Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần
XIX Thường Niên C và Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: Kn 18, 6-9
"Như Chúa đã làm hại
đối thủ thế nào, Chúa cũng đã làm cho chúng tôi được vẻ vang như
vậy".
Trích sách Khôn Ngoan.
Chính đêm ấy, cha ông
chúng ta đã biết trước, để biết chắc mình đã tin tưởng vào lời
thề nào mà được can đảm. Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát
những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù. Vì như Chúa đã
làm hại đối thủ thế nào, Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi
được vẻ vang như vậy.
Vì những con cái thánh
thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ, và đồng tâm
thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính
sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã
xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 32, 1 và 12. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Phúc
thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).
Xướng: 1) Người hiền đức,
hãy hân hoan trong Chúa; ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay.
Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm
cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.
2) Kìa Chúa để mắt coi
những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của
Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong
cảnh cơ hàn. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng con mong
đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy
Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con
tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Dt 11, 1-2, 8-19
"Ông mong đợi thành trì
có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin
là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều
bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng
tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp
lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia
nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông
đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người,
sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng
thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có
nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà
Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin
rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người,
mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số
như sao trên trời và như cát bãi biển.
Chính trong đức tin mà tất
cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng
được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng
mình là lữ khách trên mặt đất. Những ai nói những lời như thế,
chứng tỏ rằng mình đang đi tìm quê hương. Giá như họ còn nhớ đến
quê hương dưới đất mà họ đã lìa bỏ, chắc họ có đủ thời giờ trở
về. Nhưng hiện giờ họ ước mong một quê hương hoàn hảo hơn, tức
là quê trời. Vì thế, Thiên Chúa không ngại để họ gọi mình là
Thiên Chúa của họ, vì Người đã dọn sẵn cho họ một thành trì.
Nhờ đức tin, khi bị thử
lòng, Abraham đã dâng Isaac. Ông hiến dâng con một mình, ông là
người nhận lãnh lời hứa, là người đã được phán bảo lời này:
"Chính nơi Isaac mà có một dòng dõi mang tên ngươi". Vì ông nghĩ
rằng Thiên Chúa có quyền làm cho kẻ chết sống lại, do đó, ông đã
đón nhận con ông như một hình ảnh.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Dt
11, 1-2, 8-12
"Ông mong đợi thành trì
có nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, đức tin
là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều
bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng
tốt.
Nhờ đức tin, Abraham đáp
lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia
nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông
đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người,
sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng
thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có
nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập.
Nhờ đức tin mà ngay cả bà
Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin
rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người,
mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số
như sao trên trời và như cát bãi biển.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: không ai đến
được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 12, 32-48
"Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ rằng: "Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha
các con đã vui lòng ban nước trời cho các con. Các con hãy bán
những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi
không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm
cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các
con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.
"Các con hãy thắt lưng,
hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi
ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho
những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật
các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu
hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như
vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này
là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không
để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ
nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi
người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín
khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân
phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy
nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó
trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong
lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn
uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ,
vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số
phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình
mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị
đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự
đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai
nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều,
thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Lc
12, 35-40
"Các con hãy sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy
sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để
khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ
nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ
thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu
canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc
cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà
biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch
nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không
ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Đức Tin: Hai yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly
Có thể nói chủ đề của chung Phụng Vụ Lời Chúa (bao gồm cả Bài
Đọc I, Đáp Ca, Bài Đọc II, Câu Alleluia và Bài Phúc Âm) cho Chúa
Nhật XIX Năm C hôm nay là đức tin. Một khi nói tới đức tin là
nói tới ít là hai yếu tố bất khả thiếu và bất khả phân ly sau
đây: thứ nhất là yếu tố chấp nhận thực tại thần linh chân thật
bằng tất cả lòng cậy trông mong đợi và thứ hai là yếu tố bất
khuất trước tất cả mọi thách đố cho dù đầy khổ đau và tăm tối
mịt mù đối với bản tính tự nhiên của con người.
Trước hết, đức tin liên quan tới yếu tố chấp nhận thực tại thần
linh chân thật bằng tất cả lòng cậy trông mong đợi, đúng như câu
định nghĩa về đức tin trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở Bài Đọc
II hôm nay: "đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong
đợi, là bằng chứng điều bí ẩn". Đó là lý do trong Bài Đọc I
hôm nay chúng ta thấy: "Dân Chúa đã mong đợi sự giải thoát
những người công chính và sự tiêu diệt kẻ thù". Tại sao?
Bởi họ tin rằng: "Vì như Chúa đã làm hại đối thủ thế nào,
Chúa cũng kêu gọi để làm cho chúng tôi được vẻ vang như vậy".
Bài Đáp Ca hôm nay, ở câu xướng thứ 3, cũng
chất chứa yếu tố tin tưởng cậy trông và mong đợi: "Linh hồn
chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở
chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con,
theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài".
Sau nữa, đức tin liên quan tới yếu tố bất khuất trước tất cả mọi
thách đố cho dù đầy khổ đau và tăm tối mịt mù đối với bản tính
tự nhiên của con người. Điển hình nhật là cặp tổ phụ Abraham
liên quan đến việc rời bỏ nơi đang ở đến một nơi có vẻ bất định,
và Sara liên quan đến việc sinh nở ở vào tuổi bất khả thi, trong
Bài Đọc I hôm nay:
"Nhờ đức tin, Abraham đáp
lại tiếng Chúa gọi, để ra đi đến xứ ông sẽ được lãnh làm gia
nghiệp, và ông ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông
đến cư ngụ trong đất Chúa hứa, như trong đất khách quê người,
sống trong lều trại, cũng như Isaac và Giacóp, những kẻ đồng
thừa tự cùng một lời hứa. Vì chưng, ông mong đợi thành trì có
nền móng mà Thiên Chúa là kiến trúc sư và là Ðấng sáng lập. Nhờ đức tin mà ngay cả bà
Sara son sẻ được sức mang thai, mặc dầu bà đã già, bởi vì bà tin
rằng Ðấng đã hứa sẽ trung tín giữ lời. Vì thế, do tự một người,
mặc dầu người đó như chết rồi, mà có một dòng dõi đông đúc vô số
như sao trên trời và như cát bãi biển".
Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những liên quan đến yếu tố lòng mong
đợi "cầm đèn cháy sáng trong tay" và việc chờ đợi "chủ
đi ăn cưới về", mà còn liên quan đến yếu tố "thắt lưng"
bất khuất như những gì được Chúa Giêsu nói về dụ ngôn đầy
tớ chờ chủ về để dạy cho các môn đệ của Người "hãy sẵn sàng:
vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến" như
sau: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong
tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về
gõ cửa, thì mở ngay cho chủ".
Ở trong dụ ngôn đầy tớ tỉnh thức chờ chủ về đây có một chi tiết
cho thấy không phải chỉ có đầy tớ mới cần tin tưởng cậy trông mà
chính chủ nhà còn tin tưởng cậy trông đầy tớ hơn ai hết. Ở chỗ,
vị chủ nhà này đã trao toàn quyền cho đầy tớ của ông, bao gồm cả
quyền đóng mở cửa nhà, đến độ là chủ mà ông cũng chẳng có chìa
khóa chính - master key - để ông có thể ra vào ngôi nhà do ông
sở hữu một cách tự động và vào bất cứ lúc nào.
Chưa hết, đối với những người đầy tớ được ông là chủ tin tưởng
như thế nếu biết ý thức và đáp lại lòng tin của ông một cách
xứng đáng, bằng cách liên lỉ trông đợi ông, gắn bó với ông, phục
vụ ông như lòng ông mong muốn qua nhiệm vụ được ông trao phó,
thì những người đầy tớ này thật có phúc, như chính lời Chúa
trong bài Phúc Âm hôm nay phán về họ: "Phúc cho những đầy tớ
nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ
thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu
canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc
cho các đầy tớ ấy".
"Chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ
chúng" đây có nghĩa là gì, nếu không phải là thành phần đầy
tớ trung tín này sẽ được Người thanh tẩy để xứng đáng dự phần
với Người:
"Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được chung
phần với Thầy" (Gioan 13:8), như Người quả thực đã
làm việc này cho chung tông đồ đoàn trước Bữa Tiệc Ly:
"Bấy giờ Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy
khăn mà thắt lưng. Rồi
Ðức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và
lấy khăn thắt lưng mà lau" (Gioan 13:4-5).
Mà thực tại thần linh là đối tượng chính yếu của đức tin đây là
gì, nếu không phải là Thiên Chúa, Đấng tỏ tất cả mình ra qua
chính Con của Ngài là "Lời đã hóa thành nhục thể"
(Gioan 1:14) cũng là đối tượng của đức tin, một Người Con đã
tuyên bố trong câu Alleluia hôm nay: "Thầy là đường, là sự
thật và là sự sống: không ai đến được với Cha mà không qua
Thầy". Như thế, nếu tin Thiên Chúa thì cũng tin Con Ngài
cùng với những gì Con Ngài nói và làm trên trần gian này, và
ngược lại, nếu
tin Con của Ngài thì cũng chính là tin Ngài vậy.
Nếu đối tượng của đức tin là chính
Chúa Kitô, Vị Thiên Chúa hóa thân làm người, thì một khi được
hiệp nhất nên một với Người là bấy giờ ở nơi Kitô hữu đầy tớ
trung tín hạt cải đức tin nhỏ
nhất trong các hạt đã đạt tới tấm vóc viên mãn nhất của nó, ở
chỗ nó trở thành một cây vĩ đại, đến độ có sức thu hút được các
chim trời là các linh hồn đến làm tổ nơi họ (xem Mathêu
13:31-32), nghĩa là các linh
hồn tìm thấy ơn cứu độ của Chúa Kitô nơi họ, một Chúa Kitô sống
trong họ bằng đức ái trọn hảo của họ.
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo; Thánh
Catejano, linh mục (7/8)
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo
Thánh XISTÔ II Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo
Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo hoàng, kế
vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con
người bách hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh
Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài đã
tránh được một cuộc ly khai khi để cho các Giáo hội địa
phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo
lạc giáo.
Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo hoàng Xystô đã
bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của
Ngài. Các Kitô hữu Roma đã bị binh lính đột kích trong khi
đang cử hành thánh lễ tại hang toại đạo Callistô. Để khỏi bị
bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu chết. Ngài bị
chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7
vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và
Stêphanô. Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và
bị chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo Praetextato.
Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương tâm như vậy
đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi.
Ngài được mai táng trong hầm mộ giáo hoàng tại chính nơi
Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có lẽ đã được Đức
Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn được tôn
kính cho đến ngày nay.
http://conggiao.info/thanh-xisto-ii-giao-hoang-va-cac-ban-tu-dao-d-17667
Thánh Sixtô II và các bạn tử đạo
Thánh Sixtô II là công dân thành Athena, theo học và tốt
nghiệp trường đại học triết lý tại Hy Lạp, được bầu làm
giáo hoàng ngày 31.8.257.
Trở ngại đầu tiên của Giáo Hoàng Sixtô II là phải bảo vệ
đức tin Công giáo trước những lầm lạc mà các bè phái lạc
giáo, ly giáo gieo rắc trong Giáo hội. Ngoài ra, ngài đã
khôn ngoan dàn xếp một cách ổn thỏa các ý kiến về phép
Rửa Tội giữa các giám mục và giáo sĩ, nhờ vậy toàn thể
giáo sĩ và giáo dân cùng hiệp lực chung xây dựng Giáo
hội. Con thuyền Giáo hội còn bị phong ba bão táp trước
sức tấn công của vua Valêrianô, một bạo vương luôn muốn
tróc nã và hành quyết các tông đồ của Chúa, ngăn cấm
không cho những người Kitô hữu tụ họp và ra lệnh sát hại
các giám mục, linh mục và phó tế.
Một lần kia, thánh Sixtô II cùng với bốn phó tế bị phát
hiện khi đang dâng thánh lễ tại hầm mộ của thánh
Calistô. Ngài bị trảm quyết cùng với các phó tế Janvier,
Magne, Vicentê và Etienne vào ngày 6.8.258. Ngoài ra,
thầy Félicissime và Agapit cũng đã bị bắt và bị xử chém
tại nghĩa trang Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị
hành hình và chết vào bốn ngày sau.
Thánh Sixtô II được an táng ngay trong hầm mộ và trở
thành vị Giáo hoàng thứ hai được nhiều người sùng kính
nhất sau thánh Phêrô.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-sixto-ii-va-cac-ban-tu-dao_a7694
Thánh Catejano, linh mục
Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm
linh cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các
mục tử thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà
không hoạt động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân
chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự
thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn
cảnh này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác
đã phản ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh
cầu của họ không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther,
khi lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội,
ngài đến Rôma năm 1523 — không phải để trình lên đức giáo hoàng
hay đấng có quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên
Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công
việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi
và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở
Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng
Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu
giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở
Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người
nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương
mẫu anh hùng.
Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân
trong hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa
trên đời sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các
thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời
thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ
nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm
sóc mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc
của đời sống mục vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng
Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt
chân đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống
đối từ các giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương
mẫu đời sống thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà
nhiều người đã hoán cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan
lâm trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc
giường gỗ thô thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều
thào, “Chúa Cứu Thế chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết
trên tấm gỗ này.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.
Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố
gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này;
nhưng trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm
thấy Ngài.”
https://dongten.net/2019/08/06/hanh-cac-thanh-07-08-thanh-cajetan/
https://giaophanvinhlong.net/thanh-cajetan-14801547.html
https://www.hddaminhthanhlinh.net/a7332/7-thang-tam-thanh-cajetan-1480-1547-
Thánh Cajêtan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là
con trai của một bá tước. Cajêtan tốt nghiệp trường đại học
Pađua với văn bằng cử nhân lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó,
Cajêtan phục vụ tại văn phòng của giáo triều Rôma. Cajêtan thụ
phong linh mục năm 1516. Rồi ngài trở về thành phố quê hương
Vicenza và làm việc mục vụ tại đây. Dù cho những bạn bè quý tộc
của Cajêtan ra sức phản đối và giận dữ, thánh nhân vẫn tham gia
với nhóm người khiêm tốn, chuyên phục vụ các bệnh nhân và những
người nghèo khổ. Cajêtan đi khắp thành phố tìm kiếm những người
bất hạnh và chính ngài đã tự phục vụ họ. Cajêtan vào bệnh viện
săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh tởm nhất. Tại các
thành phố khác, thánh Cajêtan cũng làm các việc từ thiện ấy.
Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng lãnh nhận
bí tích Thánh Thể. Ngài nói: “Tôi sẽ không bao giờ vui sướng cho
tới khi nào được thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh nhận
Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm hở vui mừng, chứ không lo buồn tủi
hổ.”
Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajêtan đã thiết lập một
tu hội giáo sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin,
chuyên đi thuyết giảng. Họ khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh
nhận bí tích Thánh Thể, giúp bệnh nhân và làm những công việc từ
thiện khác.
Thánh Cajêtan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối
cùng, thánh nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác
sĩ khuyên ngài nên dùng nệm êm. Nhưng Cajêtan nói: “Đấng Cứu
Chuộc tôi đã chết trên cây thập giá. Vậy ít ra, hãy để tôi được
chết trên tấm gỗ này!” Cajêtan về trời ngày mùng 7 tháng Tám năm
1547 tại thành phố Napôli. Tới năm 1671, đức thánh cha Clêmentê
X tôn phong Cajêtan lên bậc hiển thánh.
Để noi
gương vị thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm
trung tâm đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh
Cajêtan giúp chúng ta biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể như
ngài.
