơn quyền sống vô giá của thai nhi, một chứng cớ hùng hồn cho thấy "cá lớn (là thai mẫu vẫn) nuốt cá bé (là thai nhi)", "(thai mẫu bao giờ cũng) mạnh được (thai nhi bao giờ cũng) yếu thua".

Chính vì những bất công khủng khiếp kinh hoàng như thế mà nhiều người đã không thể nào không đặt vấn đề không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay chăng, nếu có thì Thiên Chúa không có mắt hay chăng? Tại sao Ngài lại để xẩy ra sự dữ trên trần gian này như thế? Tại sao kẻ lành và thành phần yếu hèn trên thế gian này, như trường hợp của Naboth trong Bài Đọc 1 hôm nay, cứ phải trở thành cái giá bất chấp thủ đoạn đầy ghê tởm của kẻ mạnh? Câu trả lời sẽ được giải đáp phần nào trong Bài Đọc 1 ngày mai...

Tuy nhiên, đối với thành phần tin tưởng thì những bất công và sự dữ trên thế gian này có thể lại trở thành cơ hội để họ sống đức tin hơn nữa, để họ tin tưởng vào Thiên Chúa vô cùng công minh hơn nữa, nhờ đó, nhờ tin vào Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán xét tất cả mọi sự và mọi người, họ có thể sống trọn lành như lời Chúa Giêsu dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay. Bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy ý thức đức tin cần có nơi những ai sống công chính mà là thành phần thường trở thành nạn nhân của thời cuộc, thành phần lại hay được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình ra:

 

1) Xin lắng tai nghe lời con, thân lạy Chúa, xin lưu tâm đến tiếng con than thở. Xin để ý nghe tiếng con cầu khẩn, ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con!

2) Ngài không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác.

3) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian xảo thì Chúa ghê tởm không nhìn.

 

 

Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 21, 17-29

"Ngươi đã làm cho Israel phạm tội".

Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.

(Sau khi Naboth chết), có lời Chúa phán cùng ông Êlia, người miền Thesbê rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy, xuống gặp Acáp, vua Israel, ở thành Samaria: này Acáp đang xuống vườn nho của Naboth để chiếm lấy. Ngươi sẽ nói với ông ấy rằng: "Ðây lời Chúa phán: Ngươi đã giết, lại còn chiếm đoạt". Sau đó ngươi nói tiếp: "Ðây là lời Chúa phán: Những con chó đã liếm máu Naboth tại đâu, thì cũng sẽ liếm máu ngươi tại đó". Acáp liền nói với Êlia: "Ông coi tôi là thù địch của ông sao?" Êlia đáp: "Ðúng thế, vì vua đã liều mình làm điều gian ác trước mặt Chúa. Này Ta sẽ giáng hoạ trên ngươi, sẽ làm cho ngươi tuyệt tự; Ta sẽ giết tất cả con trai của nhà Acáp, bất kể sang hèn trong dân Israel. Ta sẽ cho dòng dõi ngươi ra giống như dòng dõi Giêroboam, con của Nabat, và như dòng dõi của Baasa con của Ahia, vì ngươi đã hành động để chọc giận Ta, và làm cho Israel phạm tội". Còn về Giêzabel, Chúa phán rằng: "Chó sẽ ăn thịt Giêzabel ở cánh đồng Giêzrơel. Acáp chết trong thành, sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, thì sẽ bị chim trời rỉa ăn". Chẳng có ai giống như Acáp, đã liều mình làm điều gian ác trước mặt Chúa, bởi vì Giêzabel, vợ vua đã xúi giục. Vua đã trở nên quái gở, đến nỗi chạy theo các tà thần mà người Amorrhe đã làm ra, họ là những người Chúa đã tiêu diệt trước mặt con cái Israel.

Khi Acáp nghe những lời này, mặc áo nhặm, ăn chay, vấn bao bố mà ngủ và ăn ở khiêm nhường. Có lời Chúa phán với Êlia người Thesbê rằng: "Ngươi có thấy Acáp hạ mình trước mặt Ta không? Vì Acáp đã hạ mình trước mặt Ta, Ta sẽ không giáng hoạ xuống trong đời ông ta, nhưng trong đời con ông ta, Ta sẽ giáng hoạ trên nhà ông ấy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 11 và 16

Ðáp: Xin xót thương, lạy Chúa, vì chúng con đã phạm tội.

Hoặc đọc: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 43-48

"Các ngươi hãy yêu thương thù địch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Suy Niệm  

 

Đức ái trọn hảo như Cha trên trời


Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 5:43-48) đúng là tột đỉnh của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô, ở ngay câu kết: "Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo". 

 

Qua câu chính yếu nhất của Bài Giảng Trên Núi này và là câu làm nên tất cả Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô ấy, chúng ta có thể kết luận một cách suy diễn như thế này: Vì các con là môn đệ của Thày nên các con phải nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành, theo như những gì Thày truyền dạy các con trong việc sống tinh thần của lề luật là chính đức ái trọn hảo vậy.

 

Ở chỗ, nếu theo tâm lý và lý lẽ tự nhiên "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù", thì sống bác ái trọn lành theo Chúa Kitô để có thể nên trọn lành như Cha trên trời, thành phần môn đệ của Chúa Kitô cần phải: "yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chứ không thể sống ở tầm mức tự nhiên như hai thành phần vốn bị dân Do Thái khinh bỉ, đó là thành phần "thu thuế" vốn bị họ coi là hạng người tội lỗi, hay như thành phần "ngoại giáo" vốn bị họ coi là thành phần ô uế nhơ nhớp, đáng xa tránh. 

 

Trong lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người sống bác ái trọn hảo: "các con hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chúng ta thấy, trước hết, về đối tượng, tinh thần bác ái trọn lành ở chỗ "yêu thương (cả) thù địch" nữa chứ không phải chỉ những ai yêu thương chúng ta hay những ai chúng ta thích hoặc thành phần thân nhân ruột thịt của chúng ta mà thôi. 

 

Sau nữa, về hành động, tinh thần bác ái trọn lành là ở chỗ "làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con". Tức là "làm ơn" và "cầu nguyện" cho những đối tượng "thù địch" của mình, vì họ là những người "thù ghét" mình, "bắt bớ" mình và "nguyền rủa" mình, chứ không phải là thành phần thương yêu mình hay được mình thương yêu. 

 

Ở đây, Chúa dạy hãy yêu thương cả thù địch, nghĩa là không phải ở chỗ chỉ tha thứ cho họ, mà còn phải dấn thân hy sinh phục vụ họ nữa, đến độ có thể chết cho kẻ mình yêu nữa, như chính Thiên Chúa đã làm gương cho Kitô hữu chúng ta nơi Con của Ngài khi không dung tha cho Con Ngài một đã phó nộp Con của Ngài vì tất cả chúng ta là thành phần thù địch của Ngài, phạm đến Ngài và đáng bị trừng phạt đời đời kiếp kiếp.

 

Cảm Nghiệm

 

Vì là loài người còn mang mầm mống nguyên tội luôn hướng hạ và thiên về tội lỗi nên tất cả những gì Chúa Giêsu dạy ở Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành đều trở thành như truyện thần tiên mộng mị, hoàn toàn chẳng những không thực tế mà còn chói tai không ai nghe được, không ai có thể làm được: "yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con".

 

Thế nhưng, chính vì bản chất siêu nhiên, vượt tự nhiên, hơn là phản tự nhiên của lời Chúa dạy ở Bài Giảng Trên Núi này lại hùng hồn chứng tỏ và chứng thực rằng giáo huấn này từ trời và bởi trời chứ không phải bởi loài người hay từ hạ giới này, những giáo huấn trọn lành chẳng những không một giáo tổ nào đã nghĩ tới và giảng dạy mà còn cần phải có ơn Chúa nữa mới có thể thực hiện, thực hành. Và chỉ có thế, chỉ khi nào thực hành giáo huấn trọn lành liên quan đến đức ái trọn hảo (perfectae caritatis) như thế con người mới nên giống Thiên Chúa, mới xứng đáng tư cách là con cái của Thiên Chúa, Đấng công minh chính trực nhưng cũng đầy cảm thương và luôn tha thứ cho những ai biết thống hối ăn năn, như trường hợp của Vua Ahab trong Bài Đọc 1 hôm nay.

 

Thật vậy, đáng lẽ việc vua để cho vợ của vua thay vua và lấy quyền vua để cướp đoạt khu vườn mà vua muốn từ tay chủ nhân Naboth, bằng cách sát hại chủ nhân của nó, đã bị Thiên Chúa lên án, như lời tiên tri Elia được Thiên Chúa sai đến nghiêm thẳng cảnh cáo vua khi vua "đang xuống vườn nho của Naboth để chiếm lấy": "Ðúng thế, vì vua đã liều mình làm điều gian ác trước mặt Chúa. Này Ta sẽ giáng hoạ trên ngươi, sẽ làm cho ngươi tuyệt tự; Ta sẽ giết tất cả con trai của nhà Acáp, bất kể sang hèn trong dân Israel. Ta sẽ cho dòng dõi ngươi ra giống như dòng dõi Giêroboam, con của Nabat, và như dòng dõi của Baasa con của Ahia, vì ngươi đã hành động để chọc giận Ta, và làm cho Israel phạm tội".

 

Chưa hết, theo công bình, đong đấu nào bị đong lại đấu ấy thế nào thì người vợ Giêzabel gian ác của vua cũng thế, cũng bị trừng trị xứng với tội của mình, như Thiên Chúa đã báo trước qua miệng Tiên Tri Elia ở Bài Đọc 1 hôm nay, theo luật báo oán, mắt đền mắt răng đền răng: "Những con chó đã liếm máu Naboth tại đâu, thì cũng sẽ liếm máu ngươi tại đó... Chó sẽ ăn thịt Giêzabel ở cánh đồng Giêzrơel. Acáp chết trong thành, sẽ bị chó ăn thịt; nếu chết ngoài đồng, thì sẽ bị chim trời rỉa ăn".

