SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO



Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần II Năm B và Năm Chẵn
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật

 


Phụng Vụ Lời Chúa


 

Bài Đọc I: Is 62, 1-5

"Người chồng sẽ vui mừng vì vợ".

Bài trích sách Tiên tri Isaia.

Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi.

Đó là lời Chúa.

 

Đáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 7-8a. 9-10ac

Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa chư dân (c. 3).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Đáp.

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Đáp.

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. - Đáp.

4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Đáp.

 

Bài Đọc II: 1 Cr 12, 4-11

"Cùng một Thánh Thần ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, có những hồng ân khác nhau, nhưng vẫn là một Thánh Thần; có nhiều chức vụ khác nhau, nhưng chính là một Chúa; và có những hành động khác nhau, nhưng chính là một Thiên Chúa, Người thực hiện hết mọi cái trong mọi người. Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích. Người thì được Thánh Thần cho lời khôn ngoan, kẻ khác thì được lời thông minh, theo cùng một Thánh Thần; người khác được đức tin, trong cùng một Thánh Thần; kẻ khác nữa được ơn chữa bệnh, trong cũng một Thánh Thần đó; có người được ơn làm phép lạ, có kẻ được ơn tiên tri, người khác được ơn phân biệt các thần trí; có người được ơn nói nhiều thứ tiếng; người khác được ơn giải thích các thứ tiếng. Nhưng cùng một Thánh Thần duy nhất thực hiện tất cả những điều đó. Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định.

Đó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 1-12

"Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới. Và bỗng thiếu rượu, mẹ Chúa Giêsu nói với Người: "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu nói với mẹ: "Hỡi bà, Con với bà có can chi đâu, giờ Con chưa đến". Mẹ Người nói với những người giúp việc: "Hễ Người bảo gì, thì phải làm theo". Ở đó có sáu chum đá, dùng vào việc thanh tẩy của người Do-thái, mỗi chum đựng được hai hoặc ba thùng nước. Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy đổ nước đầy các chum". Họ đổ đầy tới miệng. Và Chúa Giêsu bảo họ: "Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc!" Và họ đã đem đi. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu, ông không biết tự đâu ra, nhưng những người giúp việc đã múc nước thì biết, ông mới gọi tân lang mà nói: "Ai cũng đem rượu ngon ra trước, khi khách ngà ngà thì mới đem rượu xoàng hơn. Còn ông, ông lại giữ rượu ngon tới giờ này". Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người.

{Sau đó Người xuống Capharnaum làm một với mẹ Người, anh em (Người) và môn đệ của Người, nhưng các Ngài chỉ lưu lại ở đó ít ngày thôi.}

Đó là lời Chúa.

 



Suy niệm

 

 

Đức Kitô Tỏ Hiện


Hôm nay, Chúa Nhật Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Năm C, phụng vụ Lời Chúa vẫn thật sự phản ảnh chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ".


Thật
 vậy, ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, hình như là chính Tiên Tri Isaia (62:1-5), trong phần được gọi là những bài ca của lần trở về đầu tiên từ Babylon (60:1 - 62:12), đã tiên báo về "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này ở ngay câu mở đầu như thế này: 


"Vì
 Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi, cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời. Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người".


Phải
, "Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời... và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Ngườiđây còn là ai khác ngoài "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". Vì Người là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, và chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" (Gioan 1:14), bởi Người là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).


Chính nhờ "Đấng công chính" này, nhờ "Đấng cứu độ Sion" này mà "Sion" (thành của Vua Đavít, ám chỉ riêng triều đại của vị vua là cha ông của Đấng Thiên Sai) và "
Giêsusalem" (Thành Thánh của chung dân Do Thái, nơi có Đền Thánh như ngai tòa Thiên Chúa ngự ở giữa dân của Ngài), như viễn tượng được Tiên Tri Isaia báo trước rất phấn khởi và đầy huy hoàng như sau:


"C
hính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi, ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là 'kẻ Ta ưa thích', và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa, và đất ngươi sẽ có dân ".


Phải chăng thành phần 
"dân cư" trong viễn tượng của Tiên Tri Isaia về tương lai huy hoàng ngời sáng của một triều đại Đavít ("Sion") trường tồn (xem Luca 1:33) cũng như của thành phần dân Chúa ("Giêrusalem") không phải chỉ có Do Thái mà còn bao gồm cả các dân ngoại nữa, vì Đấng Thiên Sai của riêng dân Do Thái cũng chính là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại

"(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi sẽ vui mừng vì ngươi" trong viễn tượng của Tiên Tri Isaia ở phần kết của Bài Đọc 1 hôm nay nghĩa là gì, nếu không phải chính vì "con cái ngươi sẽ ở trong ngươiám chỉ dân ngoại cũng được thông hưởng gia nghiệp với dân Do Thái như thế mà dự án cứu độ của Thiên Chúa mới thật sự nên trọn, và vì thế Ngài mới hoàn toàn mãn nguyện nơi dân của Ngài và về dân của Ngài, được Ngài tuyển chọn để Ngài tỏ mình ra cho họ và qua họ cho dân ngoại.

Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay thật sự đã chất chứa và vang lên tâm tình tràn đầy tính cách phổ quát
 và công giáo của Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn ban cho cả dân Do Thái lẫn dân ngoại nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " và nhờ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", một Vị Thiên Chúa cần phải được "toàn thể địa cầu" ngợi khen chúc tụng như sau:

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên chúa, hãy chúc tụng danh Người. 

2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. 

3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. 

4) Hãy mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. 

Đúng thế, ơn gọi và sứ vụ của dân Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn, có tính cách đại đồng và bao gồm chung nhân loại. Đó là đường lối của Thiên Chúa, Đấng Quan Phòng Thần Linh và là Chủ Tể Lịch Sử loài người, một đường lối được vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô cảm nhận thấy và đã khẳng định rất chính xác với Giáo Đoàn Côrintô trong Bài Đọc 2 hôm nay là: 1- "Thiên Chúa... thực hiện hết mọi s trong mọi người", 2- "Ơn Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi khác, cốt để mưu cầu công ích"; 3-  "Người ban phát ơn riêng cho mỗi người theo như Người quy định".

Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " lại càng được tỏ hiện rõ nét hơn nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, một bài Phúc Âm được Thánh ký Gioan nêu lên một ghi chú rất chính xác với chủ đề này khi ngài kết luận rằng: "Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên này tại Cana xứ Galilêa, và đã tỏ vinh quang Người và các môn đệ Người tin Người".

Chính câu ghi chú kết luận đoạn Phúc Âm về biến cố tiệc cưới Cana ấy mới cho chúng ta thấy được tất cả ý nghĩa và lý do sâu xa tại sao lại có biến cố tiệc cưới Cana, một biến cố có vẻ phàm tục và quá ư là nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, như việc thiếu rượu là nhu cầu vật chất của một đôi tân hôn xa lạ nào đó, mà lại được Thánh ký Gioan trịnh trọng thuật lại trong Phúc Âm của mình là Phúc Âm liên quan đến thiên tính siêu việt của Chúa Kitô cũng như đến mầu nhiệm về Giáo Hội, và còn thuật vào ngay đầu đoạn thứ hai là đoạn mở đầu cho sứ vụ Thiên Sai của Chúa Kitô liên quan đến phần rỗi đời đời của chung nhân loại. 

Biến cố tiệc cưới Cana được Thánh ký Gioan thuật lại có những chi tiết đặc biệt rất thích đáng và tương hợp với bản chất "đầy ân sủng và chân lý" của "Người Con duy nhất đến từ Cha", đó là chi tiết: "Họ hết rượu rồi" và chi tiết "hãy đổ nước đầy các chum". Biến cố tiệc cưới Cana trong bài Phúc Âm hôm nay có thể coi như là một dụ ngôn về Nước Thiên Chúa đầu tiên Chúa Giêsu muốn dạy cho thành phần những người môn đệ tiên khởi của Người, cũng là thành phần môn đệ ưu tú của Người. 

Nếu Nước Thiên Chúa đây là tất cả những gì "đầy ân sủng và chân lý" nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha" thì "rượu" đây ám chỉ tinh thần của con người, một tinh thần bởi nguyên tội đã không còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, và "nước" đây ám chỉ tấm lòng khao khát thần linh và sự sống đời đời, mà càng khốn khổ ("hết rượu") bởi nguyên tội, con người lại càng mong chờ Ơn Cứu Chuộc, mong chờ "Nước Thiên Chúa đến" (Marco 1:15), nhưng chỉ đến với những ai "đầy" lòng khao khát và trông đợi, ở chỗ "hoán cải và tin vào Phúc Âm" (Marco 1:15). 

Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy những điểm chính yếu sau đây: 

1- Thiên Chúa luôn muốn tỏ mình ra cho con người để họ có thể nhận biết Ngài và tin tưởng vào Ngài, nhờ đó mà được hiệp thông thần linh với Ngài, sống sự sống thần linh của Ngài, với Ngài và như Ngài

2- Ngài đã lợi dụng tất cả mọi hoàn cảnh của con người để tỏ mình ra, mà hoàn cảnh của họ càng đau thương khốn khổ lại càng thuận lợi cho việc tỏ mình ra của Ngài và càng sáng tỏ việc Ngài tỏ mình ra cho h

3- Về phần mình, con người cần phải làm sao để có được một tấm lòng luôn khao khát thần linh, luôn tràn đầy hy vọng, luôn trông đợi Ơn Cứu Độ, và chân thành tin tưởng vào Đấng duy nhất có thể cứu độ họ.

Tuy nhiên, không thể nào không nói đến vai trò bất khả thiếu của đệ nhất tạo vật về ân sủng là "Mẹ của Chúa Giêsu", một nữ nhân vật mà chắc không ai trong bữa tiệc cưới ở Cana này, thậm chí kể cả những chàng môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu cũng có mặt ở đó bấy giờ, (có thể là 6 vị bấy giờ như Anrê và Simon, Philiphê và Nathanael/Batholomêo, Giacobê và Gioan - xem Gioan 1:35-51; Mathêu 4:18-22), có thể biết được quyền thế siêu việt của bà mẹ trung niên này.

Thánh ký Gioan, ngay câu đầu bài Phúc Âm hôm nay, đã cho biết rằng "ở đó" có cả "Mẹ của Chúa Giêsu" nữa. Có cái hay và trùng hợp ở Phúc Âm Thánh ký Gioan là, Mẹ Maria chỉ xuất hiện duy có 2 lần trong cuốn Phúc Âm thứ 4 này. Thế nhưng, lại là hai lần đều "ở đóvới Chúa Giêsu: lần đầu "ở đó" là ở tiệc cưới Cana và lần cuối "ở đó" là ở dưới chân cây thập tự giá của Người. Hình ảnh liên kết giữa hai mẹ con thần linh này trong Phúc Âm của Thánh ký Gioan như ám chỉ là hai mẹ con ấy bất khả phân ly, không thể nào thiếu nhau trong công cuộc cứu độ trần gian - ở đâu có Con thì ở đó có Mẹ, hay ngược lại ở đâu có Mẹ thì ở đó có Con.

Nếu ở đâu có Con thì ở đó có Mẹ, như ở Sọ Trường trên Đồi Canvê: "Đứng kề thập giá của Chúa Giêsu có mẹ của Người..." (trong câu Phúc Âm Gioan 19:25 này Chúa Giêsu được kể đến trước), thì ở đâu có Mẹ thì ở đó có Con, như ở trong bữa tiệc cưới Cana lần này: "Khi ấy, có tiệc cưới tại Cana xứ Galilêa. Và có mẹ của Chúa Giêsu ở đó. Chúa Giêsu và các môn đệ Người cũng được mời dự tiệc cưới" (trong câu Phúc Âm này Mẹ Maria được kể đến trước)

Quả thật, căn cứ vào trình thuật của Thánh ký Gioan về biến cố tiệc cưới Cana này thì phải công nhận là Mẹ Maria thật sự đóng vai chính, vai chủ động, với sứ mệnh làm môi giới cho loài người với Con Mẹ, và vai trò làm tiền hô để dọn đường cho việc tỏ mình ra của Con Mẹ: Mẹ đã làm môi giới cho loài ngườiở chỗ, Mẹ đã thấy được tình trạng "hết rượu" của bữa tiệc cưới, rồi Mẹ đi trình bày với Con Mẹ (chứ không cầu xin hay đòi hỏi), và Mẹ đã làm tiền hô cho Con Mẹ, ở chỗ, Mẹ đã tự động bảo thành phần phục tiệc là "Người bảo gì các anh hãy làm theo như thế". Đó, Mẹ ở đâu thì Chúa ở đó, Mẹ đến với đám phục tiệc thì Chúa cũng đến với thành phần này, chứ không đi đâu khác chỗ của Mẹ, chứ không đến với quản tiệc hay chú rể.

Nếu sau biến cố Chịu Phép Rửa ở Chúa Nhật thứ nhất mở màn cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật thứ hai tuần này Giáo Hội cố ý chọn các bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan, các bài Phúc Âm liên tục nhau và mật thiết liên hệ với nhau cả về diễn tiến của các biến cố cũng như về ý nghĩa từ từ tỏ mình ra của Chúa Giêsu, thứ tự theo chu kỳ A, B và C: 

Chu kỳ A: bài Phúc Âm  (Gioan 1:29-34) liên quan đến sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Người với chung dân Do Thái vào "ngày hôm sau - next day", tức là sau ngày hôm trước là ngày xẩy ra biến cố thánh nhân làm phép rửa cho Người; 

Chu kỳ B: bài Phúc Âm (1:35-42) liên quan đến sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu Người với riêng các môn đệ của thánh nhân vào "ngày hôm sau - next day", tức là ngày thứ hai sau khi Người lãnh nhận phép rửa, và "ngày hôm đó" hai người môn đệ bấy giờ của thánh nhân đã "đến mà xem chỗ Người ở", chứ Người chưa chủ động tỏ mình ra cho họ.

Chu kỳ C: bài Phúc Âm (2:1-12) được mở đầu bằng cụm từ "vào ngày thứ ba", thời điểm mà nếu không kể "ngày hôm sau" (Gioan 1:29) đầu tiên có thể xẩy ra sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, thì "ngày thứ ba" ở bài Phúc Âm Chúa Nhật II Năm C này là thời điểm sau hai lần nữa của "ngày hôm sau" (Gioan 1:35) và "ngày hôm sau" (Gioan 1:43), tức là vào thời điểm Người đã gặp gỡ 4 môn đệ đầu tiên ở "ngày hôm sau" (1:35), trong đó có 2 môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, và thời điểm "ngày hôm sau" (1:43) Người đã về Galilêa, nhờ đó Người mới có thể hiện diện và tỏ mình ra ở Tiệc Cưới Cana lần đầu tiên, (qua môi giới của Mẹ Người, Người Mẹ đóng vai như một tiền hô dọn đường cho Người), "để các môn đệ tin Người", một "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ". 

Cụm từ "ngày hôm sau" được Thánh ký Gioan lập đi lập lại mấy lần như trên đây ở phần dưới của đoạn 1, rồi  "vào ngày thứ ba" ở ngay câu mở đầu của đoạn 2, cũng có thể này được hiểu là sau biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 ngày trong hoang địa (ở Xứ Giuđêa miền nam nước Do Thái), chắc cũng ở gần khu vực hoang địa của Tiền Hô Gioan, do đó Người mới trở lại với Gioan Tiền Hô như được thuật lại trong 2 bài Phúc Âm cho Chúa Nhật II Thường Niên Năm A và Năm B. Và chỉ sau đó Người mới đi bộ về Galilêa miền bắc để tuyển lựa 2 cặp anh em tông đồ đầu tiên ở bờ biển hồ Galilêa, có thể bao gồm cả Philiphê, vì Philiphê cùng quê Betsaiđa với anh em Anrê và Simon, và Nathanael lại là bạn của Philiphê, đi đâu cũng có nhau, rồi "vào ngày thứ ba" thì Người cùng với các môn đệ này đến dự tiệc cưới Cana.


Thời điểm "vào ngày thứ ba" ở đầu đoạn 2, thay vì ở cùng đoạn 1 của Phúc Âm Thánh Gioan, cũng có thể khác thời điểm "ngày hôm sau" ở phần sau của đoạn 1 như thế này: "ngày hôm sau", được Thánh ký Gioan đề cập tới mấy lần ở phần dưới của đoạn 1 này là những ngày ngay sau biến cố Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa; còn "vào ngày thứ ba" có thể là thời điểm sau biến cố Chúa Giêsu chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa. Suy diễn này thích hợp với ý nghĩa của biến cố Vượt Qua, ở chỗ, nếu việc "chay tịnh" của Chúa Kitô ám chỉ hay báo trước biến cố khổ nạn và tử giá của Người, thì sau ba ngày Người đã phục sinh vinh hiển, nên ở tiệc cưới Cana Người cũng đã tỏ "vinh hiển của Người ra" cho các môn đệ của Người!