Biên
dịch: Đa Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC
http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4555-thanh-cajetan.html
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
1, 2-5. 24 - 2, 1a
"Ðây là hình lạ trông
giống vinh quang của Chúa".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Ngày mồng năm trong tháng,
năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế
Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính
tại đây, bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.
Tôi nhìn thấy có một cơn
gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa
bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu
lửa như vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con
vật hình dáng giống như hình người.
Và tôi nghe tiếng cánh của
chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng
đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi
chúng dừng lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có
tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì chúng dừng lại và
xếp cánh xuống.
Và trên không trung, trên
đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như
chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như
hình người. Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong,
tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở
xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như
cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu
sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của
Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt xuống đất.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd
Ðáp: Trời
đất đầy vinh quang của Người.
Hoặc đáp: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa
từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên
thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo
thiên binh. - Ðáp.
2) Quân vương địa cầu và
tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các
thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn
con trẻ. - Ðáp.
3) Họ hãy ca tụng danh
Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn
lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. -
Ðáp.
Alleluia:
Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu
ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm:
Mt 17, 21-26
"Họ sẽ giết Người, nhưng
Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ và Chúa
Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Con
Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày
thứ ba, Người sẽ sống lại". Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.
Khi các ngài đến
Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi
rằng: "Thầy các ông không nộp thuế "đền thờ' sao?" Ông nói: "Có
chớ".
Khi ông về đến nhà, Chúa
Giêsu hỏi đón trước rằng: "Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần
gian thu thuế má hạng người nào? Ðòi con cái mình hay người
ngoài?" Ông thưa rằng: "Ðòi người ngoài". Chúa Giêsu bảo ông
rằng: "Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm
cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên
trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền,
con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Nộp Thuế là Nộp Mạng (cả 2 thày trò)
Hôm nay, Thứ Hai
Tuần
XIX Thường Niên, bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu thuật lại
cho chúng ta 2 sự kiện liên quan đến lời Chúa Kitô tiên
báo lần đầu
tiên về
cuộc Vượt Qua của Người
và liên quan đến vấn đề nộp
thuế đền thờ của
Người.
Lời Chúa Kitô tiên
báo lần đầu
tiên về
cuộc Vượt Qua của Người: "Khi
thầy trò tụ họp ở miền Galilêa, Chúa Giêsu
nói với các ông rằng:
'Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết
Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống
lại'.
Các môn đệ buồn phiền lắm".
Vấn đề nộp
thuế đền thờ của
Người: "Khi
thầy trò tới Caphanaum, thì những người thu thuế cho đền thờ
đến hỏi Phêrô: 'Thầy của các anh không nộp thuế sao?' Ông
đáp: 'Có chứ!' Ông về tới nhà, Chúa Giêsu đón hỏi ông:
'Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng
sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?' Phêrô đáp:
'Thưa, người ngoài'. Chúa Giêsu liền bảo: 'Vậy thì con cái
được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả
câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó
ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền
ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh'".
Có
thể nói 2 sự kiện này có liên hệ mật thiết với nhau, chứ
không phải là hai sự kiện hoàn toàn tách biệt chẳng nhắm nhò
gì với nhau. Sự kiện thứ nhất là một sự kiện lịch sử và thực
hữu. Còn sự kiện thứ hai là một sự kiện cụ thể nhưng mang
tính cách của một dụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa ám chỉ sâu
xa liên quan tới sự kiện thứ nhất.
Thật vậy, sự kiện chính yếu trong bài Phúc Âm
hôm nay là lời Chúa Giêsu tiên báo lần đầu tiên về
cuộc vượt qua của Người từ khổ giá tới phục sinh, và
sự kiện thứ hai về vấn đề nộp thuế đền
thờ của cả Chúa Giêsu và Tông đồ Phêrô là
sự kiện ám
chỉ đến
cuộc vượt qua của riêng Chúa
Giêsu, thậm
chí bao gồm cả Tông đồ
Phêrô nữa.
Không
phải hay sao, nếu đền thờ là nhà Cha của Người (xem Gioan
2:16), mà Người là Con của Cha, thì Người tất nhiên được ở
free, tức là "con
cái được miễn"
không
phải đóng
thuế như
những "người
ngoài", đúng
như Người đã
nói với
tông đồ Phêrô.
Đền thờ ở đây đồng thời còn ám chỉ đến thân xác của Chúa
Kitô (xem Gioan 2:19,21) sẽ bị trao "nộp"
(chữ "nộp" trong Việt ngữ ở đây được sử dụng 2 lần cho
cả 2 sự
kiện khác nhau trong bài Phúc Âm: "nộp" thuế và "nộp"
mạng) cho thành
phần giáo quyền trong dân để
họ ra
tay phá hủy đi. Vậy
việc Chúa Giêsu nộp thuế đền thờ ám chỉ việc Người bị nộp
vào tay thành phần âm mưu sát hại Người.
Phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu bảo tông đồ Phêrô "ra
biển thả câu" để
bắt "cá",
một sinh
vật ám
chỉ đến cái chết của Người trong ngôi mồ, một cái
chết đã được tiên báo ở sự kiện Tiên Tri Giona ở
trong bụng cá 3 ngày đêm, và
nhờ cái chết này của Người mà Người mới có thể trả thuế đền
thờ, ám chỉ Người mới có thể xây lại đền thờ thân thể Người
bằng cuộc phục sinh của Người?
Chúng ta chắc không thắc mắc về
vấn đề làm sao Chúa Giêsu lại biết được con cá đầu tiên
Tông Đồ Phêrô câu được lại có "một
đồng tiền bốn quan", vừa đủ
trả tiền thuế đền
thờ cho cả
Người và tông đồ Phêrô, cho bằng thắc mắc về vấn đề tại
sao số tiền ấy lại chỉ được sử dụng để trả thuế đền thờ cho
"phần
của Thầy và phần của anh", nghĩa
là chỉ cho
tông đồ Phêrô mà không cho các tông đồ khác
nữa.
Xin thưa,
là vì trong các tông đồ chỉ duy mình tông đồ Phêrô là được
Chúa Kitô báo cho biết trước số phận sẽ được kết thúc ra sao
(xem Gioan 21:18), một số phận không khác gì của Người và
như Người,
nên Người đã kêu gọi vị tông đồ thủ lãnh
này là "hãy
theo Thày"
(Gioan 21:19), nghĩa
là ngài sẽ "được
dự phần với Thày"
(Gioan 13:8), ở chỗ ngài cũng sẽ trở
thành một vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên
như
Người (xem
Gioan 10:11).
Bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề nộp thuế cho Đền Thờ được thành
phần thu thuế chất vấn Thánh Phêrô và Thày của ngài về nghĩa
vụ nộp thuế cho đền thờ của dân Do Thái. Không biết trước đó
thày trò của ngài có thực hiện nghĩa vụ này hay chăng, mà bị
họ nghi ngờ chặn hỏi, Thánh Phêrô liền xác nhận ngay rằng
"có chứ". Đền Thờ ở đây, đối với Chúa Kitô là chính thân thể
của Người, như Người đã từng thách thức thẩm quyền Do Thái
cứ phá đi sau 3 ngày Người sẽ dựng đền thờ đó lại bằng cuộc
phục sinh của Người (xem Gioan 2:19). Và vinh quang của Đền
Thờ là thân xác của Chúa Kitô đây được tỏ hiện rạng ngời nơi
Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nhất là khi Người sống lại từ
trong kẻ chết.
Phải chăng vinh quang tỏa ra từ thân xác phục sinh của Chúa
Kitô ấy đã được tiên báo bởi tiên tri Êzêkiên trong Bài Đọc
1 hôm nay, như sau: "Tôi
thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào
như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi
thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái
mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu
sáng chung quanh. Ðây là hình lạ trông giống vinh quang của
Chúa".
Vinh quang của Chúa Kitô Vượt Qua, sau khi phục sinh để
chiến thắng tội lỗi và sự chết, nơi nhân tính của con người
bị nhiễm lây nguyên tội, là vinh quang báo hiệu con người sẽ
sống lại vào ngày cùng tháng tận, để nhờ đó, cả thân xác của
họ, hay nói đúng hơn, cả nhân tính đã được cứu chuộc của họ
cũng được phục sinh vinh hiển như Người, đúng như dự án cứu
độ của Thiên Chúa, và mục đích của Chúa Kitô khi thực hiện
và hoàn thành công cuộc cứu độ Thiên Sai của Người. Do đó
Thánh Vịnh 148 ở Bài Đáp Ca hôm nay mới cảm nhận rằng "Trời
đất đầy vinh quang của Người", một
cảm nhận nơi câu đáp này của Bài Đáp Ca được kèm
theo tâm tình ngợi khen chúc tụng ở cùng Bài Đáp Ca hôm nay
như sau:
1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên
nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng
Người đi, hỡi các đạo thiên binh.
2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị
chính quyền nơi cõi đất, các thanh niên và cả những cô trinh
nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ.
3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc
nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người
nâng cao quyền thế dân Người.
Ngày 8 tháng 8
Thánh Đa-minh, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban
Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo
phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống
tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập
dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo
Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng
thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả
quan. Người muốn các anh em trong dòng phải sống khất thực,
và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng
chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm dòng ở Rô-ma trước khi
qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Thánh Đa-minh rất mực đoan chính và nhiệt tình mến Chúa.
Không nghi ngờ gì nữa, ai cũng chứng thực là người thật
đáng kính và đầy ân sủng. Tâm hồn người hết sức bình
thản, chỉ xao động khi đồng cảm nỗi thống khổ của người
khác hay khi tỏ lòng thương xót khoan dung. Lòng vui thì
nét mặt cũng vui lây, nên người đã giãi toả niềm an vui
nội tâm trên khuôn mặt khả ái hân hoan.
Qua lời nói cũng như việc làm, đâu đâu người cũng tỏ ra
là một con người phúc âm. Ban ngày, không ai hoà đồng
vui vẻ với anh em bằng hữu hơn người. Ban đêm, chẳng ai
kiên trì canh thức cầu nguyện đủ cách như người. Người
ít nói, ngoại trừ nói với Thiên Chúa -tức là cầu nguyện-
hay nói về Thiên Chúa, và người thường khuyên bảo anh em
như vậy.
Người thường dâng lên lời cầu khẩn đặc biệt này, là xin
Thiên Chúa thương ban cho người lòng bác ái chân thật,
lòng bác ái giúp người nỗ lực tìm kiếm và đem lại ơn cứu
độ cho con người. Người nghĩ rằng người chỉ thật sự là
chi thể của Đức Ki-tô khi đem trọn vẹn con người và sức
lực ra cứu các linh hồn như Chúa Giê-su là Đấng cứu độ
mọi người đã dâng hiến trọn vẹn con người mình để cứu độ
chúng ta. Và để thực hiện công trình này, theo kế hoạch
quan phòng sâu thẳm từ ngàn đời của Thiên Chúa, người đã
lập dòng Anh Em Thuyết Giáo.
Người hay dùng lời nói và thư từ khuyên bảo anh em dòng
thường xuyên học hỏi Tân Ước và Cựu Ước. Lúc nào người
cũng mang theo mình sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu
cùng với các thư thánh Phao-lô, và học đến hầu như thuộc
lòng.
Hai ba lần được chọn làm giám mục, nhưng lần nào người
cũng từ chối, vì thích sống nghèo với anh em hơn là ngự
trong một toà giám mục. Người bảo toàn đức khiết tịnh
cao quý vẹn tuyền cho đến chết. Người những ước ao được
chịu đòn, chịu tan xương nát thịt và chịu chết vì tin
Đức Ki-tô. Đức giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô IX đã nói về người
: “Tôi biết người đã theo lối sống của các Tông Đồ một
cách trọn hảo, nên không chút nghi ngờ : người cũng được
chia sẻ vinh quang trên trời với các Tông Đồ.”
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong
Hội Thánh một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là
thánh Đa-minh. Xin nhậm lời thánh nhân hằng tha thiết
chuyển cầu, mà ban cho Hội Thánh luôn tiến triển nhờ
công đức và lời giảng dạy của người. Chúng con cầu xin
THÁNH DAMINH (8/8)
LẬP DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO
1. Vài dòng lịch sử
Thánh Đaminh sinh tại Castile nước Tây ban nha, năm 1170.
Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu
nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi
ngày đều có giờ nhất định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình
luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em
bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên
nói:
- Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người
ta, để chuộc em chị về.
Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết
sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến
thụ giáo với một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia
nhập Đại chủng viện tại Palencia. Sau khi hoàn tất việc học,
Ngài được Đức Cha Diégo de Azsvedo truyền chức Linh Mục. Và vì
thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám Mục Martin de Bazan
đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.
Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo.
Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè
rối Albigeois gây ra cho Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những
gì thuộc về vật chất đều xấu xa: muốn hoàn thiện phải tận diệt
vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả
năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy một
mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá mạnh của họ nên
ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác. Đó là
những người sau này sẽ trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi
là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của ngài kể lại:
“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa
mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của
sự cao trọng và ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi
chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân
hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình
thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của
Ngài.
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin Mừng, cả trong
lời nói lẫn hành động”
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài
được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần
rỗi cho người ta. Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa,
nên tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn,
giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi người, đã tận hiến mình
để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý
Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”
Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh
kèm theo lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân
chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than
thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi
người lần chuỗi Môi khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những
người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem
hết khả năng truyền bá chuỗi Môi khôi, giải thích các mầu nhiệm
thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả
thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc
ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa
và tri ơn Đức Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Roma, xin Đức Honoriô III châu phê luật
dòng vào ngày 22/10/1216. Từ đó dòng phát triển mạnh mẽ và có
mặt trên khắp thế giới .
Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231
Đức Thánh Cha Gregoriô thứ IX đã tôn phong ngài lên bậc hiển
thánh.
2. Lời trăn trối cuối cùng
“Anh em thân mến. Đây là những gì Cha thánh để lại cho anh em để
anh em giữ lấy như là con có quyền thừa kế:
Anh em hãy sống bác ái
Hãy giữ lòng khiêm tốn
Hãy tự nguyện giữ đức thanh bần – khó nghèo.”
Đây không phải là những gì rút ra từ sách vở, mà là kết tinh của
cả một cuộc sống mà chính Ngài đã nỗ lực thực hiện trong suốt
một cuộc đời 51 năm – hơn một nửa thế kỷ.
ĐTC Biển Đức XVI nói về Thánh Đaminh trong bài giáo lý ở
cái link dưới đây:
3/2/2010 - Bài 104 về Thánh Đaminh
Thứ Ba
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
2, 8 - 3, 4
"Người ban cho tôi cuốn
sách ấy làm lương thực: nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng
tôi".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Chúa phán như thế này:
"Phần ngươi, hỡi con người, hãy nghe các lời Ta sẽ phán cùng
ngươi; ngươi chớ phản nghịch như loài phản nghịch kia. Hãy mở
miệng mà ăn những sự Ta sẽ ban cho ngươi". Tôi nhìn, thì có một
bàn tay đưa về phía tôi, trong tay có cuốn sách cuộn lại. Người
mở cuốn sách ra trước mặt tôi: sách viết cả mặt trong, mặt
ngoài. Trong sách viết những lời than van, rên rỉ và kêu trách.
Người phán cùng tôi rằng:
"Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi tìm được. Hãy ăn cuốn sách
này và đi nói với con cái Israel". Tôi mở miệng và Người cho tôi
ăn cuốn sách ấy và bảo tôi rằng: "Hỡi con người, hãy lấy cuốn
sách Ta ban cho ngươi làm lương thực mà ăn cho no". Tôi ăn và nó
trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng
tôi rằng: "Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng
nghe những lời của Ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
118, 14. 24. 72. 103. 111. 131
Ðáp: Các
lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào (c.