 

Tuy nhiên, chính cái tầm mức công bình này đã cho thấy Vị Thiên Chúa vô cùng công minh chính trực, Vị Thiên Chúa có mắt của một vị Quan Án Chí Công và Chí Tôn cũng đồng thời có một tấm lòng, biết rung cảm, biết tha thứ, bằng chính quyền bính sát phạt của mình, đến độ không còn ranh giới công bằng nữa, và vì thế, cho đến khi Ngài có mắt đối với nạn nhân thì Ngài lại làm cho nạn nhân cảm thấy ghen tức bởi Ngài quá rộng lượng khoan dung với phạm nhân, như Ngài đối xử với vua Ahab ác độc trong Bài Đọc 1 hôm nay:

 

"Khi Acáp nghe những lời này, mặc áo nhặm, ăn chay, vấn bao bố mà ngủ và ăn ở khiêm nhường. Có lời Chúa phán với Êlia người Thesbê rằng: 'Ngươi có thấy Acáp hạ mình trước mặt Ta không? Vì Acáp đã hạ mình trước mặt Ta, Ta sẽ không giáng hoạ xuống trong đời ông ta, nhưng trong đời con ông ta, Ta sẽ giáng hoạ trên nhà ông ấy'".

 

Ở đây người đọc cảm thấy Thiên Chúa bất công, vì phạm nhân đời trước được tha con cháu đời sau mắc họa. Dấu sao cũng cho thấy tội lỗi, cho dù là của cá nhân, bao giờ cũng gieo tai họa về sau, như nguyên tội do nguyên tổ gây ra nhưng tai họa gánh chịu bao gồm cả con cháu của các vị. Có thể so sánh cái họa gây ra bởi tội lái xe ẩu của bố hay mẹ làm cho con cái trong xe chết oan khi xẩy ra tai nạn vậy. Tuy nhiên, cho dù mặc họa của đời trước nhưng đời sau cũng có thể tránh khỏi nếu không để cho tội lỗi của cha ông tái diễn nơi mình, nhờ đó, còn con cháu còn có thể cứu được cái họa của đời trước. Mẹ Maria, nhờ được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, đã chẳng những thoát được cái họa nguyên tội, mà còn đồng công cứu chuộc giòng dõi của mình nữa. Ngược lại với họa của tội lỗi là cái phúc của ân đức, như tín điều các thánh cùng thông công cho thấy, ở chỗ, một người có thể cứu được nhiều người, như trường hợp các thánh nhân có thần thế chuyển cầu trước mặt Thiên Chúa cho phần rỗi của nhân loại.

 

Dầu sao, đọc đến chỗ Thiên Chúa mau mắn tha cho vị vua gian ác tham lam giết người cướp của như Ahab cũng làm cho chúng ta thông cảm với hành động trốn chạy của Tiên Tri Giona để khỏi phải thi hành lệnh truyền của Thiên Chúa là Đấng đã sai ông đi loan báo án phạt cho dân thành Ninive, vì ông không muốn thấy thứ dân ngoại xấu xa tội lỗi đáng phạt ở đó được Thiên Chúa thương tha là những gì như thể trái phép công bằng. Bởi thế, Thiên Chúa đã tạo cơ hội cho ông cảm thấy chính thân phận đáng thương của ông để có thể thông cảm với lòng thương xót của Chúa, một lòng xót thương không thể nào không rung động và tha thứ cho tội nhân một khi họ thật lòng thống hối ăn năn như vua Ahab trong Bài Đọc 1 hôm nay, với tất cả tấm lòng vọng lên những lời thống thiết của vua Đavít trong Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa.

3) Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. Xin cứu gỡ con khỏi đền nợ máu, ôi lạy Chúa là Chúa cứu độ con, lưỡi con sẽ ca ngợi đức công minh Chúa.

 



  

Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 2, 1. 6-14

"Có một xe bằng lửa, và Êlia lên trời".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Khi Thiên Chúa muốn đem Êlia lên trời trong cơn gió lốc, Êlia và Êlisê đang rời bỏ đất Galgala. Khi cả hai đến thành Giêricô, Êlia nói với Êlisê rằng: "Con cứ ngồi đây, Chúa sai thầy đến sông Giođan". Êlisê đáp: "Nhân danh Chúa hằng sống và lấy mạng sống của Thầy, con xin thề rằng: Con sẽ không rời thầy". Thế rồi cả hai cùng đi xuống Bêthel. Có năm mươi người đồ đệ của tiên tri cũng đi theo hai vị, và đứng xa xa, còn hai vị thì đứng trên bờ sông Giođan. Êlia lấy áo choàng cuốn lại, đập xuống nước. Nước liền rẽ làm hai, và hai vị cứ lối ráo mà qua sông.

Khi đã qua rồi, Êlia nói với Êlisê rằng: "Con muốn gì thì cứ xin, để thầy làm cho, trước khi thầy được cất đi khỏi con". Êlisê đáp: "Con muốn được gấp đôi thần trí của thầy". Êlia nói: "Con xin điều khó quá, nhưng nếu con thấy được thầy trong lúc thầy được cất đi khỏi con, thì con sẽ được như ý; nhưng nếu con không xem thấy, thì không được". Hai ông tiếp tục đi và nói chuyện, thì này đây có một xe bằng lửa và ngựa cũng bằng lửa phân rẽ hai người; và trong cơn gió lốc, Êlia lên trời. Êlisê thấy vậy kêu lên: "Cha ơi, cha ơi, cha là xe và là người đánh xe Israel". Và Êlisê không thấy thầy mình nữa, người liền lấy áo mình và xé ra làm đôi, và lượm chiếc áo choàng Êlia đã thả xuống, rồi lui về, và đứng lại ở bờ sông Giođan, lấy áo choàng Êlia đã thả xuống, đập xuống nước mà nước lại không rẽ ra. Người kêu lên: "Thiên Chúa của Êlia bây giờ ở đâu?" Người lại đập xuống nước, và nước rẽ làm đôi, và Êlisê đi qua.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 30, 20. 21. 24

Ðáp: Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa (c. 25).

Xướng: 1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta. - Ðáp.

2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài, cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận. - Ðáp.

3) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là đầy đủ cho những ai xử sự kiêu căng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Sống nội tâm là sống trước nhan Chúa 



Suy Niệm

 

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, vẫn là bài Phúc Âm thuộc loạt bài về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi được Chúa Giêsu huấn dụ riêng cho các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng cho Giáo Hội tương lai của Người, nhưng không còn theo công thức so sánh giữa lề luật cũ hay tâm thức tự nhiên với giáo huấn trọn lành của Người liên quan đến đức ái trọn hảo. 


Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu sang đoạn 6 (Mathêu 6:1-6,16-18) và liên quan đến các việc thiện, như "bố thí", "cầu nguyện" "chay tịnh", một bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay hằng năm. Căn cứ vào thứ tự 3 việc lành này thì ưu tiên nhất là bố thí liên quan đến đức bác ái, sau đó mới đến việc cầu nguyện liên quan đến Thiên Chúa, và sau cùng mới đến việc chay tịnh liên quan đến bản thân.

 

 

 

Có thể nói bố thí là hoa trái của cầu nguyện, thậm chí có thể bỏ cầu nguyện để làm việc bác ái khi khẩn cấp, và muốn cầu nguyện sốt sắng và tác hiệu cần phải chay tịnh (làm chủ mình, khổ chế), nhưng khổ chế chay tịnh mà thiếu đức bác ái cũng không tốt. Kể cả các việc lành này nữa, các tông đồ cũng cần phải thực hiện một cách trọn lành, khác với thái độ giả hình của thành phần đạo đức phô trương làm vì danh tiếng hơn là vinh hiển của Thiên Chúa. 


Qua việc thực hành các việc thiện bề ngoài này, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phải sống nội tâm, sống như là một thứ "muối đất", theo nguyên tắc chung như Người truyền dạy, đó là: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời".


Căn cứ vào nguyên tắc "đừng phô trương công đức" này, Người dạy các môn đệ trước hết về cách thức thực hành việc bố thí như thế này: "Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm saođừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".


Nguyên tắc "đừng phô trương công đức" như Chúa dạy được áp dụng, sau nữa, vào việc cầu nguyện ở cách thức cũng như việc bố thí ở chỗ tránh hành vi tiêu cực mà thể hiện các cử chỉ tích cực như sau: "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".


Sau hết, về cách thức chay tịnh, theo nguyên tắc "đừng phô trương công đức", Chúa dạy các tông đồ thực hiện vừa tránh tiêu cực vừa làm tích cực như sau: "Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".


Muốn tránh khỏi khuynh hướng tự nhiên thích "phô trương công đức" về các việc lành mình làm, con người phải hoàn toàn tin vào Chúa, phải có một đức tin mãnh liệt, luôn sống trước nhan Chúa, "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" và là "Đấng ngự nơi bí ẩn", như gương sáng của bà góa bỏ tiền vào đền thờ vậy (xem Luca 21:2-3). Nghĩa là hãy làm việc lành với tất cả tấm lòng chân thành của mình, ở chỗ hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa mà thôi.