 




Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 15, 16-23

"Vâng lời thì tốt hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Samuel nói cùng Saolê rằng: "Thôi! Tôi sẽ tuyên bố cho ông những điều Thiên Chúa đã nói với tôi trong đêm qua". Và Saolê đáp: "Ngài cứ nói". Samuel liền nói: "Khi ông tự thấy ông còn bé nhỏ, há ông đã chẳng được đặt làm thủ lãnh các chi họ Israel sao? Và Thiên Chúa đã chẳng xức dầu phong ông làm vua Israel sao? Chúa đã sai ông lên đường và nói: "Hãy đi giết quân Amalec tội lỗi, và hãy giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng". Tại sao ông không nghe lời Chúa, mà lại chạy theo chiến lợi phẩm và làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như vậy?" Saolê nói với Samuel: "Vâng, tôi đã nghe lời Chúa, đã đi trên đường Chúa sai tôi, đã bắt Aga vua Amalec, và tàn sát dân Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm, dân chúng đã lấy chiên bò, những vật nhất hạng họ cướp được để tế lễ Chúa là Thiên Chúa của họ tại Galgalê".

Samuel nói: "Này Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự vâng lời Chúa ư? Vì vâng lời thì tốt hơn của lễ, và tuân lệnh thì cao đẹp hơn dâng mỡ cừu; vì phản bội thì giống như tội tà thuật, còn ngoan cố thì giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi ông khinh bỉ lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23.

Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).

Xướng: 1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận tự nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận tự đoàn chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? - Ðáp.

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 18-22

"Tân lang còn ở với họ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, họ đến nói với Chúa Giêsu rằng: "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các khách dự tiệc cưới có thể ăn chay khi tân lang còn ở với họ không? Bao lâu tân lang còn ở với họ, thì họ không thể ăn chay được. Nhưng sẽ đến ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay. Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Ðó là lời Chúa.

 


Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

Đức Kitô Tân Lang   

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai đầu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, vẫn tiếp tục chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh. Ở chỗ nào?

Bài Phúc Âm Chúa Nhật II Thường Niên hậu Giáng Sinh Chu Kỳ Phụng Vụ Năm C hôm qua về tiệc cưới Cana, một biến cố cần phải có để mở màn cho việc Chúa Kitô tỏ mình ra cho các môn đệ tiên khởi của Người, nhờ đó đã làm cho các vị tin vào Người.

Bài Phúc Âm hôm nay, để trả lời cho vấn nạn được "môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay" đặt ra "Tại sao môn đồ của Gioan và các người biệt phái ăn chay, còn môn đồ Ngài lại không ăn chay?", Chúa Giêsu đã tự ví mình và tự nhận mình là "tân lang", và cho biết lý do các môn đệ của Người được Người ví như là thành phần "các khách dự tiệc cưới", không ăn chay như thành phần đặt vấn đề với Người đó là vì "tân lang còn ở với họ". 

Thật vậy, sở dĩ "các môn đồ Ngài lại không ăn chay?" bởi vì Người "còn ở với họ", tức là Người còn đang cần thời gian để tiếp tục và từ từ tỏ mình ra cho họ để họ có thể hân hoan vui sướng nhận biết Người mỗi ngày một hơn, và càng nhận biết Người họ càng kính phục Người và yêu mến Người, nhờ đó họ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Ngưi và cho Người, đúng như ý nguyện và mục đích Người tuyển chọn họ làm nhóm 12 của Người.

Tuy nhiên, không phải vì thế mà các môn đệ của Người không phải chay tịnh, một thứ chay tịnh nếu có và nếu cần lại hoàn toàn không phải như thành phần "môn đồ của Gioan và các người biệt phái" đã làm, mà là một thứ chay tịnh không còn được ở với Người nữa, không còn được thấy Người tận mắt, nghe Người tận tai và động chạm đến Người tận tay (xem 1Gioan 1:1), trái lại các vị chỉ giao tiếp với Người hoàn toàn bằng đức tin thuần túy trong tăm tối của giác quan và cảm thức, nghĩa là "ngày tân lang bị đem đi, bấy giờ họ sẽ ăn chay", ở chỗ "Các con sẽ than khóc trong khi thế gian vui mừng" (Gioan 16:20).

Thế nhưng, việc chay tịnh hay cách chay tịnh của các môn đệ Chúa Giêsu này không phải là những gì hủy hoại mà là những gì thăng hoa, thăng tiến, hoan hỉ: "Nếu các con yêu mến Thày thì các con phải vui mừng vì Thày về cùng Cha vì Cha là Đấng cao trọng hơn Thày" (Gioan 14:28). Bởi vì, nhờ Thày về cùng Cha là Đấng cao trọng hơn Thày, với tư cách Ngài là Đấng đã sai Thày như thế mà các vị, cho dù không còn thấy và ở với Người nữa, mới càng nhờ thế có thể đạt đến chỗ thần hiệp nên một với Người: "Thày ở đâu các con cũng được ở đó" (Gioan 14:3).

Như thế, trong chính sự vắng bóng của mình, khuất dạng của mình, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " lại càng tỏ mình ra hơn bao giờ hết, lại càng hiển linh hơn hết... trước con mắt thuần túy đức tin siêu nhiên của các môn đệ Người. 

Đó là lý do phần còn lại của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mới nói thêm những lời quan trọng và thiết yếu cho việc sống đạo sau đây: "Không ai lấy vải mới mà vá áo cũ, chẳng vậy, miếng vải vá sẽ rút lại mà kéo áo cũ, và chỗ rách lại tệ hơn. Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, rượu sẽ làm vỡ bầu da, và rượu đổ, bầu da hư. Nhưng rượu mới phải để trong bầu da mới".

Cái "mới"  "cũ" được Chúa Giêsu đề cập tới trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến vấn đề chay tịnh đây là gì, nếu không phải cái "mới" đây là đức tin (của Tân Ước) và cái "" đây là nghi thức hay hình thức hoặc lễ vật bề ngoài (của Cựu Ước), và vì thế, "rượu mới" và "bầu da mớiđây chính là "tinh thần và chân lý" được Chúa Giêsu nói đến trong trường hợp Người trao đổi với người phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp về thực tại "Thiên Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực thì cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24).  

Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy rõ hơn nữa về thực tại "Thiên Chúa là Thần Linh nên những ai tôn thờ Thiên Chúa đích thực thì cũng phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và chân lý" (Gioan 4:24). Ở chỗ, con người cần phải tin tưởng tuân phục Ngài, làm theo ý Ngài hơn là theo ý riêng của mình, cho dù ý riêng của mình có ngay lành và tốt lành đến mấy chăng nữa, cho dù ý riêng ấy chỉ nhắm đến vinh danh Ngài chăng nữa, điển hình như trường hợp của Vua Saulê được Tiên Tri Samuel cảnh giác trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Này Chúa ưa thích của lễ toàn thiêu và hy lễ hơn sự vâng lời Chúa ư? Vì vâng lời thì tốt hơn của lễ, và tuân lệnh thì cao đẹp hơn dâng mỡ cừu; vì phản bội thì giống như tội tà thuật, còn ngoan cố thì giống như tội thờ bụt thần. Vậy bởi ông khinh bỉ lời Chúa, nên Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".

Vua Saulê đã bất tuân Thiên Chúa ra sao, lời của Tiên Tri Samuel trong Bài Đọc 1 đã cho biết như thế này: "Chúa đã sai ông lên đường và nói: 'Hãy đi giết quân Amalec tội lỗi, và hãy giao chiến với chúng cho đến khi tận diệt chúng'. Tại sao ông không nghe lời Chúa, mà lại chạy theo chiến lợi phẩm và làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như vậy?" 

Cho dù Vua Saulê có lý do chính đáng để biện minh: "Vâng, tôi đã nghe lời Chúa, đã đi trên đường Chúa sai tôi, đã bắt Aga vua Amalec, và tàn sát dân Amalec. Nhưng trong các chiến lợi phẩm, dân chúng đã lấy chiên bò, những vật nhất hạng họ cướp được để tế lễ Chúa là Thiên Chúa của họ tại Galgalê", Tiên Tri Samuel vẫn khẳng định với vua rằng: "Vâng lời thì tốt hơn của lễ. Chúa truất phế không cho ông làm vua nữa".

Bài Đáp Ca hôm nay cũng theo chiều hướng của cả Bài Đọc 1 và bài Phúc Âm, ở chỗ đã bày tỏ cảm nhận chính xác về tất cả sự thật nơi việc tôn thờ Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân lý, bằng đức tin được thể hiện qua việc tuân phục là những tác động xứng hợp với Ngài và làm đẹp lòng Ngài, như sau:

1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận tự nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận tự đoàn chiên ngươi những con dê đực.

2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn và ném bỏ lời Ta lại sau lưng? 

3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. 

 


THÁNH ANTON VIỆN PHỤ 17/1

(251-356)

 

 

Ngày 17: Thánh Antôn, tu viện trưởng

 

 

Tiểu Sử

Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ. 

Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh : "Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21). Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó. 

Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi "căn phòng" và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa. 

Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: - Tôi còn sẵn sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.

Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời : - Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.

Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện : - Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con ?

Tiếng Chúa trả lờ i: - Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.

Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.

Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: - Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.

Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.

Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.

Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau : - Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.

Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:

- Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:

- Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.

Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.

Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: - Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.

Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ : 

- Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức Giêsu Kitô .

Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.

Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.

Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: - Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.

Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.

 

GIÁO HỘI THƯỞNG CÔNG CHO THÁNH NHÂN

 

Với một lòng yêu mến Chúa dạt dào, thánh Antôn đã làm gương cho nhiều người về đời sống thánh thiện và các nhân đức siêu việt của Người. Thánh nhân qua đời ngày 17/01/356 . Vào năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan tiền hô tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên, tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.

 

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Antôn, viện phụ, sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhận lời người nguyện giúp cầu thay,cho chúng con biết quên mình để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Antôn, viện phụ ).

 

Nguồn: Tổng hợp

 

https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-anton-vien-phu-1701.htm

Nhận Định

  1. Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

Lễ nhớ đến vị thầy của đời sống tâm linh và là tổ phụ của các ẩn sĩ được cử hành vào ngày 17.01, đã có từ khởi đầu thế kỷ thứ V trong các lịch của Syriaque, Copte và Byzantin. Ở phương Tây, việc tôn kính vị thánh này chỉ xuất hiện vào thế kỷ thứ IX. Chúng ta chỉ được biết về thánh nhân qua quyển “Cuộc đời thánh Antôn” do người bạn của ngài là thánh Athanase viết, sau khi thánh nhân qua đời; Hạnh thánh Antôn là quyển sách gối đầu của thánh Augustinô và thánh Martin cũng như nhiều vị thánh khác.

Thánh Antôn, được gọi là Cả hay Đan viện phụ, sinh tại Queman, miền thượng Ai Cập, vào năm 251 từ một gia đình Kitô giáo. Vào khoảng 20 tuổi, khi nghe một đoạn Phúc Âm trong Thánh lễ: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời; rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21). Cuộc đời ngài đã thay đổi. Nắm từng chữ của Phúc Âm, ngài bán đi tài sản của mình, bố thí cho kẻ nghèo và bắt đầu đi học với một vị ẩn sĩ già đạo đức, dạy cho ngài biết chia đời sống ra thành những giờ cầu nguyện, đọc Lời Chúa và lao động tay chân. Sau đó ngài rút vào sa mạc Thébaide; trong vùng cô tịch này, ngài phải chiến đấu với các cơn cám dỗ nặng nề trong vòng 15 năm.

Antôn thu hút được nhiều đệ tử cùng chí hướng, muốn sống đời ẩn tu hay khổ tu, mỗi người sống trong một lều riêng cách biệt nhau. Tiếng tăm vị thánh vang rất xa, vươn khỏi xứ Ai Cập; vị Thượng phụ Giáo chủ ở Alexandria là thánh Athanase cũng là một trong các bạn hữu của ngài.

Vào năm 311, dưới thời bách hại của hoàng đế Maximin Daia, Antôn rời bỏ sa mạc, tuyên bố rằng: “Chúng ta hãy đi chiến đấu cùng với bạn bè chúng ta.” Ngài đến Alexandria để động viên các tín hữu bị bách hại, bị bỏ tù hay bị kết án lao động khổ sai. Ngài trở lại thành này một lần nữa để giúp đỡ thánh Athanase trong việc chiến đấu với bè rối Ariô.

Trở về sa mạc, ngài cắm lều gần biển Đỏ, dưới chân núi Quelzoum, có một dòng suối và một cụm dừa. Đó là nguồn gốc Đan viện Copte ngày nay của thánh Antôn. Vị thánh Đan sĩ này sống đến 150 tuổi và qua đời cách thánh thiện trong căn lều của mình, khi dạy các môn đệ: “Hãy sống như anh em phải chết hàng ngày. Hãy cố gắng bắt chước các vị thánh.”

Các ảnh tượng cho thấy thánh Antôn bị ma quỉ cám dỗ, đang khi ngài cầu nguyện giang tay theo hình Thánh Giá, và một con heo, nhắc nhớ lại một đặc ân của Nhà trú của thánh Antôn: Vào thời Trung cổ, các vị này có quyền để cho các con heo của mình đi lang thang trong thành phố, cổ đeo một chuông nhỏ.

Thánh Antôn được kể vào số 14 vị thánh bảo trợ và thường được kêu cầu để chống lại cơn dịch Lửa thánh Antôn. Ngài cũng được xem như thánh quan thầy cho các thú vật trong nhà.

  1. Thông điệp và tính thời sự

 Thánh Antôn, tổ phụ các ẩn sĩ Ai Cập, là một mẫu mực cho mọi tâm hồn đi tìm Chúa, không gắn bó những gì đã qua, nhưng luôn giữ Lời Chúa trong tâm hồn.

  1. Thánh vịnh 91 gợi lên đời sống cô tịch của thánh nhân trong sa mạc, hoàn toàn dùng để cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa và làm việc: Người công chính lớn lên như cây dừa, giương cao như cây hương bá xứ Liban.

Bài đọc một (Ep 6,10.18): Chúng ta chiến đấu với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm…, nhắc nhớ đến những cuộc chiến đấu kiên cường của thánh Antôn chống lại các thần lực xấu suốt 15 năm khi ngài ở trong sa mạc. Thánh Athanase đã nói điều này trong Hạnh thánh; truyền thuyết và mỹ thuật làm cho những hình ảnh này nổi tiếng. Antôn, bước ra khỏi sa mạc như một kẻ chiến thắng, dạy cho chúng ta biết phấn đấu đẩy lui các thần xấu: “Không có gì làm cho linh hồn yếu đuối trở nên mạnh mẽ bằng việc kính sợ Thiên Chúa, cầu nguyện và chiêm niệm không ngừng Lời Chúa… Dấu Thánh Giá và niềm tin vào Chúa chúng ta là những tường lũy bất khả xâm phạm.”

Ngày kia, sau một cuộc chiến đấu, thánh Antôn la lên: “Lạy Chúa và Thầy của con, Chúa ở đâu ?” Một tiếng nói thiêng linh đáp lại: “Ta ở gần ngươi. Ta thấy tất cả cuộc chiến của ngươi và, bởi vì ngươi đã chống cự lại ma quỉ, Ta sẽ bảo vệ phần còn lại cuộc đời của ngươi…”.

Thánh Antôn nói với các môn đệ: “Con người chỉ tốt lành, khi nào Thiên Chúa ở trong người đó.” Vì thế, nhờ được kiên vững bằng Mình Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta “có khả năng chống lại mọi chước cám dỗ” và “chiến thắng quyền lực thống trị bóng tối” (Lời nguyện Hiệp lễ).