103a).
Xướng: 1) Con vui vì đường
lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng được mọi thứ giàu sang. -
Ðáp.
2) Vì lời nghiêm huấn của
Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ của Ngài là những bậc
cố vấn của con. - Ðáp.
3) Ðối với con, luật pháp
do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. -
Ðáp.
4) Các lời sấm của Ngài
ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng
con. - Ðáp.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là
sản nghiệp của con muôn đời: vì những điều đó khiến cho lòng con
hoan hỉ. - Ðáp.
6) Con há miệng để hút
nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có
lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm:
Mt 18, 1-5. 10. 12-14
"Các con hãy coi chừng,
đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy các môn đệ đến bên
Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?"
Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán
rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên
như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình
xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
"Và kẻ nào đón nhận một
trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con
hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này,
vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm
ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Ðấng ngự trên trời.
"Các con nghĩ sao? Nếu ai
có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không
bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu
người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng
vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc.
Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ
bé mọn này phải hư mất".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Như Trẻ Nhỏ: vừa Thánh Nhân vừa Tội Nhân
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XIX hôm nay chất
chứa câu trả lời của Chúa Giêsu được các
môn đệ đặt
ra về
vấn đề "ai
là kẻ lớn nhất trong Nước Trời"
Câu
trả lời của Người như thế này: "Chúa
Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng:
'Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như
trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình
xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước
Trời'".
Hành động "gọi
một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông" của Chúa
Giêsu cho thấy Người rất quí yêu con trẻ, và con trẻ
là mô phạm cho cả thành phần môn đệ của Người, thành phần
chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng của Giáo
Hội được Người thiết lập. Tuy
nhiên, trẻ nhỏ là mô phạm
cho các vị về tinh thần mà thôi, chứ không phải về thể lý.
Bởi thế, Người không bảo các vị rằng "nếu
các con không hoán cải
và trở nên
như trẻ nhỏ này...", mà
là bảo các vị: "ai
hạ mình xuống như trẻ nhỏ này...", nghĩa
là việc "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" chính
là việc "hạ mình xuống".
Đúng thế, nếu "Nước
Trời" đây là chính bản thân Người, mà Người đã "hóa
ra như không, mặc lấy thân phận tôi đòi v.v." (Philiphê
2:6), thì
chỉ có "ai
hạ mình xuống như trẻ nhỏ này..." mới
có thể nhận ra Người, chấp nhận Người và đáp ứng Người mà
thôi, nghĩa là mới có thể "vào Nước Trời". Ý nghĩa
sâu xa của
cụm từ "vào Nước Trời" là như vậy, là đến được
với Chúa Giêsu, bằng không, không thể nào, như trường hợp
của thành phần luật sĩ và biệt phái vừa kiêu kỳ vừa giả hình
không đơn sơ chân thật như trẻ nhỏ trong
dân Do Thái.
Chưa
hết, việc "hoán
cải và trở nên như trẻ nhỏ"
là "hạ mình xuống"
này chẳng những giúp cho con người "vào Nước Trời" là
nhận biết Chúa Kitô, mà còn trở thành "kẻ
lớn nhất trong Nước Trời" nữa. Ở
chỗ được Chúa Kitô
yêu thích nhất, được hiệp nhất nên một với Người nhất, như
một Con Trẻ Maria
"đầy ân phúc" (Luca 1:28), vì
Con Trẻ Maria này liên lỉ sống "đức tin tuân phục" (Roma
1:5) ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự - quả thực Con
Trẻ Maria "có phúc vì đã
tin" (Luca 1:45).
Tuy nhiên,
trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dường như nói đến "trẻ
nhỏ" ở hai ý nghĩa trái nghịch nhau. Ý nghĩa thứ nhất là
tính cách bé nhỏ "khiêm
nhượng"
của "trẻ nhỏ" để
có thể chẳng những "vào
Nước Trời"
là gặp gỡ Chúa Kitô mà còn
trở nên
cao trọng nhất trong Nước Trời là được hiệp nhất nên một với
Người. Ý nghĩa thứ hai về
"trẻ nhỏ" đó là tính chất "dại dột" vụng về của chúng.
Phải chăng đó là lý do ở phần
sau của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã cảnh giác các
môn đệ là đừng khinh dể "trẻ nhỏ" ở tính chất dại khờ
vụng dại của chúng: "Các
con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé
mọn này"? Bởi
vì, ngay sau đó Người nói đến tình trạng con chiên lạc: "Nếu
ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó
lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con
chiên lạc sao?"
Sở
dĩ các môn đệ không được khinh dể thành phần "trẻ
nhỏ" dại khờ hèn yếu này
là vì 2 lý do: Lý do thứ nhất đó là
"kẻ nào
đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón
nhận Thầy", và
lý do thứ hai đó là: "vì
Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm
ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời".
Thật vậy, trước nhan Thiên Chúa
hằng được các thiên thần chiêm ngưỡng trên trời,
biết đâu những kẻ tầm
thường trên thế gian này, thậm chí những con người tội
lỗi đáng khinh bỉ lại được Thiên Chúa tuyển chọn để làm
những việc cả thể cho Ngài, như đã từng xẩy ra trong giòng
lịch sử loài
người nói chung và Giáo Hội nói riêng. Biết đâu thành
phần bé mọn yếu hèn này lại biết
nhận lỗi và hối lỗi trước nhan Chúa, như người thu thuế
trong đền thờ mà lại nên công chính hơn người Pharisiêu cũng
cầu nguyện với họ bấy giờ (xem Luca 18:13-14).
Nếu
thành phần "trẻ nhỏ" dại khờ hèn yếu chẳng khác gì
như "một con
chiên lạc" (chứ không
phải con dê), được Thiên Chúa chú ý và tìm kiếm cho đến cùng
và cho bằng được như thế thì quả thực từng "con
chiên lạc" là những gì
rất quí báu trước nhan Thiên Chúa, đến độ "kẻ
nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là
đón nhận Thầy" - Nếu
chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật, chúng ta không thể nào lại
khinh thường những gì được Thiên Chúa yêu thương quí chuộng,
nhất là thành phần tội nhân vô cùng đáng thương của Ngài.
Cả 2
thành phần trẻ nhỏ, theo ý nghĩa lành thánh hay tội lỗi, như
trên vừa phân tích, đều đáng quí trước nhan Thiên Chúa, đối
với LTXC: con trẻ lành thánh cũng nhờ LTXC mới được lành
thánh, nên được Chúa thương thế nào cũng phải thương nhau
như thế, còn con trẻ tội lỗi lại càng đáng được thương hơn
ai hết và hơn bao giờ hết, nhưng LTXC vẫn có thể biến đổi họ
thành con trẻ lành thánh, thành chứng nhân của LTXC và cho
LTXC, những chứng nhân trung thực và sống động hơn ai hết,
vì họ thực sự đã cảm nghiệm thấy LTXC nơi chính tình trạng
khốn nạn, bất xứng và bất lực của họ.
Tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa nếu ở nơi LTXC,
nghĩa là LTXC chính là cốt lõi và là nội dung của mạc khải
thần linh, thì Lời Sấm của Chúa hoàn toàn về LTXC, mà ai,
như tiên tri Ezêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, tím thấy và
nuốt vào bụng, nghĩa là cảm nghiệm thấy LTXC thì không thể
không cảm thấy vô cùng ngọt ngào, sau đó mới có thể đi loàn
truyền LTXC được, như chính Chúa đã phán với vị tiên tri này
như sau:
"'Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi
tìm được. Hãy ăn cuốn sách này và đi nói với con cái
Israel'. Tôi mở miệng và Người cho tôi ăn cuốn sách ấy và
bảo tôi rằng: 'Hỡi con người, hãy lấy cuốn sách Ta ban cho
ngươi làm lương thực mà ăn cho no'. Tôi ăn và nó trở nên
ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng tôi
rằng: 'Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng
nghe những lời của Ta'".
Nếu, LTXC là tất cả những Lời Sấm của Thiên Chúa, tức
là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho con người,
tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, thì quả là chí lý
Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay là "Các
lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào", và
những tâm hồn nào thực sự nghiệm cảm thấy LTXC đều không thể
không vang lên những câu xướng của Bài Đáp Ca hôm nay, như
thế này:
1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng
được mọi thứ giàu sang.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các
thánh chỉ của Ngài là những bậc cố vấn của con.
3) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn
vàng bạc châu báu muôn ngàn.
4) Các lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con,
ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời:
vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn
những chỉ thị của Ngài.
Thánh Têrêsa Benedicta Đồng trinh tử đạo (9/8)
Edith Stein, một nữ tu Cát Minh thánh thiện, một triết
gia uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài
có ảnh hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy
đang lan tràn trong giới triết gia và trí thức ở Ðức
cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho
tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời
ngài được dâng hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân
tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái
ở Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ
năng lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến
I, ngài đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau
và Goettingen.
Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học
Freiburg và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó
ngài là giáo sư phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư
Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng là người có
ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ
tìm kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã
tìm thấy ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của
Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày
đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy
học, diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao
lâu ngài trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng,
nhưng điều ngài khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh
niệm của dòng Cát Minh, là nơi ngài tận hiến cho Thiên
Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách
hại người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động
thì cha linh hướng đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Cát
Minh Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm
1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được mặc áo dòng và
lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá.” Vào Chúa
Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên
cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có
mặt tại nhà dòng Cát Minh ở Cologne, và ngài đã xin phép
bề trên để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào
đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới
đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng
nhiệt vào dòng Cát Minh ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn
bản sau cùng là Thánh Giá Học.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy
Ðức Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa
Lan công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người
Do Thái và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công
Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công
Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị
bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử
thần Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở
Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng
sơ được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.
Lời Nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa
tổ tiên chúng con, Chúa đã đưa Thánh Têrêsa Benedicta
đến sự tròn đầy của khoa học thập giá trong giờ tử đạo
của người. Xin lấp đầy chúng con sự hiểu biết ấy; và nhờ
lời người chuyển cầu, xin cho chúng con luôn kiếm tìm
Chúa là chân lý tối thượng, và trung tín cho đến chết
đối với giao ước tình yêu đã được ký kết trong Máu Con
Chúa cho ơn cứu độ của tất cả mọi người. Chúng con cầu
xin.
Lời Bàn
Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần
lớn đã được dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực,
ngài theo đuổi chân lý mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy
đến. Sơ Josephine Koeppel, O.C.D., người đã dịch vài
cuốn sách của Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng quát về
vị thánh này như sau, ngài “học biết cách sống trong bàn
tay Thiên Chúa.”
Lời trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II nói: “Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng
với người chị là Rosa và những người Công Giáo cũng như
Do Thái khác bị đưa từ Hòa Lan đến trại tập trung
Auschwitz, là nơi ngài chết vì hơi ngạt. Ngày nay, chúng
ta tưởng nhớ ngài với lòng tôn trọng sâu xa. Một vài
ngày trước khi bị trục xuất, người phụ nữ đạo đức này đã
gạt bỏ vấn đề được cứu nguy: ‘Ðừng làm như vậy! Tại sao
tôi phải được miễn trừ? Không đúng sao khi tôi chẳng
được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi không thể chia
sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi chắc
chắn bị tiêu diệt’.”
Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng
nói: “Cuộc đời các con không phải là một chuỗi không
cùng của những cánh cửa mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình!
Ðừng dừng ở ngoài mặt nhưng đi sâu vào tâm điểm của mọi
sự! Và khi đến giờ, hãy có can đảm quyết định! Thiên
Chúa chờ đợi các con phó thác sự tự do của mình trong
bàn tay nhân ái của Người.”
Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá Edith Stein (1891-1942)
Thứ Tư
Ngày 10 tháng 8
Lễ Thánh Lôrensô, Phó Tế,
Tử Ðạo
Lễ Kính
Bài Ðọc I:
2 Cr 9, 6-10
"Thiên Chúa yêu thương
kẻ cho cách vui lòng".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, ai gieo
ít thì gặt ít; ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho
theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc vì miễn
cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có
quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn
luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc
phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ
nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng
đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo và bánh để nuôi mình, thì cũng
sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển
hoa quả sự công chính của anh em.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
111, 1-2. 5-6. 7-8. 9
Ðáp: Phúc đức
cho người biết xót thương và cho vay (c. 5a).
Xướng: 1) Phúc đức thay
người tôn sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con
cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc
cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Phúc đức cho người biết
xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công
bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ
được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.
3) Người không kinh hãi vì
nghe tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa.
Lòng người kiên nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn
thấy kẻ thù phải hổ ngươi. - Ðáp.
4) Người ban phát và bố
thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn
mãi; sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa
phán: "Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh
sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm:
Ga 12, 24-26
"Ai phụng sự Ta thì Cha
Ta sẽ tôn vinh nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt
lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một
mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu
sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta,
và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta,
Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
Ðó là lời Chúa.
Bài đọc 2 Phụng vụ giờ kinh sách
Hôm nay, Hội Thánh Rô-ma mời gọi chúng ta mừng ngày thánh
Lô-ren-xô khải hoàn, ngày người đã chà đạp thế gian hung
tợn, đã loại trừ thế gian nịnh hót. Thế là tên quỷ dữ tấn
công người chịu hai lần thất bại. Như anh em vẫn biết, trong
Hội Thánh Rô-ma, người đã thi hành chức vụ trợ tá, đã phục
vụ Máu Thánh Đức Ki-tô, đã chịu đổ máu vì danh Đức Ki-tô.
Thánh Gio-an tông đồ đã trình bày rất rõ về mầu nhiệm bữa
tối của Chúa khi nói : Đức
Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Thưa anh em,
thánh Lô-ren-xô hiểu điều ấy, người đã hiểu và thực hành.
Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình làm của ăn tại
bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình
làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống, người yêu mến
Đức Ki-tô, thì lúc chết, người cũng bắt chước Đức Ki-tô.
Còn chúng ta, thưa anh em, nếu chúng ta thật lòng yêu mến
Chúa, chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa. Chúng ta sẽ không
thể sinh được hoa trái mến yêu nào tốt hơn là noi gương bắt
chước Đức Ki-tô. Thật
vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương
mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Khi nói thế, dường
như thánh tông đồ Phê-rô hiểu rằng : Đức Ki-tô đã chỉ chịu
đau khổ vì những ai dõi
bước theo Người, và cuộc Thương Khó của Đức
Ki-tô sẽ chẳng lợi ích gì cho ai ngoài những kẻ dõi
bước theo Người.
Các thánh tử đạo đã theo Người đến nỗi chịu đổ máu, đến nỗi
chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đi theo Đức Ki-tô,
nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi
qua, cầu vẫn chưa sập ; các ngài uống nước, suối vẫn chưa
khô. Thưa anh em, vườn của Chúa đủ loại hoa : không phải chỉ
có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây
trường xuân hôn nhân, có hoa tím goá bụa. Anh em thân mến,
đừng bao giờ có ai thất vọng về ơn gọi của mình, dầu thuộc
hạng người nào đi nữa : Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì mọi
người. Kinh Thánh đã chép rất đúng về Người : Chúa
là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.
Vì thế, người Ki-tô hữu vẫn phải biết cách đi theo Đức
Ki-tô, mặc dù họ không phải đổ máu, không có nguy cơ phải
chịu thương khó. Thánh Phao-lô tông đồ nói về Chúa Ki-tô : Người
vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa uy nghi dường nào
! Nhưng
Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Chúa
khiêm hạ biết bao !