Cảm Nghiệm

 

 

 

Theo khuynh hướng tự nhiên, con người muốn phô trương bản thân mình về những gì tốt đẹp và hay ho của mình, còn những gì xấu xa tồi bại thì che giấu đi bao nhiêu có thể, thậm chí chối bỏ nó khi bị vạch trần ra ánh sáng. Khuynh hướng này cũng không tha cho việc sống đạo có tính cách siêu nhiên và đức tin. Đến độ con người lợi dụng cả những việc bố thí cho tha nhân, cầu nguyện với Thiên Chúa và chay tịnh khổ chế với bản thân để sống như một kẻ vô thần không có Thiên Chúa nào khác ngoài chính bản thân họ, một đối tượng chính yếu, đúng hơn là một thần tượng duy nhất và trên hết cần phải được mọi người chú ý, tôn vinh và chúc tụng.

 

 

Đối với thành phần chỉ biết sống hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa, trung thành với Chúa, bằng đức tin sâu xa, thi hành tất cả những gì Chúa muốn và Chúa truyền, như đại tiên tri Elia, sẽ được Thiên Chúa sử dụng để tỏ mình ra nơi họ và qua họ, cho những người khác nhận biết Ngài, đến độ Thiên Chúa đã tỏ mình ra qua vị tiên tri này khi ông còn sống, như trong trường hợp ông đơn thân độc mã thách đấu với hơn 400 tiên tri của thần Baal trước đó (xem 1 Chư Vương 18), vả cả vào lúc cuối đời của ông nữa, một cách hết sức lạ lùng hầu như vô tiền khoáng hậu (so với cả trường hợp của tổ phụ Enóc đột ngột biến mất - Khởi Nguyên 5:24, trừ trường hợp Mông Triệu nhiệm mầu của Thánh Mẫu Maria), như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy: "Này đây có một xe bằng lửa và ngựa cũng bằng lửa phân rẽ hai người; và trong cơn gió lốc, Êlia lên trời".

 

 

Nơi người tiên tri môn đệ của Elia cũng thế, người môn đệ "muốn được gấp đôi thần trí của thầy", cũng chỉ khi nào sống đức tin thì mới thấy Thiên Chúa tỏ mình ra mà thôi. Bởi thế, sau khi Tiên Tri Elia được Thiên Chúa mang đi cách lạ như thế, mới xẩy ra chuyện, như Bài Đọc 1 thuật lại: "Êlisê không thấy thầy mình nữa, người liền lấy áo mình và xé ra làm đôi, và lượm chiếc áo choàng Êlia đã thả xuống, rồi lui về, và đứng lại ở bờ sông Giođan, lấy áo choàng Êlia đã thả xuống, đập xuống nước mà nước lại không rẽ ra. Người kêu lên: 'Thiên Chúa của Êlia bây giờ ở đâu?' Người lại đập xuống nước, và nước rẽ làm đôi, và Êlisê đi qua".

 

 

Đúng thế, đúng như Bài Đáp Ca hôm nay nhận thức, Thiên Chúa đặc biệt tỏ "lòng nhân hậu Ngài" ra "cho những kẻ kính sợ Ngài", nghĩa là "cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta" (câu 1). Ở chỗ, "Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài, cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận" (câu 2).

 

 

 

Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) Hc 48, 1-15 (Hl 1-14)

"Êlia được che khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người".

Trích sách Huấn Ca.

Bấy giờ tiên tri Êlia như lửa hồng xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng. Ông đem cho họ một mùa đói khát, và số người ghét ông đã hao đi, vì chúng chẳng giữ được giới răn Chúa. Do lời Chúa phán, ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời xuống. Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm, và ai có thể tự hào được vinh quang như người? Bởi lời Chúa là Thiên Chúa, người cứu kẻ chết ra khỏi âm phủ, khỏi quyền sự chết. Người triệt hạ các vua xuống cảnh điêu tàn, bẻ gãy dễ dàng quyền thế của họ, xô kẻ sang trọng rớt khỏi giường nằm. Trên núi Sinai, người đã nghe lời xét xử, và trên núi Horeb, người đã nghe án quyết phục thù. Người xức dầu các vua để báo oán và đặt các tiên tri để nối nghiệp mình. Người đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi. Người đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp. Phúc cho những ai đã thấy người, và được hân hạnh thiết nghĩa với người: Vì chúng tôi chỉ được sống trong cuộc sống này, sau giờ chết, danh tiếng của chúng tôi sẽ được như thế. Êlia được che khuất trong gió cuốn, và Êlisê được trọn vẹn thần trí của người. Trong đời người, người không sợ vương tướng, và không quyền lực nào thắng được người, cũng không ai vượt người trong lời nói, và khi người chết rồi, xác người vẫn nói tiên tri. Khi còn sống, người đã làm những phép lạ, và khi đã qua đời, người đã làm những việc kỳ diệu.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 3-4. 5-6. 7

Ðáp: Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa (c. 12a).

Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.

2) Một làn lửa đi trước thiên nhan, để đốt những quân đối nghịch chung quanh Chúa. Chớp của Người sáng rực cõi trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi. - Ðáp.

3) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.

4) Hãy hổ ngươi tất cả những ai phụng thờ hình ảnh, những ai khoe khoang về thần tượng, bao nhiêu chúa tể hãy cúc cung bái lạy Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13bc

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 7-15

"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này,
tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau).



Suy Niệm

Bài Phúc Âm (Mathêu 6:7-15) cho Thứ Năm Tuần XI Thường Niên hôm nay liên quan đặc biệt đến việc cầu nguyện nói chung và Kinh Lạy Cha nói riêng, hay nói cách khác, liên quan đến cách thức cầu nguyện và mẫu thức cầu nguyện. 

Trước hết, về cách thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện một cách đơn sơ nhưng đầy lòng tin tưởng vào Đấng thấu suốt mọi sự như thế này: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin". 

Sau nữa, về mẫu thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tóm gọn những gì cần thiết nhất và đáng cầu nhất vào một lời nguyện vẫn được chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen".

Kinh Lạy Cha là mẫu thức cầu nguyện này bao gồm tất cả đời sống vì Chúa và cho Chúa của chung loài người và của riêng Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Kinh Lạy Cha được cấu tạo nên bởi 2 phần rõ ràng: phần nguyện và phần xin. Phần nguyện trực tiếp đến Chúa là đối tượng chính của kinh nguyện này, và phần xin trực tiếp đến chủ thể đọc lên kinh nguyện này, nhưng vẫn nhắm đến đối tượng chính yếu là Chúa.

Thật vậy, phần nguyện bao gồm 3 ước nguyện thứ tự là: 1ước nguyện cho danh Cha cả sáng, 2- ước nguyện cho nước Cha được trị đến, và 3- ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tâm hồn nào quả thực chỉ ước nguyện và thật lòng ước nguyện như thế thì đúng là người con ngoan của Thiên Chúa là "Cha trên trời". 

Thế nhưng muốn có một tấm lòng chỉ ước nguyện 3 điều chính yếu trên liên quan đến Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha (Danh Cha - Sự Sống Hằng Hữu), và Con (Nước Cha - Sự Sống Thần Linh) và Thánh Thần (Ý Cha - Sự Sống Thông Ban), con người cần phải cầu xin cho được 3 điều tương xứng với 3 ước nguyện ở phần đầu, thứ tự như sau: 

"Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày": đó là xin Cha tỏ cho chúng con biết được những gì Cha muốn, để nhờ đó chúng con có thể chu toàn tất cả những gì Cha muốn nơi chúng con cho "Danh Cha cả sáng", như Chúa Giêsu đã sử dùng lương thực của Người như thế: "Lương thực của Thày là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của Ngài" (Gioan 4:34); 

"Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con": đó là xin Cha cho chúng con biết sống bác ái yêu thương cho "Nước Cha trị đến", như chúng con đã được chính Cha "đã chứng tỏ lòng yêu thương đối với chúng con khi chúng con đang còn là tội nhân" (Rôma 5:8), nơi Con Một của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28), trong đó có chúng con.

"Xin Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ": đó là xin Cha cho chúng con luôn luôn biết tuyệt đối trung thành với Ý Muốn vô cùng khôn ngoan và nhân hậu của Cha ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, bất chấp mọi chước cám dỗ và thắng vượt tất cả mọi xu hướng bất trung và phản bội, nhờ "Đấng Phù Trợ" được sai đến để "chứng tỏ cho thế gian biết họ sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt" (xem Gioan 16:8).


Có thể nói cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này, tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau). Thật vậy, "danh Cha" không thể "cả sáng" (ước nguyện 1) và "Nước Cha" không thể "trị đến" (ước nguyện 2), nơi chúng ta nếu chúng ta không "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (ước nguyện 3).


Và cũng chính vì "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" mới "xin Cha tha nợ chúng con" (lời cầu 2), tức tha cho những gì chúng ta đã không làm theo ý của Cha, hay làm trái ý Cha, làm phật ý của Cha, và mới "xin Cha đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (lời cầu 3), nghĩa là xin Cha đừng để cho chúng con bao giờ làm mất lòng cha là sự dữ trên hết mà chúng con cần phải tránh.

Cảm Nghiệm

 

Phải nói rằng Kitô hữu nào sống trọn Kinh Lạy Cha là đạt đến tột đỉnh thánh thiện, là nên giống như Cha trên trời, là được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa là Cha (liên quan đến ý nguyện 1 phần đầu) và Con (liên quan đến ý nguyện 2 phần đầu) và Thánh Thần (liên quan đến ý nguyện 3 phần đầu).

 

Và tình trạng hiệp thông thần linh siêu việt này, được linh đạo Kitô giáo gọi là bậc tu đức thần hiệp, bậc tu đức cao nhất trong ba bậc (so với bậc khởi sinh và bậc tiến sinh), là tình trạng xuất phát từ lòng của con người, một tấm lòng luôn khao khát Chúa, luôn tìm kiếm Chúa, luôn đáp ứng các tác động thần linh của Chúa, đến độ nên một với ý Chúa, được Chúa chiếm đoạt, làm chủ và tỏ mình ra qua họ.