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB 

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-17-thang-1-thanh-anton-vien-phu/

 

 


Thứ Ba


Phụng Vụ Lời Chúa

 


Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 16, 1-13

"Samuel xức dầu cho Ðavít trước mặt các anh em ngài; và Thánh Thần ngự xuống trên ngài".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Ta đã loại bỏ Saolê không cho cai trị Israel nữa, thế mà ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ? Ngươi hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem. Vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua". Samuel thưa: "Làm sao mà đi được? Vì nếu Saolê hay biết việc đó, ông sẽ giết con". Chúa nói: "Ngươi hãy tự tay bắt một con bê trong đàn, và nói: 'Tôi đến để dâng lễ tế lên cho Chúa'. Ngươi sẽ mời Isai đến để dự lễ tế, Ta sẽ tỏ cho ngươi biết việc phải làm, và sẽ chỉ cho ngươi biết phải xức dầu cho ai?"

Vậy Samuel làm như lời Chúa dạy và đi đến Bêlem. Các vị kỳ lão trong thành bỡ ngỡ chạy đến Samuel mà nói rằng: "Ông đem bình an đến chăng?" Ông đáp: "Phải, bình an! Tôi đến để dâng lễ tế cho Chúa. Các ông giữ mình thanh sạch và cùng tôi đến dâng của lễ". Vậy ông làm cho Isai và con cái ông ấy được thanh sạch và mời họ đến dâng lễ tế. Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Êliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai gọi Abinađab đến và dẫn đến trước mặt Samuel. Samuel nói: "Cũng không phải Chúa chọn người này". Isai cho dẫn Samma đến. Samuel lại nói: "Nhưng Chúa cũng không chọn người này". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi. Còn Samuel đứng dậy trở về Rama.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 88, 20. 21-22. 27-28

Ðáp: Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta (c. 21a).

Xướng: 1) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân. - Ðáp.

2) Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. - Ðáp.

3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của tôi". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 2, 23-28

"Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: "Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?" Người trả lời rằng: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Ðavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?" Và Người bảo họ rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa

 



  Đức Kitô
 Chủ Tể  


Ngày Thứ Ba hôm nay, trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được tỏ hiện ngay lời tuyên bố của Chúa Kitô về chính bản thân Người rằng: "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat".

Thật
 thế, câu tuyên bố này của Người xẩy ra trong trường hợp đưọc bài Phúc Âm hôm nay thuật lại là "vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: 'Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?'". 

T
rong câu giải đáp của mình cho lời trách móc hơn là vấn nạn của những người biệt phái bấy giờ, Chúa Giêsu bề ngoài có vẻ như biện minh cho hành động các môn đệ của Người làm khiến cho các người biệt phái ấy ngứa cặp mắt duy luật của họ, thế nhưng thật ra Người có ý bênh vực tinh thần của lề luật để giúp cho chính những người biệt phái y thấy được tất cả sự thật về luật lệ mà họ thông thạo và hằng tuân thủ một cách chặt chẽ và nghiêm chỉnh, nhờ đó họ có thể sống đẹp lòng Thiên Chúa hơn.

T
rước hết, như trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, Người đã dẫn chứng một trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến "điều mà Vua Đavít làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?"

S
au nữa, từ trường hợp không được phép làm mà vẫn được làm trong trường hợp khẩn cấp ở trong Cựu Ước liên quan đến Vua Đavít ấy, Chúa Giêsu đã đi đến kết luật liên quan đến tinh thần của lề luật là những gì trực tiếp liên hệ tới mục đích của lề luật như sau: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbatcho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat". 

C
ó nghĩa là luật lệ được lập ra và ban bố là vì loài người, để phục vụ loài người như đích nhắm của nó, mục tiêu của nó, hầu mang lại lợi ích thiêng liêng cho họ, giúp họ thăng tiến, vươn lên, được cứu độ, chứ không phải để hủy diệt họ, khiến họ bị mất tự do, biến họ trở thành nô lệ lề luật, khi lề luật không còn thuần túy là một phương tiện cho họ mà là cùng đích của con người, nhất là đối với thành phần duy luật, thành phần cần phải được giải cứu cho khỏi cảnh làm nô lệ cho lề luật, nhờ bởi "Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat", như Người làm cho họ trong bài Phúc Âm hôm nay. 

N
hững gì "" kỹ được Chúa đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm qua có liên quan mật thiết đến những gì Người nói về lề luật trong bài Phúc Âm hôm nay: "áo cũđây phải chăng là chữ nghĩa của lề luật, hoàn toàn không hợp với tấm "vải mới" được Người cung cấp là ý nghĩa đích thực liên quan đến mục đích chính yếu của lề luật theo những lời dẫn giải của Ngườivà "bầu da cũ" đây phải chăng là chủ trương và thái độ duy luật, hoàn toàn không hợp với và không thể nào chấp nhận thứ "rượu mới", hay chứa đựng nổi thứ "rượu mới" là tinh thần yêu thương bác ái làm nên chính lề luật và làm trọn lề luật (xem Roma 13:10).

B
ài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay là câu chuyện về Tiên Tri Samuel được lệnh Thiên Chúa sai "đi đến Bêlem" để "xức dầu" phong vương cho một người đã được Ngài tuyển chọn thay cho vị vua đương kim bấy giờ là Saulê mà Ngài "đã loại bỏ không cho cai trị Israel nữa". Vị vua tương lai thay cho Vua Saulê ấy "là ai?", Thiên Chúa không tiết lộ cho Tiên Tri Samuel biết khi sai ông đi đến quê hương của vị vua này là Bêlem. Để rồi, trong việc nhận diện vị vua tương lai được Ngài tuyển chọn mới xuất hiện một tiêu chuẩn liên quan đến ý nghĩa của Bài Phúc Âm hôm nay về lề luật và thành phần duy luật chỉ vụ hình thức hơn là tinh thần.

T
hật vậy, Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại rằng: "Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Êliab và nói: 'Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?' Và Chúa phán cùng Samuel: 'Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn'".

T
rong trường hợp này, Thiên Chúa vẫn không chỉ ngay cho Tiên Tri Samuel đứa con trai nào trong 8 đứa của gia đình vị vua tương lai, nhưng chỉ dạy cho vị tiên tri ấy biết cái tiêu chuẩn tổng quan chính yếu là "đừng bề ngoài mà bề trong" của Ngài. Bởi thế, căn cứ vào tiêu chuẩn ấy, Tiên Tri Samuel tiếp tục chọn lựa, cho đến khi ông hỏi bố của 8 người anh em trai rằng: 

"
'Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?' Isai đáp: 'Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên'. Samuel nói với Isai: 'Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về'. Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: 'Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó'. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi. Còn Samuel đứng dậy trở về Rama".

P
hải, chỉ ở trường hợp phong vương cho vị vua thứ hai là Đavít này mới có chuyện: "Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi", còn trong trường hợp phong vương cho Saule là vị vua đầu tiên của dân Do Thái cũng là vị vua bị Thiên Chúa loại trừ chỉ được Thánh Kinh trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn Thứ Bảy tuần trước thuật lại như sau: "Samuel lấy bình dầu đổ trên đầu Saolê, rồi hôn anh và nói rằng: 'Ðây Thiên Chúa xức dầu phong anh làm vua thống trị cơ nghiệp của Người, và anh sẽ cứu dân Người thoát khỏi kẻ thù ở chung quanh'".

Phải chăng chính vì "Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi" mà những gì vị vua này làm đều đúng ý Thiên Chúa, cho dù là điều vua không được phép làm như vụ vua và đoàn tùy tùng dám ăn thứ bánh tiến mà chỉ có vị thượng tế mới được ăn, một vụ việc bề ngoài có tính cách gương mù và bê bối sai quấy lộng hành này lại đã được chính Chúa Giêsu trích dẫn để minh chứng rằng: "Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbatcho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat". 

B
ài Đáp Ca hôm nay rõ ràng là liên quan đến bản thân của Vua Đavít, liên quan đến việc vua được tuyển chọn (câu 1) và Thiên Chúa ở cùng vua (câu 2), một vị vua là tiền thân báo trước một Vị Vua của các Vua, vị vua bất diệt (câu 3) là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ":

1)
 Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: "Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân.

2)
 Ta đã gặp Ðavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người. 

3)
 Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng Ðá cứu độ của tôi". Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian. 

 


Thứ Tư


Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 17, 32-33. 37. 40-51

"Ðavít đã dùng dây ném đá và đá mà thắng tên Philitinh".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, khi người ta dẫn Ðavít đến trước Saolê, thì Ðavít nói với Saolê rằng: "Ðừng ai lo sợ gì cả. Tôi đây, tôi tớ của bệ hạ, tôi sẽ ra chiến đấu với tên Philitinh". Saolê nói cùng Ðavít rằng: "Ngươi không thể chống cự và chiến đấu với tên Philitinh đó đâu, vì ngươi còn bé nhỏ, mà anh ta là một chiến sĩ từ lúc còn niên thiếu".

Ðavít liền đáp: "Chúa đã từng cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, Người sẽ giải thoát tôi khỏi tay tên Philitinh đó". Saolê mới nói với Ðavít: "Ngươi hãy đi và Chúa ở cùng ngươi".

Ðavít lấy cây gậy mà chàng quen cầm trong tay. Chàng lựa năm viên đá bóng láng dưới khe nước, bỏ vào bị chăn chiên mà chàng thường đeo bên mình.

Tay chàng cầm trành ném đá ra ứng chiến với tên Philitinh. Tên Philitinh có vệ sĩ cầm khí giới đi trước, tiến lại gần Ðavít. Khi tên Philitinh thấy Ðavít, thì khinh bỉ chàng, vì chàng là một thanh niên hồng hào đẹp trai. Tên Philitinh nói với Ðavít: "Tao có phải là chó đâu mà mày cầm gậy đến với tao?" Rồi tên Philitinh nhân danh các thần của y mà nguyền rủa Ðavít. Anh ta nói với Ðavít: "Mày hãy lại đây, tao sẽ phân thây mày cho chim trời và thú đồng ăn thịt".

Ðavít đáp lại: "Còn mi, mi cầm gươm, giáo, lao mà đến với ta, thì ta đến với mi nhân danh Chúa các đạo binh, Thiên Chúa các đoàn quân Israel mà hôm nay mi đã nhục mạ. Chúa sẽ trao mi vào tay ta, ta sẽ đánh và chặt đầu mi, và hôm nay ta sẽ ném thây quân sĩ Philitinh cho chim trời và thú đồng, để khắp hoàn cầu biết rằng Israel có một Thiên Chúa, và toàn thể cộng đồng này nhận biết rằng: "Chúa không dùng gươm giáo mà giải phóng, vì Người là chủ trận chiến, Người sẽ trao các ngươi vào tay chúng ta".

Vậy tên Philitinh vùng lên, tiến lại gần Ðavít, và Ðavít hối hả chạy đến nghinh chiến với tên Philitinh. Ðavít thò tay vào bị, lấy viên đá, rồi dùng dây ném đá mà phóng vào trán tên Philitinh, viên đá trúng lủng trán hắn, và hắn liền té sấp xuống đất. Và Ðavít đã dùng dây ném đá và đá mà chiến thắng và hạ sát tên Philitinh. Nhưng vì Ðavít không có sẵn gươm, nên cậu chạy lại đứng trên mình tên Philitinh, lấy gươm của hắn, rút ra khỏi vỏ và chặt đầu hắn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10

Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a)

Xướng: 1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. - Ðáp.

2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu, Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. - Ðáp.

3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống. Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 1-6

"Trong ngày Sabbat được cứu sống hay là giết chết?"

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lại vào hội đường và ở đó có một người khô bại một tay. Người ta để ý quan sát xem Chúa có chữa bệnh trong ngày Sabbat không, để tố cáo Người. Chúa bảo người có tay khô bại rằng: "Ngươi hãy đứng ra giữa đây". Rồi Người bảo họ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?" Nhưng họ thinh lặng. Bấy giờ Người thịnh nộ đưa mắt nhìn họ và buồn phiền vì lòng họ chai đá, Người bảo bệnh nhân rằng: "Hãy giơ tay ra". Người đó giơ tay ra và tay anh ta được lành. Lập tức, những người biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người.

Ðó là lời Chúa.



Suy nghiệm Lời Chúa

 

 

  Đức Kitô vĩ đại

   


Ngày Thứ Tư trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô vẫn liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, chẳng những về bố cục trước sau của cuốn sách Phúc Âm thứ hai này mà còn liên tục cả về ý nghĩa của hai bài Phúc Âm này nữa.

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Giáo Hội chọn đọc thích hợp với chủ đề chung của Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ, người chẳng những chữa lành cho "một người khô bại một tay" mà còn mở mắt cho thành phần thông luật nhưng duy luật biệt phái về tinh thần của lề luật, bằng câu hỏi được Người đặt ra cho họ tự suy nghĩ: "Trong ngày Sabbat được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?"  

Bài Phúc Âm hôm nay cũng như bài Phúc Âm hôm qua đều liên quan đến ngày hưu lễ là thời điểm được chung dân chúng và riêng nhóm biệt phái cùng luật sĩ tuân giữ rất kỹ lưỡng và đã thấy ngứa mắt trước những hành động của các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa mà ăn trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm qua) hay của chính Chúa Giêsu chữa lành cho người bị bại tay trong ngày hưu lễ (ở bài Phúc Âm hôm nay).

 

Cả hai lần Chúa Giêsu đều nhắc nhở thành phần theo dõi và bắt bẻ các môn đệ của Người cũng như bắt bẻ chính Người về tinh thần chính yếu của lề luật cũng như mục đích của lề luật đối với vị thế cùng giá trị của con người so vị thế và giá trị của lề luật. Vấn đề then chốt này cũng chính là vấn đề then chốt của Giáo Huấn Giáo Hội Công Giáo về xã hội ngày nay, một bộ giáo huấn bắt đầu từ thời Đức Lêô XIII sau khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện.

 

Thật vậy, yếu tố chính yếu làm nên trọng tâm của Giáo Huấn của Giáo Hội về xã hội đó là con người, một thực thể phải được coi trọng theo đúng dự án tạo dựng của Thiên Chúa Hóa Công, ở chỗ con người phải làm chủ trái đất chứ không phải làm tôi cho những gì được dựng nên cho họ (xem Khởi Nguyên 1:28), bởi thế, tất cả mọi sự, bao gồm cả sự vật trần thế và sự việc trên đời, tất cả mọi hoạt động của con người, về phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học v.v. đều phải phục vụ con người, chứ không được coi thường họ và lạm dụng họ như chủ nghĩa cộng sản hay văn hóa sự chết.

 

Trái lại, cho dù con người đóng vai chính yếu trên trần gian này, trên trái đất này, họ vẫn không thể nào trở thành tối cao, là cùng đích của mình, trở thành tuyệt đối như Thượng Đế, như Thiên Chúa, như Đấng dựng nên họ. Bởi thế, tất cả những chủ nghĩa tôn sùng con người, được gọi là chủ nghĩa duy nhân bản, như chủ trương tương đối hóa mọi nguyên tắc và lề luật luân lý bất di bất dịch, để tuyệt đối hóa tự do và ý riêng của con người, cũng tác hại chính con người, mang con người đến chỗ diệt vong chẳng khác gì chủ nghĩa cộng sản và văn hóa sự chết coi thường con người vậy. 

 

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu, "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", khi tự xưng mình là "Chúa của cả ngày hưu lễ", thì trong bài Phúc Âm hôm nay "Người Con đến từ Cha" đã tỏ mình ra "đầy ân sủng và chân lý", ở chỗ chữa lành cho "một người khô bại một tay".

 

Thật ra, tật "khô bại một tay", so với các trường hợp bệnh tật khác, như phong cùi, bại liệt, què quặt, mù lòa, câm điếc v.v., thì chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu. Tuy nhiên, chính ở cái nho nhỏ, không đáng kể là bao nhiêu ấy mà vẫn được Người lưu tâm đáp ứng cứu chữa, nhất nữa lại vào ngày hữu lễ nữa, lại càng cho thấy chân dung tuyệt vời của "Người Con đến từ Cha ... đầy ân sủng và chân lý" này.

 

Đúng thế, cho dù chỉ bị "khô bại một tay", thân xác của con người vẫn không được vẹn toàn đúng như nó đã được Thiên Chứa dựng nên "rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31) ngay từ ban đầu, và khả năng hoạt động của con người vẫn bị ngăn trở, không được tự do, tức vẫn cần phải được cứu chữa hay cần phải được giải thoát để có thể nguyên vẹn hơn về hình hài cùng tầm vóc và đắc lực hơn về hoạt động cùng phục vụ.