Đức Ki-tô đã hạ mình xuống. Hỡi Ki-tô hữu, đó là tấm gương
bạn phải noi theo. Đức
Ki-tô đã trở thành vâng phục, sao bạn lại kiêu căng ?
Rồi sau khi đã hạ mình đến cùng và tiêu diệt sự chết, Đức
Ki-tô đã lên trời : Ta hãy đi theo Người. Hãy nghe thánh
Phao-lô tông đồ nói : Anh
em đã được cùng trỗi dậy với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm
những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu
Thiên Chúa.
XThánh
Lô-ren-xô kêu lên rằng : “Tôi chỉ thờ Thiên Chúa của tôi,
tôi chỉ phụng sự một mình Người.
ĐCực
hình không làm tôi sợ hãi.
XThiên
Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi trú ẩn, là Đấng giải thoát
tôi.”
ĐCực
hình không làm tôi sợ hãi.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung
nấu, mà thánh phó tế Lô-ren-xô đã trung thành phục vụ và đạt
tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành
những điều người dạy, và noi gương người mà yêu mến Chúa và
anh em. Chúng con cầu xin
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được biết đến nhiều nhất. Từ
thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính
nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức Giáo hoàng Lêô thế kỷ
VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Thời Trung Cổ đã có ít là 34
thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn
mạng thứ ba của thành Roma.
Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?
Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ Ngài là
những người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi
du học bên Roma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài
được chọn thành một trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách
nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và Ngài được giao cho trách nhiệm
"quản lý tài sản của Giáo hội". Khi sự cấm đạo dưới thời Hoàng
đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình
cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp
trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, Ngài hỏi "Cha ơi, cha
đi đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức Giáo hoàng trả lời,
"Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo
ta." Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, Ngài về phân phát
hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm
phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.
Khi những điều này tới tai Hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam
Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị
điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải
nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để
thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ
nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valrianô, như
là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh
nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải
chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết
lạ lùng này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:
- Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô
và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh
nhận triều thiên tử đạo vào năm 158.
Thánh
Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương
người nghèo. Xin cho mỗi chúng ta cũng có được tâm tình và lòng
quảng đại như thánh nhân. Trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải
chịu thiệt thòi về phần xác.
(Nguồn: website TGP Sài Gòn)
Thứ Tư
(PVLC trong tuần nếu không bị lễ kính Thánh phó tế Laurensô
cùng ngày trong năm 2022 này át đi)
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
9, 1-7; 10, 18-22
"Hãy ghi chữ Thập trên
trán những người rên rỉ khóc than các việc ghê tởm của thành
Giêrusalem".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Chúa kêu lớn tiếng vào tai
tôi rằng: "Những kẻ trừng phạt thành đã đến gần, mỗi người cầm
trong tay khí cụ của mình để tàn sát". Và kìa có sáu người tiến
lại, từ cửa trên phía bắc mà đến, mỗi người cầm trong tay khí cụ
của mình để tàn sát. Giữa họ có một người mặc áo trắng, ngang
lưng mang bút của ký lục. Họ tiến vào và dừng lại trước bàn thờ
bằng đồng.
Vinh quang của Chúa Israel
ngự trên các vệ binh thần liền từ đó mà cất lên, đi về phía
ngưỡng cửa Ðền Thờ. Người gọi kẻ mặc áo trắng, ngang lưng có
mang bút của ký lục mà nói: "Hãy đi khắp thành, khắp Giêrusalem
và ghi chữ Thập trên trán những người rên rỉ khóc than tất cả
những việc ghê tởm người ta phạm giữa thành".
Tôi còn nghe Người bảo
những người kia rằng: "Hãy theo người này đi khắp thành và đánh
phạt. Ðừng đưa mắt xót thương, đừng tha thứ: già lão, trai
tráng, gái trinh, trẻ con, phụ nữ, hãy giết cho hết. Nhưng ai có
chữ Thập trên trán thì đừng giết. Hãy bắt đầu từ nơi thánh của
Ta". Thế là họ bắt đầu giết những kỳ lão đang đứng trước Ðền
Thờ. Người lại bảo rằng: "Hãy làm ô uế Ðền Thờ, hãy làm cho các
hành lang đầy tử thi rồi hãy ra đi". Họ bỏ ra đi đánh phạt những
kẻ ở trong thành.
Vinh quang của Chúa từ
trên ngưỡng cửa Ðền Thờ mà đi ra và dừng lại trên các vệ binh
thần. Các vệ binh thần cất cánh và từ đất bay lên, ngay trước
mặt tôi; các bánh xe cũng đi theo chúng. Chúng dừng lại nơi cửa
Ðông Ðền thờ Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa Israel ở phía
trên chúng. Ðó là sinh vật tôi đã thấy ở dưới Thiên Chúa Israel
gần sông Côbar, (bây giờ) tôi mới hiểu biết đó là các vệ binh
thần. Mỗi sinh vật có bốn mặt, bốn cánh và dưới cánh, có những
hình bàn tay như tay người. Mặt chúng giống những mặt tôi đã
thấy gần sông Côbar. Mỗi sinh vật cứ đi thẳng tới đàng trước.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Trên
muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa (c. 4b).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ngợi khen,
hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa.
Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời.
- Ðáp.
2) Từ mặt trời mọc lên tới
khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu
việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của
Chúa. - Ðáp.
3) Ai được như Thiên Chúa
chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn
coi, khắp cả trên trời dưới đất? - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 21
Alleluia, alleluia! - Anh
em hãy khiêm nhu nhận lãnh lời giao ước trong lòng, lời đó có
thể cứu thoát linh hồn anh em. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 18, 15-20
"Nếu nó nghe ngươi, thì
ngươi đã lợi được người anh em".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán
cùng các môn đệ rằng: "Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy
nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi được
người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo một hoặc
hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba
nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và
nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể nó như người ngoại
giáo và như người thu thuế.
"Thầy bảo thật các con,
những gì các con cầm buộc dưới đất thì trên trời cũng cầm buộc,
và những gì các con tháo gỡ dưới đất thì trên trời cũng tháo gỡ.
"Thầy cũng bảo thật các
con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu
xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho
họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy,
thì Thầy ở giữa những người ấy".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Quyền Bính Vô Ngộ - Chân Lý Yêu Thương
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XIX Thường Niên, dường như
có nội dung liên hệ với bài Phúc Âm hôm qua. Ở chỗ, sau khi
nói về thành phần "trẻ
nhỏ"
dại khờ hèn yếu như "một con
chiên lạc",
Chúa
Giêsu liền nói với các môn đệ về vấn đề sửa lỗi cho nhau khi
có ai lầm lỡ vấp phạm:
"Nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi sửa dạy
nó, riêng con và nó thôi. Nếu nó nghe con, thì con đã lợi
được người anh em. Nếu nó không nghe lời con, hãy đem theo
một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời
hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với
cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, con hãy kể
nó như người ngoại giáo và như người thu thuế".
Căn cứ vào lời truyền dạy này
của Chúa Kitô, trước hết chúng ta phải công nhận rằng chúng
ta có phận sự phải sửa lỗi cho nhau, phải giúp nhau cải tiến
hơn, giúp nhau nên hoàn thiện hơn, chứ không được khách
quan đến dửng
dưng, như thể tội ai
người nấy chịu, không mắc mớ gì tới tôi, ai dại gì đụng vào
nhau để họ ghét và chửi
cho v.v. Nếu chúng ta có
phận sự phải sửa bảo nhau, nhất là những ai có trách nhiệm
phục vụ trong một đoàn thể, mà không dám lên tiếng thì chúng
ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Sau nữa, về cách thức sửa lỗi
cho nhau, cũng theo lời Chúa dạy, chúng ta cần phải đi từ
từ, từ chỗ riêng tư, đến chỗ thêm nhân chứng, sau cùng mới
tới chung cộng đồng, thậm chí cho dù bất thành chăng nữa
cũng mặc kệ họ, đừng khinh thường họ, cố gắng
tránh đừng động một cái là làm toáng lên, làm mất mặt nhau,
khiến nạn nhân cảm thấy bị chạm tự ái, đến độ cho
dù có lỗi thật đấy họ cũng
trở nên bất cần và bất
chấp. Như thế, thay vì chúng ta giúp nhau nên hoàn thiện hơn
lại đẩy nhau vào chỗ tệ hại hơn, mất mục đích của chúng ta,
hoàn toàn trái với ý muốn của Chúa.
Đường lối sửa lỗi này được Giáo
Hội vẫn thường áp dụng, nhất là đối với các thần học gia chủ
trương những điều về tín lý hay luân lý hoặc cả hai trái với
giáo huấn của Chúa Kitô và huấn
quyền truyền thống của
Giáo Hội. Chẳng hạn bề
trên hay giám mục địa phương của một thần học gia nào đó nói
chuyện riêng với thần học gia ấy. Nếu không xong bề trên hay
vị giám mục địa phương mời thêm các chuyên gia trong dòng
hay trong giáo phận đến tham dự với thần học gia này để cùng
nhau giải quyết vấn đề. Nếu
vẫn bất thành thì vị bề
trên hay giám mục địa phương sẽ trình
sự vụ lên
Tòa Thánh qua Thánh
Bộ Tín Lý Đức Tin. Sau cùng,
nếu đương
sự vẫn cương quyết không chấp nhận sửa sai thì buộc lòng
Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đành phải công khai thông báo về những
sai lầm của thần học gia ấy, để
bảo vệ đàn chiên của mình, trong đó có những biện pháp ngăn
ngừa
bao nhiêu có thể để tình
trạng sai lầm không thể lan
rộng và kéo dài hơn được
nữa,
như không cho vị thần học gia này giảng dạy v.v.
Dường như ở đây Chúa Giêsu áp
dụng việc sửa bảo nhau này hay trách nhiệm cần phải hoàn
chỉnh nhau ấy đặc biệt cho riêng các vị có thẩm
quyền trong Giáo Hội. Bởi
vì, sau đó Người còn nói thêm như thế này với các tông đồ: "Thầy
bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì
trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới
đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Ở đây, qua câu này, Chúa
Giêsu như muốn bổ túc
thêm về quyền bính trong Giáo Hội, một quyền bính tối
thượng đã được Người trước hết trao
cho riêng Tông Đồ Phêrô
(xem Mathêu 16:19): "Những gì con cầm buộc dưới đất thì
trên trời cũng cầm buộc, sự gì con tháo cởi
dưới đất trên trời
cũng tháo cởi", và giờ đây Người trao cho chung
tông đồ đoàn, trong đó có cả Tông Đồ Phêrô, một cơ cấu được
gọi là hàng giáo phẩm của Giáo Hội hoàn vũ: "Thầy
bảo thật các con, những gì các con cầm buộc dưới đất thì
trên trời cũng cầm buộc, và những gì các con tháo gỡ dưới
đất thì trên trời cũng tháo gỡ".
Sở
dĩ quyền bính tối thượng này được Chúa Giêsu trao cho riêng
Tông Đồ Phêrô cũng như cho chung Tông Đồ Đoàn ấy trong việc
phục vụ Giáo Hội của Người trên trần gian có tính cách như
thể "bất
khả sai lầm" như vậy, đến độ
dưới đât phán quyết thế
nào thì trên trời cũng chấp
nhận y như vậy,
là vì Người vẫn tiếp tục ở cùng Giáo Hội cho đến tận thế
(xem Mathêu 28:20), nơi tinh thần hiệp
nhất nguyện
cầu của các vị, như Người đã khẳng định ở câu kết bài
Phúc Âm hôm nay:
"Thầy cũng bảo thật các con, nếu hai
người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ
điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ
điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh
Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy".
Phải chăng quyền bính cầm buộc và tháo cởi của riêng vị lãnh
đạo tông đồ đoàn Phêrô, và chung tông đồ đoàn khi hiệp thông
với vị lãnh đạo Phêrô, được ám chỉ nơi thị kiến của Tiên Tri
Êzêkiên trong Bài Đọc 1 hôm nay, trong đó, quyền tháo cởi
được ám chỉ nơi sự kiện: "Người gọi kẻ
mặc áo trắng, ngang lưng có mang bút của ký lục mà nói: 'Hãy
đi khắp thành, khắp Giêrusalem và ghi chữ Thập trên trán
những người rên rỉ khóc than tất cả những việc ghê tởm người
ta phạm giữa thành"; và quyền cầm buộc
được ám chỉ nơi sự kiện "Tôi còn nghe Người
bảo những người kia rằng: 'Hãy theo người này đi khắp thành
và đánh phạt. Ðừng đưa mắt xót thương, đừng tha thứ: già
lão, trai tráng, gái trinh, trẻ con, phụ nữ, hãy giết cho
hết. Nhưng ai có chữ Thập trên trán thì đừng giết. Hãy bắt
đầu từ nơi thánh của Ta'".
Việc cầm buộc và tháo cởi của những ai được Thiên Chúa sai
đi thực hiện vai trò thẩm quyền như Ngài này phải là thành
phần có thần trí của Ngài, mới thực hiện việc cầm buộc hay
tháo cởi đúng như Ngài muốn. Đó là lý do ở cuối Bài Đọc 1
hôm nay mới có thêm những chi tiết liên quan tới "các vệ
binh thần" của Ngài như sau:
"Vinh quang của Chúa từ trên
ngưỡng cửa Ðền Thờ mà đi ra và dừng lại trên các vệ binh
thần. Các vệ binh thần cất cánh và từ đất bay lên, ngay
trước mặt tôi; các bánh xe cũng đi theo chúng. Chúng dừng
lại nơi cửa Ðông Ðền thờ Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa
Israel ở phía trên chúng. Ðó là sinh vật tôi đã thấy ở dưới
Thiên Chúa Israel gần sông Côbar, (bây giờ) tôi mới hiểu
biết đó là các vệ binh thần. Mỗi sinh vật có bốn mặt, bốn
cánh và dưới cánh, có những hình bàn tay như tay người. Mặt
chúng giống những mặt tôi đã thấy gần sông Côbar. Mỗi sinh
vật cứ đi thẳng tới đàng trước".
Qua việc tháo cởi hay cầm buộc, Thiên Chúa đều có thể tỏ
vinh quang của Ngài ra, để cho con người nhận biết Ngài.
Bằng nếu Ngài chỉ công minh mà thôi, không biết xót thương,
chỉ biết cầm buộc mà không biết tháo cởi, thì chẳng còn một
con người nào có thể tồn tại mà nhận biết Ngài, bởi tất cả
đều bị giáng phạt ngay khi vừa phạm tội trong lòng họ. Vì
thế, Thiên Chúa đã thực sự tỏ hiện vinh quang của Ngài ra
bằng lòng thương xót, vừa cầm buộc lại vừa tháo cởi của
Ngài.
Ở chỗ, Ngài làm việc gì cũng chỉ vì lòng thương xót mà thôi:
tháo cởi cũng vì lòng thương xót mà tha thứ, nhưng lại lợi
dụng chính thành phần được tha thứ này, biến họ trở thành
các chứng nhân cho lòng thương xót của Ngài, bằng những đau
khổ họ phải chịu như chính lòng thương xót của Ngài đã chịu
vì họ, cho phần rỗi của người khác; và khi cần phải cầm
buộc, theo đức công bằng, Ngài cũng chỉ bất đắc dĩ phải thực
hiện, cũng chỉ vì thương xót đến cần phải ra tay trừng phạt
cho lợi ích phần rỗi của nạn nhân, nhờ đó và chỉ bằng cách
đó, nạn nhân mới có thể hay mới chịu nghĩ lại, mà thống hối
trở về với Ngài, nhận biết lòng thương xót của Ngài.