 

Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy lý do tại sao đại tiên tri Elia cuối đời được Thiên Chúa mang đi cách lạ, bằng xe lửa và ngựa lửa, như Bài Đọc hôm qua cho thấy, đó là vì bản thân "Êlia như lửa hồng xuất hiện, lời ông nóng bỏng như ngọn đuốc cháy phừng", đến độ "ông đóng cửa trời và ba lần khiến lửa trời xuống. Êlia được vinh quang nhờ các việc lạ lùng đã làm".

 

Chưa hết, vị tiên tri này dù "đã được cất đi trong bầu lửa, trong xe ngựa kéo đi", nhưng ông "đã nên dấu chỉ sự đe phạt qua các thời đại, để làm nguôi cơn thịnh nộ Chúa, để giao hoà cha với con, và chấn hưng lại những chi họ Giacóp", nơi vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả sau này (xem Luca 1:76-77; Mathêu 11:14, 17:11-13), và còn được tái xuất hiện trong biến cố Chúa Kitô biến hình trên núi nữa (xem Mathêu 17:3).

 

Ảnh hưởng của Elia trong vai trò là tiên tri của Chúa, cũng như ảnh hưởng của tất cả những tâm hồn nào sống trọn Kinh Lạy Cha, đều có thể trở thành, như Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả (ở câu 2): "Một làn lửa đi trước thiên nhan, để đốt những quân đối nghịch chung quanh Chúa. Chớp của Người sáng rực cõi trần, địa cầu xem thấy và run rẩy sợ hãi".

 

Thành phần giống như Tiên Tri Elia và những ai sống Kinh Lạy Cha sẽ trở thành một cuộc thần hiển (theophany) của Thiên Chúa, theo chiều hướng và ý nghĩa câu Đáp Ca 1 hôm nay: "Chúa hiển trị, địa cầu hãy hân hoan, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao toả chung quanh, công minh chính trực là nền kê ngai báu".   

 

 

Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 11, 1-4. 9-18. 20

"Người ta xức dầu cho Gioas và reo lên: Vạn tuế đức vua".

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, khi bà Athalia, mẹ vua Ocôsia, thấy con mình chết, nên đứng lên giết tất cả dòng dõi nhà vua. Nhưng Giô-saba, con gái của vua Giôram và là chị của Ocôsia, cứu được Gioas, con của Ocôsia khỏi số các con của vua bị sát hại, và giấu nó trong phòng ngủ làm một với bà vú, để bà Athalia không thấy nó và nó khỏi bị giết. Nó ở trong đền thờ Chúa với bà Giôsaba cách bí mật được sáu năm, thời gian bà Athalia cai trị đất nước.

Năm thứ bảy, ông Gioiađa sai người đi tìm các sĩ quan và quân lính, ông đưa họ đi với ông vào đền thờ Chúa. Người ký giao ước với họ, bảo họ thề trong đền thờ Chúa và cho họ thấy con của nhà vua.

Các sĩ quan làm tất cả những điều tư tế Gioiađa truyền dạy: Mỗi người đem các thuộc hạ theo mình, những người lính vào canh ngày Sabbat cũng như kẻ ra canh, đều đến cùng tư tế Gioiađa. Ông trao cho họ giáo mác và khí giới của Ðavít để trong đền thờ Chúa. Mỗi người cầm khí giới đứng từ bên tả đến bên hữu đền thờ và bàn thờ, hộ vệ chung quanh đức vua. Tư tế Gioiađa dẫn hoàng tử ra, đặt triều thiên lên đầu người và trao cho người quyển giao ước. Người ta phong người làm vua và xức dầu cho người. Họ vỗ tay reo lên: "Vạn tuế đức vua!"

Athalia nghe tiếng dân chúng chạy đến, thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy vua đứng trên toà như thói thường, có ca sĩ và đội kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn hát, bà liền xé áo mình, kêu lên rằng: "Mưu phản! Mưu phản!" Nhưng Gioiađa truyền cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: "Các ngươi hãy đuổi bà ấy ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn". Vị tư tế nói: "Ðừng giết bà trong đền thờ Chúa". Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào đến gần cung điện và giết bà tại đó.

Gioiađa ký kết giao ước giữa Thiên Chúa với vua và dân, để họ trở nên dân Chúa; và ký giao ước giữa vua và dân. Toàn dân trong xứ đều ùa vào chùa Baal, phá huỷ các đền thờ, đập tan các bức tượng, và giết luôn thầy cả Mathan trước bàn thờ. Tư tế Gioiađa đặt các toán canh giữ đền thờ Chúa. Toàn dân trong xứ hân hoan, và thành đô được bằng yên: vì bà Athalia bị giết trong đền vua.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 131, 11, 12.13-14. 17-18

Ðáp: Chúa đã kén chọn Sion làm nơi cư ngụ cho mình (c. 13).

Xướng: 1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi". - Ðáp.

2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta, và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi. - Ðáp.

3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích". - Ðáp.

4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ trên mình người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 19-23

"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

Ðó là lời Chúa. 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Kho tàng sự sống

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục với bài Giảng Trên Núi của Thánh Ký Mathêu (6:19-23), một bài Phúc Âm ngay sau Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm qua, như thể ý nghĩa của hai bài Phúc Âm có liên hệ mật thiết với nhau, ở chỗ, nếu sống Kinh Lạy Cha thì phải sống như lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay về một tấm lòng không còn dính bén với bất cứ sự gì trên trần gian này nữa, trái lại, chỉ tìm kiếm những gì siêu nhiên cao cả chân thật nhất thuộc về trời, vĩnh viễn, bất diệt:

 

"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất".

 

Tuy nhiên, để được như vậy, theo lời Chúa Giêsu phán dạy, con người môn đệ của Người cần phải có một tấm "lòng thanh sạch" (Mathêu 5:8) mới thấy được "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) mà chọn lựa, theo đuổi và chiếm hưởng, và phải chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ tấm "lòng thanh sạch" đây chính là "con mắt" như "đèn soi" cho bản thân cùng cuộc đời của con người:

 

"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

 

Cảm Nghiệm


Thực tế sống đạo cũng cho thấy tỏ tường là tất cả mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm và phản ứng hay đáp ứng của con người đều lệ thuộc vào hay phát xuất từ tấm lòng của con người. Nếu ai có tấm lòng tốt thì họ nhìn mọi sự đều tốt họ họ làm điều tốt, ngược lại, ai có một tấm lòng không tốt thì họ xu hướng về những ý nghĩ xấu, nói năng những điều không hay và tác hành những chuyện không lành v.v. "Lòng đầy mới tràn ra ngoài miệng" (Mathêu 12:34) là thế, và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó". 

 

Theo tu đức Kitô giáo cũng thế, để một số tâm hồn nào đó được siêu thoát khỏi trần thế, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, Thiên Chúa thường hay thanh tẩy lòng họ cho khỏi tất cả mọi vương vấn, quyến luyến, dính bén với bất cứ một tạo vật nào, dù thánh hảo và tốt lành mấy chăng nữa, ngoài chính Thiên Chúa.

 

Trường hợp điển hình của bà hoàng thái hậu "Athalia, mẹ vua Ocosia" trong Bài Đọc 1 hôm nay đã chứng thực những gì Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất".

 

Bà đã chiếm ngôi vua của con sau khi con bà là Vua Ocosia chết, bằng cách "giết tất cả dòng dõi nhà vua". Thế nhưng, cũng căn cứ vào lời Chúa Giêsu dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?", người đàn bà tham lam độc ác này đã chỉ tìm kiếm và tích lũy cho mình kho tàng ở đời này, mà lại chiếm đoạt một cách bất chính nữa, bởi thế, kho tàng bị bà chiếm đoạt là ngai vua của con bà ấy đã bị hư nát sau đó 6 năm, cùng với chính mạng sống của bà, vào chính lúc mà bà không ngờ, như Bài Đọc 1 thuật lại:

 

"Nghe tiếng dân chúng chạy đến, thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy vua Gioas (một trong số các con của vua Ocôsia được cứu sống đã bí mật ở trong đền thờ 6 năm) đứng trên toà như thói thường, có ca sĩ và đội kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn hát, bà liền xé áo mình, kêu lên rằng: 'Mưu phản! Mưu phản!' Nhưng Gioiađa (tư tế) truyền cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: 'Các ngươi hãy đuổi bà ấy ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn'. Vị tư tế nói: 'Ðừng giết bà trong đền thờ Chúa'. Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào đến gần cung điện và giết bà tại đó".

 

Đúng thế, không có một cái gì, dù quí báu đến đâu chăng nữa, có thể tồn tại ngoài Thiên Chúa và như Thiên Chúa, ngoại trừ chính Thiên Chúa và ý muốn vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài, một ý muốn bất diệt không ai có thể làm thay đổi hay trái ý Ngài, trái lại, cho dù họ có tự do, khôn ngoan và quyền năng đến đâu, cũng chỉ là một con rối quay cuồng theo những gì họ tưởng rằng chỉ có họ là chúa, ngoài họ ra không hề có Đấng Tối Cao, Đấng hiện thực tất cả những dự án thần linh của Ngài vào thời điểm Ngài ấn định và bằng cách thức huyền diệu riêng của Ngài, như Ngài đã thực hiện cho nhà Đavít được Bài Đáp Ca hôm nay nhắc lại:

 

1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi".

2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta, và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi.

3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích".

4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ trên mình người.