 

Trong Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy Thiên Chúa là Đấng toàn năng quan tâm đến những gì là bé nhỏ, và Ngài dường như muốn lợi dụng những gì càng bé nhỏ để càng tỏ mình ra một cách hiển nhiên hơn và sống động hơn. Đó là trường hợp của một chàng thanh niên Đavít trẻ trung và nhỏ con, chưa hề có kinh nghiệm chiến trường, lại chẳng có áo giáp cùng các thứ vũ khí nguy hiểm trong tay, thế mà đã dễ dàng và vẻ vang chiến thắng danh tướng Gồliát vô đối thủ của địch quân.

 

Chính Vua Saolê cũng không tin tưởng chàng thanh thiếu niên hào hùng này: "Trong những ngày ấy, khi người ta dẫn Ðavít đến trước Saolê, thì Ðavít nói với Saolê rằng: 'Ðừng ai lo sợ gì cả. Tôi đây, tôi tớ của bệ hạ, tôi sẽ ra chiến đấu với tên Philitinh'. Saolê nói cùng Ðavít rằng: 'Ngươi không thể chống cự và chiến đấu với tên Philitinh đó đâu, vì ngươi còn bé nhỏ, mà anh ta là một chiến sĩ từ lúc còn niên thiếu'. Ðavít liền đáp: 'Chúa đã từng cứu tôi thoát khỏi nanh vuốt sư tử và gấu, Người sẽ giải thoát tôi khỏi tay tên Philitinh đó'".

 

Và cả đối thủ khổng lồ của Đavít cũng tỏ ra khinh thường chàng: "Tên Philitinh có vệ sĩ cầm khí giới đi trước, tiến lại gần Ðavít. Khi tên Philitinh thấy Ðavít, thì khinh bỉ chàng, vì chàng là một thanh niên hồng hào đẹp trai. Tên Philitinh nói với Ðavít: 'Tao có phải là chó đâu mà mày cầm gậy đến với tao?' Rồi tên Philitinh nhân danh các thần của y mà nguyền rủa Ðavít. Anh ta nói với Ðavít: 'Mày hãy lại đây, tao sẽ phân thây mày cho chim trời và thú đồng ăn thịt'".

 

Thế nhưng, chàng thanh thiếu niên Đavít sở dĩ dám liều mình và ngang nhiên ra chiến đấu với nhân vật danh tướng mà chàng không phải là đối thủ ấy là vì chàng hoàn toàn mãnh liệt tin tưởng vào Thiên Chúa hơn vào chính bản thân mình, và thật sự mong muốn cho Ngài được nhận biết, cho Ngài có thể tỏ mình ra:

 

"Ðavít đáp lại: 'Còn mi, mi cầm gươm, giáo, lao mà đến với ta, thì ta đến với mi nhân danh Chúa các đạo binh, Thiên Chúa các đoàn quân Israel mà hôm nay mi đã nhục mạ. Chúa sẽ trao mi vào tay ta, ta sẽ đánh và chặt đầu mi, và hôm nay ta sẽ ném thây quân sĩ Philitinh cho chim trời và thú đồng, để khắp hoàn cầu biết rằng Israel có một Thiên Chúa, và toàn thể cộng đồng này nhận biết rằng: 'Chúa không dùng gươm giáo mà giải phóng, vì Người là chủ trận chiến, Người sẽ trao các ngươi vào tay chúng ta'".

Quả thực Vị Thiên Chúa toàn năng của chàng thanh thiếu niên Đavít, qua cuộc chiến thắng này của chàng, đã chẳng những tỏ mình ra cho dân Do Thái nhận biết mà chắc chắn còn muốn tỏ mình ra cho cả thành phần dân tấn công dân Do Thái của Ngài nữa, để họ biết rằng "Israel có một Thiên Chúa":

 

"Vậy tên Philitinh vùng lên, tiến lại gần Ðavít, và Ðavít hối hả chạy đến nghinh chiến với tên Philitinh. Ðavít thò tay vào bị, lấy viên đá, rồi dùng dây ném đá mà phóng vào trán tên Philitinh, viên đá trúng lủng trán hắn, và hắn liền té sấp xuống đất. Và Ðavít đã dùng dây ném đá và đá mà chiến thắng và hạ sát tên Philitinh. Nhưng vì Ðavít không có sẵn gươm, nên cậu chạy lại đứng trên mình tên Philitinh, lấy gươm của hắn, rút ra khỏi vỏ và chặt đầu hắn".

 

Bài Đáp Ca hôm nay thực sự là phản ảnh tâm tình của chàng thanh thiếu niên anh hùng Đavít đã chiến thắng địch quân Gồliát, hoàn toàn nhờ ở quyền năng của Thiên Chúa là Đấng chàng tin tưởng và là Đấng muốn tỏ mình ra qua chàng:

 

1) Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa, là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến.

 

2) Chúa là Tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu, Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. 

3) Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới, với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài. 

 

 

 

Thứ Năm


Phụng Vụ Lời Chúa

 


Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 18, 6-9; 19, 1-7

"Thân phụ tôi là Saolê định giết anh".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, sau khi hạ sát tên Philitinh, Ðavít trở về, các phụ nữ từ mọi thành phố Israel đều tuôn ra ca hát nhảy múa với đàn địch trống phách, vui vẻ đón vua Saolê. Các phụ nữ nhảy múa xướng hoạ rằng: "Saolê giết một ngàn, và Ðavít giết mười ngàn". Saolê bực tức lắm, vì lời ca ấy làm phật lòng ông, ông nói: "Họ tặng Ðavít mười ngàn, còn Ta chỉ có một ngàn, như vậy y chỉ còn thiếu có ngai vàng". Từ ngày đó trở đi, Saolê nhìn Ðavít với vẻ mặt căm tức.

Saolê bàn với con ông là Gionathan và tất cả những cận thần của ông để sát hại Ðavít. Nhưng Gionathan con của Saolê rất thương mến Ðavít, nên tiết lộ cho Ðavít rằng: "Thân phụ tôi là Saolê tìm kế giết anh đấy". Vì thế, tôi xin anh sáng mai nên thận trọng và tìm nơi kín đáo mà ẩn mình. Tôi sẽ ra đứng gần cha tôi ngoài đồng nơi anh ẩn trốn, tôi sẽ nói chuyện anh với cha tôi, tôi thấy thế nào, rồi sẽ báo cho anh biết".

Vậy Gionathan khen Ðavít với cha ông là Saolê, ông nói: "Tâu phụ vương, xin chớ hãm hại tôi tớ của phụ vương là Ðavít, vì anh không có lỗi gì đến phụ vương, và anh đã lập nhiều công trạng cho phụ vương: Anh đã liều mạng sống và hạ sát nhiều tên Philitinh; Chúa đã dùng anh mà giải thoát toàn dân Israel. Phụ vương đã mục kích và đã hân hoan, vậy tại sao phụ vương toan đổ máu người vô tội, khi định giết Ðavít là kẻ không có lỗi gì?" Saolê nghe Gionathan nói như vậy thì nguôi giận mà thề rằng: "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, nó sẽ không bị giết". Gionathan gọi Ðavít và thuật lại cho anh nghe tất cả các lời ấy, rồi dẫn Ðavít đến trước Saolê, và anh hầu cận Saolê như trước.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 55, 2-3. 9-10ab. 10c-11. 12-13

Ðáp: Con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi (c. 5b).

Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, xin thương con, vì người ta chà đạp con, người ta luôn luôn đấu tranh và áp bức con. Những kẻ thù ghét con chà đạp con luôn mọi lúc, vì có nhiều người chiến đấu phản hại con. - Ðáp.

2) Con đường lưu vong của con, Ngài đã biết, lệ sầu của con đã được chứa trong bầu da của Ngài, chúng há chẳng được ghi trong sổ sách của Ngài ư? Hễ bao giờ con kêu cầu Chúa, lúc đó quân thù con sẽ tháo lui. - Ðáp.

3) Con biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ con. Nhờ ơn Thiên Chúa là Ðấng mà con ca tụng lời hứa, con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi, con người phàm kia làm chi hại được con. - Ðáp.

4) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 7-12

"Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm. Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: "Ngài là Con Thiên Chúa", nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người.

Ðó là lời Chúa.



 

 

 

Suy nghiệm Lời Chúa



Đức Kitô ảnh hưởng   



Bài Phúc Âm cho Thứ Năm trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay càng phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, liên quan đến tầm ảnh hưởng hầu như khắp đất nước Do Thái bấy giờ của Người, trong khi Người mới chỉ công khai xuất hiện chưa được bao lâu.

Thật vậy, tầm ảnh hưởng của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này bao gồm một địa dư chẳng những ở miến bắc là Galilêa mà còn xuống tới tận miền nam là Giuđêa của đất nước Do Thái bấy giờ nữa, một vùng đất, theo thứ tự trình thuật của Thánh ký Marco, Người chưa hề đặt chân tới và chỉ sẽ tới sau khi hoàn thành cuộc hành trình Giêrusalem của Người vào những ngày cuối cùng của Người sống trên trần gian này thôi.

Bài Phúc Âm hôm nay đã ghi nhận sự kiện liên quan đến tầm ảnh hưởng của Người đầy ấn tượng xẩy ra như một hiện tượng này ở ngay câu mở đầu như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm". 

Đám đông dân chúng từ khắp nơi đua nhau ùn ùn kéo tới với "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này như thế, mà ai tới cũng muốn được gần Người bao nhiêu có thể, thậm chí muốn trực tiếp đụng chạm đến Người, nhất là thành phần bệnh nhân và khuyết tật nhân, chẳng khác gì như đám đông dân chúng nghênh đón Đức Giáo Hoàng vào những lần ngài tông du khắp nơi trên thế giới, ai cũng muốn đến gần và chạm đến vị thừa kế Thánh Phêrô đại diện Chúa Kitô trên trần gian này.

Tuy nhiên, ngày nay vấn đề an ninh ở khắp nơi mới có thể ngăn chặn việc chen lấn của đám đông dân chúng tuốn đến nghênh đón vị giáo hoàng, còn ngày xưa không thể nào xẩy ra như thế. Bởi đó, để tránh tình trạng chen lấn và xô lấn  ạt bất khả kiểm soát rất nguy hiểm cho chính đám đông, (như đã từng xẩy ra ở những cuộc hành hương hằng năm quá đông của tín đồ Hồi giáo), hơn là cho chính bản thân Chúa Kitô, nhờ đó việc giảng dạy và chữa lành của Người được dễ dàng thực hiện hơn, Chúa Giêsu mới khôn ngoan phản ứng, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại:

"Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người"

Sự kiện Chúa Giêsu ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng đây chẳng những cho thấy cách thức giải quyết hết sức hữu hiệu và tốt đẹp về hiện tượng đám đông vây quanh Người, gây cản trở cho việc giảng dạy và chữa lành của Người, mà còn cho thấy hình ảnh của một chuyên viên thả lưới đánh cá gần bờ nhất mà lại bắt được nhiều cá nhất, và toàn là những con cá không phải ở dưới nước nhưng là ở trên bờ, trên cạn.

Chưa hết, tầm ảnh hưởng của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " này chẳng những liên quan đến đám đông dân chúng thuộc một vùng địa dư khắp đất nước Do Thái thời ấy, tức liên quan đến thế giới hữu hình này, mà còn đến cả thế giới vô hình nữa là thế giới của ma quỉ, thế giới của những thực thể vô hình đã nhận biết được chính căn tính thần linh của Người, dù Người chưa kịp khu trừ chúng. Bởi thế, mới xẩy ra chuyện được bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở đoạn cuối như sau:

"Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: 'Ngài là Con Thiên Chúa', nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người'".

Chính việc "Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người" đã đủ chứng tỏ Người công nhận sự thật của lời ma quỉ vốn dối trá tuyên xưng, tức Người thật là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", và sở dĩ một đàng Người đang muốn từ từ tỏ mình ra Người đúng là "Con Thiên Chúa" như thế, đàng khác Người lại "cấm chúng không được tiết lộ gì về Người" là vì chưa đến giờ của Người, chưa đến đúng thời điểm của Người, và chính Người phải tự tỏ mình ra mới xác thực hơn bất cứ chứng từ nào khác, kể cả chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng chỉ là những chứng từ tuy cần nhưng mang tính chất phụ thuộc (xem Gioan 5:34,8:14,10:25).

Nếu trong bài Phúc Âm hôm nay, tầm ảnh hưởng của Chúa Giêsu chẳng những liên quan đến thế giới hữu hình mà còn đến cả thế giới vô hình thế nào, thì trong Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng cho thấy tầm ảnh hưởng ban đầu nhưng đầy mãnh liệt xuất phát từ vị vua tương lai của dân Do Thái là chàng Đavít, như Sách Samuel quyển thứ nhất thuật lại: 

"Trong những ngày ấy, sau khi hạ sát tên Philitinh, Ðavít trở về, các phụ nữ từ mọi thành phố Israel đều tuôn ra ca hát nhảy múa với đàn địch trống phách, vui vẻ đón vua Saolê. Các phụ nữ nhảy múa xướng hoạ rằng: 'Saolê giết một ngàn, và Ðavít giết mười ngàn'". 

Tầm ảnh hưởng của chàng Đavít nơi thế giới hữu hình được phản ảnh ở lời xưng tụng của "các phụ nữ từ mọi thành phố Israel" này, một tầm ảnh hưởng còn vượt qua cả tầm ảnh hưởng của vị vua đương kim Saulê bấy giờ, đã ảnh hưởng đến cả thế giới vô hình nữa là ý đồ đen tối hận thù trong lòng của vị vua đương kim theo chiều hướng của quyền lực tối tăm ấy, như cùng bài đọc cho thấy:

"Saolê bực tức lắm, vì lời ca ấy làm phật lòng ông, ông nói: 'Họ tặng Ðavít mười ngàn, còn Ta chỉ có một ngàn, như vậy y chỉ còn thiếu có ngai vàng'. Từ ngày đó trở đi, Saolê nhìn Ðavít với vẻ mặt căm tức. Saolê bàn với con ông là Gionathan và tất cả những cận thần của ông để sát hại Ðavít". 

Chưa hết, tầm ảnh hưởng của chàng Đavít còn chiếm được cả tâm hồn của chính đứa con trai của vị vua đương kim là Gionathan nữa, nhân vật đã đóng vai môi giới cho Đavít để cứu cả Đavít khỏi bị sát hại và cứu cả vương phụ của mình khỏi mắc tội sát hại kẻ vô tội. Nhờ đó, thế giới vô hình nơi vị vua đương kim đã tái chấp nhận địch thù cũng là đối thủ của ông:

"Saolê nghe Gionathan nói như vậy thì nguôi giận mà thề rằng: 'Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, nó sẽ không bị giết'. Gionathan gọi Ðavít và thuật lại cho anh nghe tất cả các lời ấy, rồi dẫn Ðavít đến trước Saolê, và anh hầu cận Saolê như trước".

Bài Đáp Ca hôm nay thực sự phản ảnh tâm trạng và tâm tình của chàng Đavít trong giai đoạn vừa mới xuất đầu lộ diện một cách huy hoàng cả về tư cách lẫn sự nghiệp thì liền trở thành nạn nhân của thời cuộc, đúng hơn thành nạn nhân của lòng người, nhưng chàng vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa và cầu khẩn cùng Ngài là Đấng duy nhất có thể cứu chàng khỏi tất cả mọi sự dữ và kẻ dữ:

1) Ôi Thiên Chúa, xin thương con, vì người ta chà đạp con, người ta luôn luôn đấu tranh và áp bức con. Những kẻ thù ghét con chà đạp con luôn mọi lúc, vì có nhiều người chiến đấu phản hại con. 

2) Con đường lưu vong của con, Ngài đã biết, lệ sầu của con đã được chứa trong bầu da của Ngài, chúng há chẳng được ghi trong sổ sách của Ngài ư? Hễ bao giờ con kêu cầu Chúa, lúc đó quân thù con sẽ tháo lui. 

3) Con biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ con. Nhờ ơn Thiên Chúa là Ðấng mà con ca tụng lời hứa, con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi, con người phàm kia làm chi hại được con. 

4) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh. 


Thánh FABIANO, Giáo Hoàng Tử Đạo (+ 250); Thánh SÊBASTIANÔ , Tử Đạo (Thế kỷ III)

Ngày 20/01

 

 

THÁNH FABIANÔ

Giáo Hoàng, Tử Ðạo

 

Thánh Fabianô lên ngôi thánh Phêrô không phải do người ta bầu ra, cho bằng chính sự chọn lựa của Thiên Chúa. Vào lúc dân chúng và hàng giáo sĩ Roma họp nhau để chọn vị mục tử, thì một cánh chim câu từ trên trời xuống đậu trên đầu Fabiano. Ngài kế vị thánh Anthêrô làm giáo hoàng năm 236.