Câu Họa "trên
muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa" nơi bài
Đáp ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 112, đã cho thấy
tất cả cảm nhận và tâm tình của những ai thực sự cảm nghiệm
thấy lòng thương xót Chúa, ở quyền tháo cởi và cầm buộc hoàn
toàn vị thương xót của Ngài:
1) Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị
hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ
bây giờ và cho đến muôn đời.
2) Từ mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho
danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết thảy chư
dân, trên muôn cõi trời là vinh quang của Chúa.
3) Ai được như Thiên Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi
cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả trên trời dưới
đất?
Thứ Năm
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
12, 1-12
"Ngươi sẽ di cư giữa
ban ngày trước mặt chúng".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Có lời Chúa phán cùng tôi
rằng: "Hỡi con người, ngươi đang ở giữa dòng giống phản loạn,
chúng có mắt để thấy mà không thấy, có tai để nghe mà không
nghe, vì đó là dòng giống phản loạn. Phần ngươi, hỡi con người,
hãy sửa soạn hành trang và hãy dời đi, giữa ban ngày, trước mặt
chúng. Ngươi sẽ đi từ nơi đang ở đến một nơi khác, trước mặt
chúng, để hoạ may chúng xem thấy, vì chúng là dòng giống phản
loạn. Ngươi sẽ phô trương hành lý của ngươi như hành lý của
người di cư giữa ban ngày trước mặt chúng, rồi ban chiều, ngươi
sẽ ra đi trước mặt chúng như người di cư. Trước mắt chúng, ngươi
hãy khoét tường mà chui ra. Trước mắt chúng, ngươi sẽ mang hành
trang trên vai và đi ra trong bóng tối, Ngươi sẽ che mặt ngươi
để đừng thấy xứ sở, vì Ta đã làm cho ngươi thành biểu hiệu cho
nhà Israel".
Vậy tôi đã thi hành như
Chúa đã truyền cho tôi, tôi phô trương hành trang của tôi như
hành trang của kẻ di cư, giữa ban ngày, và ban chiều, tôi lấy
tay khoét một cái lỗ trong tường, vai mang hành trang, và ra đi
trước mặt chúng trong đêm tối.
Và ban sáng có lời Chúa
phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, nào nhà Israel, dòng giống
phản loạn, đã chẳng hỏi ngươi rằng: 'Ông làm gì vậy?' Hãy bảo
chúng: 'Chúa là Thiên Chúa phán rằng: Sấm ngôn này chỉ về thủ
lãnh ở Giêrusalem và cả nhà Israel ở đó'. Hãy nói: 'Tôi là biểu
hiệu cho các ngươi. Tôi đã làm thế nào thì việc sẽ xảy ra như
vậy'. Chúng sẽ phải di cư và đi làm tôi. Và ai là thủ lãnh các
chúng, người đó sẽ mang hành trang trên vai ra đi trong bóng
tối, và chúng sẽ khoét tường mà đem ông ra. Mặt ông bị che kín
để mắt khỏi thấy xứ sở".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
77, 56-57. 58-59. 61-62
Ðáp: Các
ngươi đừng quên lãng những kỳ công của Chúa (c. 7c).
Xướng: 1) Họ đã thử thách
và phản nghịch Thiên Chúa Tối Cao, và họ không tuân giữ các huấn
lệnh của Người. Họ lùi bước và bội tín cũng như tổ tiên họ, họ
lầm lạc như cánh cung trật đường giây. - Ðáp.
2) Họ chọc giận Người vì
những nơi "thờ tự" trên cao, họ khiêu khích lòng ghen Người vì
bao thần tượng. Thiên Chúa nghe biết và bừng cơn thịnh nộ, Người
đã từ bỏ Israel một cách đắng cay. - Ðáp.
3) Người trao nạp sức mạnh
mình cho thiên hạ bắt bớ, và vinh quang mình trong tay kẻ nghịch
thù. Người bỏ mặc dân tộc Người cho cảnh gươm đao, và Người đã
xung giận phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn ngàn đời. -
Alleluia.
Phúc Âm:
Mt 18, 21 - 19, 1
"Thầy không bảo con
phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa
cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con,
con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng
đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước
Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén
bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và
tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình
dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ
hạn, và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả". Người chủ động lòng
thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp
một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói
rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân
và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ
trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào
ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng
đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy
giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha
hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi
không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi
giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy, Cha Thầy trên trời
cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con
không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Khi Chúa Giêsu nói những
lời đó xong, thì Người bỏ xứ Galilêa mà đến Giuđêa, bên kia sông
Giođan.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Chúa Tha Thứ nhưng vẫn không quên... tùy ở con nợ chúng ta!
Từ trách nhiệm sửa lỗi cho nhau trong bài Phúc Âm hôm qua sang đến
bổn phận tha thứ cho nhau trong bài
Phúc Âm hôm nay, hai bài Phúc Âm liên tục ở cuối đoạn 18 của
Phúc Âm Thánh ký Mathêu.
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay bao gồm câu trả lời của Chúa
Giêsu cho câu hỏi của Tông Đồ Phêrô: "'Lạy
Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ
mấy lần? Có phải đến bảy lần không?' Chúa Giêsu đáp: 'Thầy
không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần
bảy'".
Nghĩa
là bao giờ cũng tha, không bao giờ chấp nhất, dù có thế nào
chăng nữa, dù có nhiều đến đâu
chăng nữa, dù có nặng đến
mấy chăng nữa, thậm
chí dù có cố tình chăng nữa, chứ không phải chỉ tha
khi đương sự vô tình, không có ý gì. Và
còn phải
tự động tha nữa, chứ
không cần phải được xin lỗi mới tha, như Người đã dạy trong
bài giảng Phúc Đức Trọn Lành đối với những ai phạm đến chúng
ta trước khi chúng ta dâng
của lễ cho Thiên Chúa (xem Mathêu 5:24).
Tất
cả tinh thần nhân hậu và
thái độ bao dung của
chúng ta như thế mới trung thực phản ảnh Đấng được
Chúa Giêsu kêu gọi "hãy thương xót như Cha là Đấng xót
thương" (Luca 6:36), một Đấng được
Người ám chỉ trong dụ ngôn về vị vương chủ tha nợ cho người bầy
tôi của mình trong bài
Phúc Âm hôm nay:
"Về vấn
đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính
sổ với các đầy tớ. Trước hết người ta dẫn đến vua một người
mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ
ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ.
Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng:
'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, và tôi sẽ trả lại cho
ngài tất cả'. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha
nợ cho y".
Ở đây chúng ta thấy vị vương chủ
này quảng đại bao dung đến độ chỉ cần người bầy tôi
van xin ông, không phải là van xin tha nợ mà chỉ van xin
khất nợ để rồi từ từ trả sau, cho dù không biết phải trả đến
bao giờ mới hết món nợ kếch sù ấy và cũng chẳng biết có thể
trả nổi món nợ ấy hay chăng, nhưng vị vương chủ vẫn "động
lòng thương" tự tha hết món nợ khổng lồ ấy cho người bầy
tôi khốn khổ van xin của mình.
Thế
nhưng, cho dù được tha bổng món nợ khổng lồ ấy, đến độ giá
trị của món nợ này bằng cả nhà của người bầy tôi mắc nợ: "Người
này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả
tài sản của y để trả hết nợ", vẫn
còn nguyên đó, chứ chưa hoàn toàn được xóa sổ, tùy theo
thái độ của con nợ bầy tôi này với chính con nợ của hắn.
Thật vậy, con nợ bầy tôi
này đã đối xử hoàn
toàn ngược lại với những gì hắn được hưởng từ vị vương chủ
của hắn, như dụ ngôn Chúa tiếp tục cho biết như sau:
"Khi ra
về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y
tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: 'Hãy trả nợ cho ta'. Bấy giờ
người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng
cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'. Y không
nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ
xong".
Con nợ
của người bầy tôi này cũng có cùng một cử chỉ và lời van xin
khất nợ như hắn đã tỏ ra với vị vương chủ của hắn, nhưng hắn
vẫn không tha cho con nợ của hắn là người chỉ
nợ hắn chẳng là bao so
với món nợ kếch sù của hắn với vị vương chủ của hắn, đến độ,
trong khi hắn được vị vương chủ này tha hẳn cho cả món nợ,
không phải trả nữa, thì hắn lại "bắt
người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong", nghĩa
là lòng của hắn vẫn thù hằn
chấp nhất con nợ của hắn
cho đến khi hắn trả thù cho bằng được, cho đến khi hắn lấy
lại công bằng, "mắt đền mắt, răng đền răng" (Mathêu
5:38).
Chính vì thế, món nợ kếch sù của
hắn với vị vương chủ của hắn vẫn chưa hoàn toàn xóa sổ là
như thế. Tóm lại, vấn đề xóa sổ nợ của chúng ta với Thiên
Chúa là ở chúng ta hơn là ở nơi Thiên Chúa, Đấng lúc nào
cũng tha cho chúng ta và mong chúng ta cũng tha cho nhau như
Ngài tha cho chúng ta, bằng không, tự chúng ta làm khổ
mình, ở chỗ bị chính bản thân mình là "lý
hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Chúng ta không tha cho nhau
nghĩa là chúng ta mặc nhiên không muốn được Thiên Chúa tha
nợ cho chúng ta, không chấp nhận ơn tha thứ của Thiên
Chúa, ở chỗ chúng ta muốn lấy được vài đồng bạc nợ nần của
nhau chẳng đáng là bao để trả nợ cả tỉ bạc với Thiên Chúa
hay sao. Tại sao chúng ta điên khùng đến như thế nhỉ?! Bài Phúc Âm
hôm nay đã kết thúc dụ
ngôn với những lời của
chính vị vương chủ cũng là lời của Chúa Giêsu sau đó như thế
này:
"Bấy giờ chủ đòi y đến và
bảo rằng: 'Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho
ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận,
trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy, Cha
Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi
người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
"Tên
đầy tớ ác độc" bị vị
vương chủ "nổi giận, trao y cho lý hình hành
hạ, cho đến khi trả hết nợ", chỉ vì hắn, đã hành động
hoàn toàn phản lại tấm lòng bao dung và thái độ quảng đại
chủ nợ của hắn đã tỏ ra cho hắn, trước lời van xin của hắn,
ở chỗ, vị chủ nợ này chẳng những đã không cần hắn phải khất
nợ, mà còn tự động tha hết cả món nợ kếch sù bất khả hoàn
trả của hắn nữa, trong khi đó, hắn đã nhất định không tha
món nợ, chẳng là bao so với món nợ hắn được chủ nợ của hắn
tha cho hắn, nên hắn đã bị chủ nợ của hắn lên án chỉ vì "ngươi
không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi".
"Tên đầy tớ ác độc" này
đúng là thành phần "dòng
giống phản loạn, chúng có mắt để thấy mà không thấy, có tai
để nghe mà không nghe, vì đó là dòng giống phản loạn": phản
loạn ở chỗ sống ngược lại với Vị Thiên Chúa chân thật duy
nhất của họ, phản lại tất cả những gì Ngài đã liên tục mạc
khải cho họ biết về Ngài trong giòng lịch sử cứu độ của họ,
như thể có mắt mà chẳng thấy, có tai mà chẳng nghe thấy gì
vậy. Do đó, số phận cuối cùng của "tên
đầy tớ ác độc" bị "lý
hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ", chẳng
khác gì số phận của dân Israel trong Bài Đọc 1 hôm nay là "phải
di cư và đi làm tôi" mà
trả nợ vậy.
Đó
là lý do, Bài Đáp Ca hôm nay, trích Thánh Vịnh 77, có câu
họa kêu gọi dân Do Thái, cũng như những ai được Thiên Chúa
thương xót, rằng "đừng
quên lãng những kỳ công của Chúa", một câu
họa được lập đi lập lại sau mỗi câu xướng có tính cách nhắc
nhở và cảnh giác lối sống bất trung và phản loạn của người
đầy tớ gian ác trong Bài Phúc Âm hôm nay:
1) Họ đã thử thách và phản nghịch Thiên Chúa Tối Cao, và
họ không tuân giữ các huấn lệnh của Người. Họ lùi bước và
bội tín cũng như tổ tiên họ, họ lầm lạc như cánh cung trật
đường giây.
2) Họ chọc giận Người vì những nơi "thờ tự" trên cao, họ
khiêu khích lòng ghen Người vì bao thần tượng. Thiên Chúa
nghe biết và bừng cơn thịnh nộ, Người đã từ bỏ Israel một
cách đắng cay.
3) Người trao nạp sức mạnh mình cho thiên hạ bắt bớ, và
vinh quang mình trong tay kẻ nghịch thù. Người bỏ mặc dân
tộc Người cho cảnh gươm đao, và Người đã xung giận phần gia
nghiệp của Người.
Ngày 11 tháng 8
Cơ-la-ra, trinh nữ
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nữ sinh năm 1193 tại Át-xi-di. Năm 18 tuổi, chị xin
thánh Phan-xi-cô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh
Phan-xi-cô đã cho chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà
thờ thánh Đa-mi-a-nô ở cửa ngõ thành Át-xi-di. Em của thánh
nữ tên là A-nê và một số thiếu nữ khác gia nhập nếp sống của
chị : sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phan-xi-cô
tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.
(1194-1253)
1. Đôi dòng tiểu sử.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Clara đồng
trinh.
Cũng như thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh nữ Clara là một ngọn đèn
thật sáng Chúa đã dùng để làm cho nhân loại hiểu rõ hơn về tinh
thần khó nghèo tuyệt đối của Phúc Âm là tinh thần như thế nào.
Clara sinh ngày 16/7/1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý, trong
một gia đình quý phái. Clara được một người mẹ đạo đức đã lưu
tâm dạy dỗ cho ngay từ thuở còn thơ ấu, bằng cả lời nói cũng như
bằng gương sáng của mình. Bà đã giáo dục, tập cho Clara biết cầu
nguyện, biết sống từ bỏ và biết chịu đựng nhẫn nhục thật sớm.
Lên 16 tuổi, Clara đã tránh xa tiếng ồn ào của đô thị đến ẩn
mình trong một nhà thờ ở miền quê (1212). Chính nơi đây Clara đã
gặp thánh Phanxicô Khó Khăn và được Ngài tận tình giúp đỡ trên
con đường tu đức. Khi Clara chọn con đường dâng hiến cho Chúa,
gia đình đã ngăn cản quyết liệt. Clara đã can đảm vượt qua. Cuối
cùng Clara đã được đưa đến đền thờ thánh Ðamianô và ở đây Clara
đã lập Hội Các Chị Tận Hiến cho Thiên Chúa.
Về đời sống thiêng liêng, ngài trực tiếp theo sự hướng dẫn của
thánh Phanxicô Khó Khăn. Ngài điều khiển tu hội cách ân cần và
khôn ngoan. Ngài qua đời ngày 11/8/1253 trước sự thương tiếc của
mọi người.
Ðức Giáo Hoàng Alexandre IV đã đặt ngài lên hàng các thánh đồng
trinh năm 1255.