 

 

 



Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm II) 2 Sb 24, 17-25

"Các ngươi đã giết Dacaria giữa đền thờ và bàn thờ".

Trích sách Sử Biên niên quyển thứ hai.

Sau khi Gioiađa qua đời, các thủ lãnh Giuđa vào lạy vua. Vì họ dua nịnh, nên vua xiêu lòng nghe theo họ. Họ bỏ phế đền thờ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, để tôn thờ những cây cọc thiêng và các tượng thần. Vì tội ấy, cơn thịnh nộ Chúa giáng trên Giuđa và Giêrusalem. Chúa sai các tiên tri đến cùng họ để họ quay về với Chúa. Các vị này tuyên chứng, nhưng họ chẳng muốn nghe. Thần trí Thiên Chúa đổ xuống trên ông Dacaria, con vị tư tế Gioiađa. Ông đứng trước mặt dân chúng và bảo họ rằng: "Ðây lời Chúa là Thiên Chúa phán: Tại sao các ngươi lỗi phạm giới răn Chúa? Ðó là điều bất lợi cho các ngươi. Các ngươi đã bỏ Chúa thì Chúa sẽ bỏ các ngươi". Họ liền họp nhau chống lại người, và theo lệnh vua, họ ném đá người ở hành lang đền thờ Chúa. Vua Gioas không nhớ lòng nhân từ mà Gioiađa, cha người, đã đối xử với nhà vua, mà lại giết con của Gioiađa. Khi sắp chết, người nói rằng: "Xin Chúa hãy nhìn xem và xét xử họ".

Hết năm ấy, quân đội Syria tiến lên đánh vua Gioas: họ đến xứ Giuđa và thành Giêrusalem, giết hết các thủ lãnh trong dân, và cướp lấy của cải đem về cho vua ở Ðamas. Dù số người Syria chẳng bao nhiêu, nhưng Chúa đã trao vào tay họ dân đông vô số, vì chúng đã bỏ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ mình. Quân Syria cũng làm sỉ nhục vua Gioas. Khi họ bỏ vua mà đi, thì vua lâm trọng bệnh. Thần dân nổi dậy chống lại vua, để báo thù giòng máu của con tư tế Gioiađa. Họ giết vua ngay trên giường, và ông đã chết. Họ mai táng ông trong thành Ðavít, nhưng không chôn ông trong mồ các vua.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 4-5. 29-30. 31-32. 33-34

Ðáp: Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái (c. 29a).

Xướng: 1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.

2) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh. - Ðáp.

3) Nếu con cháu người bỏ không tuân luật pháp, và không ăn ở theo huấn lệnh của Ta, nếu chúng vi phạm những thánh chỉ, và không vâng giữ các chỉ thị của Ta. - Ðáp.

4) Ta sẽ dùng roi để phạt tội chúng, và Ta sẽ đánh đòn để sửa lỗi, nhưng Ta sẽ không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 24-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?

"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa. 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Ký Thác Sự Sống

 

Suy Niệm

 

Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XI hôm nay là đoạn cuối cùng của chương 6 (24-34), đoạn Chúa Kitô huấn dụ các tông đồ về lòng tin tưởng phó thác vào sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa bằng việc ưu tiên hóa những gì chính yếu liên quan đến phần rỗi và sự thánh hóa của con người. 

 

"Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?"


Để rồi, sau khi chứng minh cho các môn đệ biết các vị còn quí hơn loài động vật (như "chim trời"và thực vật (như "hoa huệ ngoài đồng") là những loài vô tri thua kém con người, "không gieo vãi, gặt hái, thu hoạch" hay "không lam lũ, không canh cửi", mà còn được Thiên Chúa chăm sóc cho, đến độ Salomon sang trọng cũng "không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó", Người đã khuyên các môn đệ rằng:

 

"Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: 'Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó". 

 

Sau cùng Người đã kết luận"Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

 

Cảm Nghiệm

 

Giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay về tinh thần tin tưởng phó thác cho Đấng Quan Phòng Thần Linh, bằng một đời sống khao khát thần linh và công chính trước nhan Ngài, bằng không, một khi lãng quên Thiên Chúa, từ bỏ Thiên Chúa hay coi thường Thiên Chúa, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của họ, con người sẽ chỉ gặp toàn là bất hạnh, bất mãn và bất an.

 

Điển hình là vua Gioas thuộc giòng dõi Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị đã nghe theo "các thủ lãnh Giuđa" "xua nịnh" đến độ "bỏ phế đền thờ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, để tôn thờ những cây cọc thiêng và các tượng thần". Thậm chí đã sát hại cả tiên tri của Thiên Chúa là Giacaria đã nhắn nhở họ: "Tại sao các ngươi lỗi phạm giới răn Chúa? Ðó là điều bất lợi cho các ngươi. Các ngươi đã bỏ Chúa thì Chúa sẽ bỏ các ngươi", bất chấp vị tiên trị là con của tư tế Gioiada, vị tư tế đã giúp phục hồi ngai vàng cho vị vua đã được cứu sống khỏi bị sát hại bởi bà nội hoàng thái hậu của vua: "Họ liền họp nhau chống lại người, và theo lệnh vua, họ ném đá người ở hành lang đền thờ Chúa".

 

Tình trạng vua Giuđa là Gioas và dân Giuđa theo đó đã từ bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, lại còn chống lại Ngài bằng cách sát hại sứ giả được Ngài sai đến nhắc nhở họ quay về với Ngài, cuối cùng đã phải lãnh nhận hậu quả tất yếu của mình, chung dân chúng cũng như riêng vua Gioas, như được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại:

 

"Hết năm ấy, quân đội Syria tiến lên đánh vua Gioas: họ đến xứ Giuđa và thành Giêrusalem, giết hết các thủ lãnh trong dân, và cướp lấy của cải đem về cho vua ở Ðamas. Dù số người Syria chẳng bao nhiêu, nhưng Chúa đã trao vào tay họ dân đông vô số, vì chúng đã bỏ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ mình. Quân Syria cũng làm sỉ nhục vua Gioas. Khi họ bỏ vua mà đi, thì vua lâm trọng bệnh. Thần dân nổi dậy chống lại vua, để báo thù giòng máu của con tư tế Gioiađa. Họ giết vua ngay trên giường, và ông đã chết. Họ mai táng ông trong thành Ðavít, nhưng không chôn ông trong mồ các vua".

 

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Thiên Chúa quên lời hứa của Ngài với vương tổ của vua Gioas là Đavít trong việc làm cho ngai báu của vua Đavít tồn tại vĩnh viễn, bất chấp những yếu hèn và vấp phạm của các vị vua kế vị vua, bởi Ngài lá Đấng bất biến, "không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta", đúng như nội dung của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:

 

 

1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.

3) Nếu con cháu người bỏ không tuân luật pháp, và không ăn ở theo huấn lệnh của Ta, nếu chúng vi phạm những thánh chỉ, và không vâng giữ các chỉ thị của Ta.

4) Ta sẽ dùng roi để phạt tội chúng, và Ta sẽ đánh đòn để sửa lỗi, nhưng Ta sẽ không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta.

 

 

 

Thánh Antôn ở Padua
(1195-1231)

ĐTC Biển Đức XVI: 10/2/2010 - Bài 105 về Thánh Anton Padua


Các phép lạ của thánh Antôn Padua

Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là “từ bỏ mọi sự và theo Ðức Kitô”, đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Ðức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Vị thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Ðào Nha, và tên rửa tội là “Ferdinand.” Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine và sau đó đã gia nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển hướng. Lúc bấy giờ, ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco – đó là Thánh Bernard và các bạn. Ferdinand khao khát được chết vì Ðức Kitô nên ngài gia nhập dòng Phanxicô. Lúc bấy giờ, dòng này mới thành lập và Thánh Phanxicô vẫn còn sống. Ferdinand lấy tên là “Antôn” và đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh.
Thầy Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Mãi cho đến khi có buổi lễ tấn phong, và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã được chọn để diễn giảng. Những năm tìm kiếm Ðức Kitô trong sự cầu nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần Khí dùng đến khả năng của thầy. Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc và từ đó trở đi, cho đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến nghe ngài giảng.
Ðược công nhận là một người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh và thần học, Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác. Kiến thức uyên thâm của thầy lại được Thiên Chúa dùng để rao giảng cho những người lạc giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy Antôn từ trần ở Arcella, gần Padua, nước Ý khi ngài ba mươi sáu tuổi. Chỉ một năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX phong Thánh.
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài. Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là “Tiến Sĩ Tin Mừng”, hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh.
Lời Bàn: Nhiều khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của chúng ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Ðó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn giúp chúng ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có thể đem lại cho đời, hơn là nhận được từ người đời.
Lời Trích: Trong một bài giảng, Thánh Antôn nói: “Các thánh giống như các vì sao. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải sẵn sàng hy sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một khi tâm hồn họ nhận ra đó là lời mời của Ðức Kitô”.

https://dongten.net/2019/06/12/hanh-cac-thanh-13-06-thanh-anton-padua/


Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”. Ngài là linh mục dòng Phanxicô, tiến sĩ Hội Thánh. Có lẽ, bạn đang đọc những dòng này, đã lần nào đó nhận được ơn lạ ngài ban sau khi khẩn cầu với Ngài. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên nhiều phép lạ …

 

THỜI THƠ ẤU


Antôn sinh vào tháng 8 năm 1195, tại Lisbon, kinh đô nước Bồ Đào Nha. Cha là ông Matinô, mẹ là bà Têrêsa. Hai ông bà thuộc hàng quý tộc, đầy lòng mộ đạo và kính mến Đức Mẹ cách riêng. Khi Antôn vừa bập bẹ, mẹ đã dạy cho cậu kêu cầu Thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cùng dạy cho một kinh kính Đức Mẹ mà Antôn hằng nhớ trọn đời.