Do đó, dầu trước kia không ai ngó tới Ngài vì Ngài còn là một giáo dân ngoại quốc, bây giờ mọi người đều lớn tiếng gọi Ngài là người được Chúa chọn. Một cuộc tuyển lựa đặc biệt như vậy vào Giáo hội hàng đầu trong các Giáo hội, chắc chắn phải có những biến cố đáng kể tiếp theo. Nhưng lịch sử lại không lưu giữ kỷ niệm nào.

Ngài được cai quản Giáo hội trong 14 năm, với lòng nhiệt thành lẫn sự khôn ngoan. Ngài đã gửi nhiều nhà truyền giáo sang xứ Gôn (Gaute) và đã kết án nhiều lầm lạc bị gán ghép cách sai trái cho Origenê. Thánh Cyprianô đã tặng cho Ngài danh hiệu “một con người khôn sánh”.

Nét son của thánh Fabianô, giáo hoàng là luôn lưu tâm đến người nghèo và sống đời mục tử hiền lành, bác ái theo gương Thầy chí thánh Giêsu. Thánh nhân được ca tụng như một vị trung tín của Chúa và Hội Thánh.

 CON NGƯỜI CỦA GIỚI NGHÈO

Thánh nhân được sinh ra vào thế kỷ 2 và lên ngôi Giáo hoàng vào thời kỳ Hội Thánh đang lâm cơn nguy khốn, bị cấm cách bắt bớ, bị các Hoàng đế Maximinô và Ðêciô ra sức đè bẹp Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân vì có lòng xót thương người như Chúa Giêsu khi thấy đoàn lũ dân chúng đi theo Ngài để nghe Lời Người rao giảng, đã chạnh lòng xót thương nói với các môn đệ:” Hãy cho họ ăn”. Dù rằng các môn đệ sợ phiền hà, sợ không đủ lương thực cho một số rất đông dân chúng. Chúa Giêsu đã biết việc Ngài sắp làm, Ngài đã thương dân bơ vơ, vất vưởng, đói khát. Thánh Fabianô đã trao bảy khu vực lớn cho bảy vị phụ tá trong đế quốc Lamã lúc đó và truyền cho các vị phụ tá phải lưu tâm săn sóc giới nghèo trong khu vực mình phụ trách. Thánh Fabianô đã sống đời sống bác ái, chia sẻ, cảm thông và lưu tâm như Chúa Giêsu. Ngài còn lập hội các nhà sưu tầm sử học, viết lại biên niên sử, tiểu sử của các vị tử đạo trong Giáo hội lúc đó. Thánh nhân còn lưu ý đặc biệt canh tân phụng vụ nghi thức thứ năm tuần thánh. Thánh Fabianô đã họa lại hình ảnh nhân từ của Chúa Giêsu, Ðấng đến để phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ.

 CHÚA YÊU THƯƠNG THÁNH NHÂN VÀ THƯỞNG CÔNG NGÀI

Thánh Fabianô đã lèo lái con thuyền Giáo Hội suốt những năm Hoàng đế Ðiocletianô cấm cách, bắt bớ và muốn vùi dập Giáo Hội cho thuyền đắm chìm, Ngài đã giữ vững tay lái và làm cho Hội Thánh luôn đứng vững. Ngài đã luôn chứng tỏ Chúa Kitô� luôn có mặt:” Ðừng sợ “. Chúa hiện diện giữa lúc thuyền các môn đệ sắp đắm chìm và Chúa can thiệp đúng lúc, nên con thuyền của các tông đồ không bị vùi lấp, không bị lung lay. Thánh Fabianô đã yêu thương người nghèo với tất cả con tim, với tất cả tấm lòng xót thương của mình. Ngài đã được Chúa yêu và cho lãnh nhận triều thiên tử đạo vào ngày 20/01/250.

Lạy Chúa là vinh quang của hàng tư tế, xin nhận lời thánh Fabianô, tử đạo chuyển cầu mà cho chúng con ngày càng thêm hiệp nhất trong đức tin, và nhiệt thành phụng sự Chúa( lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Fabianô, giáo hoàng, tử đạo ).

 

THÁNH SÊBASTIANÔ TỬ ĐẠO (+ 288)

 

Hai thành phố Narbona và Milanô đã tranh dành nhau vinh dự được nhìn thấy ngày thánh Sêbastinô chào đời. Người ta có thể nói được thánh Sêbastianô là công dân của cả hai thành phố trên vì cha ngài thuộc dòng quý tộc sinh quán tại Nácbôn và mẹ ngài là công dân của thành phố Milanô.

Với gia cảnh sung túc, Sêbastianô được hấp thụ một nền giáo dục chu đáo cả đức dục lẫn trí dục. Năm 283, Sêbastianô gia nhập quân đội và được cấp chỉ huy tín nhiệm vì nhận thấy ngài có đức tính trung thành, trí minh mẫn và lòng can trường đặc biệt. Dưới đời Hoàng đế Điôclêtianô, Sêbastianô được thăng cấp đại úy trong lữ đoàn ngự lâm quân. Hoàng đế cũng rất quí mến Sêbastianô nên đã cho ngài vào ngay trong triều đình, nhưng Hoàng đế không biết đại úy Sêbastianô là người công giáo, vả ngài cũng không muốn tiết lộ với ai, không phải vì hèn nhát nhưng cốt để có thể dễ dàng giúp đỡ những anh em hiện đang bị giam trong tù ngục vì đức tin.

Trong thời kỳ bách hại dữ dội nhất, hai anh em hiệp sĩ Rôma quý danh là Máccô và Macxenlianô con nhà triệu phú Tranquilinô từ khước không chịu tế thần. Hai chàng đã bị kết án tử hình. Cha mẹ hai chàng là người ngoại giáo xin quan gia hạn thêm ba mươi ngày để có thời giờ khuyên hai con đổi ý. Người ta giao hai người cháu cho viên lục sự toà án tên là Niôstratê quản thúc. Cả hai bị gia đình đến quyến rũ và tấn công liên miên. Giữa lúc hai cháu gần nao núng vì những giọt nước mắt đau xót của cha mẹ, vợ con, anh chị em, chính lúc đó, đại úy Sêbastianô đã đến kịp thời để củng cố đức tin hai chàng. Khi Sêbastianô đang khuyên nhủ hai ông, vợ viên lục sự Nicostratê là Đoê chạy tới phủ phục dưới chân thánh Sêbastianô, làm dấu tỏ ý muốn xin thánh nhân cứu chữa vì bà bị câm đã sáu năm nay.

Thánh Sêbastianô làm dấu thánh giá trên miệng bà, tức thì bà liền nói được và lớn tiếng tuyên xưng đức tin. Trước phép lạ đó, viên lục sự chồng bà cũng đến phủ phục dưới chân sĩ quan hoàng gia để tỏ lòng tri ân. Đồng thời ông xin lỗi hai Kitô hữu mà ông có nhiệm vụ quản thúc; rồi ông cởi xích cho hai chàng và tuyên bố mình muốn được diễm phúc chịu tử đạo như các ngài. Còn gia đình hai Kitô hữu Máccô và Macxêlianô, trước đây đã đua nhau quyến rũ hai ông bỏ đạo thì nay, vì thấy phép lạ trên, đều cương quyết không chịu tế thần như trước nữa. Đồng thời họ lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa và thật tình thống hối những lỗi lầm quá khứ.

Viên lục sự Nicostratê thề quyết không ăn uống gì một khi chưa được chịu phép rửa tội. Sau khi đã tháo xích cho các tù nhân công giáo, ông đưa họ về nhà mình. Còn thánh Sêbastianô vội vã đi đón cha Pôlicapô đến khuyên dậy và rửa tội cho một số tân tòng. Viên coi đề lao Clôtiô hết sức kinh ngạc trước sự kiện kỳ lạ mới xẩy ra. Bấy giờ ông có hai đứa con đang ốm nặng, ông liền đưa hai con đến nhà Nicostratê để xin các người tân tòng chữa bệnh cho con ông. Nhưng họ trả lời: "Chỉ có nhiệm tích rửa tội mới có thể làm được công việc kỳ lạ đó ". Được ơn Thiên Chúa thôi thúc, Clôtiô và cả gia đình đều xin gia nhập hàng ngũ các tân tòng.

Cha Pôlycapô cử hành bí tích rửa tội ngay tại nhà ông Nicostratệ Đại úy Sêbastianô nhận đỡ đầu cho tất cả các tân Kitô hữu. Hai con ông Clotiô vừa ra khỏi giếng rửa tội đều được lành mạnh cả hồn lẫn xác.

Ông già Tranquilinô thân phụ hai anh em Máccô và Macxêlianô bị bệnh thống phong đã 11 năm. Lúc cởi áo để rửa tội, ông cụ cảm thấy đau đớn khác thường. Cha Pôlicapô giúp ông lão cởi áo, đồng thời ngài cho ông hay nếu như ông tin tưởng hoàn toàn vào Chúa Kitô, ông sẽ được Chúa cho khỏi bệnh phần xác khi ngài cho ông khỏi bệnh linh hồn. Ông lão trả lời:

"Tôi thâm tín rằng Chúa Kitô có thể cho tôi được khỏi bệnh cả xác lẫn hồn, nhưng tôi chỉ xin Chúa cho tôi khỏi bệnh phần hồn thôi. Tôi rất sung sướng được dâng lên Chúa Kitô những đau khổ của tôi".

Cha Pôlicapô hỏi ông lão một lần cuối cùng:

"Cụ có tin Thiên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không?"

Ông lão thưa: "Con xin tin". Sau khi dìm mình trong giếng rửa tội ông được lành bệnh.

Các tân Kitô hữu còn ở lại nhà ông Nicostratê mười ngày nữa. Dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của cha Pôlicapô và đại úy Sêbastianô, mọi người sốt sắng ca hát cảm tạ Thiên Chúa và cùng nhau sửa soạn giao chiến. Ai nấy đều ao ước được diễm phúc chịu chết vì Chúa Kitô.

Thời hạn khoan hồng 30 ngày vừa chấm dứt, quận trưởng Crômaciô cho triệu vời vị lão thành Tranqyuilinô đến. Tới trình diện tỉnh trưởng, nguyên lão nghị viên Traquilinô ung dung đáp: "Thưa quí ngài, thời gian ngài đã đồng ý gia hạn cho tôi như lời tôi xin, để đưa các con về với cha mẹ và để trả lại cha mẹ cho các con, nay đã chấm dứt".

Ông tỉnh trưởng không biết gì về những lời vị lão thành vừa nói. Ông cứ đinh ninh là vị lão thành Tranquilinô đã chiến thắng hai con ông nên ông truyền đưa hương ra để cho Máccô và Macxenlianô dâng cúng các thần minh.

Ngay lúc đó, vị lão thành Tranquilinô đứng phắt dậy tuyên bố ông là Kitô hữu và đồng thời ông kể lại những phép lạ vừa rồi ông được chứng kiến. Tỉnh trưởng Crômaciô cũng bị bệnh thống phong và ông cũng muốn được khỏi như vị lão thành Tranquilinô, ông tuyên bố hoãn phiên toà sang một ngày khác. Chiều tối, ông bí mật cho mời vị lão thành Traquilinô tới tư dinh của ông. Ông khẩn khoản xin ông Tranquilinô mách giùm phương thuốc đã chữa ông khỏi bệnh.

Để trả công, ông hứa sẽ ban tặng nhiều vàng bạc. Nguyên lão nghị viên trả lời: "Chính Đấng Toàn Năng đã chữa tôi và chỉ mình Chúa Kitô mới có quyền lực làm thoả mãn lời yêu cầu của quý ông". Ông tỉnh trưởng xin được gặp vị linh mục đã rửa tội cho Tranquilinô và hy vọng sẽ được khỏi bệnh như các người tân tòng kia. Ông già Tranquilinô vội vã đi mời cha Pôlicapô tới tư dinh tỉnh trưởng. Ông này tỏ bầy nguyện vọng của ông với cha Pôlicapô và hứa hẹn sẽ ban tặng cho vị linh mục nhiều tặng phẩm đặc biệt, một khi ông được khỏi bệnh. Linh mục Pôlicapô trả lời:

"Xin ngài tỉnh trưởng đừng nói đến truyện mặc cả có tính cách buôn bán như thế. Chúa Kitô sẽ soi sáng sự tối tăm của ngài và sẽ chữa ngài lành, đã nếu ngài tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa Kitô.

Sau ba ngày ăn chay cầu nguyện, linh mục Pôlicapô và đại úy Sêbastianô tới thăm ông tỉnh trưởng Crômaciô để nói với ông về những đau khổ mà ông đang chịu và đồng thời hai vị cũng nói với ông về những khổ hình bên kia thế giới.

Nghe những điều đó tỉnh trưởng rất sợ hãi, khẩn khoản xin được ghi tên vào sổ các tân tòng. Trong nhà ông còn đầy những thần tượng. Đại úy Sêbastianô lưu ý ông tỉnh trưởng hay, ông không được vừa theo Chúa vừa tôn thờ ma quỉ.

Thánh nhân yêu cầu ông phải huỷ bỏ các thần tượng. Ông đồng ý và định sai đầy tớ làm. Nhưng đại úy Sêbastianô muốn tự tay mình phá không muốn để cho đầy tớ làm. Đại úy nói với ông tỉnh trưởng: "Các tôi tớ của ngài vì còn sống dưới quyền lực của quỷ thần có thể tác hại họ chăng. Tôi xin ngài giao công việc quỷ thần này cho chúng tôi là những Kitô hữu mới có thể phá huỷ các thần tượng này được. Đại úy Sêbastianô bắt đầu cầu nguyện, lòng đầy ơn Chúa, ngài tiến thẳng vào trong đền phá một lúc hai trăm thần tượng tan tành. Trở ra ngoài đại úy hỏi ông tỉnh trưởng xem còn thần tượng nào cần phải huỷ nữa không. Ông tỉnh trưởng Crômaciô thú thực ông còn một phòng khác đầy thần tượng do cha ông để lại mà ông một mực tôn kính. Đại úy Sêbastianô cực lực phản đối lòng tin dị đoan đó, và ngài quả quyết rằng:

"Nếu tỉnh trưởng muốn được khỏi bệnh, thì ông phải phá huỷ tất cả những thần tượng đó đi ".

Tỉnh trưởng ưng thuận. Ngay lúc đó con trai ông tên là Tiburciô từ trong nhà chạy ra hô lớn một giọng đầy căm hờn:  "Tôi sẽ đốt hai lò lửa để thiêu sinh Sêbastianô và Pôlicapô, nếu cha tôi không được khỏi bệnh".

Hai vị đồng ý nhận lời thách thức đó và tiếp tục phá huỷ những thần tượng còn sót lại. Lúc đó, một Thiên sứ mặc áo trắng như tuyết hiện đến với Crômaciô và nói: "Chúa Kitô sai tôi tới đây để chữa bệnh cho ngài ". Thiên sứ vừa nói dứt lời, ông tỉnh trưởng liền được khỏi bệnh. Ông vội vã chạy lại định ôm chằm lấy chân viên y sĩ kỳ lạ đó, nhưng Thiên sứ phản đối: "Thưa ngài, ngài không xứng đáng chạm tới sứ thần Thiên Chúa, vì lẽ ngài chưa được tái sinh bởi nước rửa tội ".

Nghe nói thế, tỉnh trưởng Crômaciô liền phủ phục dưới chân linh mục Pôlicapô và đại úy Sêbastianô khẩn khoản xin ai vị rửa tội cho ông. Đại úy Sêbastianô tuyên bố: "Nếu ngài muốn lĩnh nhận nhiệm tích cao quý đó, phải ăn chay và cầu nguyện". Sau nhiều ngày ăn chay và cầu nguyện, ông tỉnh trưởng được đón nhận vào hàng ngũ con cái Giáo Hội. Rồi cả nhà ông đều xin chịu phép rửa tội. Ngày đó đại úy Sêbastianô đã làm cha đỡ đầu cho hơn 1.400 tân tòng.