2. Con đường nên thánh.
Nhìn lại cuộc đời của thánh nữ Clara, chúng ta thấy ngài đã có
một ý chí thật cao và mạnh mẽ trên con đường dấn thân đi theo
Chúa. Truyền thuyết kể lại ngài đã thầm khấn dâng mình cho Chúa
ngay từ lúc 16 tuổi, ngay lúc còn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Ngài
đã kiên nhẫn chờ đợi ngày Đấng Quan phòng ấn định. Và ngày tốt
đẹp ấy đã đến. Clara đã hết sức vui mừng khi được biết về cuộc
đời kỳ diệu của Phanxicô, con trai của một đại thương gia giàu
có người thành Assisi. Clara đã hết lòng cảm phục trước việc
Phanxicô dứt khoát từ bỏ mọi sự giàu sang và can đảm thoát ly
mọi áp lực trần thế kể cả việc phải từ bỏ cả nhà cha mẹ, để lên
đường hiến thân phục vụ Vua Trời trong đời sống khó nghèo.
Nghe biết về con đường của thánh Phanxicô, Clara đã kín đáo tìm
đến gặp và nói cho ngài biết tất cả chí hướng về đời sống nội
tâm của mình. Riêng Phanxicô, vì được ơn Chúa soi sáng, nên
thánh nhân đã mau nhận ra con đường Chúa muốn người con thiêng
liêng của mình phải đi là con đường nào. Vì thế, Phanxicô đã âm
thầm giúp Clara chuẩn bị ngày công khai đoạn tuyệt thế gian, để
xe duyên với “đức khó nghèo”. Ngày ấy là ngày Chúa nhật Lễ Lá
năm 1212.
Theo lời chỉ dẫn của thánh Phanxicô, sáng hôm ấy Clara ăn mặc
thật diễm lệ, xứng đáng con nhà quý phái. Clara tiến lên, quỳ
hàng ghế đầu, như để từ giã mọi người lần cuối cùng. Trước cử
chỉ lạ thường của Clara, mọi người quen thuộc đều bỡ ngỡ! Và
người ta càng bỡ ngỡ hơn nữa khi thấy Clara không đi kiệu lá, cứ
quỳ tại chỗ chăm chú nhìn lên bàn thờ, tay nắm chặt cành lá xanh
tươi, tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang dâng lên trong tâm
hồn… Thế rồi đêm hôm ấy, Clara bỏ nhà cha mẹ, tay cầm cành lá
chạy thẳng đến nhà nguyện Nữ Vương các thiên thần, nơi Phanxicô
đang quỳ chờ đợi. Trong nhà thờ nhỏ bé dâng kính “Bà Chúa nghèo”
này, thánh Phanxicô đã giúp người con thiêng liêng của mình hiến
tóc và dâng lòng cho Thiên Chúa. Sau khi dâng hiến cho Chúa mớ
tóc huyền, Clara đổi bộ áo diễm lệ ban sáng, mặc lấy chiếc áo
thô của đức khó nghèo.
Và dòng nhì thánh Phanxicô hay là dòng Các chị em nghèo được
thiết lập từ đó.
Sáng hôm sau, Phanxicô dẫn Clara đến gửi tại một nữ tu viện gần
làng Baxia. Nhưng vì không chịu được sự phản đối quá gay gắt của
gia đình, Clara lại xin thánh Phanxicô đến lẩn tránh ở một tu
viện khác. Tại đây, thánh nữ đã khuất phục được một người em gái
tên là Annê. Annê mới 15 tuổi, nhưng dáng người đẹp đẽ và tinh
thần sắc sảo không kém gì Clara. Sau Clara, Annê là người thứ
hai được Phanxicô cắt tóc và dâng lên Thiên Chúa lời khấn vâng
lời, trinh khiết và khó nghèo. Người ta kể, khi gia đình Annê
đến, nhất quyết lôi nàng về. Thì lạ thay, con người nhỏ bé của
nàng bỗng trở nên rắn cứng và nặng trĩu, đến nỗi bốn năm người
kéo không nổi. Biết đó là việc lạ Thiên Chúa làm, mọi người đành
yên lặng ra về…
Khi công việc đã êm xuôi, thánh Phanxicô đến lĩnh ý Đức Giám mục
xây cho chị em một ngôi nhà nhỏ lấy tên là tu viện thánh
Đamianô. Đây là tu viện đầu tiên của dòng các chị nghèo. Tuy nhỏ
bé, nhưng số chị em lên rất đông. Đầu tiên chị em sống theo qui
luật của chính thánh Phanxicô soạn, nhưng đến năm 1215 công đồng
Latêranô sửa đổi lại, tham chiếu theo luật dòng thánh Biển Đức.
Bốn năm sau, Đức Hồng Y Ugolinô lại duyệt lại và bỏ bớt những
điều luật quá nghiêm ngặt về đời sống khổ nghèo của chị em.
Riêng thánh nữ Clara, người được đặc ân của Đức Giáo Hoàng, cho
tự do sống khó nghèo vượt hẳn qui luật dòng.
Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền đất, không ăn thịt và
hầu như giữ im lặng hoàn toàn. (Về sau thánh Clara, cũng như
thánh Phanxicô, thuyết phục chị em điều chỉnh điều khắt khe này:
“Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng”). Dĩ nhiên, điều nhấn
mạnh nhất là sự nghèo khó Phúc âm. Họ không sở hữu tài sản, ngay
cả giữ chung, chỉ sống nhờ vào những của bố thí hằng ngày.
Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân cho các chị em khi
họ đi hành khất về. Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo
hoàng, hồng y và giám mục thường đến tham vấn bà. Bà rất sùng
kính Thánh Thể. Bà luôn nói với các chị em: “Đừng sợ. Hãy tín
thác vào Chúa Giêsu”.
Ngày 11-8 năm 1253, thánh nữ gọi các chị em lại để nhắn nhủ mấy
lời cuối cùng: “Chị em thân mến! Tôi Clara, nữ tỳ hèn mọn của
Chúa Kitô, là thân cây non Thiên Chúa đã ban cho cha thánh
Phanxicô, đem trồng trong vườn tu viện như một tiểu muội, một
hiền mẫu của chị em. Dù không xứng đáng, tôi cũng nhân danh
Thiên Chúa chúc lành cho chị em tất cả”. Sau cùng thánh nữ kêu
to tiếng: “Nào chị em không thấy Vua vinh hiển đang đến với tôi
kia ư?”. Nói đoạn, ngài nhắm mắt lại, êm ái ra đi như người ngủ!
Nhiều chị em dòng làm chứng đã thấy Đức Mẹ và nhiều thánh nữ
khác hiện đến đón linh hồn thánh Clara về trời!
Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Alexanđrô IV phong lên bậc hiển
thánh. Và sau, Đức Clêmentê X định lễ kính thánh Clara vào ngày
12 tháng 8 hằng năm, ngày thánh nữ được Chúa gọi về trời lãnh
triều thiên vĩnh cửu, sáng rực những hạt ngọc trinh khiết và khó
nghèo!
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
(nguồn: website TGP Sài Gòn)
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Hạnh phúc thay người được tham dự bàn tiệc thánh để được hết
lòng kết hợp với Đức Ki-tô. Toàn thể đạo binh thiên quốc
không ngừng thán phục vẻ đẹp của Người. Yêu mến Người thì sẽ
say mê, chiêm ngưỡng thì được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu
của Người làm ta no thoả, sự dịu dàng của Người làm ta ngây
ngất. Nhớ đến Người tựa như được ánh sáng êm dịu chiếu soi.
Hương thơm của Người làm kẻ chết hồi sinh. Nhìn vinh quang
Người, mọi công dân thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc được hạnh
phúc. Vì Người là phản ánh vinh quang ngàn đời, là vẻ
rực rỡ của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương không chút tỳ ố.
Thưa hoàng hậu, hiền thê của Đức Giê-su Ki-tô, xin bà hãy
soi mình hằng ngày vào tấm gương ấy và cũng hãy nhìn kỹ
khuôn mặt của bà trong đó ; nhờ vậy bà trang điểm cả bề
trong lẫn bên ngoài bằng trang phục huy hoàng lộng lẫy, bằng
vòng hoa và xiêm y nhân đức, xứng đáng là nữ tử và hiền thê
rất thanh khiết của Đức Vua cao cả. Nhưng trong tấm gương ấy
còn phản ánh đức khó nghèo diễm phúc, đức khiêm nhường thánh
thiện và đức bác ái tuyệt vời. Nhờ ơn Thiên Chúa, qua tấm
gương trọn vẹn này, bà có thể chiêm ngắm tất cả.
Vậy, xin bà hãy ngắm nhìn từ đầu tấm gương ấy : đó là sự
nghèo khó của Chúa, Đấng được bọc trong khăn và nằm trong
máng cỏ. Ôi sự khiêm nhường đáng khâm phục ! Ôi sự nghèo khó
gây ngỡ ngàng ! Vua các thiên thần, Chúa Tể trời đất lại nằm
trong máng cỏ.
Rồi ở giữa tấm gương, bà hãy chiêm ngắm sự khiêm nhường, ít
ra là sự nghèo khó. Hãy ngắm nhìn bao nỗi cực nhọc vất vả
Người đã chịu để cứu chuộc loài người.
Còn ở cuối tấm gương, bà hãy chiêm ngưỡng tình yêu khôn tả
khiến Người chịu đóng đinh trên cây thập giá, và chịu chết
cách tủi nhục nhất.
Chính Chúa là tấm gương đó. Từ trên thập giá, Người mời gọi
khách qua đường hãy ngắm nhìn, theo như lời nhắn nhủ : Này
tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem : có nỗi khổ nào
so sánh được với nỗi khổ tôi phải chịu. Chúng ta hãy hợp
một tiếng, chung một lòng đáp lại lời Chúa, Đấng đang kêu
than : Nỗi
niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn
mỏi. Vậy, thưa hoàng hậu của Đức Vua trên trời, xin bà
hãy đốt lên ngọn lửa yêu mến mỗi ngày một nồng nàn hơn.
Nhưng xin bà cũng hãy chiêm ngắm những niềm hoan lạc, những
giàu sang khôn tả và những vinh dự vĩnh cửu của Người, và vì
lòng yêu mến, khát khao mãnh liệt, xin bà hãy mượn lời sách
Diễm ca mà kêu lên : “Lạy Đức phu quân trên trời, xin
hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng sánh bước, theo mùi hương
anh thơm ngát. Em
sẽ chạy mãi không biết mệt cho đến khi anh đưa em vào phòng
tiệc, cho đến khi anh đưa tay trái cho em gối đầu, đưa tay
phải âu yếm ghì chặt lấy em, rồi hôn em nồng nàn.”
Khi chiêm niệm điều ấy, xin bà hãy nhớ đến người mẹ bé nhỏ
nghèo hèn của bà, nên biết rằng tôi ghi nhớ hình ảnh bà
trong trái tim tôi, không bao giờ phai nhạt, vì tôi quý mến
bà hơn hết mọi người.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh
Cơ-la-ra và soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời
sống khó nghèo. Xin nhậm lời thánh nữ cầu thay nguyện
giúp mà ban cho chúng con được cùng người sống tinh thần
nghèo khó, mà theo chân Đức Ki-tô để được vào quê trời
chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Chúng con cầu xin
Sau cái chết của vị thánh nữ Clara, bên ngoài của ngôi
thánh đường cổ kính Thánh George, nơi lưu giữ thân thể
của Thánh Phanxicô Assisi cho đến năm 1230,
đã được tái thiết theo kiểu Gothic và mang tên
Nhà Thờ Thánh Clara.
Thánh Clara xuất thân từ một gia đình
trưởng giả, nhưng chị đã cương quyết không chịu kết hôn
như cha mẹ mong muốn và
sắp xếp để hiến thân cho đời sống chiêm niệm theo gương
Thánh Phanxicô Assisi, một thần tượng cùng sinh quán với
chị, nhưng hơn chị khoảng 12 tuổi.
Do đó, vào năm 18 tuổi chị đã trốn gia đình để
theo gương Thánh Phanxicô như thành phần môn đệ
đầu tiên của thánh nhân bấy giờ ở Porziuncola.
Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của chị như dấu
hiệu của lòng thống hối và khổ hạnh.
Phái đoàn hành hương TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình
Thương), trong chuyến Hành Hương Đức Tin -
Chứng Tích Phục Sinh (8-19/11/2021) giữa đại dịch
covid-19 toàn cầu,
đang chờ đợi một cách thảnh thơi và mau chóng, bởi không
phải xếp hàng vừa dài lại vừa lâu như trong mùa hè hay
trong thời gian không bị đại dịch,
tới phiên được vào Nhà Thờ trưa ngày 14/11/2021
để viếng xác còn nguyên của Thánh nữ Clara và Cây Thánh
Giá của Thánh Phanxicô, cả hai đều ở tầng hầm nhà thờ.
Đền thờ kính Thánh Clara chỉ có một gian giữa với một
chỏm cao vút chính giữa đầy những trang hoàng, trong khi
đó lại không có các bức tranh vẽ trên tường như ở đa số
các nhà thờ nổi tiếng khác.
Ở đây, trong nguyện đường Chúa Chịu Nạn, còn có
cây Thánh Giá nguyên thủy ở nhà thờ Thánh Damiano, cây
Thánh Giá đã vang tiếng gọi Thánh Phanxicô
"hãy xây nhà lại cho Ta",
mà bấy giờ thánh nhân lại cứ tưởng là đi xây lại các nhà
thờ cũ kỹ ở Assisi, mà chính là canh tân lại Nhà Giáo
Hội của Chúa đang trở nên bệ rạc, nhất là nơi thành phần
giáo sĩ bấy giờ.
Chị đã bị gia đình đến áp lực bắt về, nhưng vẫn hoàn toàn
bất lực trước con người kiên quyết đến độ không ai có thể
lay chuyển được thân xác của chị bấy giờ.
Sau khi được nhập tu như thành phần môn đệ của Thánh
Phanxicô, chị được đến ngụ ở nhà thờ Thánh Damiano,
nơi từ từ có thêm cả mẹ của chị và người em gái của chị,
trong số khoảng 50 người nữ.
Để rồi sau này thánh nữ đã lập dòng nữ theo lý tưởng của
Thánh Phanxicô, gọi là Dòng Thánh Clara Nghèo (Poor Clares),
chuyên sống nghèo và cầu nguyện.
Vị thánh nữ này chịu một chứng bệnh kinh niên, nhưng, theo
truyền thuyết, vào năm 1240, bất chấp bệnh nạn trầm trọng, thánh
nữ cũng đã cố gắng cứu tu viện của mình cho khỏi cuộc tấn công
của đám dân du mục Ả Rập,
bằng cách cầm lấy mặt nhật có Mình Thánh Chúa xoay qua xoay lại,
như vị linh mục ban phép lành Thánh Thể, ở một cửa sổ của tu
viện.
Chị qua đời năm 1253, hưởng thọ 60 tuổi và được phong
hiển thánh 2 năm sau.
Thứ Sáu
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
16, 1-15. 60. 63
"Ngươi tuyệt hảo nhờ sự
huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ
lạc".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Có lời Chúa phán cùng tôi
rằng: "Hỡi con người, hãy cho Giêrusalem biết tội ác ghê tởm của
nó. Hãy nói: Chúa là Thiên Chúa phán cùng Giêrusalem rằng: Nguồn
gốc và sinh quán của ngươi là xứ Canaan. Cha ngươi là người
Amorê: mẹ ngươi là người Xêthêa. Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi
chào đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước cho
sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không ai đem lòng
thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một công việc nào như
thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm ngươi, người ta đã bỏ ngươi
ngoài đồng.