Từ tấm bé, Antôn đã tỏ ra hiền lành, không thường chạy chới với trẻ lân cận. Cậu chỉ ở nhà với mẹ hoặc theo mẹ đi nhà thờ. Khi bà quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ thì cậu cũng chấp tay quỳ gối, chăm chú như người lớn vậy. Khi vừa đến tuổi khôn lớn, thì Antôn theo ơn Chúa Thánh Thần, đã khấn giữ mình trinh khiết trọn đời theo gương Đức Mẹ. Vì lòng bác ái nên cậu rất vui sướng khi được cha mẹ giao tiền, gạo giúp người nghèo.


Antôn được 10 tuổi thì cha mẹ gởi cho học trong nhà cha sở ở gần đó, ở chung cùng với một số thiếu nhi khác, nhưng Antôn trội hơn bạn bè về học hành, nết na và đạo đức. Nhất là cậu mến mộ việc phụng vụ, cậu giúp lễ, xông hương nghiêm trang, sốt sắng như thiên thần vậy. Vì thế, cậu được thầy thương bạn mến. Ma quỷ thấy vậy thì căm tức, toan hại cậu. Một hôm, cậu đang cầu nguyện trên bậc đá bàn thờ Đức Mẹ như thường lệ, bỗng quỷ lấy hình gớm ghiếc nhảy lên vai toan bóp cổ. Muốn kêu Giêsu Maria mà không kêu được, cậu liền lấy ngón tay vẽ dấu Thánh Giá vào bậc đá. Quỷ thấy vậy thì rút lui. Lạ lùng là dấu Thánh Giá ăn sâu vào đá, đến nay vẫn còn. Và khách hành hương hằng đua nhau đến tôn kính.

 

ANTÔN VÀO DÒNG VÀ LÀM LINH MỤC


Năm 15 tuổi, Antôn tỏ ý muốn dâng mình vào một tu hội, để tận tình phụng sự Chúa. Cha mẹ, bà con, bạn hữu đều ngăn cản vì cậu là trưởng nam, cần ở đời để nối dõi tông đường. Kẻ thì khuyên hãy giãn ra một thời gian để biết rõ Thánh ý Chúa hơn. Kẻ thì chê cười là dại dột, bỏ tiền tài danh vọng mà theo đường khắc khổ vô danh. Nhưng Antôn coi phú quý vinh hoa như phân bón, và cậu quyết chí chọn phần là dâng mình phụng thờ Chúa trọn đời. Và thế là một sớm kia, Antôn trốn nhà đến tu viện Augustin gần đó, xin vào tu. Bề trên xem danh tính người thì sẵn lòng tiếp nhận. Biết vậy, Antôn vui sướng dường nào! Chẳng bao lâu thầy đã quen nếp sống nhà dòng và trở nên khiêm nhường, phục tùng, chăm chỉ chẳng kém gì các thầy kỳ cựu. Bề trên sai thầy tới Cônimbriga. Tại đây thầy học hành rất thông giỏi và nổi tiếng nhân đức. Nhưng thầy luôn xưng mình là vô dụng, và chỉ muốn làm những công việc hèn hạ.


Sau khi khấn dòng, nhiệm vụ của thầy là coi sóc bệnh nhân. Thầy rất yêu thích nhiệm vụ này vì có dịp hãm mình và tỏ lòng yêu thương anh em. Một lần, nhân dịp Lễ Chúa Giáng Sinh, vì ngăn trở giúp bệnh nhân nên thầy không thể dự lễ chung với nhà dòng. Khi nghe chuông báo hiệu dâng Mình Thánh Chúa, thầy liền quì gối quay về phía nhà thờ. Bỗng nhiên bức tường ngăn cách giữa nhà thờ và phòng y tế nứt ra, dành chỗ cho thầy chiêm ngắm Mình Thánh Chúa trên bàn thờ …


Thầy có trí thông minh phi thường, hiểu thấu những lẽ cao siêu: nhớ dai những điều đã học chỉ một lần. Thầy chăm học lắm. Dù đêm dù ngày, thầy không rời sách. Tuy nhiên, thầy lấy việc đi đàng nhân đức làm trọng hơn nữa. Để tập đức khiêm nhường, việc hèn như làm bếp, quét nhà thầy đều tranh làm hết. Vì lòng bác ái, thầy xin được chăm sóc anh em bệnh tật. Có lần Chúa cho thầy lấy áo của thầy khoác áo cho bệnh nhân thì người ấy liền khỏi.


Năm thầy 25 tuổi, nghĩa là gần 10 năm tu trì, thầy đã vâng lời bề trên mà thụ phong linh mục.


Đang sống trong dòng Augustin, thì xãy ra vài biến cố làm cho thầy Antôn muốn đổi dòng. Số là tu viên Augustin có thông lệ bố thí tiền gạo cho người đến xin mỗi tuần một lần vào ngày thứ tư. Một hôm, thầy Antôn thấy hai tu sĩ Phan Sinh mặc áo vải thô, sắc mặt võ vàng, lưng đeo bị đến ăn xin thì thầy Antôn động lòng tôn kính, mến các thầy ấy, mà cho là kẻ có phước, vì đã bắt chước đức khó nghèo Chúa Giêsu cách trọn vẹn. Cũng độ ấy, có cuộc rước xác 5 Thánh tử đạo, là tu sĩ Phan Sinh từ Bắc Phi về nước Bồ Đào Nha. Cuộc khải hoàn ấy thật linh đình, long trọng, nhất là có nhiều kẻ ốm đau bệnh tật nhờ ơn các đấng ấy mà đã lành. Sự kiện này làm cho thầy Antôn càng trọng, càng mến dòng Phan Sinh và ao ước được gia nhập dòng ấy để truyền giáo và được phúc tử đạo. Nhưng nghĩ lại, bỏ dòng Augustin đã đào tạo nên mình thì mang tiếng là vô ơn, nên thầy ra sức xua đuổi ý tưởng ấy đi. Song càng xua đuổi thì nó càng trở lại mạnh hơn. Người lo lắng ngày đêm nên xin Chúa soi sáng cho biết Thánh ý Chúa. Một hôm, trong lúc Người đang quỳ cầu nguyện trước tượng chuộc tội, bỗng thấy thánh Phanxicô Khó Khăn, gương mặt sáng láng hiện đến bảo rằng:


– Hỡi Antôn, đừng lo lắng sợ hãi nữa. Chúa sai cha đến báo cho con biết Thánh ý Ngài muốn con vào dòng mà Ngài đã truyền cho cha lập. Cha sẽ làm cha con và con sẽ làm con cha.


Thánh Phanxicô biến đi rồi, thì thầy Antôn mừng rỡ hết sức và quyết theo ơn thiên triệu mới. Ngày hôm sau là ngày mùng 1 tháng 4, thầy Antôn từ tạ bề trên và bạn dòng mà sang tu viện Phan Sinh gần đó; liền được thâu nhận, cho mặc áo dòng và đổi tên là Antôn, vì trước đó tên Người là Phêđinăng.

 

SỰ CHUẨN BỊ CHO MỘT SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ


Thời gian đầu tại dòng Phanxicô, người ta chưa biết tiếng nhân đức và sự thông thái của Antôn, nên thầy được trao cho nhiệm vụ rửa bát đĩa và quét nhà. Mới vào dòng Phan Sinh được mấy tháng, thầy Antôn đã tình nguyện đi truyền giáo ở Bắc Phi, hầu thực hiện lý tưởng của mình. Bạn đồng hành là thầy Philiphê. Nhưng vừa đến nơi thì thầy Antôn ngã bệnh, nằm liệt bốn tháng tròn, chẳng hoạt động chi được. Khi được loan báo, bề trên dạy đưa thầy về chữa trị trong một tu viện Bồ Đào Nha. Trên đường đi gặp bão to gió lớn, nên tàu dạt vào đảo Sicilia nước Ý. Và từ đó, thầy Antôn không về đến quê hương được nữa. Trên đảo này có dòng Phan Sinh mới thành lập, còn thiếu thốn nhiều điều, nhất la nước uống. Đã đào nhiều nơi trong vườn mà không co nước. Thấy vậy, thầy Antôn liền cầu nguyện một lúc rồi chỉ một địa điểm trong vườn, tức thì gặp được mạch nước ngọt trong. Giếng ấy nay vẫn còn và người ta gọi là giếng Thánh Antôn. Cũng còn một quả chuông gọi là chuông Thánh Antôn do Người lưu lại; hễ gặp phong ba sấm sét thì thỉnh lên để cầu bình yên.


Ở đó dưỡng bệnh được hơn một tháng, thầy Antôn cùng với thầy Philiphê đi Asidi, cách xa 10 ngày đàng để dự Công đồng toàn dòng, dưới quyền chủ toạ là đấng sáng lập các bậc đàn anh trong dòng. Nhưng khi bế mạc, bề trên không cắt cử Người vào công tác nào vì thấy Người còn quá yếu. Đang khi Người bơ vơ, thì cha Casianô, bề trên dòng tại xứ Phêlixia gặp Người và hỏi:


– Thầy đã có bài sai chưa?


– Thưa cha, chưa. Thầy Antôn đáp.


– Thầy đã chịu chức linh mục chưa?


– Thưa cha rồi.


– Thầy có muốn đi với tôi chăng?


– Thánh ý Đức Chúa Trời muốn cho con đi đâu thì con đi đó.


– Vậy thì thầy hãy đi với tôi.