Các cuộc bách hại càng ngày càng dữ dội. Theo sắc lệnh của Hoàng đế, không ai được mua hay bán gì nếu không chịu tế thần. Ông tỉnh trưởng Crômaciôâ đệ đơn xin từ chức. Lâu đài rộng lớn của ông biến thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Tiburciô, con trai ông sau cũng trở lại đạo và là một tín hữu rất nhiệt thành, thánh Sêbastianô rất hăng hái hoạt động tông đồ. Ngày ngày thánh nhân đi vào các trại giam khích lệ và khuyên nhủ các chiến sĩ của Chúa Kitô hăng hái chiến đấu tới giọt máu cuối cùng. Trong thời bách hại, các Kitô hữu thường hội họp ở những nơi kín đạo bí mật tránh những con mắt dòm ngó của công an. Nhưng từ ngày tên phản bội Tôquát tới báo cho công an, các cuộc hội họp thường bị phát giác. Nhờ tên phản phúc Tôquát (Torquat) chỉ điểm công an đã bắt được quả tang Castuliô Tiburciô Maccô và Macxêlianô đang hội họp. Họ liền trói cả bốn người dẫn về tống ngục.

Giữa cơn thử thách dữ dội đó, thánh Sêbastianô đem hết nghị lực và thời giờ rảnh để len lỏi vào các trại thăm viếng và khích lệ các anh em.

Những ngày đen tối nhất của Giáo Hội đã tới, cuộc thanh trừng các Kitô hữu đi đến chỗ gắt gao nhất. Hai anh em Maccô và Macxelianô bị trói vào cột đá một ngày một đêm giữa những lời nguyền rủa và chửi bới của đám quần chúng cuồng nhiệt. Cuối cùng lý hình kết liễu đời hai vị bằng một nhát gươm. Đoê, vợ ông Nicostratê bị họ buộc tóc treo lên một cành cây, rồi đốt lửa dưới chân cho tới khi tắt thở. Vị lão thành Tranquilinô cụ thân sinh của hai anh em Maccô và Macxêlianô, bị ném đá chết ngày 6-7-286; Tiburciô bị chém đầu vào mùa thu năm 286; Castuciô bị chôn sống; Nicostratê và Clôtiô bị buông sông; Crômaciôâ bị xử tử; còn lại một mình Sêbastianô. Trong những ngày sống sót thánh nhân chạy rảo khắp kinh thành Rôma để nâng đỡ và khuyến nhủ các chiến sĩ của Chúa Kitô trong những trận chiến ác liệt nhất. Nhưng đã đến giờ Thiên Chúa gọi thánh nhân về lĩnh nhận triều thiên thiên quốc. Bọn công an để mắt theo dõi từng hành động của thánh nhân. Cuối cùng Sêbastianô bị bọn công an tố cáo với Hoàng đế. Hoàng đế Đêôclêtianô từ lâu vẫn có thiện cảm với Sêbastianô, nên đầu tiên không nghe lời bọn công an tố giác, nhưng rồi nhà vua cũng cho đòi thánh nhân đến để điều tra thực hự Đây là cuộc tra vấn của Hoàng đế.

"Trẫm nghe người ta đồn khanh là người công giáo, có phải không?".

Thánh Sêbastianô trả lời: "Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần này là người Công giáo như lời thiên hạ đã đồn đại. Hạ thần tin chắc rằng kẻ nào cầu cứu và tin tưởng ở một khối đá bất động, kẻ đó là người điên dại ."

Nghe nói thế Hoàng đế nhẩy bổ ra khỏi ghế, thét lên vì giận dữ: "Trẫm đã biệt đãi và yêu thương nhà ngươi hết lòng, thế mà nhà ngươi lại dám cả gan bất tuân lệnh của trẫm và nguyền rủa các thần minh như thế sao ?"

Thánh Sêbastianô trả lời: "Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần này hằng cầu xin Chúa Kitô bảo vệ đế quốc Hoàng đế và ban cho hoàng đế được ơn cứu rỗi. Hạ thần hằng phụng thờ Thiên Chúa ở trên trời ."

Hoàng đế muốn xử tử ngay tức khắc người chiến sĩ can trường có một của Chúa Kitô, nhưng vì sợ quân lính vẫn còn thiện cảm với vị chủ tướng của họ sẽ nổi loạn để bênh vực vị chỉ huy của họ chăng. Bấy giờ ở kinh thành Rôma, sẵn có một tiểu đoàn binh sĩ ở thuộc địa chuyên nghề bắn cung, mới được tuyển mộ nhập quân đội hoàng gia. Hoàng đế giao cho họ việc xử tử thánh Sêbastianô.

Vâng lệnh hoàng đế, chúng trói thánh nhân lại, điệu ra ngoài thành, lột áo ngoài ra, trói vào cột làm như bia để bắn, thánh Sêbastianô đứng thản nhiên ngước mắt nhìn trời, cảm tạ Thiên Chúa và cầu nguyện cho bọn lý hình. Lệnh vừa ban hành, bọn cung thủ thi nhau bắn như mưa vào thánh nhân, những mũi tên ác liệt tưởng đã kết liễu đời người chiến sĩ. Đêm đến, bà Idiêu, vợ ông Castuliô lén đến tháo xác ngài ra đem an táng. Nhưng khi sờ đến xác, thấy xác thánh nhân còn nóng và thoi thóp thở. Bà cõng thánh nhân về nhà bà ở ngay trong khu hoàng cung. Nhờ sự săn sóc cẩn thận của bà, thánh Sêbastianô dần dà bình phục.

Mọi người đều tưởng thánh Sêbastianô đã chết. Nhưng thánh nhân không muốn để mất triều thiên tử đạo. Trong lúc lòng đầy nhiệt thành hăng hái, thánh nhân nẩy ra ý định sẽ đến trách móc Hoàng đế vì đã xử đãi quá tàn ác với người công giáo. Thánh Sêbastianô lẻn vào cung, nấp dưới chân thang chỗ nhà vua thường qua lại. Quá sợ hãi vì cuộc xuất hiện bất ngờ đó, Hoàng đế tưởng rằng Sêbastianô đã hiện về báo thù, nên định chạy trốn. Nhưng ngay sau đó Hoàng đế đã trấn tĩnh lại được và bắt đầu đối thoại với người mà Hoàng đế ngộ nhận là ma quỷ hiện hình.

"Có phải người là Sêbastianô, mà ta đã truyền bắn chết không?" Thánh nhân bình tĩnh trả lời:

"Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi, đã cho hạ thần được bình phục. Và giờ đây, hạ thần đến đây nhân danh Chúa Kitô, cực lực phản đối những hành động dã man mà Hoàng đế đối xử với các tín hữu của Người". Quá tức giận, Hoàng đế Điôclêtianô truyền bắt và điệu Sêbastianô ra ngoài thành chém đầu tức khắc rồi quăng xác xuống hào. Để thưởng công vị tử đạo đã hai lần bị hành hạ vì Đức tin, Chúa Giêsu đã báo mộng cho một tín hữu sốt sắng là bà Lucina biết nơi lý hình đã vứt xác thánh nhân. Bà này đã đưa xác thánh nhân về an táng trong hang toại đạo gần chỗ dành riêng cho các vị Giáo Hoàng. Ngày nay người ta thường gọi với danh hiệu "Hang toại đạo Thánh Sêbastianô".

Danh tiếng Sêbastianô vang lừng khắp thế giới. Người ta thường cầu khẩn thánh nhân với tước hiệu là vị cứu tinh của bệnh dịch. Khoảng thế kỷ IV, trên mộ thánh nhân, người ta xây một thánh đường nguy nga để dâng kính ngài với danh hiệu: đại thánh đường thánh Sêbastianô.

Hằng năm Giáo Hội mừng lễ thánh nhân vào ngày 20 tháng giêng.

http://giaophanvinhlong.net/thanh-fabiano-thanh-sebastiano.html

 



Thứ Sáu


Phụng Vụ Lời Chúa



Bài Ðọc I: (năm II) 1 Sm 24, 3-21

"Tôi sẽ không ra tay sát hại người, vì người là Ðấng xức dầu của Chúa".

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Saolê đem ba ngàn người được tuyển chọn trong toàn dân Israel và đi tìm Ðavít và các người theo ông, cho đến những mỏm đá cao dốc rất hẻo lánh, nơi chỉ có những con dê rừng lui tới. Ông đến các chuồng chiên ở vệ đường. Nơi đây có một cái hang, Saolê vào đó đi việc cần. Ðavít và những người theo ông đang núp phía trong hang.

Các người đầy tớ nói với Ðavít rằng: "Ðây là ngày Chúa phán cùng ông: Ta trao thù địch của ngươi cho ngươi, để ngươi đối xử với hắn thế nào tuỳ ý ngươi". Vậy Ðavít đứng lên, lén cắt một mảnh chiến bào của Saolê. Sau đó Ðavít hối hận, vì đã cắt áo chiến bào của Saolê. Ông nói với các người theo ông rằng: "Xin Chúa thương tôi, đừng để tôi làm việc này cho chủ tôi, đấng Chúa xức dầu, là ra tay sát hại vua, vì vua là đấng xức dầu của Chúa". Ðavít ngăm đe những người theo ông không được phép xông vào Saolê. Saolê đứng lên ra khỏi hang và tiếp tục cuộc hành trình. Ðavít cũng đứng dậy đi theo Saolê ra khỏi hang và gọi giật sau lưng vua rằng: "Tâu đức vua". Saolê nhìn lại đàng sau, Ðavít sấp mình kính lạy và nói cùng Saolê rằng:

"Tại sao bệ hạ lại nghe những lời người ta đồn thổi rằng: Ðavít toan làm hại bệ hạ. Ðây hôm nay chính mắt bệ hạ thấy rằng: trong hang, Chúa đã trao bệ hạ vào tay tôi. Tôi đã tưởng giết bệ hạ, nhưng tôi thương hại bệ hạ, vì tôi đã nói: Tôi không ra tay sát hại chủ tôi, vì người là đấng xức dầu của Chúa. Hơn thế nữa, cha ôi, hãy nhìn xem mảnh chiến bào của bệ hạ trong tay tôi, vì khi xén vạt chiến bào của bệ hạ, tôi không muốn ra tay sát hại bệ hạ. Xin bệ hạ hãy nhận biết rằng tay tôi không làm điều ác và bất công, tôi không phạm đến bệ hạ, nhưng bệ hạ cứ âm mưu hãm hại mạng sống tôi. Xin Thiên Chúa xét xử cho bệ hạ và tôi, và xin Chúa báo thù cho tôi. Nhưng tay tôi sẽ không phạm đến thân bệ hạ. Như ngạn ngữ xưa có nói "Ác giả ác báo", nhưng tay tôi cũng sẽ không phạm đến bệ hạ. Hỡi vua Israel, bệ hạ bắt bớ ai? Bệ hạ bắt một con chó chết, một con bọ chét sao? Xin Chúa làm quan án và xét xử cho tôi và bệ hạ, xin Chúa nhìn xem và xét xử vụ này mà giải thoát tôi khỏi tay bệ hạ".

Ðavít vừa dứt lời, Saolê liền nói: "Hỡi Ðavít con ta, có phải tiếng đó là tiếng của con không?" Saolê cất tiếng khóc và nói cùng Ðavít rằng: "Con công chính hơn cha, con làm ơn cho cha mà cha trả oán cho con. Hôm nay con vạch rõ, con đối xử nhân đạo với cha, vì mặc dầu Chúa đã trao cha vào tay con mà con cũng không giết cha. Nào có ai gặp kẻ thù mà để nó đi yên lành không? Vậy xin Chúa báo đáp lại cho con về ân huệ mà con đã làm cho cha trong ngày hôm nay. Nay cha biết chắc rằng con sẽ làm vua, và con sẽ nắm mãi mãi trong tay con vương quốc Israel".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 56, 2. 3-4. 6 và 11

Ðáp: Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con (c. 2a).

Xướng: 1) Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con, vì linh hồn con tìm đến nương tựa Ngài. Con nương nhờ bóng cánh của Ngài, cho tới khi cơn hoạn nạn qua đi. - Ðáp.

2) Con kêu lên Thiên Chúa Tối Cao, Thiên Chúa thực hiện cho con điều lành. Nguyện Chúa tự trời thi ân và cứu độ con, làm cho những người bách hại con phải nhục nhã, nguyện Chúa tỏ ra ân sủng và lòng trung tín của Ngài. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài ra trên toàn cõi đất, vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 13-19

"Người gọi những kẻ Người muốn gọi để họ ở cùng Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ. Mười hai vị ấy là: Simon mà Người đặt tên là Phêrô, Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan là em Giacôbê, (cả hai được Người đặt tên là Boanerges, nghĩa là con của sấm sét), rồi đến Anrê, Philipphê, Bartôlômêô, Matthêu, Tôma, Giacôbê con ông Alphê, Tađêô, Simon nhiệt tâm, và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.

Ðó là lời Chúa.


Suy nghiệm Lời Chúa

 


 

Đức Kitô tuyển chọn  


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh được tỏ hiện nơi việc Người làm như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại sau đây:

"Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người. Người chọn mười hai vị để theo Người, và sai các ông đi giảng và ban cho các ông quyền trừ quỷ". 

Phải, "Người Con duy nhất đến từ Cha", một Người Con "đầy ân sủng và chân " trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: thứ nhất ở chỗ Người có quyền tuyển chọn "những kẻ Người muốn gọi"; thứ hai ở chỗ Người thu hút được những ai Người muốn tuyển chọn "và họ đến cùng Người... để theo Ngườinhư Người mong muốnthứ ba ở chỗ Người có quyền truyền khiến trong việc "sai các vị đi rao giảng"; thứ bốn ở chỗ Người có thể "ban cho các ông quyền trừ quỷ".

Trong danh sách liệt kê những chàng thanh niên thuộc nhóm 12 môn đệ kể như ưu tú vì được chọn làm tông đồ (liên quan đến hàng giáo phẩm sau này), người ta thấy danh sách này bao gồm đủ mọi thành phần khác biệt. Về nghề nghiệp, từ đánh cá, như hai cặp anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan, đến thu thuế như Mathêu. Về bản chất, từ khuynh hướng ngờ vực như Toma đến khuynh hướng phản bội như Giuđa Ích-Ca. Về tính cách, từ trầm lặng như Bartholomeo, Giacobe con Alphe và Tadeo đến năng động như Philiphe và Simon nhiệt tâm.

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " mà lại có thể chọn một người môn đệ sẽ phản nộp Người sau này? Phải chăng vì Người lầm, hay là cố ý như vậy?? Nếu Người chắc chắn không thể nào lầm thì Người cố ý chọn người môn đệ sẽ phản nội Người sau này để làm gì??? 

Phải chăng chính sự kiện Người cố ý chọn cả người môn đệ sẽ phản nộp Người sau này là chứng cớ hùng hồn và chân thực nhất cho thấy "Người Con duy nhất đến từ Cha" này "đầy ân sủng và chân "!?! 

Ở chỗ, Người yêu thương hết mọi người không trừ ai, dù tốt hay xấu, dù giỏi hay dở, dù khôn hay dại v.v., và tình yêu của Người là tình yêu vô cùng bất tận, một tình yêu theo bản tính nhân loại của Người "đã yêu cho đến cùng" (Gioan 13:1): Người đã yêu cả người môn đệ được liệt kê cuối "cùng" này trong cả 3 danh sách tông đồ ở bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm, và Người yêu người môn đệ này "cho đến cùng" ở chỗ cũng cúi xuống rửa chân cho cả người môn đệ cuối "cùng" này nữa

Thành phần môn đệ được Chúa Giêsu tuyển chọn làm tông đồ của Người, và được Người đặc biệt tỏ mình ra cho, nhờ đó thấu hiểu Người mà trở nên thành phần chứng nhân tiên khởi của Người sau này, là thành phần được Người sử dụng như tấm gương phản chiếu Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12): "Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi không thể bị che khuất được nữa" (Mathêu 5:14).

Chính vì bản chất của thành phần môn đệ làm tông đồ chứng nhân cần phải tỏa chiếu ánh sáng là Chúa Kitô như thế mới có chi tiết ở ngay đầu của bài Phúc Âm hôm nay: "Chúa Giêsu lên núi và gọi những kẻ Người muốn gọi, và họ đến cùng Người". Nếu Chúa Giêsu "lên núi" (ám chỉ Người ở một tầm mức trổi vượt, cao vời, tầm mức lý tưởng) để gọi một số các môn đệ của Người thì ai đáp ứng lời kêu gọi của Người cũng phải "lên núi" với Người, như các tông đồ đã thực hiện, ở chỗ " họ đến cùng Người".

Nếu bài Phúc Âm hôm nay bao gồm cả thành phần môn đệ tốt lành lẫn không tốt lành, bao gồm cả chiều cao trọn lành "lên núi" theo lý tưởng được kêu gọi lẫn những yếu hèn theo bản tính loài người vẫn còn tiềm ẩn nơi bản thân mỗi người môn đệ được tuyển chọn này, thì Bài Đọc 1 cho Năm Chẵn hôm nay cũng bao gồm cả lành lẫn dữ, cả tốt lẫn xấu, mà lành thắng dữ v.v. nơi câu chuyện được Sách Samuel quyển 1 thuật lại về sự kiện "Saolê đem ba ngàn người được tuyển chọn trong toàn dân Israel và đi tìm Ðavít và các người theo ông".

Lý do Vua Saulê làm như vậy là vì vua lại bị quyền lực tối tăm tiếp tục ám ảnh trong mối ghen hờn về tầm ảnh hưởng của chàng Đavít trên dân chúng sau biến cố chàng thắng được đối thủ khổng lồ Gồliát, đến độ vua đã không thể chống cưỡng được ý đồ sát hại đối thủ Đavít của mình

Chính cái cả giận mất khôn đã làm cho vua trở thành mù quáng, đến độ vua đã làm một việc chẳng khác gì như một đứa trẻ con. Ở chỗ, thay vì vua sai quân quốc đi lùng giết địch thù của mình, thì đích thân vua là một vị vua oai nghi lẫm liệt lại kéo một đoàn quân hùng hậu đi lùng giết một bầy tôi thấp hèn chẳng có bao nhiêu thuộc hạ của vua. 

Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn không bỏ vua, vẫn lợi dụng hoàn cảnh của chính việc vua làm để đánh động vua. Bởi thế, vua đã lọt ngay vào tay Đavít, lọt ngay vào chính cái hang động Đavít đang ẩn nấp vua: "Nơi đây có một cái hang, Saolê vào đó đi việc cần. Ðavít và những người theo ông đang núp phía trong hang".

Như Chúa Giêsu dù biết môn đệ Giuđa Íchca phản bội vẫn tuyển chọn và yêu thương cho đến cùng, Thiên Chúa cũng đã sử dụng ngay con người là địch thù kiêm đối thủ không đội trời chung của vua là chàng Đavít trẻ trung ngây thơ vô tội để tha cho vua, không sát hại vua, cho dù chàng có thể làm điều đó về cả thể lý lẫn luân lý, thế nhưng chàng đã không dám làm không phải vì nhát sợ mà là vì tôn kính vua:

"Các người đầy tớ nói với Ðavít rằng: 'Ðây là ngày Chúa phán cùng ông: Ta trao thù địch của ngươi cho ngươi, để ngươi đối xử với hắn thế nào tuỳ ý ngươi'. Vậy Ðavít đứng lên, lén cắt một mảnh chiến bào của Saolê. Sau đó Ðavít hối hận, vì đã cắt áo chiến bào của Saolê. Chàng nói với các người theo mình rằng: 'Xin Chúa thương tôi, đừng để tôi làm việc này cho chủ tôi, đấng Chúa xức dầu, là ra tay sát hại vua, vì vua là đấng xức dầu của Chúa'. Ðavít ngăm đe những người theo mình không được phép xông vào Saolê".

Và quả nhiên, thái độ cao thượng đầy bác ái yêu thương đối với kẻ tìm sát hại mình và tôn kính vị bề trên được Thiên Chúa tuyển chọn của mình, mà chàng Đavít đã tỏ ra, thật sự đã mỹ mãn mang lại kết quả tốt đẹp ngoài lòng mong ước, như được cùng bài đọc thuật lại như thế này:

"Saolê đứng lên ra khỏi hang và tiếp tục cuộc hành trình. Ðavít cũng đứng dậy đi theo Saolê ra khỏi hang và gọi giật sau lưng vua rằng: 'Tâu đức vua'. Saolê nhìn lại đàng sau, Ðavít sấp mình kính lạy và nói cùng Saolê ... Ðavít vừa dứt lời, Saolê liền nói: 'Hỡi Ðavít con ta, có phải tiếng đó là tiếng của con không?' Saolê cất tiếng khóc và nói cùng Ðavít rằng: 'Con công chính hơn cha, con làm ơn cho cha mà cha trả oán cho con. Hôm nay con vạch rõ, con đối xử nhân đạo với cha, vì mặc dầu Chúa đã trao cha vào tay con mà con cũng không giết cha. Nào có ai gặp kẻ thù mà để nó đi yên lành không? Vậy xin Chúa báo đáp lại cho con về ân huệ mà con đã làm cho cha trong ngày hôm nay. Nay cha biết chắc rằng con sẽ làm vua, và con sẽ nắm mãi mãi trong tay con vương quốc Israel'".

Bài Đáp Ca hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh tâm tình tin tưởng của chàng Đavít (câu 1) trong Bài Đọc 1 hôm nay nơi Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng chẳng những bảo vệ chở che chàng (câu 2) mà còn từ bi nhân ái với cả kẻ tìm hại mạng sống của chàng nữa (câu 3): 

1) Nguyện xót thương con, lạy Chúa, nguyện xót thương con, vì linh hồn con tìm đến nương tựa Ngài. Con nương nhờ bóng cánh của Ngài, cho tới khi cơn hoạn nạn qua đi. 

2) Con kêu lên Thiên Chúa Tối Cao, Thiên Chúa thực hiện cho con điều lành. Nguyện Chúa tự trời thi ân và cứu độ con, làm cho những người bách hại con phải nhục nhã, nguyện Chúa tỏ ra ân sủng và lòng trung tín của Ngài. 

3) Lạy Chúa, xin Ngài hiện ra cao cả trên trời, xin tỏ vinh quang Ngài ra trên toàn cõi đất, vì đức từ bi Chúa cao tới cõi trời, và lòng trung tín Ngài chạm ngàn mây. 

 

Ngày 21 tháng 1

Thánh A-nê, trinh nữ, tử đạo

lễ nhớ bắt buộc

 

A-nê là một thiếu nữ Rô-ma, mới từ mười hai đến mười lăm tuổi đã tình nguyện chết vì đức tin khi cuộc bách hại của hoàng đế Đi-ô-cơ-lê-xi-a-nô tới hồi khốc liệt nhất (năm 305). Đó là sự việc thánh Am-rô-xi-ô đã ghi lại, và là lý do khiến Hội Thánh Rô-ma tưởng nhớ thánh nữ với hết tình yêu mến.

hah1234

 

Chưa đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 21/1)

Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về các trinh nữ.

Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của một trinh nữ, chúng ta hãy noi gương trong trắng của người. Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của một vị tử đạo, chúng ta hãy dâng hy lễ. Hôm nay là ngày sinh nhật trên trời của thánh A-nê. Tương truyền rằng thánh nữ đã được phúc tử đạo năm mười hai tuổi. Người ta đối xử tàn bạo không nương tay với một thiếu nữ còn ít tuổi, thì lại càng làm lộ ra sức mạnh lớn lao của đức tin nơi thiếu nữ ấy, vì cô đã dám làm chứng.

Tấm hình hài nhỏ bé ấy, liệu có chịu nổi một vết thương chăng ? Người thiếu nữ không có sức chịu nổi lưỡi đòng thâm thâu, thế mà lại có sức thắng được lưỡi đòng ấy, đang khi những cô bé cùng trạc tuổi không chịu được nét mặt nghiêm khắc của cha mẹ, và khi bị kim đâm thì khóc như bị thương nặng.

Người thiếu nữ ấy vẫn bình thản giữa những bàn tay đẫm máu của lý hình, không nhúc nhích khi nghe tiếng xiềng xích nặng nề kéo lê lẻng xẻng. Tuy chưa biết chết là gì, nhưng người thiếu nữ ấy đã sẵn sàng : giờ đây cô đưa thân ra đón lưỡi gươm của tên lính hung bạo. Ngay cả khi bị miễn cưỡng lôi đến bàn thờ tế thần thì ngang qua những ngọn lửa, cô vẫn giơ tay lên Chúa Ki-tô, và trong lò lửa tàn bạo đó, cô đã làm dấu thánh giá để tôn vinh Chúa toàn thắng. Giờ đây cô đưa cổ và hai tay cho người ta xiềng lại, nhưng không dây xiềng nào có thể xích được những chi thể quá mềm mại đó.

Đây không phải là một kiểu tử đạo mới sao ? Chưa đủ sức chịu khổ mà đã thừa sức chiến thắng ; chiến đấu thì vất vả, nhưng được ân thưởng lại dễ dàng. Tuổi đời còn non dại, mà đã là bậc thầy về chí can trường. Tân nương vội vã tới loan phòng cũng không lẹ bằng người trinh nữ này vui vẻ tiến ra nơi hành quyết. Cô đẹp không phải vì bím tóc nhưng vì thuộc về Đức Ki-tô. Đầu cô không đội vòng hoa nhưng được điểm trang bằng đức hạnh.

Mọi người đều khóc nhưng chính cô thì không. Nhiều người lấy làm lạ vì thấy sao cô dễ dàng xả thân như thế ; chưa được hưởng cuộc đời mà cô đã rộng rãi cho đi như là đã hoàn toàn mãn nguyện. Ai nấy đều kinh ngạc, vì ở tuổi đó, cô chưa làm chủ được chính mình mà đã làm chứng cho Thiên Chúa. Cuối cùng, cô đã làm cho người ta phải tin cô, khi cô làm chứng về Thiên Chúa, trong lúc người ta chưa tin cô được về những vấn đề thuộc con người, bởi lẽ điều vượt quá tính tự nhiên thì do Đấng tác tạo thiên nhiên mà có.

Lý hình đã tìm mọi cách làm cho cô khiếp đảm, đã dùng hết lời ngon ngọt thuyết phục cô, hứa hẹn bao điều để cô chịu kết hôn. Nhưng cô quả quyết : “Thật là sỉ nhục cho Hôn Phu, nếu tôi còn mong đợi ai làm tôi vui lòng. Ai chọn tôi trước thì người ấy được. Này đao phủ, còn đợi chi nữa ? Tôi không muốn người ta thích thú ngắm nhìn thân xác tôi, hãy để cho nó chết đi !” Cô đứng, cầu nguyện rồi giơ cổ cho người ta chém.

Có lẽ bạn thấy được tên lý hình đang run sợ như chính hắn bị tuyên án, thấy tay tên đao phủ run rẩy giơ lên, sợ xanh mặt, vì cô bé lâm nguy, trong khi cô chẳng sợ nguy hiểm gì cho mình. Vậy trong một lễ vật hy sinh, các bạn có hai lời chứng : lời chứng về tiết hạnh và lời chứng về đức tin. Cô đã giữ vững đức đồng trinh và được phúc tử đạo.

 

Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ

Từ thế kỷ thứ IV, thánh Anê là một trong các vị thánh được tôn kính nhất trong Giáo hội Rôma. Ngày kỷ niệm được ghi nhận trong lịch Rôma cổ là ngày chuyển di hài thánh nữ (Depositio martyrum) vào ngày 21.01.354. Nhiều giáo phụ đã tôn kính nữ thánh: Thánh Ambrôsiô đã viết một Hạnh tử đạo về thánh nữ và đã viết một bài Thánh thi ca tụng, và còn có các thánh Prudence, Giêrôm, Augustinô… Tên thánh nữ đã được ghi vào Kinh nguyện Thánh Thể Rôma cùng với các nữ thánh Agatha, Lucie, Cécile… và trên ngôi mộ của bà, hoàng đế Constantin đã cho xây một đại Thánh đường: Sainte Anê hors les Murs.

Anê (tiếng Hy Lạp là Agnè = “thanh sạch”, tiếng Latinh là Agnus “con chiên”) là một thiếu nữ Rôma khoảng 12,13 tuổi dưới thời bách hại của hoàng đế Dioclètien. Nhiều truyền thuyết Latinh và Hy Lạp diễn tả cuộc khổ nạn của bà. Anê là Kitô hữu vào thời các môn đệ của Đức Kitô bị bách hại và bị giết. Lúc đó, một số người Kitô hữu chối đạo vì sợ, bà liền ra trước mặt nhà chức trách Rôma, tuyên xưng vững vàng đức tin của mình và khao khát được tử đạo. Bà đã trả lời với vị thẩm phán nghi ngờ về đức khiết tịnh của bà : “Tôi đã đính ước với Đấng các thiên thần phải cung phụng. Tôi giữ niềm tin vào Người và tôi hoàn toàn thuộc về Người”. Bị bắt đem vào một chỗ đồi bại, một ánh sáng từ trời đã bao phủ bà. Bị kết án thiêu sống, các ngọn lửa bao quanh bà, nhưng không đốt nóng. Bà nói với lý hình sắp chặt đầu mình: “Đừng sợ, hãy mau chặt đầu tôi, để tôi sớm về với Đấng tôi yêu.”

Đại Thánh đường thánh Anê luôn là một nơi hành hương. Ngày lễ kính thánh nữ, người ta sẽ đem hai con chiên đến gần bàn thờ, trước khi dâng cho Đức Giáo Hoàng. Lông của hai con chiên này dùng để dệt các Pallium: Một dấu hiệu mà Đức Giáo Hoàng mang và ngài cũng ban cho một số vị xứng đáng trong Hội Thánh.

Thánh nữ Anê được tôn kính là thánh quan thầy cho đức trinh khiết. Trong ảnh hình, bà xuất hiện với con chiên, và đôi khi, với một chim bồ câu, mỏ ngậm một chiếc nhẫn.

  1. Thông điệp và tính thời sự

Trong một bài giảng kính thánh nữ Anê vào năm 376, thánh Ambrôsiô đã nói: “Các anh chỉ có một nạn nhân, nhưng lại có một cuộc tử đạo hai mặt: Sự trinh khiết và đức tin. Bà đã giữ được đức trinh khiết và bà đã được phúc tử vì đạo.”

  1. Sự trinh khiết của thánh Anê, được nhấn mạnh kỹ lưỡng trong Hạnh tử đạo, cũng được làm nổi bật trong Phụng vụ. Thánh Ambrôsiô đã lấy Anê làm mẫu gương cho các trinh nữ trong chuyên khảo về đức Khiết tịnh, đã nói trong bài giảng: “Bà như một trinh nữ đã tiến lên với những bước vui mừng đến pháp trường… Đáp lại với những hăm doạ vuốt ve, lời hứa của kẻ bách hại. Bà nói: “Đấng đầu tiên đã chọn tôi, chính Người sẽ đón tôi.”
  2. Con chiên, biểu trưng sự thanh khiết, cũng là biểu trưng sự tử đạo cao cả nhất. Bài đọc một trong Thánh lễ, rút từ sách Khải huyền, nói về đám người đông đảo đứng trước ngai vàng và trước con chiên, mặc áo trắng, cành lá dừa cầm trong tay. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9-17).

Thánh Anê xứng đáng đứng gần Con Chiên. Bà cầu nguyện: “Con sẽ đến với Ngài, Chúa Cha rất thánh, Đấng con yêu mến, con tìm kiếm và luôn khao khát”. Đối lại với những quyền lực thế gian, thánh Ambrôsiô nói: “Một bé gái đứng lên, cầu nguyện và giương cổ chờ đợi…” vì sức mạnh Thiên Chúa bao trùm lên sự yếu đuối con người. Chính vì thế mọi dân tộc đều ca ngợi.

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB

http://loichua.donboscoviet.org/ngay-21-thang-1-thanh-anne-trinh-nu-tu-dao/

 


Một trong những đức tính nổi bật của vị thánh trẻ Anê, tử đạo là lòng can đảm và kiên trì. Thánh nhân dù mới có 13 tuổi đời đã anh dũng hy sinh vì Chúa:" Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người chết vì người mình yêu" (Ga 15, 13) và như thánh Phaolô viết: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".

MỘT CON NGƯỜI, MỘT CUỘC ÐỜI

Thánh Anê đã cảm nghiệm sâu xa lời thánh vịnh: "Máu tế thần, con quyết chẳng dâng, tên của thần, môi con không tụng niệm" (Tv 15, 4). Nên, dù mới có 12 tuổi đời, thánh nữ Anê đã rao giảng Ðức Kitô là Thiên Chúa. Thánh nhân không sợ sệt, không nhát đảm, người ta đã muốn làm hoen ố đời con gái của thánh nữ, nhưng Chúa luôn gìn giữ Người và con người của thánh nữ luôn tỏa hương thơm tươi tốt. Thánh Anê đã giữ mình tinh tuyền đến nỗi không một chàng trai nào dám động tới thân xác của Người. Thánh nhân luôn có một tâm niệm" Tôi chỉ tin một Ðức Kitô, Ðấng tôi hằng yêu mến ". Ngài luôn ý thức:" Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ " (Tv 15, 5). Thánh nữ phó thác sinh mạng và cuộc đời Ngài trong tay Thiên Chúa. Vì thế cái chết đối với Ngài chỉ thay đổi chứ không mất đi. Một nhát chém hay sự thiêu đốt không làm Ngài siêu lòng, nhưng là để Ngài được gặp mặt Chúa và sống bên Chúa suốt đời.

CHÚA THƯỞNG TRIỀU THIÊN CHO THÁNH NỮ ANÊ

Thánh Anê đã được diễm phúc tử vì đạo. Xác thánh nhân được an táng tại biệt thự riêng của gia đình. Công chúa của Hoàng đế Constantin vào năm 321 được thánh nữ chữa khỏi một chứng bịnh, nên đã cho xây trên phần mộ của thánh Anê một ngôi nhà thờ nguy nga, đồ sộ. Chúa thưởng công cho Người:" Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi ! ( Tv 15, 11 ).

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã chọn những gì thế gian cho là yếu kém để hạ nhục những gì hùng mạnh. Hôm nay chúng con mừng kỷ niệm ngày thánh nữ Anê, tử đạo về trời. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nữ mà giữ vững đức tin (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anê, trinh nữ, tử đạo).
 
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang%201/Ngay21-Agnes.htm


Thứ Bảy


Phụng Vụ Lời Chúa



Bài Ðọc I: (năm II) 2 Sm 1, 1-4, 11-12. 19. 23-27

"Cớ sao các anh hùng lại ngã gục trên chiến trường như thế?"

Khởi đầu sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, sau khi thắng quân Amalec, Ðavít trở về, và tạm nghỉ hai ngày tại Sicelê. Qua ngày thứ ba, có người từ trại quân của Saolê trở về, áo quần rách nát, đầu tóc đầy bụi bặm, anh đến trước mặt Ðavít sấp mình kính lạy. Ðavít hỏi anh: "Ngươi từ đâu tới?" Anh ta trả lời: "Tôi trốn từ trại quân Israel về". Ðavít lại hỏi: "Có chuyện gì xảy ra đó, hãy kể lại cho ta nghe". Anh ta nói: "Dân chúng chạy trốn khỏi chiến trường, nhiều người trong dân đã bị hạ sát, vua Saolê và thái tử Gionathan cũng tử trận".

Ðavít liền xé áo mình ra, các người hầu cận của ông cũng làm như thế. Tất cả đều than van khóc lóc và ăn chay cho tới chiều để chịu tang vua Saolê, thái tử Gionathan, dân Chúa và nhà Israel, vì họ ngã gục dưới lưỡi gươm. (Và Ðavít đã khóc rằng:)

"Các nhân tài Israel đều bị giết trên núi. Cớ sao các anh hùng bị ngã gục như thế?

"Saolê và Gionathan đáng yêu đáng quý, khi sống cũng như khi chết, họ không hề lìa nhau. Họ lanh lẹ hơn chim phượng hoàng, và hùng dũng hơn loài sư tử. Hỡi thiếu nữ Israel, hãy than khóc Saolê đi, người đã mặc cho các cô áo điều sặc sỡ, đã gắn lên y phục các cô những đồ nữ trang bằng vàng.

"Cớ sao các anh hùng lại ngã gục trên chiến trường như thế?

"Gionathan đã bị giết trên đồi cao. Hỡi anh Gionathan, tôi thương tiếc anh. Tôi yêu mến anh, và tình bạn giữa đôi ta cao quý hơn tình yêu phụ nữ.

"Cớ sao mà các anh hùng lại ngã gục như thế? Cớ sao binh khí lại bị phá huỷ như thế?"

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 79, 2-3. 5-7

Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b)

Xướng: 1) Lạy Ðấng chăn dắt của Israel, xin hãy lắng tai! Chúa là Ðấng chăn dẫn Giuse như thể bầy chiên. Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng, trước mặt con cháu Ephraim, Bengiamin và Manassê. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. - Ðáp.

2) Lạy Chúa thiên binh, Chúa còn thịnh nộ tới bao giờ, bởi vì dân Chúa đang dâng lời khẩn nguyện? Chúa nuôi chúng con bằng cơm bánh trộn giọt châu, và cho chúng con uống bằng nước mắt chảy tràn trề. Chúa biến chúng con thành miếng mồi cho lân bang tranh chấp, và quân thù phỉ báng chúng con. - Ðáp.

  

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 3, 20-21

"Những thân nhân của Người nói: Người đã mất trí".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được. Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: "Người đã mất trí". 

Ðó là lời Chúa.

 


Suy nghiệm Lời Chúa


   

 Đức Kitô "mất trí"


Ngày Thứ Bảy hôm nay trong Tuần 2 Thường Niên hậu Giáng Sinh là ngày duy nhất trong riêng tuần này và chung phụng niên có bài Phúc Âm ngắn nhất, chỉ với 2 câu vắn vỏi (Marco 3:20-21).

Một số ngày khác trong tuần suốt phụng niên đặc biệt là của Mùa Thường Niên cũng có những bài Phúc Âm chỉ có 3 câu đã thấy ngắn lắm rồi, như trong Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh có Thứ Hai Tuần 6 (Marco 8:11-13) hay Thứ Tư Tuần VIII (Marco 9:38-40), hoặc trong Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, có Thứ Tư Tuần X (Mathêu 5:17-19), Thứ Tư tuần XVII (Mathêu 13:44-46), Thứ Hai và Thứ Ba Tuần XXV (Luca 8:16-18 và 19-21), thế mà hôm nay bài Phúc Âm còn ngắn hơn nữa. 

Tuy nhiên, không phải vì cái ngắn thật là ngắn chưa từng có này của bài Phúc Âm hôm nay đã không tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân " của chung Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, cho dù nội dung và ý nghĩa của bài Phúc Âm có vẻ hoàn toàn ngược lại:

"Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được. Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'". 

Thật thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay câu thứ nhất trong hai câu, Thánh ký Marco vẫn cho thấy hình ảnh nổi nang và tầm ảnh hưởng mãnh liệt của "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân ", ở chỗ: "Khi ấy Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được". 

Thánh ký Marco không cho chúng ta biết việc "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà" đây là ở đâu, chỗ nào, nhà ai? Phải chăng là chính nhà của Ngườ Nazarét, vì chi tiết được vị Thánh ký cho biết ngay sau đó là: "Những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'"?

Theo tiến trình di chuyển của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ của Người, được Thánh ký Marco thứ tự thuật lại, từ tuần mở đầu Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh cho đến hôm nay, thì ngôi nhà này có thể là nhà của anh em Simon và Anrê, nơi Người đã đến lần đầu tiên trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước, nơi Người đã chữa cho bà nhạc của chàng Simon khỏi cảm cúm cùng với các bệnh nạn tật nguyền khác của dân chúng tuốn đến với Người vào chính hôm đó, và cũng có thể nói là nơi Người đã chữa lành cho một người bất toại được thả xuống từ trên nóc nhà để tránh đám đông đứng chật trong ngoài ngôi nhà này, ở bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước. 

Có cái lạ là trong khi Chúa Giêsu đang nổi nang và đầy thu hút dân chúng như vậy thì "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'". Tại sao họ lại có thái độ và hành động hoàn toàn ngược chiều với quần chúng như vậy?

Phải chăng "Người đã mất trí" là vì "Người không dùng bữa được" bởi "dân chúng đông đảo lại đổ xô tới"? Nếu thế thì khi tới nơi họ lại càng cần phải trợ giúp Người để nhờ đó Người có thể dùng bữa được như họ mong muốn, bằng cách họ tạm trấn an dân chúng và cung cấp thực phẩm cho Người ăn uống ngay lúc bấy giờ, chứ tại sao họ lại muốn "bắt Người đi" là làm sao? "Bắt Người đi" đâu?? "Bắt Ngườđi" khỏi chỗ đó để làm gì??? Chẳng lẽ để mang Người tới một bệnh viện tâm thần (mental health hospital) để Người được chữa trị, hay để chính họ cùng nhau chữa trị cho Người, vì "Người đã mất trí"!?

Nếu không thì vấn đề tiếp tục được đặt ra ở đây sẽ như thế này: họ "hay tin đó" là tin gì về Người? Tin Người "trở về nhà", hay tin "dân chúng đông đảo lại đổ xô tới", hoặc tin "Người không dùng bữa được"? Hay cả 3 tin một lúc: "Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về nhà, và dân chúng đông đảo lại đổ xô tới, đến nỗi Người không dùng bữa được"? Hoặc chỉ có một tin nào trong 3 tin ấy đã khiến họ phải thốt lên một cách hết sức bất mãn về Người: "Người đã mất trí", tới độ họ không chịu được nữa và cần phải nhúng tay can thiệp ngay để "bắt Người đi"?

Để giải đáp vấn đề này, chúng ta cần biết thành phần "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người" đây là ai? Dù không biết rõ từng người trong họ, chúng ta cũng có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng không có Mẹ của Chúa Giêsu rồi đó. Không ai hiểu Chúa Giêsu hơn Mẹ Maria. Mẹ chẳng bao giờ cho Con Mẹ là "mất trí" cần phải "bắt đi" như những người "thân nhân" nào đó đã có thái độ và hành động đủ cho thấy là chính họ mới là một nạn nhân đang bị "mất tríđáng thương mà không biết!

Thật ra, nếu chúng ta đọc thêm bài Phúc Âm hôm nay một chút nữa, ngay sau câu 21 cuối bài sang đầu câu 22, một câu thuộc về bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần III Thường Niên tuần tới, sẽ thấy một mệnh đề trước (câu 21) cách mệnh đề sau (câu 22) bằng dấu chấm phẩy (;), chúng ta sẽ thấy một chi tiết liên quan có thể làm sáng tỏ vấn đề như sau: "trong khi đó, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: 'Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám', và nói thêm rằng: 'Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ'". 

À... thì ra thế, "những thân nhân của Người hay tin đó, liền đi bắt Người, vì họ nói: 'Người đã mất trí'" lý do là vì họ nghe thấy những tin tức xuyên tạc về Người từ thành phần luật sĩ thông luật hơn dân chúng và dạy luật cho dân chúng vốn không tin tưởng Người, vốn không khâm phục Người, không biết có phải vì họ đang hậm hực ghen tức với Người, bởi ảnh hưởng quá mãnh liệt của Người trong quần chúng trổi vượt hơn họ, nên họ đang muốn tìm hết cách để hạ bệ Người xuống, bằng những thứ chụp mũ, xuyên tạc và bôi nhọ Người hay chăng? 

Kết quả là Người vẫn còn đó, chẳng những không bị thân nhân của Người "bắt đi", vì Người chẳng "mất trí" như các thân nhân của Người tưởng, trái lại, Người còn quá khôn ngoan đến độ làm cho thành phần luật sĩ này bị cứng họng, bằng cách Người đã sử dùng gậy ông đập lưng ông, như chúng ta sẽ thấy trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần tới.

Nếu thân nhân của Chúa Giêsu sống vào thời của chàng Đavít thì chắc chắn họ cũng sẽ cho Đavít là tên điên điên khùng khùng còn hơn cả Chúa Giêsu nữa, bởi vì anh chàng này đã khóc thương kẻ thù của mình là Vua Saulê, kẻ đã lùng giết chàng 2 lần (xem 1Samuel nguyên đoạn 24 và nguyên đoạn 26), sau khi nghe tin con người ấy cùng với thái tử Gionathan của vua bị tử trận:

"Ðavít liền xé áo mình ra, các người hầu cận của ông cũng làm như thế... (Và Ðavít đã khóc rằng:) 'Các nhân tài Israel đều bị giết trên núi. Cớ sao các anh hùng bị ngã gục như thế? Saolê và Gionathan đáng yêu đáng quý, khi sống cũng như khi chết, họ không hề lìa nhau. Họ lanh lẹ hơn chim phượng hoàng, và hùng dũng hơn loài sư tử. Hỡi thiếu nữ Israel, hãy than khóc Saolê đi, người đã mặc cho các cô áo điều sặc sỡ, đã gắn lên y phục các cô những đồ nữ trang bằng vàng".

Bài Đáp Ca hôm nay như âm vang tâm tình thương khóc của chàng Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay về cái chết của "các nhân tài Israel" trong trận chiến bị thảm bại trước quân Amaleck là quân trước đây Saulê đã thắng trận vẻ vang nhưng đã không tận diệt họ theo lệnh Thiên Chúa, như Bài Đọc 1 Thứ Hai tuần này đã cho thấy, thế nhưng, chính nhờ cuộc thất trận quá thảm bại này đã tác động dân Do Thái hướng về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình (câu 1) và xin Ngài tha thứ mà cứu độ họ (câu 2):

1) Lạy Ðấng chăn dắt của Israel, xin hãy lắng tai! Chúa là Ðấng chăn dẫn Giuse như thể bầy chiên. Chúa ngự trên các Vệ Binh Thần, xin hiện ra trong sáng láng, trước mặt con cháu Ephraim, Bengiamin và Manassê. Xin thức tỉnh quyền năng của Chúa, và ngự tới để cứu độ chúng con. 

2) Lạy Chúa thiên binh, Chúa còn thịnh nộ tới bao giờ, bởi vì dân Chúa đang dâng lời khẩn nguyện? Chúa nuôi chúng con bằng cơm bánh trộn giọt châu, và cho chúng con uống bằng nước mắt chảy tràn trề. Chúa biến chúng con thành miếng mồi cho lân bang tranh chấp, và quân thù phỉ báng chúng con. 

 

 

Ngày 20: Thánh Sêbastianô, quân nhân tử đạo và thánh Fabianô, Giáo Hoàng tử đạo

 



Chúng ta không được rõ về năm sinh của thánh Sebastianô, nhưng chắc chắn rằng ngài thuộc gia đình quyền quý và đã sống sung túc.

Năm 283, Sebastianô gia nhập quân đội. Nhờ lòng can đảm và trí thông minh, ngài đã được các bậc chỉ huy tín nhiệm và nhất là được hoàng đế Ðiôclêtianô quý mến. Bởi đó, ngài được vinh thăng đại úy trong lữ đoàn phòng vệ, tuy nhiên hoàng đế vẫn không biết ngài là người Công Giáo.

Với chức vụ sẵn có, ngài đem tất cả nghị lực thời gian, len lỏi vào các trại giam để nâng đỡ an ủi các tín hữu bị bắt giữ, sẵn sàng hy sinh tới giọt máu cuối cùng. Ðồng thời, ngài cũng đã làm những phép lạ nhân danh Ðức Kitô, khiến nhiều người từ bỏ tà thần tin theo Thiên Chúa nhân lành.

Cơn giông tố phũ phàng nhất xảy đến cho Giáo Hội: hoàng đế ra lệnh thanh trừng gắt gao những người giữ đạo (300). Các tín hữu lần lượt ngã gục dưới lưỡi gươm của lý hình, và những hành động của Sebastianô cũng không thoát khỏi cặp mắt canh chừng của bọn công an. Họ tố cáo ngài với hoàng đế. Lúc đầu hoàng đế không tin, nhưng cũng cho đòi ngài đến điều tra. Trước mặt hoàng đế ngài đã mạnh dạn tuyên xưng là người Công Giáo. "Thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người" (CvSđ 5, 29). Khi thì hoàng đế hứa ban thưởng, lúc lại đe dọa, nhưng vẫn không lay chuyển đức tin kiên vững của ngài. Tức giận, hoàng đế giao cho các tiểu đội bắn cung thi hành việc xử tử.

Họ điệu ngài ra ngoài thành, lột áo và trói ngài vào cột. Thân xác ngài trở nên bia hứng trọn những mũi tên bay tới. Nhưng ngài vẫn chưa chết, và ban đêm được một tín hữu đem về nhà cứu sống. Sau khi bình phục, ngài lẻn vào hoàng cung để phản đối những hành động dã man của hoàng đế. Hoàng dế ra lệnh đánh đòn, chém đầu và quăng xác xuống hồ. Bà Lucine, một người đạo đức và sốt sắng đã đem xác ngài về chôn cất tại một hang toại đạo và thế kỷ IV, người ta đã xây cất trên mộ ngài một thánh đường nguy nga.