Ta đi qua gần ngươi và
thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng ngươi rằng: 'Hãy
sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài đồng'. Ngươi đã nảy nở,
lớn lên và đến tuổi dậy thì. Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm
dài, nhưng ngươi vẫn khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và
thấy ngươi. Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo
trải trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và
kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về Ta. Ta
đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi và xức dầu cho
ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ và xỏ giày da tốt cho
ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây gai mịn và choàng cho ngươi áo
tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo
xuyến vào tay ngươi, đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào
mũi ngươi, đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ
trên đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc áo
bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến lọc, mật
ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp và tiến lên ngôi
nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các dân tộc nhờ sắc đẹp của
ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho
ngươi. Chúa là Thiên Chúa phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và
lợi dụng danh tiếng của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến
thân cho bất cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao
ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập với
ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải nhớ lại mà
xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở miệng ra nữa, khi Ta
tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa là Thiên Chúa phán".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Ed
16, 59-63
"Ngươi tuyệt hảo nhờ sự
huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi, thế mà ngươi đã mãi dâm truỵ
lạc".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Chúa là Thiên Chúa đã phán
thế này: "Ta sẽ đối xử với ngươi như ngươi đã đối xử với Ta,
ngươi đã khinh rẻ lời thề mà huỷ bỏ giao ước. Nhưng phần Ta, Ta
sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh.
Ta sẽ lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Và ngươi sẽ ghi nhớ
các đường lối của ngươi mà cảm thấy nhục khi Ta lấy các chị các
em gái ngươi mà ban cho ngươi làm con, mặc dầu chúng không có
chân trong giao ước của ngươi. Ta sẽ giữ vững giao ước của Ta
với ngươi, và ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, và như thế, để
ngươi phải nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn
mở miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm. Chúa
là Thiên Chúa phán".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6
Ðáp: Chúa
đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi (c. 1c).
Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa
là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không
khiếp sợ: vì Chúa là sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ
trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.
2) Hãy ca tụng Chúa và kêu
cầu danh Người; hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa;
hãy nhớ lại danh Chúa rất cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca tụng, vì Người
làm nên những việc kỳ diệu; hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn
cầu. Hỡi người cư ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng
cao cả là Ðấng Thánh Israel ở giữa ngươi. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai
giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã
tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 19, 3-12
"Vì lòng chai đá của
các ngươi mà Môsê đã cho phép các ngươi rẫy vợ; nhưng từ ban đầu
thì không có như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có những người
biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng: "Có được
phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?" Người đáp: "Nào các ông đã
chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng loài người
có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người nam sẽ bỏ cha
mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên một thân xác? Cho
nên họ không còn là hai, nhưng là một thân xác. Vậy điều gì
Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly". Họ
hỏi lại: "Vậy tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy
vợ?" Người đáp: "Vì lòng chai đá của các ông mà Môsê đã cho phép
các ông rẫy vợ; nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo
các ông rằng: Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác,
thì phạm tội ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm
tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người
rằng: "Nếu sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng
cưới vợ". Người đáp: "Không phải mọi người hiểu được điều ấy,
nhưng chỉ những ai được ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn
nhân từ lòng mẹ sinh ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên,
và có những người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có
thể hiểu được thì hiểu".
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Chồng
theo vợ hơn là vợ theo chồng?
Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XIX Thường Niên đưa
chúng ta đến bài Phúc Âm về vấn đề chồng ly
dị vợ, một
bài Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về lòng quảng đại
thứ tha như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta.
Vấn đề chồng ly dị vợ này được "những
người biệt phái đến cùng Chúa Giêsu và hỏi thử Người rằng:
'Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lẽ gì không?'", một
vấn đề đã được Chúa Giêsu dứt khoát giải quyết một cách thẳng
thắn hoàn toàn có tính
cách chính
thống như sau:
"Nào các
ông đã chẳng đọc thấy rằng: Từ thuở ban đầu, Tạo Hoá đã dựng
loài người có nam có nữ, và Người đã phán: Bởi thế nên người
nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ nên
một thân xác? Cho nên họ không còn là hai, nhưng là một thân
xác. Vậy điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không
được phân ly".
Theo văn
hóa đại đồng của chung loài người thì thường vợ theo chồng
chứ không phải là chồng theo vợ, ngoại trừ văn hóa theo mẫu
hệ vốn còn cái lệ "đi bắt chồng", như của thành phần dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo tâm lý tự nhiên thì
người nam theo người nữ trước khi trở thành vợ chồng. Bởi
thế nên mới có chuyện trai tán gái chứ không bao giờ hay ít
khi thấy gái tán trai, cho dù cũng không hiếm chuyện gái
theo trai, nhưng thường xẩy ra sau khi bị trai dụ dỗ v.v.
Câu Chúa Giêsu khẳng định "người nam sẽ bỏ
cha mẹ mà kết hợp với vợ mình" đã chứng
thực là chồng theo vợ hơn là vợ theo chồng, đúng hơn là trai
theo gái hơn là gái theo trai, bởi vì bản chất và khuynh
hướng của thành phần nam nhân làm chồng, như Adong, là tìm
kiếm bản thân mình, cho đến khi thực sự cảm nhận được bản
thân mình nơi một người nữ tự nhiên có duyên với mình nào
đó, để rồi tự nhiên cảm thấy hết sức gắn bó với nàng, đến độ
chàng sống không thể không có nàng: "Cuối cùng thì đây
là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi" (Khởi
Nguyên 2:23).
Bởi thế chồng yêu vợ là yêu bản thân mình: "Ai yêu
thương vợ mình là yêu thương chính bản thân mình"
(Epheso 5:28). Bởi "cả hai đã nên một thân xác... họ
không còn là hai, nhưng là một thân xác", như Chúa Giêsu
đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay, và vì thế khi vợ
chồng ly dị nhau thì họ chẳng những "phân ly những gì Thiên
Chúa đã ràng buộc nối kết" họ lại với nhau mà tự họ cũng
phản bội lẫn nhau nữa, nhất là khi chính bản thân họ không
bị ràng buộc bởi cổ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy như xưa,
trái lại, họ hoàn toàn tự do yêu nhau và lấy nhau... như văn
hóa của thời đại quá văn minh tân tiến về cả khoa học kỹ
thuật lẫn nhân quyền hiện nay, đến độ con cái đặt đâu cha mẹ
ngồi đó, khi chính chúng nó tự quyết lập gia đình với nhau và
làm đám cưới với nhau theo kiểu của chúng, kể cả chuyện đồng
tính hôn nhân.
Có lẽ thành
phần đặt vấn nạn với Chúa Kitô đã đoán trước được câu trả
lời của Người rồi nên đã từ đó đi thẳng vào vấn đề họ muốn
thử Người, với vấn nạn chính yếu thứ hai: "Vậy
tại sao Môsê đã truyền cấp tờ ly hôn mà cho rẫy vợ?", một
vấn nạn cũng được Chúa Kitô không ngần ngại vạch trần sự
thật cho họ biết về chính bản thân họ rằng:
"Vì lòng
chai đá của các ông mà Moisen đã cho phép các ông rẫy vợ;
nhưng từ ban đầu thì không có như vậy. Tôi bảo các ông rằng:
Ai rẫy vợ, trừ nố gian dâm, và đi cưới vợ khác, thì phạm tội
ngoại tình. Và ai cưới người đã bị rẫy, cũng phạm tội ngoại
tình".
Không
ngờ vấn đề Người quả quyết như vậy đã đụng đến chính thành
phần bỏ mọi sự mà theo Người, kể cả vợ con của các vị, nên
các vị đã bồi thêm một câu vừa như để hỏi Người vừa như để
than thân trách phận thay cho thành phần lập gia đình như
sau: "Nếu
sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ".
Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã lợi dụng ngay câu than vãn này của các
vị để nói đến chính đời sống độc thân theo Người của các
vị: "Không
phải mọi người hiểu được điều ấy, nhưng chỉ những ai được
ban cho hiểu mà thôi. Vì có những hoạn nhân từ lòng mẹ sinh
ra, có những hoạn nhân do người ta làm nên, và có những
người vì Nước Trời, tự trở thành hoạn nhân. Ai có thể hiểu
được thì hiểu".
Qua bài
Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy giáo huấn của Chúa Kitô về
vấn đề hôn nhân gia đình là thế này: 1- hôn nhân theo dự án
thần linh của Thiên Chúa chỉ
xẩy ra giữa một người nam và một người nữ mà thôi; 2- hôn
nhân là do chính Thiên Chúa xe duyên kết nghĩa nên đôi phối
ngẫu không được
tự ý ly dị nhau, trừ trường hợp ngoại tình;
3- ai tự ý ly dị vợ chồng
mình mà lấy người khác là phạm tội ngoại tình và ai lấy
người ly dị cũng phạm tội ngoại tình; 4- ly dị vợ chồng là
do con người gây ra chứ tự bản chất của hôn nhân là những gì
bất khả phân ly. Đó là lý do chúng ta thấy Giáo Hội Công
Giáo cứu xét rất kỹ lưỡng và cẩn thận giúp thực hiện việc
học hỏi dự bị hôn nhân trước
khi ban bí tích hôn nhân, cũng
như trong việc giải hôn hay tiêu hôn khi cần.
Tuy luật
lệ về đời sống hôn nhân ngặt nghèo như thế, đến độ người ta
cảm thấy "nếu
sự thể việc vợ chồng là như thế, thì tốt hơn đừng cưới vợ", nghĩa
là đừng lập gia đình, nhưng theo bản tính tự nhiên và phái
tính xu hướng về nhau hầu như bất khả chống cưỡng, liên
quan đến cả tình cảm lẫn tình dục của mình, con người, hầu
hết vẫn
không thể nào, không sớm
thì muộn, không trước thì sau, không tiến
tới đời sống lứa đôi trong hôn nhân gia đình, nếu
chính thức, bằng không cũng khó lòng mà tránh được cảnh ăn ở
với nhau ngoài
hôn nhân một cách nào đó.
Dầu
sao thực tế cũng cho thấy 3 trường hợp ngoại lệ được Chúa
Giêsu kể đến trong bài Phúc Âm, đó là: thứ nhất, tự bẩm sinh
là hoạn nhân (như sinh ra mang giới tính ái nam ái nữ, hoặc
tự nhiên bị bất lực về sinh dục v.v.), thứ hai là bị trở
thành hoạn nhân (như đã xẩy ra cho thành phần nam
nhân được hầu cận gần gũi hoàng hậu hoặc công chúa hay cung
phi của vua chúa ngày xưa), và thứ ba là tự ý làm hoạn nhân
vì lý tưởng phụng vụ cao
cả (như nam nữ tu sĩ
khấn đồng trinh hoặc hàng giáo sĩ Công
giáo hứa sống độc thân v.v.).
Hôn Nhân Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng là
một Bí Tích Thánh, tự bản chất phản ảnh tình yêu thủy
chung của Thiên Chúa đối với dân Do Thái của Ngài, cũng
như tình yêu thánh hóa của Chúa Kitô luôn ở cùng Giáo
Hội là Nhiệm Thể của Người, một Nhiệm Thể cho dù tự bản
chất là "thánh thiện", nhưng lại ôm ấp trong
lòng mình toàn là những đứa con tội lỗi, bao gồm cả chính vị
giáo hoàng được gọi là Đức Thánh Cha, vị mà trong nghi
thức thống hối đầu lễ, cũng phải cùng với cộng đoàn dân
Chúa tham dự phụng vụ bấy giờ "thú nhận ... đã phạm
tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những
điều thiếu sót... lỗi tại tôi mọi đàng...".
Thế nhưng, cho dù dân được Thiên Chúa ưu tuyển và ưu đãi
hơn tất cả mọi dân tộc trên thế giới này, qua giòng lịch
sử cứu độ của họ, liên tục ngoại tình với tà thần của
dân ngoại, cũng như với mọi thứ ngẫu tượng của chính họ,
không phải là chính Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
được Ngài tỏ ra cho họ, qua các kỳ công vĩ đại chính mắt
họ chứng kiến thấy. Họ chẳng khác nào như con điếm, vô
cùng đáng khinh bỉ, đáng bỏ rơi, xa lánh và đầy đọa cho
đáng kiếp dâm loạn của mình, nhưng họ vẫn được
Thiên Chúa nhẫn nại và nhịn nhục theo đuổi, cho đến khi
nhận ra chỉ có mình Ngài vô cùng khả ái và đáng yêu trên
hết mọi sự, như được Sách Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Đọc
1 hôm nay diễn tả như sau:
"Khi ngươi sinh ra, ngày ngươi chào
đời, người ta không cắt rốn, không rửa ngươi trong nước
cho sạch sẽ, không xát muối và bọc khăn cho ngươi. Không
ai đem lòng thương xót nhìn ngươi để làm cho ngươi một
công việc nào như thế. Ngày ngươi sinh ra, vì ghê tởm
ngươi, người ta đã bỏ ngươi ngoài đồng. Ta đi qua gần
ngươi và thấy ngươi dẫy dụa trong máu. Ta đã nói cùng
ngươi rằng: 'Hãy sống trong máu và lớn lên như cỏ ngoài
đồng'. Ngươi đã nảy nở, lớn lên và đến tuổi dậy thì.
Ngực ngươi nở nang, tóc ngươi rậm dài, nhưng ngươi vẫn
khoả thân. Bấy giờ Ta đi qua gần ngươi và thấy ngươi.
Lúc đó ngươi đã đến tuổi yêu đương. Ta lấy vạt áo trải
trên mình ngươi mà che sự khoả thân của ngươi. Ta thề và
kết ước với ngươi - lời Chúa phán - và ngươi đã thuộc về
Ta. Ta đã tắm ngươi trong nước, rửa máu trên mình ngươi
và xức dầu cho ngươi. Ta đã mặc cho ngươi áo màu sặc sỡ
và xỏ giày da tốt cho ngươi, thắt lưng ngươi bằng dây
gai mịn và choàng cho ngươi áo tơ lụa. Ta đã lấy đồ quý
mà trang điểm cho ngươi. Ta đã đeo xuyến vào tay ngươi,
đeo kiềng vào cổ ngươi. Ta đã xỏ khoen vào mũi ngươi,
đeo hoa tai vào tai ngươi và đặt triều thiên rực rỡ trên
đầu ngươi. Ngươi đã được trang điểm bằng vàng bạc, mặc
áo bằng vải mịn, tơ lụa và hàng thêu. Ngươi ăn bột miến
lọc, mật ong và dầu ôliu. Càng ngày ngươi càng xinh đẹp
và tiến lên ngôi nữ hoàng. Ngươi đã lừng danh giữa các
dân tộc nhờ sắc đẹp của ngươi vì ngươi thật là tuyệt hảo
nhờ sự huy hoàng Ta đã mặc cho ngươi. Chúa là Thiên Chúa
phán, nhưng ngươi đã cậy sắc đẹp và lợi dụng danh tiếng
của ngươi, để mãi dâm trụy lạc. Ngươi hiến thân cho bất
cứ ai qua đường. Nhưng phần Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước
Ta đã lập với ngươi khi ngươi còn xuân xanh. Ta sẽ lập
với ngươi một giao ước vĩnh cửu. Như thế, để ngươi phải
nhớ lại mà xấu hổ, và vì xấu hổ, ngươi sẽ không còn mở
miệng ra nữa, khi Ta tha thứ hết mọi việc ngươi đã làm.
Chúa là Thiên Chúa phán".
Đến đây, chúng ta thấy rằng, nếu theo mẫu gương là tình
yêu thủy chung như Thiên Chúa với dân của Ngài, hay như
Chúa Kitô với Giáo Hội của Người, thì chồng theo vợ hơn
là vợ theo chồng, nhưng mục đích tối hậu là để làm sao
cho vợ theo chồng, thế thôi. Bài Đáp Ca hôm nay, được
trích từ Tiên Tri Isaia, đoạn 12, chính vì "Chúa
đã bỏ cơn giận của Chúa và đã an ủi tôi", như
Câu Họa vang lên, mà những ai cảm nghiệm thấy được tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài cũng cần phải nhận biết và
ngợi khen chúc tụng Ngài, theo tâm tình ở các Câu Xướng
của cùng Bài Đáp Ca như sau:
1) Ðây Thiên Chúa là Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin
tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là sức
mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi
phần rỗi.