Thầy Antôn liền đi theo bề trên Casianô về tu viện xứ Phêlixia. Bề trên dạy Người rửa bát, quét nhà, dọn phòng các thầy. Người vui mừng lắm. Sau đó, được bề trên chấp thuận, Người lên hang núi cao mà ăn chay cầu nguyện trong vòng chín tháng, như các thánh tu rừng xưa. Đó là phương cách Chúa dùng để chuẩn bi cho Người rao giảng lời Chúa sau này.

 

NHÀ GIẢNG THUYẾT LỪNG DANH


Trong truyện các vĩ nhân, ta thường thấy rằng: xuyên qua một sự việc bất ngờ mà thiên hạ nhận ra thiên tài của các vị ấy. Trường hợp của Thánh Antôn cũng vậy. Năm ấy, Đức Giám Mục thành Phôli truyền chức linh mục cho nhiều tu sĩ hai dòng Đa Minh và Phan Sinh, các bề trên đều đến dự lễ, trong số đó có bề trên Casianô mà thầy Antôn tháp tùng.


Trong lễ truyền chức, Đức Giám Mục vốn quen giảng một bài trọng thể. Nhưng hôm ấy ngài mệt không giảng được nên có lời nhờ các bề trên trong dòng giảng thay. Các vị đều xin kiếu vì chưa kịp soạn bài. Bấy giờ, bề trên Casianô gọi thầy Antôn và truyền cho Người phải giảng. Người cũng xin kiếu, vì từ thuở vào dòng chưa giảng bao giờ. Nhưng vì bề trên cứ yêu cầu, nên Người vâng lời lên tòa giảng ngay. Thấy Người đứng trên tòa giảng, các tu sĩ đều ái ngại cho Người. Một kẻ chỉ quen quét nhà, rửa bát, mà dám lên giảng ư? Nhưng khi Antôn giảng thao thao bất tuyệt về đề tài: “Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết vì lòng thương chúng ta” thì mọi người mới ngẩn ra trước tài hùng biện của Người. Người đưa ra những lý mạnh, lẽ cao; dẫn chứng lời Thánh Kinh, lời giáo phụ một cách mạch lạc, chính xác như thể là bậc thầy chuyên về giảng thuyết xưa nay vậy. Giọng Người thì âm vang, lời Người thì sốt sắng thấu tận lòng người nghe. Đức Giám Mục và toàn thể cử tọa đều cảm động ra nước mắt và nói xưa nay chưa được nghe đấng nào giảng thấm thía đến như vậy.


Dòng Phan Sinh vui mừng có một nhà hùng biện sẽ làm sáng danh Chúa. Bề trên Casianô liền ban bài sai cho phép thầy được đi giảng khắp miền lân cận. Đồng thời người cũng loan báo cho thánh Phanxicô biết nữa. Thánh phụ mừng lắm, ngước mắt lên trời tạ ơn Chúa: “Chúa đã ban cho chúng con một người xuất sắc”. Rồi truyền cho thầy Antôn phải dạy thần học cho các tu sĩ ở dòng. Người vâng lời, đi dạy thần học trong các tu viện Phan Sinh thuộc nước Ý và nước Pháp rất thành công.


Nhưng Thiên Chúa chọn Người làm đèn sáng thiên hạ, nên chẳng bao lâu, thánh tổ phụ truyền cho Người giảng tại nước Ý và nước Pháp cho kẻ tội lỗi, người rối đạo hối cải ăn năn. Sứ vụ tông đồ ấy, Người đã hoàn thành với vô vàn hiệu quả thiêng liêng, trong vòng 10 năm từ khi Người 25 tuổi cho đến khi qua đời. Bấy lâu trước, thiên hạ chưa từng thấy đấng nào giảng sốt sắng và làm nhiều phép lạ cho bằng (có lẽ chỉ có thánh Vinh Sơn, hai thế kỷ sau mới sánh được với thánh Antôn). Thầy Antôn lừng danh khắp mọi nơi. Ai cũng háo hức muốn xem thấy mặt, cũng muốn lắng nghe lời Người. Khi được tin Người đến đâu thì người nông thôn, dù ngày mùa, cũng bỏ hết công việc; người thành thị, dù đang buôn bán, cũng đóng hết cửa hàng, để tuông đến nghe thầy giảng, có kẻ đi suốt cả đêm mà đến. Số thính giã từ một vạn đến ba bốn vạn người. Thầy phải giảng ngoài trời: ở công viên, giữa chợ hoặc ngoài đồng. Ngoài tài hùng biện tự nhiên, dường như thầy còn có sự hấp dẫn siêu nhiên nữa. Khi thầy dừng giảng, thì người ta tưởng như nghe một vị thiên thần nói với mình. Lý lẽ mạnh, cùng giọng thiết tha của thầy làm cho những lòng chai đá cũng mềm ra. Biết bao kẻ có tội ăn năn, người rối đạo trở lại, kẻ thù địch làm hòa, người bất công trả của. Chúa cũng cho thầy làm phép lạ nhãn tiền để khuất phục kẻ cứng lòng.


Trải qua 15 năm lưu thuyết, khắp các vùng hai nước Pháp và Ý, thầy Antôn cùng với lời giảng đã làm vô vàn phép lạ đến nỗi người đương thời gọi thầy là “Ông thánh hay làm phép lạ”. Thiên Chúa đã dùng Antôn làm nhiều phép lạ để xác nhận những chân lý và mầu nhiệm trong đạo Công Giáo.


Một người giầu có, nhưng sống đời hà tiện, tham lam của cải. Sau khi ông chết, cha Antôn trưng lời Chúa Kitô đã phán: “của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đo?, đồng thời sai người đi mở két vàng của người quá cố thì thấy một trái tim bằng thịt đang nằm chình ình trong két! Vàng bạc bạn ở đâu, con tim bạn cũng ở nơi đó!


Một lần cha Antôn giảng về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Có người lạc đạo không tin, đến thưa với Ngài:


-Nếu xem thấy phép lạ, tôi mới tin!


Cha Antôn nói với anh:


-Hãy để con lừa của anh nhịn đói 3 ngày, rồi đem nó tới cửa nhà thờ, anh sẽ thấy phép lạ.


Ðúng ngày hẹn, người kia đem còn lừa đã nhịn đói ba ngày và thúng đồ ăn đến trước cửa nhà tờ, thấy thúng đồ ăn trước mắt, nó vội vàng chạy tới ăn lấy ăn để. Nhưng vừa lúc đó, cha Antôn kiệu Mình Thánh Chúa tới cửa nhà thờ. Lạ lùng thay, con lừa đột nhiên bỏ ăn, đến trước Thánh Thể Chúa: Nó quì gối, cúi đầu lậy ba lần. Người lạc đạo đã tin, và sau đó trở lại Công Giáo.

 

http://memaria.net/eBookThanhAnton_Padua.html



Các Phép Lạ Của Thánh Antôn Padua

 

 

Lời giảng nảy lửa của thánh Antôn có phép lạ Chúa đi kèm, nên làm cho nhiều kẻ bỏ đạo, được ăn năn, người lạc đạo trở lại đường ngay.

1. Cá về nghe giảng.

Tại thành Điminô, nước Ý, có nhiều kẻ lạc đạo, nhưng không muốn đi nghe thầy Antôn giảng, sợ kẻo phải trở lại chăng. Một hôm, do ơn Chúa thúc giục, thầy ra bờ biển gọi các cá đến nghe giảng, cá kéo đến rất nhiều nhưng lớp lang thứ tự, nhỏ trước lớn sau. Ngóc đầu lên khỏi mặt nước, chúng đều hướng về thầy Antôn, người liền bảo cá rằng:

“Hỡi loài cá mú! Hãy tạ ơn ngợi khen Thiên Chúa. Vì Ngài đã tạo dựng nên bay: đã ban biển cả mênh mông cho bay bơi lội, đã khoét hang hóc an toàn cho bay ẩn mình lúc phong ba bão táp. Đại hồng thuỷ đã tiêu diệt loài người, loài vật, nhưng Chúa vẫn bảo tồn bay, cho bay được sống, được sinh sản thêm nhiều và ban lương thực hàng ngày cho bay. Vì thế hỡi loài cá mú! Bay phải tạ ơn Thiên Chúa chẳng cùng ”.

Khi được tin cá đến nghe thầy Antôn giảng, thì dân thành nô nức kéo ra. Họ thấy khi thầy Antôn giảng, cá cất đầu, hà hơi, vẫy đuôi tỏ ý vui sướng, tán thành. Sau khi ban phép lành và cho cá giải tán, thầy Antôn quay lại bảo kẻ rối đạo rằng:
“Anh xem đó! Cá là loài vô tri mà còn biết nghe lời Thiên Chúa; mà anh em là loại hữu tri, đã được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Giêsu, mà chẳng muốn nghe lời Thiên Chúa, chẳng muốn phụng sự kính mến Ngài hay sao?”. Từ đó về sau, kẻ rối đạo siêng năng đến nghe lời thầy Antôn giảng, và có nhiều người quy hồi chính đạo.

2. Thuốc độc hại.

Cũng tại thành Điminô, có kẻ rối đạo muốn sát hại thầy Antôn cho bõ ghét, nó mời thầy đến dùng bữa và nó bỏ thuốc độc vào. Vốn không quen đi ăn tại nhà ai: nhưng lần này thầy nhận lời và muốn có dịp mà khuyên răn gia chủ.

Nhưng khi mới ngồi bàn ăn thì Chúa soi sáng cho Người biết mưu sâu chước độc của nó. Người khiển trách nó rằng: “Anh làm thế không tốt đâu! Hoặc giả anh nghĩ: tôi chết đi thì không còn có ai giảng đạo nữa chăng?” thấy mưu sâu mình bị lộ, anh chủ nhà chữa thẹn rằng: “Tôi không dụng tâm giết thầy nhưng có ý thử xem lời Kinh Thánh nói rằng: “kẻ tin Ta dù có uống thuốc độc cũng không hại gì” có thật vậy hay là không thôi. Nếu thầy ăn của độc này mà vô sự thì tôi sẽ tin theo đạo thầy”. Thầy Antôn liền làm dấu thánh giá trên thực phẩm rồi ăn ngay, mà bằng an vô sự. Kẻ rối đạo thấy vậy thì trở lại thật.

3. Ngựa đói chê cỏ.

Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:

– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.

Thầy Antôn liền hỏi:
– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?

– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó bỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.

Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm.

Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.

Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

Có những sự kiện tỏ ra thầy Antôn được Thiên Chúa thương yêu chừng nào thì ma quỷ ghen ghét chừng ấy.

4. Chúa Hài đồng hiện ra.

Trong khi lưu thuyết trên nước Pháp; một hôm thầy trọ đêm trong phòng vắng vẻ của một nhà kia. Bỗng nửa đêm phòng thầy sáng rực. Chủ nhà mon men tới xem thì thầy Người đang ngất trí cầu nguyện và Chúa Hài đồng hiện đến ngự trị trên cánh tay Người vẻ đơn sơ, âu yếm để cho Người ẵm bồng và hôn kính.

Rồi chủ nhà nhẹ nhàng rút lui, tưởng thánh nhân không biết. Chẳng dè, sáng hôm sau, trước khi ra đi, Người dặn chủ nhà không được tiết lộ việc ấy ra. Vâng theo lời dặn, ông ấy giữ kỹ điều bí mật. Đến khi thánh nhân qua đời rồi, ông mới tỏ ra vinh danh của ông thánh, vì Người đã được Chúa Giêsu yêu mến như vậy. Do tích này mà tượng thánh Antôn thường có bồng Chúa Hài đồng trên tay.

5. Quỷ quấy phá thánh nhân.

Thầy Antôn làm sáng danh Thiên Chúa và cứu vớt nhiều linh hồn, nên quỷ giận ghét Người lắm. Chẳng những nó cố sức ngăn cản công việc của Người mà có toan giết, hãm hại Người nữa.

Một hôm, người vừa ngả mình được một lát, quỷ liền xông vào bóp cổ Người, chặt đến nỗi, nếu như không được Đức Mẹ cứu kịp thời, thì Người đã tắt thở. Nhưng Người mau mắn làm dấu Thánh Giá trên mình và đọc thầm trong trí Kinh Đức Mẹ mà Người vốn thuộc từ bé, thì quỷ buông Người ra và biến đi.

Một đêm khác, thầy Antôn đang cầu nguyện nơi hang đá kia, bỗng chốc quỷ lấy hình hung ác hiện ra, giơ tay lên toan đánh chết Người, Người liền đọc Kinh Đức Mẹ, thì Đức Mẹ hiện ra sáng chói trên đám mây, giữa muôn vàn thiên thần, quỷ tức thì sợ hãi trốn mất dạng. Về sau, người ta xây một bàn thờ trong hang ấy để tạ ơn Đức Mẹ, bàn thờ ấy ngày nay vẫn còn và người ta năng đến kính viếng.

6. Ơn nói tiên tri.

Tại thành Anisi, nước Pháp, có một người đàn ông giàu sang, nhưng bê bối về đạo vợ chồng. Một hôm, thầy Antôn gặp ông và nói: “Tôi quý ông, vì tôi biết sau này ông sẽ sửa mình, đi truyền giáo và được phúc tử đạo nữa”.

Người ấy nghe nói vậy thì cúi đầu cười rồi bỏ đi. Chẳng bao lâu, ông ấy được ơn hối cải: lại nhiệt thành theo Đức Giám Mục Giáo Phận sang giảng đạo cho người Hồi giáo tại Đất Thánh được nhiều thành quả và sau cùng được phúc tử đạo cùng với Đấng Giám Mục ấy .

Cũng tại thành Anisi, có một bà đến xin làm phép thai, thầy Antôn bảo: “bà hãy vui mừng, con bà sẽ gọi là Philliphê, sẽ tu Dòng Phan Sinh và nên cao trọng trước mặt Chúa vì phúc tử đạo”.

Mọi việc xảy ra đúng như thầy báo trước. Người con ấy đã làm linh mục Phan Sinh, sang Đất Thánh lo việc đạo, chẳng may bị người Hồi bắt sống cùng nhóm bạn đông lắm. Bấy giờ quân Hồi cho các giáo hữu chọn một trong hai điều này: một là bỏ đạo mình mà theo đạo Hồi, hai là bị xử chém tất cả. Thầy Philliphê sốt sắng khuyên anh em thà chết hơn là bỏ đạo Đức Giêsu.
Và mọi người cùng với thầy giữ vững đức tin xưng đạo ra, để lãnh lấy nhành thiên tuế tử đạo.

Thầy Antôn hằng hiếu thảo với cha mẹ và đền đáp kẻ làm ơn cho mình.

7. Cứu cha khỏi oan khổ.

Ta không có tài liệu để biết cách Người hiếu thảo thế nào với cha mẹ, mà Người hằng thương nhớ vô cùng; nhưng nói về cha thì có tích sau đây:

Cha Người là ông Matinô, là quản khố Nhà Nước tại kinh thành Lisbon . Ông là người công minh, chính trực, không hề tơ hào đến của cải nhà Vua, nhưng có tính dễ dãi thương người. Ông cho mấy bạn đồng liêu vay tạm của kho, mà không bắt làm khế tự. Đáng lẽ những người ấy biết ơn ông mới phải. Nhưng than ôi, đời này biết ơn thì hiếm lắm! Họ đã không trả nợ, lại cùng nhau tố cáo là phân tán của kho.

Nhà Vua cho mở cuộc điều tra. Ông Matinô khai đúng sự thật, nhưng ban điều tra không tin, vì khẩu thuyết vô bằng. Nên chẳng những phải bồi hoàn, mà còn bị tù tội nữa.

Được tin ấy, thầy Antôn cầu xin Chúa thương cứu giúp cha mình cách nào. Bỗng Thiên Thần đem Người từ nước Ý về nước Bồ Đào Nha trong nháy mắt. Người vào toà án nơi đang xử cha Người. Người liền nói cho các quan biết tên những kẻ đã vay của kho, mỗi người là bao nhiêu, rồi cho đòi chúng đến. Trước uy quyền của thánh nhân, chúng đã thú nhận mọi sự và cha Người được minh oan.

Nhưng chưa hết, ông Matinô còn gặp một vụ khó khăn lớn hơn thế nữa. Số là dân thành đánh nhau làm cho một người mất mạng. Để thoát tay thần công lý, chúng lén chôn xác nạn nhân vào vườn nhà ông Matinô và vu oan cho ông tội giết người. Tòa luận cho Matinô và một tên đầy tớ của ông phải án tù. Bấy giờ, thầy Antôn đang ở nước Ý, được Thiên Thần mang ngay về thành Lisbon, Bồ Đào Nha, chính lúc cha Người bị điệu ra pháp trường. Người liền bảo đưa quan tài người chết đến, thầy sấp mình cầu nguyện rồi lấy giọng oai nghiêm bảo kẻ chết rằng: “Nhân danh Chúa Giêsu, ta truyền cho ngươi sống lại và nói cho mọi người ở đây ai là người giết ngươi”.

Người chết liền sống lại và nói rõ ràng: “Không phải ông Matinô giết nhưng chính kẻ vu khống đã giết tôi”. Các quan tòa liền thả ông Matinô và người gia bộc đồng thời lên án tù cho kẻ vu cáo.

8. Ly vỡ lại lành.

Thầy Antôn hay đền đáp cho kẻ làm ơn cho mình. Trên đường từ Pháp về Ý, Người cùng một bạn đồng hành vào trọ đêm trong nhà của một bà đạo đức và nghèo khó. Bà chỉ mượn hàng xóm một cái ly cho hai người, thế mà tu sĩ đồng hành lại đánh rơi vỡ nát. Đã vậy, thùng rượu vang dưới nhà lại quên khóa vòi lại, chảy tràn lan. Hai tai vạ một trật, bà chịu không nổi liền đem tâm sự với thầy Antôn.

Người vừa cúi đầu cầu nguyện thì bà thấy các mảnh vỡ đã ráp lại và cái ly trở lại nguyên lành như trước.
Bà liền nghĩ: “Đấng làm ly vỡ lại lành, ắt cũng có phép làm cho vò rượu vơi lại đầy như cũ”. Cho nên, bà chạy xuống nhà xem sao, thì quả nhiên thấy vò rượu đã đầy. Bà liền chạy lên quỳ gối tạ ơn ông thánh.

Thanh Huyền

Https://Conggiaovn.Com/Cac-Phep-La-Cua-Thanh-Anton-Padua/

 

Mặt trước của mộ Thánh Antôn Padua trong Đền Thờ Thánh Antôn ở Padua Bắc Ý

 

3 khung chính lưu giữ các thánh tích quí báu nhất của vị linh mục tu sĩ Antôn Padua Dòng anh em hèn mọn Thánh Phanxicô Assisi,

trong đó, ở khung giữa, còn có hàm của ngài, lưỡi của ngài và thanh quản của ngài.

Anh chị em trong phái đoàn hành hương TĐCTT ngày 9/11/2021 đang chiêm ngắm và chụp hình các thánh tích của Thánh Antôn Padua.

 

(bé tĩnh chụp 2 trong nhiều tấm hình lưu niệm ở đây dịp Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh Ý quốc và Roma 12 ngày 8-19/11/2021)