2) Hãy ca tụng Chúa và kêu cầu danh Người; hãy công
bố cho các dân biết kỳ công của Chúa; hãy nhớ lại danh
Chúa rất cao sang.
3) Hãy ca tụng, vì Người làm nên những việc kỳ diệu;
hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư ngụ
tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng
Thánh Israel ở giữa ngươi.
Thứ Bảy
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ed
18, 1-10. 13b. 30. 32
"Ta sẽ xét xử mỗi người
theo cách nó sống".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Có lời Chúa phán cùng tôi
rằng: Tại sao giữa các ngươi trong Israel có câu tục ngữ rằng:
"Cha ông ăn nho chua thì con cháu ghê răng"?
Chúa là Thiên Chúa phán,
Ta lấy sự sống Ta mà thề không lặp lại câu tục ngữ ấy ở Israel
nữa. Này tất cả mọi sinh mạng đều thuộc về Ta; sinh mạng người
cha cũng như sinh mạng người con, đều thuộc về Ta. Ai phạm tội,
người ấy sẽ chết. Ai công chính, giữ lề luật và đức công bình,
không ăn (của cúng) trên núi và không ngước mắt nhìn các thần
tượng của nhà Israel, không xúc phạm đến vợ người khác, không
gần gũi đàn bà khi họ không được sạch, không áp bức người ta,
trả đồ cầm cố cho người mắc nợ, không cưỡng đoạt của ai, đem
bánh cho người đói khát, đem áo mặc cho người trần trụi, không
cho vay ăn lời, không lấy thêm của người, giữ tay không làm điều
gian ác, xét đoán công minh giữa hai người, ăn ở theo luật lệ
của Ta, và giữ các giới răn của Ta để thực hiện chân lý, người
đó mới là công chính, nó sẽ được sống, Chúa là Thiên Chúa phán.
Nhưng nếu người đó sinh ra
một đứa con trộm cướp, khát máu, phạm tội trong những lỗi nói
trên, thì đứa con ấy không đáng sống, vì đã làm những điều đáng
ghét, nó sẽ chết, và máu nó sẽ đổ trên đầu nó.
Vì vậy, hỡi nhà Israel, Ta
sẽ xét xử mỗi người theo cách nó sống: Chúa là Thiên Chúa phán.
Các ngươi hãy trở lại và hãy hối cải tất cả những điều gian ác,
thì sự gian ác sẽ không huỷ diệt các ngươi. Hãy dứt bỏ hết mọi
tội lỗi các ngươi đã phạm, và hãy tạo cho các ngươi một tâm hồn
và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi muốn
chết. Ta không thích cho ai phải chết: Chúa là Thiên Chúa phán.
Hãy trở lại để được sống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 50, 12-13. 14-15. 18-19
Ðáp: Ôi
lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch (c. 12a).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, xin
tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị
trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu
hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
2) Xin ban lại cho con
niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con.
Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo Chúa, và người tội lỗi sẽ trở
về với Ngài. - Ðáp.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì
sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ
con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê
tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin mở rộng tầm con mắt con, để con tuân cứ luật pháp của
Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 19, 13-15
"Ðừng ngăn cấm các trẻ nhỏ
đến với Ta, vì Nước Trời là của những người giống như chúng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, người ta đem những
trẻ nhỏ đến cho Chúa Giêsu để Người đặt tay và cầu nguyện cho
chúng. Các môn đệ liền quở trách chúng, nhưng chúa Giêsu bảo:
"Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta, và đừng ngăn cấm chúng, vì Nước
Trời là của những người giống như chúng". Sau khi Người đặt tay
trên chúng, thì Người đi khỏi nơi đó.
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Suy Niệm
Trẻ nhỏ - Linh đạo hôn nhân và trách nhiệm giáo dục
Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày
hôm nay, Thứ Bảy Tuần XIX Thường Niên, vẫn tiếp tục bài
Phúc Âm của Thánh ký Mathêu từ các
ngày trước trong tuần.
Nếu
bài Phúc Âm cho Thứ Ba tuần này "trẻ nhỏ" được Chúa
Giêsu đặt giữa các môn đệ để làm mô phạm linh đạo theo Chúa cho
các vị, thì
bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau bài Phúc Âm hôm qua là bài về
vấn đề ly dị trong đời sống hôn
nhân gia đình
giữa vợ chồng với nhau,
dường
như cũng có một ý nghĩa sâu xa nào đó, như thể hôn
nhân gia đình bao gồm cả con cái và liên
quan đến
cả con cái nữa chứ không phải chỉ có chuyện vợ chồng với
nhau mà thôi, và "trẻ nhỏ" cũng là mô phạm linh đạo cho
cả ơn gọi sống đời hôn
nhân gia đình bao gồm cả trách nhiệm giáo dục nữa vậy.
"Bấy
giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người,
để Người đặt
tay cầu nguyện cho chúng.
Nhưng môn đồ quát rầy chúng. Song Chúa Giêsu
nói: 'Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta,
vì Nước Trời thuộc về những người như thế'. Rồi Người
đặt tay trên đầu chúng
trước
khi Người rời khỏi
nơi đó".
Bài
Phúc Âm tuy ngắn, chỉ vỏn vẹn có 3 câu 13-15 ở đoạn 19 của
Thánh ký Mathêu nhưng rất sâu xa về ý nghĩa. Chúng ta hãy
lưu ý đến từng chi tiết của bài Phúc Âm sẽ thấy:
"Bấy giờ người ta đem các trẻ nhỏ đến với Người,
để Người đặt
tay cầu nguyện cho chúng".
Chúng ta không biết trẻ nhỏ được người ta mang đến cho
Chúa Giêsu ở đây bao nhiêu tuổi. Có thể là còn đang được bế
trên tay, tức khoảng độ trên dưới 1 tuổi, hay đã có thể tự
mình bước đi,
khoảng độ 3-4 tuổi, nhưng được
dìu đến với Chúa.
Dầu
sao cũng cho thấy sự kiện rất thực tế đó là trẻ nhỏ cần
phải được dẫn đến với Chúa Giêsu chứ tự chúng không thể
nào đến với Người, bởi có thể là về thể lý chưa biết đi.
Nhất là vì các em chẳng hề biết Người là ai, và thường trẻ
con lại hay
sợ người lạ mặt nữa. Ở đây
chúng ta thấy gợi lên vấn đề
giáo dục con cái trong
gia đình đó
là trước hết và trên hết hãy dạy cho các con về Thiên Chúa,
hãy dẫn chúng đến với Đấng đã dựng nên chúng qua cha mẹ
chúng.
Trong bài Phúc Âm này, chúng ta thấy mục đích của những
người mang trẻ em, có thể là con cái của họ, không biết là
bao nhiêu em, đến với Chúa Giêsu với mục đích là "để Người đặt
tay cầu nguyện cho chúng". Những
người này, thường là cha mẹ của các em, quả thực đã hiểu
Chúa Giêsu hơn ai hết, nên mới mang con cái của mình đến với
Người, không phải để Người dạy dỗ chúng, vì chúng chưa
hiểu được những gì Người nói, cho bằng để cho chúng được gần
Người và để chúng được Người
chúc lành cho, thế
là đủ. Và chính họ
cũng được diễm
phúc lây, như trường hợp con cái của thành phần Kitô hữu
Công giáo ở Quảng Trường Thánh Phêrô thường được Đức
Thánh Cha Phanxicô ẵm bế và ôm hôn vậy.
"Nhưng môn đồ quát
rầy chúng".
Thế
nhưng, không ngờ, thành phần được
gần Chúa Giêsu nhất là
các môn đệ của Người lại
không hiểu Người bằng thành phần đem con trẻ đến cùng Người
trong bài Phúc Âm hôm nay. Bởi đó,
các vị thay vì tỏ ra vui mừng hớn hở giúp cho các em đến với
Chúa Giêsu Thày mình một cách dễ dàng hơn thì lại ra tay
ngăn cản và xua đuổi chúng đi bằng thái độ "quát rầy
chúng".
Các
vị có lẽ không ghét bỏ trẻ em đâu. Các em có tội tình gì đâu
mà ghét bỏ chúng. Thế nhưng có thể các vị nghĩ rằng Thày của
các vị là Đấng
cao trọng, không giao tiếp với trẻ con, hay trẻ
con không đáng được giao tiếp với Người, vì trẻ
con biết gì mà đến với người, trái
lại còn làm mất
giờ quí báu của Người, chỉ làm
phiền Người hơn là làm vui lòng Người. Thái độ
của các môn đệ trong trường hợp này quả là còn nặng tính
cách quan
liêu lắm vậy.
Tuy nhiên,
hành động của các vị đã cho thấy là các
vị đã hoàn toàn quên
rằng Chúa Giêsu Thày của các vị mới trước đó ít lâu đã đặt
một em bé ở giữa các vị để
chẳng
những khuyên
các
vị là hãy "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ", mà nhất
là còn khẳng định với các vị rằng: "Ai tiếp nhận một trẻ
nhỏ như thế này vì danh Thày là tiếp nhận Thày... Đừng bao
giờ khinh thường một trong những trẻ nhỏ này"
(Mathêu 18:5,10). Đó
là lý do Chúa Giêsu đã phải lên tiếng nói với các vị như
sau:
"Hãy để mặc các trẻ, và đừng ngăn cản chúng đến với Ta, vì
Nước Trời thuộc về những người như thế".
Ở đây, trong câu nói này, Chúa Giêsu đã lập lại những gì
Người đã khẳng định với các môn đệ ở lần trước rằng "trừ
phi các con hoán
cải và trở nên như trẻ nhỏ các
con mới được
vào Nước Trời" (Mathêu 18:3).
Trong lần
này, Người còn nhấn mạnh hơn nữa, ở chỗ, nếu Nước Trời là
chính bản thân Người, mà "Nước
Trời thuộc về những người như thế", tức thuộc
về thành phần sống như trẻ nhỏ, thì Người
thuộc về những người sống cuộc đời thơ ấu thiêng liêng vậy.
Đó là lý do chỉ có tâm
hồn nào sống
bé nhỏ mới đến được với Chúa Kitô, mới nhận biết Chúa Kitô,
mới tin tưởng vào Người, mới để Người nâng niu yêu
thương ấp ủ, nhờ đó mới được hiệp
nhất nên một với Chúa Kitô, mới
là thành phần cao trọng nhất trên Nước Trời (xem Mathêu
18:4).
"Rồi Người
đặt tay trên đầu chúng
trước
khi Người rời khỏi
nơi đó".
Cử
chỉ Chúa
Giêsu đặt tay trên đầu các em không phải chỉ đáp ứng
lòng mong ước của thành phần người lớn mang các em đến
với Người, mà chính các em xứng đáng lãnh nhận phép
lành đầy ân sủng của
Người.
Nếu việc đặt tay
vẫn bao gồm việc thông ban Thánh Linh thì việc Chúa
Giêsu đặt tay trên đầu các em bé ở đây còn có ý nghĩa là
Người xác nhận tâm
hồn ngây thơ vô tội của các em xứng đáng là
nơi Thánh
Linh ngự
trị.
Việc đặt
tay của Chúa Kitô trên đầu các em "trước
khi Người rời khỏi
nơi đó" còn
có nghĩa là Người luôn ở cùng các em, vì
Người thuộc về các em, như "Nước Trời thuộc về những
người như thế", nhờ
Thánh Linh được Người thông ban cho các em qua việc đặt
tay của Người trên đầu của các em.
Trong Bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy được sự kiện
các con trẻ được người ta mang đến cho Chúa Giêsu,
và "người ta" đây là ai, nếu không phải là chính cha
mẹ của chúng. Sự việc cha mẹ đem con cái của mình
đến với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay hàm
chứa một ý nghĩa rất sâu xa: 1- Con cái là của Chúa
và thuộc về Chúa, nên cha mẹ cần phải trả chúng về
cho Ngài và dẫn chúng đến với Ngài; 2- Con cái vì là
của Chúa và thuộc về Chúa, hơn là của cha mẹ, mà cha
mẹ cần phải dưỡng dục chúng theo đường lối và ơn gọi
của từng đứa, đúng như ý Chúa, hơn là theo ý mình;
3- con cái là của Chúa và thuộc về Chúa, nên chính
Chúa sẽ lo cho từng đứa, thánh hóa từng đứa, "đặt
tay lên đầu chúng", chứ không phải cha mẹ,
thành phần chỉ cần dưỡng dục chúng vì Chúa, trong
Chúa và như ý Chúa muốn là đủ.
Nếu chúng ta là cha mẹ dưỡng dục con cái theo ý
mình, hơn là ý Chúa, thì Lời Chúa, qua miệng của
Tiên Tri Êzêkiên trong Bài Phúc Âm hôm nay, sẽ tiếp
tục "câu
tục ngữ rằng: 'Cha
ông ăn nho chua thì con cháu ghê răng'"? Trái
lại, nếu họ đã thực hiện như thành phần cha mẹ trong
bài Phúc Âm hôm nay, đem con cái đến cùng Chúa Giêsu
để được Người đặt tay trên đầu chúng, như thể chân
nhận rằng con cái là của Chúa và thuộc về Chúa, mà
họ có nhiệm vụ phải yêu thương chúng như tặng ân
Chúa ban, Chúa trao gửi cho họ, thì những lời Chúa
sau đây trong Bài Đọc 1 hôm nay là những lời Ngài
muốn ngỏ cùng họ:
"Ta
lấy sự sống Ta mà thề không lặp lại câu tục ngữ ấy ở Israel
nữa. Này
tất cả mọi sinh mạng đều thuộc về Ta; sinh mạng người cha
cũng như sinh mạng người con, đều thuộc về Ta. Ai phạm tội,
người ấy sẽ chết... Nhưng nếu người đó sinh ra một đứa con
trộm cướp, khát máu, phạm tội trong những lỗi nói trên, thì
đứa con ấy không đáng sống, vì đã làm những điều đáng ghét,
nó sẽ chết, và máu nó sẽ đổ trên đầu nó".
Thật ra, cho dù là cha mẹ hay con cái, tất cả đều là tạo vật
được Thiên Chúa dựng nên, để được sống hiệp thông thần linh
với Ngài. Thế nên, ai sa ngã phạm tội thì hãy nhận biết
trách nhiệm của mình mà tự trở về với Ngài, như chính Ngài
đã kêu gọi trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Các
ngươi hãy trở lại và hãy hối cải tất cả những điều gian ác,
thì sự gian ác sẽ không huỷ diệt các ngươi. Hãy dứt bỏ hết
mọi tội lỗi các ngươi đã phạm, và hãy tạo cho các ngươi một
tâm hồn và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các
ngươi muốn chết. Ta không thích cho ai phải chết: Chúa là
Thiên Chúa phán. Hãy trở lại để được sống".
Đó là lý do, ai cũng thế, muốn sống trọn ơn gọi làm người,
nhất là ơn gọi làm con cái của Cha Trên Trời, họ cần phải
van xin như Câu Họa của Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ
Thánh Vịnh thống hối 50: "Ôi
lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch", cùng
với tâm tình nguyện xin ở cả 3 câu xướng của cùng Bài Đáp Ca
này:
1) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh
tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi
thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
2) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ; với tinh thần
quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Con sẽ dạy kẻ bất nhân đường nẻo
Chúa, và người tội lỗi sẽ trở về với Ngài.
3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn
thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn
tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung.