SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 17, 5-8
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời; phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: "Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5c).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.- Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 12. 16-20
"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu Ðức Kitô được rao giảng rằng Người đã từ cõi chết sống lại, thì làm sao có người trong anh em cho rằng không có sự sống lại từ cõi chết? Vì nếu kẻ chết không sống lại, Ðức Kitô cũng đã không sống lại. Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ.
Nhưng không, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những người đã yên giấc.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 17. 20-26
"Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ trên núi xuống cùng với mười hai tông đồ, và dừng lại trên một khoảng đất bằng; ở đó có đông môn đệ và một đám đông dân chúng từ Giuđêa, Giêrusalem, miền duyên hải Tyrô và Siđon kéo đến để nghe Người giảng và xin Người chữa bệnh tật. Bấy giờ Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
"Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả".
Chúng ta thấy cái tương phản hoàn toàn với nhau một cách nẩy lửa giữa 4 điều lành và 4 cái dữ trong bài Phúc Âm của Thánh ký Luca hôm nay, thứ tự như sau:
1- "Phúc cho
các ngươi là những kẻ nghèo khó" >< "Khốn cho các
ngươi là kẻ giàu có";
2- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ đã được đầy đủ no nê";
3- "Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc" >< "Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười";
4- "Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người các ngươi bị người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng, và loại trừ như kẻ bất lương" >< "Khốn cho các ngươi khi các ngươi được mọi người ca tụng".
Trước hết, chúng ta thấy thứ tự 4 thứ "phúc" và 4 thứ "khốn" có vẻ rất ăn khớp với nhau như thế này: Về 4 thứ "Phúc" - vì "nghèo" mới "đói", vì "đói" mới "khóc", vì "khóc" cũng bởi thân phần nghèo nên còn bị khinh thường "phỉ báng" nữa; trái lại, về 4 thứ "Khốn" - nhờ "giầu" mới "no", nhờ "no" mới "cười", và "cười" cũng nhờ danh phận quyền thế giầu sang phú quí nên còn được "ca tụng" nữa.
Thật ra, 4 cái Người gọi là "khốn" này, tự bản chất của chúng, không có gì là xấu, nhưng nếu con người vốn thiên về tự nhiên và hưởng thụ chúng có thể trở thành "dịp tội" nơi họ và cho họ, khiến họ, nhất là thành phần theo Chúa, thành phần sống trọn lành hơn, thành phần chứng nhân của Người, bị hòa đồng với thế gian và biến mất trong thế gian, đến độ có thể trở thành phản chứng Kitô giáo, thành những tiên tri giả hay kitô giả, như vẫn thấy xẩy ra trong lịch sử Giáo Hội, đặc biệt là trong thời đại mà nhiều người cho là tận thế đến nơi rồi đây.
Một điển hình có thể áp dụng một cách cụ thể vào cái "khốn" cho những ai "no nê" đó là những ai thích thưởng thức loại bữa ăn "all you can eat / ăn tha hồ mặc sức". Thật vậy, để có thể "ăn thả dàn, ăn mặc sức" những gì mình thích, nhiều món mình thích mà giá cũng không mắc lắm hay cũng đáng, người ta, trước hết phải nhịn ăn trước đó để có sức mà thưởng thức tối đa. Cái đói trước bữa ăn này đã là một cái "khốn" đầu tiên. Thế rồi, cái đói trong bữa ăn kiểu này nữa, đó là một khi ăn món này nhiều thì các món còn lại cũng ngon không thể ăn nhiều được nữa, tiếc tiền, đó là cái "khốn" thứ hai. Cái "khốn" thứ ba đó là sau khi ăn xong cái bụng sao mà nó nặng nề khó chịu quá sức. Chưa hết, cái "khốn" cuối cùng và là cái "khốn" nguy hiểm nhất đó là bị cao mỡ, vì đã ăn quá nhiều tôm hùm hay cua là những hải sản mắc tiền hiếm quí.
Trái lại, cũng thế, 4 điều được Chúa Giêsu gọi là "phúc" đây, tự bản chất của chúng, quả thực là dữ, là xấu, là bất lợi, khiến con người bản tính vốn vướng mắc nguyên tội cảm thấy bất hạnh, nên họ bao giờ cũng hoàn toàn muốn tránh né hay được giải thoát. Thế nhưng, với thành phần sống đức tin và vượt thoát, sống gần với Đấng đã đến để phục vụ hơn hưởng thụ (xem Mathêu 20:28), sống chứng nhân cho Đấng đã sống thân phận mục nát của hạt lúa miến trong lòng đất (xem Gioan 12:24), thì những cái bất hạnh ấy lại trở thành phương tiện siêu thoát của họ và cứu độ trần gian. Họ chọn sống và vui sống theo nguyên tắc bất di bất dịch, nguyên tắc tối yếu bất khả thiếu của ơn cứu độ, đó là thà mất hết và thua thiệt tất cả trên thế gian này mà được cứu độ còn hơn được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn (xem Mathêu 16:26). Họ chính là một Lazaro bất hạnh hơn là người phú hộ may lành (xem Luca 16:19-31)
Hai thành phần được Chúa Giêsu đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay: thành phần bất hạnh mà lại có phúc và thành phần may lành mà lại khốn nạn, đã được Tiên Tri Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy nguyên do tại sao như thế này:
"Khốn thay cho kẻ tin tưởng người đời, họ nương tựa vào sức mạnh con người, còn tâm hồn họ thì sống xa Chúa. Họ như cây cỏ trong hoang địa, không cảm thấy khi được hạnh phúc; họ ở những nơi khô cháy trong hoang địa, vùng đất mặn không người ở. Phúc thay cho người tin tưởng vào Thiên Chúa, và Chúa sẽ là niềm cậy trông của họ. Họ sẽ như cây trồng nơi bờ suối, cây đó đâm rễ vào nơi ẩm ướt, không sợ gì khi mùa hè đến, lá vẫn xanh tươi, không lo ngại gì khi nắng hạn mà vẫn sinh hoa kết quả luôn".
Phải, đúng thế, chính vì nguyên nhân phúc và khốn của hai thành phần tương phản nhau trong Bài Phúc Âm hôm nay, như Bài Đọc 1 cho thấy, là ở chỗ kẻ may lành khốn nạn do bởi "tin tưởng người đời", nghĩa là chạy theo thế gian, hoan hưởng thế gian, tôn thờ thế gian, còn người bất hạnh có phúc do bởi "tin tưởng vào Thiên Chúa", chấp nhận tất cả mọi sự theo sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài, mà Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay cũng nhấn mạnh đến niềm tin tưởng vào đời sau, niềm tin tưởng vào một Chúa Kitô Phục Sinh:
"Nếu Ðức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em cũng là hão huyền, và hiện anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em. Như thế ai đã chết trong Ðức Kitô, cũng bị tiêu huỷ cả. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Ðức Kitô trong cuộc đời này mà thôi, thì chúng ta là những người vô phúc nhất trong thiên hạ".
Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới kêu gọi, ở câu đáp rằng: "Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa", và ở các câu xướng, đã phản ảnh những gì được tiên tri Giêmêria khẳng định trong Bài Đọc 1 hôm nay:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 1-11
"Lòng tin của anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn".
Khởi đầu bức thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Giacôbê, đầy tớ của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì.
Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.
Người anh em khó hèn, hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy, vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến mấy, cũng sẽ suy tàn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68. 71. 72. 75. 76.
Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).
Xướng: 1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.
6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
ĐỨC KITÔ - ĐIỀM LẠ
Hôm nay là Thứ Hai trong Tuần VI Thường Niên Năm Chẵn, Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco thuật lại cho chúng ta biết về một cuộc đụng độ gây ra bởi thành phần vẫn theo dõi Chúa Giêsu để bắt bẻ Người và tìm cách tố cáo Người, một đối thủ không đội trời chung của họ trên đấu trường dân Do Thái, thành phần dân chúng không thông luật bằng họ, không giữ luật như họ, thậm chí còn được họ dạy luật cho, bấy giờ lại chẳng những tỏ lòng kính phục và tôn sùng nhân vật xuất hiện từ một nơi chẳng có danh tiếng gì, được gọi là Nazarét (chứ không phải ở gần giáo đô Giêrusalem như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả), xứ Galilêa (chứ không phải xứ Giuđêa là nơi thuộc vương quốc Đavít), mà còn kéo nhau đổ xô tuốn đến với nhân vật này.
Thánh Marco đã trình thuật lại cuộc đụng độ này như sau: "Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: 'Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào'. Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia".
Dầu sao chúng ta cũng thấy rằng, về phía thành phần biệt phái trong bài Phúc Âm hôm nay, bất chấp thành kiến và ác cảm của mình, họ vẫn cứ tiếp tục nhẫn nại theo đuổi nhân vật Giêsu Nazarét, vì họ muốn biết nhân vật này thực sự là ai, từ đâu đến. Bởi thế, họ mới "xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người", để xem Người uy quyền đến đâu theo kiểu trần gian của họ. Thế nhưng, cho dù Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu là "điềm lạ" trong dân và cho dân chính mắt họ đã thấy, như việc Người chữa lành đủ mọi bệnh nạn tật nguyền của dân, hay khu trừ ma quỉ cho dân, thế mà họ vẫn chưa cho là "điềm lạ", vẫn cứ muốn "một điềm lạ" theo ý nghĩ, ý thích và ý muốn chủ quan của họ.
Bởi thế mà họ chẳng thế nào và chẳng bao giờ thấy được "một điềm lạ" nào như ý riêng của họ ở nơi Chúa Giêsu, như chính Người cũng đã khẳng định cho họ biết trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Hành động tiếp ngay sau của Chúa Giêsu như được Phúc Âm thuật lại đó là: "Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia". Nghĩa là họ ở bờ bên này, và Người ở bờ bên kia, không thể gặp nhau, đúng hơn họ không thể gặp Người khi Người ở với họ, trái lại càng làm họ xa Người hơn, đúng như Người sau này quả quyết về họ và báo trước cho họ biết rằng nơi Người đi họ chẳng những không thể nào tới được, mà còn chết trong tội lỗi của họ ngay chính lúc họ đi tìm Người, nghĩa là muốn tìm biết Người nữa (xem Gioan 7:34, 8:21), và quả thực mọi sự đã xẩy ra đúng y như vậy, khi Thượng Tế Caipha sau này nhân danh Thiên Chúa để hỏi thẳng Người có phải là Đấng Thiên Sai hay không, và sau khi Người nói về mình thì bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái hầu như đồng thanh lên án tử cho Người (xem Mathêu 26:63-66).
Thật ra chính bản thân của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "một điềm lạ" đối với chung dân Do Thái và riêng thành phần trí thức trong dân cũng như thành phần lãnh đạo của dân. Ở chỗ, Người chỉ là một con người tầm thường chẳng ai biết tới, xuất thân từ một sinh quán vô danh tiểu tốt trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, mà lại tự nhiên trở thành một nhân vật phi thường, có thẩm quyền về giảng dạy trước mặt dân chúng, cùng với quyền lực chữa lành cùng trừ quỉ cho dân, nhờ đó đã lôi kéo được cả dân của mình mà còn cả dân ngoại ở các vùng phụ cận nữa. Nhưng có lẽ Người là "một điềm lạ" nhất của họ là khi Người cứu được người khác mà không cứu được mình, không thể xuống khỏi thập tự giá (xem Mathêu 27:42). Đó mới là "một điềm lạ" thực sự cứu độ con người khỏi tội lỗi và sự chết mà "ai chấp nhận Người (nơi "điềm lạ" này) thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Gioan 1:12).
Đúng thế, đối với thành phần trí thức trong dân Do Thái và thành phần lãnh đạo của dân do Thái thì nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét quả là một thử thách cả thể đối với họ, chẳng những trong về nguồn gốc bí ẩn của nhân vật này, mà còn về hành vi cử chỉ "dị chúng nhân" đầy vẻ bất bình thường thậm chí quái đản của nhân vật ấy nữa. Tuy nhiên, "cái khó nó bó cái khôn" mà nếu họ chân thành tìm kiếm chân lý khách quan hơn là chủ quan, ở chỗ khiêm tốn hạ mình xuống, thì mọi sự nơi nhân vậy này và về nhân vật này sẽ trở nên hoàn toàn khác hẳn. Đó là lý do Thánh Giacôbê Tông Đồ, vị tông đồ đặc biệt của dân Do Thái, như Tông Đồ Phaolô của Dân Ngoại, trong Bài Đọc I hôm nay đã khuyên nhủ họ sống khôn ngoan như sau:
"Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì. Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".
Quả thực là như thế, thành phần trí thức trong dân Do Thái cũng như thành phần lãnh đạo của dân Do Thái sở dĩ muốn biết về nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, muốn tìm kiếm chân lý mà lại quay ra sát hại chân lý, bởi vì, đúng như Thánh Giacôbê đã nhận định trong Bài Đọc I hôm nay: "ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa".
Bởi thế, thành phần "xin Người một điềm lạ trên trời" mà không được cần phải có một tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.
3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài.
4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn.
5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ.
6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa.
THÁNH MÊTHÔĐÔ, GIÁM MỤC (KHOẢNG 815-885)
Toàn cầu: Lễ Kính – Ở Âu châu: Lễ Buộc
14/2
Ngày lễ Kính thánh Cyrillô và Mêthôđô, được kính như các Tông đồ dân Slavơ và được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố năm 1980, như thánh Quan thầy Âu châu, cùng tước hiệu với thánh Bênêđictô, trùng với ngày qua đời của thánh Cyrillô, khi đến Rôma vào ngày 14.02.869.
Trong thế kỷ IX, Hội Thánh đã trải rộng khắp miền Đông Âu châu và trong vùng vịnh Địa Trung Hải, và bây giờ lại bành trướng sang những chân trời mới. Các dân tộc Slavơ tiếp nhận Tin Mừng được hai nhà đại truyền giáo đem đến: Là thánh Cyrillô và Mêtôđô. Các ngài sinh tại Thêxalônica (Đông Bắc Hy Lạp), được Hội Thánh chính thống Byzantium (Đế quốc La Mã phương Đông) sai đi rao giảng Tin Mừng Moravia (Vùng đất phía Đông của Cộng hòa Séc ngày nay) và đã gặt hái được những thành công.
Trước khi đi truyền giáo vùng Moravia, Méthôđô là Tổng trấn một tỉnh người Slavơ và Cyrillô, nhỏ tuổi hơn, nhưng lại sáng chói hơn, đã chu toàn những sứ vụ tôn giáo và ngoại giao quan trọng. Cả hai nói lưu loát tiếng Slavơ.
Sứ vụ làm cho hai vị nổi tiếng là sứ vụ do Thượng phụ Photios sai đi từ năm 862-963 với mục đích dạy dỗ và Phúc Âm hóa dân Slavơ ở Moravia trong ngôn ngữ của họ. Vì thế Cyrillô và Mêthôđô bắt đầu dạy ngữ vựng đầu tiên, được gọi là “Cyrillique” và họ cũng đã dịch các văn bản tôn giáo ra tiếng Slavơ: Thánh vịnh, các Phúc Âm, các thư Tông đồ, kinh nguyện…
Để ghi chép tiếng của các dân tộc này và viết lại Kinh Thánh bằng tiếng nói của họ, hai anh em ruột đi truyền giáo này đã hoàn thành bảng mẫu tự mới. Trong ngôn ngữ Slavơ, các ngài không những đã cử hành phụng vụ, mà còn thiết lập một nền tảng cho nền văn hóa Kitô hữu mới. Những khó khăm nghiêm trọng, nhất là cuộc chiến tranh giữa những người Đức và những người Slavơ, đã gây cản trở cho việc Tông đồ của các ngài. Đàng khác Giáo hội Byzantin không nâng dỡ đủ mức cho công cuộc truyền giáo nên các ngài đã kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ từ Giáo Hội Rô-ma. Đức Thánh Cha Ađrianô II đã chấp thuận công cuộc truyền giáo và phương pháp mục vụ của các ngài. Thánh Cy-ril-lô qua đời tại Rôma năm 869; thánh Mêtôđô sau khi được tấn phong Giám mục tại Rôma, đã trở lại rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng chịu đựng biết bao mệt nhọc ghê gớm ở cả một miền truyền giáo mênh mông gồm Cộng hòa Séc, Cộng hòa Slovác, và hầu như toàn bộ vùng Nam Tư cũ như Slovenia và Croatia.
Truyền thuyết nói rằng, trong một giai đoạn cực kỳ hăng say, Ðức Mêthôđiô đã chuyển dịch toàn bộ Phúc Âm sang tiếng Slavơ chỉ trong vòng tám tháng. Ngài từ trần vào ngày thứ Ba Tuần Thánh, với các môn đệ tụ tập chung quanh. Sau khi Thánh Mêthôđiô qua đời năm 885 tại Veherad thuộc Tiệp Khắc, sự chống đối vẫn chưa dứt, và công trình của hai anh em thánh nhân ở Moravia đã đi vào chỗ tận tuyệt, các môn đệ của hai ngài phải phân tán khắp nơi. Nhưng sự trục xuất ấy đã có ảnh hưởng tốt đẹp trong việc phổ biến các công trình về phụng vụ, về tâm linh và văn hóa của hai anh em thánh nhân đến các vùng Bulgaria, Bohemia và nam Ba Lan.
Sau cái chết của người em, Méthôđô được gọi làm Giám mục ở Pannonie và Sứ thần Toà Thánh cho dân Slavơ; ngài gặp nhiều khó khăn do sự chống đối của hàng giáo sĩ Đức; nhưng điều này không ngăn cản được công trình Phúc Âm hoá và hội nhập văn hóa mà ngài đã theo đuổi cho đến chết (885).
Các môn đệ ngài đã rao giảng Tin Mừng miền Bohême, ông hoàng Bozyvojd được rửa tội theo nghi thức Slavơ, sau đó là dân Serbie và Lusace (vùng Croatia), tiếp đến là Ba Lan, Bulgarie, Roumanie và vùng Kiev.
Với công trình như thế, chúng ta mới thấy được công khó của hai thánh Cyrillô và Mêthôđô trong việc thiếp lập các cộng đoàn Kitô giáo trong nhiều vùng Đông Âu. Việc này đã tạo một bước tiến để thành lập Âu châu, không những về mặt tôn giáo, nhưng cả về mặt chính trị và văn hóa.
Mỹ thuật trình bày thánh Cyrillô với bản ngữ vựng, và thánh Mêthôđô với một quyển Phúc Âm mở ra, được ghi bằng tiếng Slavơ.
Thánh Cyrillô ngã bệnh và biết trước giây phút cuối cùng của mình, vẫn nhận ra ơn gọi cao cả: “Xưa tôi chưa hiện hữu, bây giờ tôi đã hiện hữu và tôi sẽ hiện hữu mãi mãi.” Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, xin gìn giữ đàn chiên trung thành này… Xin triển khai Giáo hội với số lượng cao và qui tụ mọi thành phần vào trong sự hiệp nhất. Xin thu tóm tất cả thành một dân được tuyển chọn, kết hiệp mọi người trong đức tin và giáo lý chính thống…” (Phụng vụ giờ Kinh).
Được giao nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô, Cyrillô và Mêthôđô đã giảng dạy “Đức tin chân thật và giáo lý chính thống”, nhưng hai ngài còn hoàn tất công tác Phúc Âm hóa khi hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào trong văn hóa các dân Slavơ. Nhờ thế, khi công trình của hai vị được hoàn tất, đã cho phép ngôn ngữ Slavơ xứng đáng trở thành văn tự phổ biến. Nhờ việc đề cao ngôn ngữ và văn hóa, các dân tộc Slavơ đã có thể chống cự lại thứ chính trị thống trị và đồng hóa của người Đức và người Hy Lạp.
Công trình của Cyrillô và Mêthôđô vô cùng to lớn, đánh dấu bằng sự can đảm trí thức và sự khiêm tốn, vì trong thời gian mà người ta chỉ được cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa bằng tiếng Do Thái, Hy Lạp hay Latinh, hai vị thánh Tông đồ của dân Slavơ đã đáp trả bằng tiếng Slavơ, và qua đó cho thấy mọi người có thể đến gần với Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của mình.
Bên cạnh các tác phẩm tôn giáo, cả hai đã dịch và suy diễn “Bộ luật Justinien”, được xem như bộ luật cổ nhất của Slavơ (Zakon Sudnyj). Người ta cũng cho rằng thánh Mêthôđô đã dịch quyển Nomokanon [Luật của Giáo hội], thu tập các luật Giáo hội và luật dân sự Byzantin.
Phúc Âm được chọn cho Thánh lễ này là dụ ngôn người gieo giống (Mc 4,1-20). Các khó khăn mà vị Tông đồ đã phải gánh chịu (Mêthôđô cũng đã phải vào tù) không ngăn cản được hạt giống rơi vào đất tốt và mang lại nhiều hoa trái.
Công trình Phúc Âm hóa vẫn chưa kết thúc. Chính vì thế Hội Thánh, trong ngày lễ kính hai vị thánh Tông đồ này, đã hát trong Thánh lễ Thánh vịnh 95: Từ ngày này sang ngày khác, hãy công bố ơn cứu độ của Người / hãy thuật lại cho muôn dân vinh quang của Người / cho muôn dân kỳ công của Người. Chúng ta có thể nhắc lại những lời cuối cùng của Cyrillô nói với anh mình là Mêthôđô: “Anh ơi, chúng ta đã chia sẻ cùng một số phận, cùng dắt một cái cày trên cùng một luống. Em biết anh vẫn thích Núi thánh của anh (sự cô tịch), nhưng đừng bỏ trách nhiệm giảng dạy để trở về với núi đó. Thật vậy, anh tìm được nơi nào để hoàn tất ơn cứu độ của anh?”
Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
http://loichua.donboscoviet.org/ngay-14-thang-2-thanh-cyrillo-va-thanh-methodio/
Thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô là hai anh em ruột, sinh tại Tê-xa-lô-ni-ca, trong một gia đình quyền quý đạo giáo.
Lớn lên, hai anh em theo học tại Công-tăn-ti-nốp. Và sau khi tốt nghiệp, các ngài đã chiếm địa vị cao trong xã hội. Nhưng các ngài đã từ bỏ hư danh trần thế, dâng mình đi tu làm linh mục, phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn.
Lúc đó, vua nước Mô-ra-vi mến mộ đạo Chúa, tin các vị thừa sai và mời vào nước giảng đạo. Hai anh em Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô biết tiếng Sla-vơ, nên được chọn đến rao giảng Tin Mừng cho nước này, Các ngài sốt sắng nhiệt thành rao giảng đạo Chúa, đem nhiều người trở lại đạo.
Để giúp họ dễ dàng học hỏi giáo lý và tham dự các Bí tích nhất là Thánh lễ, các ngài dịch Kinh Thánh và các bản văn phụng vụ ra tiếng Sla-vơ. Và vì họ chưa có chữ viết nên thánh Sy-ri-lô sáng tạo ra 38 chữ cái cho họ viết.
Nhờ đó, người theo đạo Chúa ngày càng đông, nhất là tham dự Thánh lễ đông hơn các nhà thờ hành lễ bằng tiếng Latin. Các linh mục theo La Ngữ thấy vậy thì tố cáo các ngài lạc đạo, buộc lòng các ngài phải đến Roma biện minh với Đức Giáo Hoàng.
Đức Giáo Hoàng chấp nhận bản dịch của các ngài. Nhưng trong lúc ở đó, thánh Sy-ri-lô lâm bệnh và qua đời, ngày 14 tháng 2 năm 869. Trước khi chết, ngài sốt sắng cầu xin Chúa gìn giữ đoàn chiên ngài đã dày công sáng lập, và cho Hội thánh đồng tâm nhất trí và lan rộng khắp nơi. Ngài cầu nguyện: – Lạy Chúa là Thiên Chúa con, Chúa đã dựng nên các phẩm thiên thần và các đạo binh thần trí vô hình; Chúa đã mở rộng bầu trời và đã đặt đất trên nền tảng vững vàng. Chúa đã kéo mọi vật từ vô hữu sang hiện hữu. Chúa luôn luôn nghe lời những người làm theo ý Chúa. Xin Chúa nhậm lời con nguyện và gìn giữ đoàn chiên trung thành này mà Chúa đã đặt con đây là kẻ bất xứng lên đứng đầu. Xin Chúa cứu họ khỏi lòng độc dữ và ngoại đạo của những kẻ hằng lộng ngôn tới Chúa; Xin Chúa làm cho Hội thánh thêm đông số và đoàn tụ tất cả nên một. Xin Chúa làm cho Hội thánh trở thành dân được chọn, đồng tâm nhất trí trong đức tin chân thật và giáo lý chân chính; xin Chúa đặt lời giáo huấn của Chúa vào lòng họ; vì chính nhờ ơn Chúa, chúng con đã được lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô, nhờ được khuyến khích làm các việc lành và mọi sự đẹp lòng Chúa.. Chúa dùng sức mạnh tay hữu Chúa mà hướng dẫn họ và cho họ nấp bóng Chúa, để mọi người ca ngợi Chúa và chúc tụng thánh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
Đức Giáo Hoàng truyền cho mọi người Hy Lạp có mặt ở Rôma phải họp với dân thành Rôma cầm nến đi đưa đám ngài như có thói quen làm cho chính các vị Giáo Hoàng. Và mọi người đã làm như thế.
Còn lại thánh Mê-tô-đi-ô, ngài được Đức Giáo Hoàng phong chức Giám mục cai quản miền Mô-ra-vi và Pan-nô-ni.
Khi trở lại Mô-ra-vi, thánh nhân đã bị những người dâng lễ theo tiếng Latin bắt giam.. Và ngài đã qua đời tại đây ngày 6 tháng 4 năm 885.
* Quyết tâm: Noi gương thánh Sy-ri-lô và Mê-tô-đi-ô, hằng ngày lo giúp người dốt nát biết chữ, biết Chúa, và cầu nguyện cho Hội thánh là đoàn chiên Chúa ngày càng thêm đông số và hiệp nhất.
* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dùng hai anh em thánh Sy-ri-lô và thánh Mê-tô-đi-ô để đưa các dân tộc Xi-la-vô-ni-a tới ánh sáng Tin Mừng. Xin mở lòng chúng con đón nhận Lời Chúa dạy, và biến đổi chúng con thành dân riêng của Chúa, luôn đồng tâm nhất trí với nhau để sống đức tin chân thật và thẳng thắn tuyên xưng.
GPVL
http://giaoxutanviet.com/ngay-14-thang-2-thanh-sy-ri-lo-dan-si-thanh-me-to-di-o-giam-muc/
Có thể bạn đã từng nghe câu chuyện này, nhưng chắc rằng không phải tất cả mọi người đều biết hết về câu chuyện của thánh Valentine, nếu các bạn muốn nghe câu chuyện này thì hãy để trí tưởng tượng của bạn bay bổng theo câu chuyện do chính thánh Valentine kể cho các bạn về điều gì đã xảy ra với ngài và tại sao trên khắp thế giới người ta lại kỷ niệm ngày lễ của Tình Yêu.
Tôi xin được tự giới thiệu về mình. Tên của tôi là Valentine, là Giám mục sống ở Rome vào thế kỷ thứ 3. Vào thời đó, Rome nằm dưới sự cai trị của Hoàng đế Claudius. Tôi không thích Hoàng đế Claudius và mọi người dân thành Rome cũng không thích ông hoàng Claudius.
Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh. Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào đội quân. Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình. Và như các bạn có thể đoán, rất nhiều người đã không nhập ngũ. Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ. Ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.
Thế là, ông Hoàng Claudius quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn. Những thanh niên trai tráng rất tức giận với cái luật mới này của ông ta. Tôi cũng không ủng hộ luật này. Bởi vì, các bạn có biết không, tôi là một linh mục và công việc yêu thích nhất của tôi là se duyên cho các cặp tình nhân đấy. Vậy là, sau khi Hoàng đế Claudius ban hành điều luật của ông ta thì tôi vẫn tiếp tục đứng ra tổ chức các đám cưới và tất nhiên là một cách bí mật. Mà điều này lại dường như là rất thú vị. Các bạn hãy tưởng tượng xem trong một không gian nhỏ với một cây nến chỉ có cô dâu, chú rể và tôi. Tôi thì thầm đọc những lời nguyện cho đám cưới trong những tiếng bước chân rình rập của những tên lính.
Và một đêm khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân tôi nghe thấy tiếng bước chân. Thật là kinh hoàng. Nhờ ơn Chúa, đôi tình nhân đã kịp trốn thoát, nhưng tôi đã bị bắt (có lẽ tại bước chân của tôi đã không còn nhanh nhẹn như trước đây). Tôi bị đưa ra toà và bị kết án tử hình. Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình tôi cố gắng sống một cách vui vẻ. Các bạn có biết điều gì xảy ra với tôi không? Mọi việc thật là tuyệt vời. Rất nhiều thanh niên đã đến nhà tù để thăm tôi. Họ ném hoa và những lá thư qua cửa sổ cho tôi. Họ muốn tôi biết rằng họ sẽ luôn luôn tin vào tình yêu. Một cô gái em của người cai tù được anh trai cho phép cô vào nhà tù thăm tôi. Chúng tôi đã ngồi và nói chuyện với nhau hàng giờ liền. Cô gái đã giúp tôi luôn giữ vững tinh thần. Vào ngày tôi phải lên đoạn đầu đài, tôi đã chuyển một lá thư cảm ơn đến cô gái vì tình bạn và lòng trung thành mà cô gái đã dành cho tôi, và tôi ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con.” Tôi tin rằng lời nhắn ấy đã dẫn đến phong tục trao đổi những bức thông điệp tình yêu vào ngày Valentine.
Bức thông điệp của tôi được viết vào ngày 14 tháng 2 năm 269 sau Công nguyên. Giờ đây, hàng năm vào ngày này mọi người lại tưởng nhớ tôi, nhưng tôi cho rằng điều quan trọng nhất là mọi người luôn nghĩ về tình yêu và tình bạn vào ngày này. Và mọi người nghĩ đến Hoàng đế Claudius, người đã cố sức ngăn cản tình yêu nhưng tình yêu đã luôn luôn chiến thắng. Khoảng hai thế kỷ sau đó, vào năm 496 sau Công nguyên, Giáo Hoàng Gelaius đã quyết định lấy ngày 14-2 là ngày lễ cho các cặp tình nhân gặp gỡ và tìm bạn trăm năm và ông đã chọn một Thánh để đại diện cho những người yêu nhau. Giám mục Valentine đã được chọn là Thánh quan thầy của Lễ hội này. Bây giờ bạn đã biết được câu chuyện về ngày Thánh Valentine. Và nếu bạn không biết làm gì vào ngày này, thì có lẽ bạn có thể kể câu chuyện về Thánh Valentine cho bạn bè của bạn, gia đình hoặc một người nào đó bạn muốn gây ấn tượng.
Hải Âu
http://suyniemhangngay.net/2020/02/21/cau-chuyen-cua-thanh-valentine/
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&id=2955
Ngày Valentine 14/2 là ngày lễ đặc biệt dành cho các đôi tình nhân trên toàn thế giới. Đây là dịp đôi lứa dành cho nhau các món quà lãng mạn như hoa hồng, chocolate, trao cho nhau những nụ hôn "tình củm". Cùng chúng tớ tìm hiểu về vị thánh trong truyền thuyết và ngày lễ đặc biệt này nhé!
Có lẽ châu Âu là nơi có nhiều dị bản nhất xung quanh vị thánh này. Trong
đó, truyền thuyết phổ biến nhất kể về Thánh Valentine là một người xuất
thân từ trần gian thời La Mã cổ đại. Dưới thời kì trị vì của hoàng đế
Claudius đệ nhị, đế chế La Mã tham gia vào rất nhiều cuộc chiến tranh
xâm lược đẫm máu. Nhà vua rất khó khăn trong việc tuyển mộ quân lính.
Claudius bạo chúa nghĩ rằng đó là do đàn ông còn bận tâm về gia đình vợ
con nên mất hết ý chí; thay vào đó, những người đàn ông trẻ độc thân thì
chiến đấu sẽ tốt hơn. Kết quả là một đạo luật hà khắc ra đời: ông đã cấm
tất cả đàn ông được kết hôn. Đạo luật đi trái với ý Chúa và dân tình nên
gây ra nhiều phẫn nộ.
Trước tình cảnh đó, một vị linh mục nhân ái tên Valentine đã bí mật tổ
chức hôn lễ cho nhiều cặp tình nhân trong nhà thờ. Sự việc bại lộ, vị
linh mục tốt bụng bị bắt giam trong ngục trước khi bị xử tử bởi hình
phạt dã man là chém đầu, kéo lê xác khắp thành. Điều kì diệu là thời
gian sống trong ngục tối, linh mục đã giúp chữa khỏi mắt cho con gái
quản ngục vốn mù lòa bẩm sinh tên Julia. Trước khi ra pháp trường ngày
14/2 khoảng năm 270 TCN, ông đã gửi cho Julia một tấm thiệp kí tên “dal
vostro Valentino” - “from your Valentine”. Cảm động trước lòng tốt của
vị linh mục tốt bụng này, ngày lễ Valentine ra đời với ý nghĩa tưởng nhớ
những công lao của ông trong việc bảo trợ tình yêu con người.
Một dị bản khác về xuất xứ của ngày Valentine đó là từ các lễ hội Công
giáo. Cụ thể ở đây là xuất phát từ lễ hội Lupercalia chỉ có tại Rome cổ
đại được tổ chức vào khoảng ngày 13-15/2 hàng năm nhằm tưởng nhớ nữ thần
La Mã Juno. Trong ngày này, các cặp đôi sẽ được se duyên thông qua hình
thức rút thăm tựa như một hệ thống quay số tình yêu. Những cặp đôi được
se duyên sẽ làm quen và nếu thực sự có tình cảm với nhau sẽ trở thành
tình nhân. Sau đó, ngày này được các mục sư chuyển thành ngày tình nhân
Valentine 14/2.
Một điều thú vị không kém khi tìm hiểu về lễ tình nhân ở các nước châu
Âu đó là quan niệm của họ về tình yêu. Với người phương Tây, họ cho rằng
vào giữa tháng 2, chim chóc bắt đầu bước vào mùa tìm bạn tình nên khoảng
thời gian này là đẹp nhất trong năm cho các đôi lứa tìm hiểu và yêu
nhau, dành cho nhau những gì tốt đẹp nhất. Ý niệm về một ngày lễ tình
yêu giữa tháng 2 có lẽ xuất phát từ đây.
Ở các nước châu Mĩ, ngày lễ tình nhân còn có những cái tên khác. Ở
Brazil, Valentine không diễn ra vào 14/2 như các nước khác. Nó diễn ra
vào ngày 12/6 hàng năm và mang tên “Dia dos namorados” có nghĩa là "Ngày
của tình yêu". Còn ở Colombia, Valentine được tổ chức vào ngày thứ 7
tuần thứ ba của tháng 9 với cái tên “Dia del amor y amistad” (Ngày tình
yêu và tình bạn).
Người ta nghĩ rằng Thánh Valentine đã từng là linh mục ở Rôma cũng như là một y sĩ. Vì không chịu từ вỏ đức tin, ngài được тử đạo vào ngày 14 tháng Hai. Chúng ta không biết gì nhiều về ngài, nhưng ngay vào khoảng năm 350, một nhà thờ đã được xây cất nơi ngài тử đạo.
Truyền thuyết nói rằng ngài là một linh mục thánh thiện đã cùng với Thánh Marius giúp đỡ các vị тử đạo trong thời Claudius II. Ngài bị вắт và bị gửi cho tổng trấn Rôma xét χử. Sau khi dụ ∂ỗ mọi cách nhưng đều vô hiệu, quan tổng trấn đã ra ℓệин cho lính dùng gậy đáин đập ngài, sau đó đưa đi ᑕᕼéᗰ đầu vào ngày 14 tháng Hai, khoảng năm 269. Người ta nói rằng Ðức Giáo Hoàng Julius I đã cho xây một nhà thờ gần Ponte Mole để kính nhớ ngài.
Nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc việc cử hành ngày Valentine. Một số cho rằng người Rôma có một tập tục vào giữa tháng Hai, trong ngày ấy các con trai tô điểm tên các cô con gái để tỏ lòng tôn kính nữ thần ᗪâᗰ ᗪụᑕ là Februata Juno.
Các tu sĩ thời ấy muốn ᗪẹᑭ ᗷỏ tập tục này nên đã thay thế bằng tên các thánh tỉ như Thánh Valentine. Một số khác cho rằng thói quen gửi thiệp Valentine vào ngày 14 tháng Hai là vì người tin tin rằng các con chim bắt đầu sống thành cặp vào ngày này, là ngày Thánh Valentine bị ᑕᕼéᗰ đầᑌ.
Dường như chắc chắn hơn cả là vào năm 1477, người Anh thường liên kết các đôi uyên ương với ngày lễ Thánh Valentine, vì vào ngày này, 14 tháng Hai, “mọi chim đực đi tìm chim mái .” Tục lệ này trở thành thói quen cho các đôi trai gái viết thư tình cho nhau vào ngày Valentine. Và ngày nay, các cánh thiệp, quà cáp và thư тử trao cho nhau là một phần của việc cử hành Ngày Valentine.
https://conggiaovn.com/thanh-valentine-va-lich-su-ngay-tinh-yeu-14-2-21/
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 12-18
"Chính Thiên Chúa không hề cám dỗ".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Phúc cho kẻ chịu thử thách, vì khi đã được tinh luyện, sẽ lãnh nhận triều thiên sự sống mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Người. Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết.
Anh em thân mến, anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 93, 12-13a. 14-15. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo (c. 12a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ. - Ðáp.
2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo. - Ðáp.
3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 14-21
"Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái và men Hêrôđê".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền. Và Chúa Giêsu dặn bảo các ông rằng: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Các môn đệ nghĩ ngợi và nói với nhau rằng: "Tại mình không có bánh". Chúa Giêsu biết ý liền bảo rằng: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: "Mười hai thúng". - "Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?" Họ thưa: "Bảy thúng". Bấy giờ Người bảo các ông: "Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?"
Ðó là lời Chúa.
Suy nghiệm Lời Chúa
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần VI Thường Niên Hậu Giáng Sinh hôm nay liên quan chính yếu đến lời cảnh báo của Chúa Giêsu với thành phần tông đồ là các môn đệ nồng cốt của Người: "Các con hãy coi chừng và giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê". Thế nhưng, tiếc thay, thành phần môn đệ của Người hầu như toàn là thành phần quê mùa chất phác, hay có trí thức một chút như chàng Mathêu hay Batôlômêo cũng đầy lòng chân thành nên cũng chẳng nghĩ gì sâu xa. Bởi đó, sau khi nghe Thày mình nói như vậy, các vị bảo nhau rằng: "Tại mình không có bánh", bởi các vị lại cứ tưởng Người bảo các vị đừng ăn bánh của nhóm biết phái và Hêrôđê, vì men liên quan đến bánh, mà hãy ăn số bánh mang theo thôi, trong khi đó "các môn đệ quên mang bánh và chỉ còn một chiếc bánh trong thuyền".
Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ tông đồ của Người biết ý nghĩa những gì Người nói về "men biệt phái và men Hêrôđê". Tuy nhiên, Người hoàn toàn nói về bánh mà thôi, liên quan đến hai lần Người làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Sao các con lại nghĩ tại các con không có bánh? Các con chưa hiểu, chưa biết ư? Sao các con tối dạ như thế, có mắt mà không xem, có tai mà không nghe? Khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư, các con không nhớ sao?" Các ông thưa: 'Mười hai thúng'. - 'Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, các con đã thu được bao nhiêu thúng đầy miếng bánh dư?' Họ thưa: 'Bảy thúng'. Bấy giờ Người bảo các ông: 'Vậy mà các con vẫn chưa hiểu sao?'"
Không thấy Thánh ký Marco cho biết thêm là các tông đồ có hiểu sau lời giải thích của Chúa Giêsu hay chăng. Nhưng, căn cứ vào lời giải thích này thì Người mới chỉ hé lộ phân nửa ý nghĩa về "men biệt phái và men Hêrôđê", men liên quan đến bánh. Nghĩa là, Người cố ý nhắc cho các tông đồ rằng tại sao các con lại sợ thiếu bánh chứ, khi Thày nói với các con rằng "các con hãy coi chừng và hãy giữ mình cho khỏi men biệt phái và men Hêrôđê", vì Thày có thể làm cho bánh hóa ra nhiều cơ mà, như các con đã thấy đó, dù hiện nay chúng ta chỉ có một chiếc bánh mang theo. Vậy một nửa ý nghĩa kia liên quan đến chính men là gì, Chúa Giêsu hoàn toàn không hề nói tới.
Tuy nhiên, nếu các tông đồ để ý, nhất là qua những lần đụng chạm giữa thành phần biết phái và Thày của các vị, những lần cả Thày trò bị thành phần này theo dõi và hạch hỏi cùng bắt bí, sẽ hiểu được đâu là ý nghĩa của men được Thày của các vị nói tới, và căn dặn các vị phải "canh chừng và giữ mình", đó là những chủ trương sống đạo sai lạc và đời sống giả hình ham danh của họ. Chủ trương duy luật và tự công chính hóa nhờ việc giữ luật của họ bất chấp lòng nhân hậu là một thứ men, và đời sống giả hình ham danh của họ, thích ăn trên ngồi trước, làm việc gì cũng chỉ để khoe khoang lấy tiếng.
Đúng thế, gương mù gương xấu tự bản chất có tác dụng làm dậy lên tình trạng xấu xa tệ hại trong môi trường nhân sinh và gây ô nhiễm hay lây nhiễm một cách nhanh chóng. Bởi vì, nơi con người ta, vì lây nhiễm nguyên tội, vốn xu hướng về những gì là rộng rãi thoải mái và tầm thường trần tục, dễ dàng hùa theo những gì tự nhiên dễ dãi hơn là những gì khắt khe, khổ chế, khó khăn v.v. Nhất là những gì hợp với thị hiếu hay sở trường hoặc ước muốn cùng chủ trương của từng cá nhân con người. Có thể Chúa Giêsu đã lợi dụng chính lúc các tông đồ quên bánh mà nói đến men, đến gương mù gương xấu của thành phần trí thức và có thế giá dễ gây ảnh hưởng trong dân chúng, nhất là thành phần bình dân dễ tin và dễ theo, dễ bị lôi kéo, trong khi đó các tông đồ cũng ngây thơ vô tội đến độ có thể bị cuốn theo lúc nào không biết, chẳng hạn như các vị có lần đã tỏ ra ham danh chẳng thua gì nhóm biệt phái ở chỗ tranh giành ngôi thứ với nhau.
Phải, sở dĩ con người trần gian dễ bị gương mù gương xấu lôi cuốn và noi gương bắt chước là vì chính trong con người của mình họ đã có sẵn mầm mống xấu, có cùng tần số với gương mù gương xấu, dễ dàng chiều theo gương mù gương xấu. Yếu tố trong con người rất dễ nhậy cảm với gương mù gương xấu, rất dễ bốc cháy theo ngọn lửa gương mù gương xấu, theo Thánh Gicôbê trong Bài Đọc I hôm nay, đó là "tình dục" ở nơi họ, và gương mù gương xấu chẳng khác gì như một chước "cám dỗ": "Khi bị cám dỗ, đừng ai nói rằng bị Thiên Chúa cám dỗ, vì Thiên Chúa không thể bị sự dữ cám dỗ, và chính Người cũng không hề cám dỗ ai. Nhưng mỗi người bị tình dục cám dỗ, bị nó xúi giục và dụ dỗ. Rồi khi tình dục đã thai nghén, thì sinh ra tội lỗi, và khi tội đã phạm rồi, thì sinh ra chết".
Trong Bài Đọc I hôm nay, Thánh Giacôbê như thể còn đề ra cho chúng ta một phương cách để tránh khỏi tầm ảnh hưởng của gương mù gương xấu nữa, bởi vì, nếu "gương mù gương xấu" xuất phát từ con người, từ trần gian, một trần gian không thể nào thoát khỏi gương mù, thì ân sủng và phúc lành từ trời, được chất chứa nơi "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), những gì chân thật nhất làm cho con người được tái sinh vào sự sống: "Anh em đừng lầm lẫn: mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật".
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới chất chứa một tâm tình rất hợp với phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Bài Đọc I lẫn Bài Phúc Âm:
1) Lạy Chúa, phúc thay người được Ngài dạy bảo, và giáo hoá theo luật pháp của Ngài, hầu cho họ được thảnh thơi trong những ngày gian khổ.
2) Vì Chúa sẽ không loại trừ dân tộc, và không bỏ rơi gia nghiệp của Ngài. Nhưng sự xét xử sẽ trở lại đường công chính, và mọi người lòng ngay sẽ thuận tình theo.
3) Ðang lúc con nghĩ rằng chân con xiêu té, thì, lạy Chúa, ân sủng Ngài nâng đỡ thân con. Khi lòng con vướng thêm nhiều điều lo lắng, thì ơn Chúa ủi an làm vui sướng hồn con.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 19-27
"Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chớ đừng nghe suông".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em hãy biết rằng: Mọi người hãy mau nghe, nhưng đừng vội nói và vội nóng giận, vì sự nóng giận của người ta không thực hiện sự công chính của Thiên Chúa. Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác; anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, là lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.
Vì chưng, ai nghe lời mà không thực hành, thì giống như người soi mặt mình trong gương: soi rồi, ra đi, và không nhớ mình thế nào. Còn kẻ suy ngắm luật tự do hoàn hảo, và bền đỗ trong lề luật, thì không phải là kẻ nghe rồi quên, mà là nghe rồi thực hành; kẻ đó sẽ có phúc vì đã thực hành.
Nếu ai tưởng mình đạo đức mà lại không kìm hãm miệng lưỡi mình, nhưng lừa dối lòng mình, thì lòng đạo đức của nó vô giá trị. Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5
Ðáp: Lạy Chúa, ai được cư ngụ trên núi thánh của Chúa? (c. 1b)
Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.
3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 22-26
"Người mù khỏi hẳn và thấy được mọi vật rõ ràng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đến Bếtsaiđa, người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy. Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: "Ngươi có thấy gì không?" Anh nhìn lên và trả lời: "Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi". Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: "Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
"Tôi thấy người ta đi lại như cây cối" - "một cành ô liu xanh tươi"
Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Tư tuần VI Thường Niên hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chữa lành cho một người mù ở Betsaida. Thế nhưng, cách thức chữa lành của Người trong trường hợp này thật là đặc biệt, bao gồm những cử chỉ và tiến trình của một việc chữa trị (treatment) hơn là chữa lành (healing) đùng một cái là xong, chẳng hạn bằng một lời truyền.
Dân chúng thì vẫn cứ tưởng như thế, cứ tưởng Chúa Giêsu đầy quyền năng chỉ cần một cử chỉ đơn giản nào đó là nạn nhân liền được khỏi, như họ đã từng chứng kiến ở những trường hợp khác, thậm chí chỉ cần sờ vào gấu áo của Người cũng được khỏi như trường hợp của người đàn bà bị loạn huyết 12 năm trong Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần IV Thường Niên 2 tuần trước.
Đó là lý do Thánh ký Marco đã cho chúng ta thấy chi tiết về khuynh hướng "mì ăn liền" này nơi dân chúng: "Người ta dẫn tới Chúa một người mù và xin Chúa đặt tay trên người ấy", không phải để chúc lành suông cho nạn nhân bị mù này, mà là để chữa lành cho con người mù lòa bất hạnh đáng thương ấy. Tuy nhiên, chắc họ cũng lấy làm lạ là lần này Đấng mà họ tin tưởng đầy quyền năng chữa lành ấy lại tác hành một cách lạ lùng. Ở chỗ:
"Chúa cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng, Chúa phun nước miếng vào mắt anh và đặt tay trên anh mà hỏi: 'Ngươi có thấy gì không?' Anh nhìn lên và trả lời: 'Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi'. Chúa lại đặt tay trên mắt người mù, anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng. Chúa Giêsu cho người ấy về nhà và căn dặn: 'Ngươi hãy về nhà, và nếu có vào làng thì đừng nói với ai'".
Trong trường hợp chữa lành cho nạn nhân mù ở Betsaida này, Chúa Giêsu không dùng cả cử chỉ lẫn lời nói "Ephrata - Hãy mở ra" như trong lần Người chữa lành người điếc là nạn nhân Người cũng dẫn ra khỏi đám đông và cũng lấy tay chạm đến cả tai lẫn lưỡi của nạn nhân điếc, như bài Phúc Âm Thứ Sáu Tuần V Thường Niên thuật lại. Lần này Chúa Giêsu chỉ dùng đến cử chỉ chính yếu là "đặt tay" mà thôi, mà lại phải đặt đến 2 lần mới xong. Tại sao thế?
Tại vì tùy theo người và tùy theo bệnh mà chữa lành. Thật ra không phải là Chúa Giêsu không thể chữa lành cho nạn nhân mù này bằng việc Người đặt tay lần thứ nhất hay chỉ cần một lần đặt tay duy nhất. Người chỉ muốn cho thấy rằng việc chữa lành của Người nơi con người và đối với con người là một tiến trình, từ chưa trọn: "'Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi'", đến viên trọn: "anh liền thấy rõ và khỏi hẳn, thấy được mọi vật rõ ràng."
Tiến trình chữa lành nơi nạn nhân bị mù ở Betsaida trong bài Phúc Âm hôm nay được Chúa Giêsu cố ý làm như thế nên mới hỏi chính nạn nhân đương sự: "Ngươi có thấy gì không?", xem nhãn quan của anh ta được tiến triển từ mù lòa đến chỗ được thấy ra sao cho đến khi hoàn toàn bình thường. Không phải là Người không biết đến mức độ nhãn quan của anh ta sau lần đặt tay đầu tiên của Người, vì Người biết được những gì xuất phát từ Người (xem Marco 5:30) nhưng Người cố ý để anh ta tự cho biết và nhận định về tình trạng của anh ta rồi Người mới chữa tiếp, để anh ta có thể nhìn thấy được tất cả sự thật chẳng những về ngoại cảnh nói chung mà nhất là sự thật về tha nhân nói riêng.
Thật vậy, đầu tiên nạn nhân bị mù ở Betsaida chỉ "thấy người ta đi lại như cây cối" sau đó mới thấy con người ta thật sự là con người với nguyên vẹn hình hài của họ chứ không phải "như cây cối" nữa, nhờ đó anh ta cũng "thấy được mọi vật rõ ràng" đúng như bản chất và giá trị của chúng, chứ không còn lẫn lộn giữa người với vật hay giữa vật với người nữa, như thực tế làm người và sống đạo vẫn cho thấy, nhiều khi thậm chí chúng ta còn coi vật hơn người, còn coi tha nhân đồng loại như một cơ phận của một bộ máy kinh tế sản xuất v.v.
Tuy nhiên, để được hoàn toàn sáng mắt nhờ đó có thể thấy được tất cả sự thật về tạo vật chung quanh mình và nhất là về chính bản thân mình, con người cần được chữa lành, bởi chính Thần Linh của Thiên Chúa qua việc đặt tay của Chúa Giêsu. Đúng thế, sở dĩ nạn nhân bị mù trong bài Phúc Âm hôm nay chưa được hoàn toàn chữa lành là vì Chúa Giêsu chưa đặt tay của Người lên mắt của anh ta, lần đầu Người mới "đặt tay trên anh" để "hỏi" mà thôi chứ chưa trực tiếp "đặt tay trên mắt người mù".
Lần đặt tay trên mình nạn nhân mà hỏi theo sau cử chỉ "phun nước miếng vào mắt anh" và tác dụng của việc phun của Người và nước miếng của Người mới chỉ làm cho anh ta "thấy người ta đi lại như cây cối" mà thôi, và vì thế cần phải kèm theo cả cử chỉ "đặt tay lên mắt người mù" nữa thì nạn nhân mới hoàn toàn được chữa lành, được thấy tất cả sự thật, như các vị tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, cho dù "các con đã được thanh sạch nhờ lời Thày (mà "nước miếng" phun ra từ miệng của Người trong bài Phúc Âm hôm nay là tiêu biểu)" (Gioan 15:3), nhưng vẫn chưa đủ, vẫn cần phải có "Thần Chân Lý" là Đấng (được thông ban từ việc "đặt tay" của Chúa Kitô "đầy ân sủng và chân lý" - Gioan 1:14) "dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13).
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Giacôbê tông đồ cũng khuyên chúng ta cố gắng tránh trở nên mù lòa về đời sống luân lý và tu đức ở những trường hợp cụ thể sau đây: Trước hết đó là: "hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình"; sau nữa đó là "nghe lời mà không thực hành, thì giống như người soi mặt mình trong gương: soi rồi, ra đi, và không nhớ mình thế nào", và sau hết đó là: "tưởng mình đạo đức mà lại không kìm hãm miệng lưỡi mình, nhưng lừa dối lòng mình, thì lòng đạo đức của nó vô giá trị."
Như Chúa Giêsu đã chữa lành cho người mù trong bài Phúc Âm thế nào, thì trong Bài Đọc 1, Thánh Giacôbê cũng cống hiến những phương dược chữa lành những thứ mù lòa về luân lý và tu đức ấy như sau: Đối với trường hợp thứ mù lòa "nghe suông mà lừa dối chính mình" thì "hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, là lời có sức cứu độ linh hồn anh em"; đối với trường hợp "nghe lời mà không thực hành" thì "nghe rồi thực hành"; và đối với trường hợp "tưởng mình đạo đức mà lại không kìm hãm miệng lưỡi mình" thì "thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách".
Đúng thế, nếu trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu đã chữa lành cho người mù, bằng cả miệng lưỡi lẫn bàn tay của Người, ám chỉ bằng cả Lời của Người lẫn Thần Linh của Người, để nhờ đó nạn nhân có thể thật sự thấy được thực tại về tha nhân thế nào, thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Kitô hữu chúng ta muốn khỏi bị mù lòa về luân lý và tu đức cũng cần phải lãnh nhận - "hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em" và thực hành "lời đã gieo trong lòng anh em" - "nghe rồi thực hành", để nhờ đó, như "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6), chúng ta mới có thể sống bác ái yêu thương - "thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách". Như thế chúng ta mới có thể được như câu xướng thứ nhất của Bài Đáp Ca hôm nay: "Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống"
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 2, 1-9
"Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo đó sao? Thế mà anh em khinh chê người nghèo khó".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, Anh em là những người tin vào Ðức Giêsu Kitô vinh hiển, Chúa chúng ta, anh em đừng thiên vị. Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn; nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: "Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này". Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: "Còn anh, anh đứng đó", hoặc: "Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi". Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?
Anh em thân mến, xin hãy nghe: Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được thừa hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao? Thế mà anh em khinh chê người nghèo khó. Không phải những người giàu có dùng quyền hành áp bức anh em, và lôi anh em ra toà án đó sao? Không phải chính họ thoá mạ thánh danh tốt đẹp đã được kêu cầu trên anh em sao?
Ðã hẳn, nếu anh em giữ trọn vương đạo như Thánh Kinh dạy, là "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình", thì anh em làm phải. Nhưng nếu anh em thiên vị, là anh em phạm tội, bị lề luật lên án như những kẻ lỗi luật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 27-33
"Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Ðấng Kitô". Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả. Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
"Thày là Đức Kitô" - "dấu chỉ giao ước ký kết giữa Ta với các ngươi"
Vấn đề chính yếu của Bài Phúc Âm cho ngày Thứ Năm tuần VI Thường Niên hôm nay là vấn đề nhận biết căn tính của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, một nhận thức vô cùng quan trọng đối với nền tảng đức tin Kitô giáo. Vì nếu nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét không phải "là Đức Kitô", tức không phải là Đấng Thiên Sai của dân Do Thái thì Người cũng không phải là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại, mà chỉ là một vị giáo tổ thuần nhân như Đức Phật Thích Ca sáng lập Phật giáo, hay Nhà Tiên Tri Muhammed sáng lập Hồi giáo, hoặc như Khổng Tử với Khổng giáo, hay Lão Tử với Lão giáo thôi.
Chính nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đã sống cả cuộc đời trần gian của mình để chứng thực mình, bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng chính biến cố Vượt Qua tột đỉnh của mình, "là Đức Kitô" (Marco 8:29), "Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "đã đến trong thế gian" (Gioan 11:27). Đó là "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) về một con người mang tên Giêsu ở Nazarét, con ông Giuse và bà Maria, một chân lý vô cùng quan trọng liên quan đến thực tại thần linh về nhân vật lịch sử thần linh này: Ngài là ai? Đó là lý do: "Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: 'Người ta bảo Thầy là ai?'"
Đây là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất Chúa Giêsu tự động hỏi, đúng hơn trắc nghiệm thành phần môn đệ được Người tuyển chọn làm tông đổ để trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người xem các vị ý thức về Người ra sao hay tới đâu. Thật vậy, sau một thời gian được sống gần gũi với Người, được tận mắt xem thấy Người cùng các việc Người làm cùng thái độ Người sống, tận tai nghe Người giảng dạy và tận tay được chạm đến Người (xem 1Gioan 1:1-2), chính các tông đồ (chứ không phải "người ta bảo Thày là ai?") đã được Người trắc nghiệm và được các vị trả lời qua vị đại diện tông đồ đoàn là Thánh Phêrô rằng: "Thày là Đức Kitô".
Hình như câu tuyên xưng này của tông đồ Phêrô rất chính xác rồi, nên "Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả", như các tông đồ đã quả thực nhận thức không sai. Đúng thế, việc Chúa Giêsu trắc nghiệm các tông đồ về căn tính chân thực vô cùng quan trọng của Người không phải là để các vị loan báo thực tại thần linh này, loan truyền chân lý cứu độ về Người này, mà là để cho Người tiếp tục tỏ mình ra cho các vị hơn nữa, tỏ cho các vị thấy một mầu nhiệm về Người, một mầu nhiệm vô cùng kinh hoàng mà Người không thể tiết lộ cho các vị biết cho đến sau khi trắc nghiệm các vị, một mầu nhiệm liên quan đến chính căn tính "là Đức Kitô" của Người, những gì vừa được các vị xác tín và chí lý tuyên xưng.
Mầu nhiệm kinh hoàng khủng khiếp đối với thành phần tông đồ theo Người đó là: "Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó". Chính vì là một mầu nhiệm hết sức kinh hoàng khủng khiếp đối với các tông đồ như thế mà các vị chẳng hiểu gì hết, bị tá hỏa tam tinh lên khi vừa nghe xong, đặc biệt người tông đồ hăng máu nhất là Phêrô, vị đã tỏ ra hoảng hốt tới độ "kéo Người lui ra mà can trách Người".
Không ngờ, vị tông đồ đầy thành tâm thiện chí này và cả các tông đồ khác lại càng bàng hoảng sửng sốt hơn khi chính hành động đầy kính mến của các ngài, qua tông đồ Phêrô, tỏ ra muốn bảo vệ Người, muốn điều tốt nhất cho Người, lại bị Người thậm tệ quở trách như chưa bao giờ thấy: "Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: 'Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người'". Như thể các vị vừa vấp phạm một điều gì dữ dằn quá sức tưởng tượng, đến độ đã trở thành "Satan" trước nhan Người. Nghĩa là các vị đã cám dỗ Người (vì "Satan là tên cám dỗ cả và thế gian" - Khải Huyền 12:9) làm những gì trái ngược với Cha Người là Đấng đã sai Người, một điều quá cấm kỵ đối với Người, Đấng từ trời xuống thế gian không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (xem Gioan 6:38).
Thật ra, xét theo lý lẽ trần gian thì tông đồ Phêrô cũng chẳng sai gì, bởi theo ngài, cũng như bất cứ một người bình thường nào, đã là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai từ Thiên Chúa mà đến thì phải là Đấng có quyền năng vô địch, có thể giải thoát dân của Người khỏi lầm than khốn khó, khỏi cảnh làm nô lệ ngoại bang, như thời các Quan Án xưa sau khi dân vào Đất Hứa và trước thời kỳ quân chủ của dân Do Thái. Đằng này, Đấng Thiên Sai như được ngài tuyên xưng và được Thày công nhận như thế mà lại được chính Thày tiết lộ cho biết rằng chính bản thân Người "sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi" nghĩa là gì, không thể nào chấp nhận được.
Đúng thế, tông đồ Phêrô bị Thày nặng lời khiển trách chỉ "vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người", mà "việc loài người" thì bao giờ cũng tầm thường, thậm chí hầu như lúc nào cũng phản ngược lại với ý muốn tuyệt đối tối cao, khôn ngoan thượng trí và toàn thiện toàn ái của Thiên Chúa, một ý muốn chỉ nhắm đến chỗ cứu độ loài người, tìm hết cách làm sao để loài người có thể được hiệp thông thần linh với Ngài theo đúng dự án thần linh tạo dựng của Ngài.
Nếu Kitô hữu chúng ta "chỉ biết việc loài người" thôi, "không biết việc Thiên Chúa", thì mặc nhiên chúng ta chắc chắn sẽ có khuynh hướng và sống theo ý hệ, tinh thần và đường hướng thế gian, như trường hợp bất khả tránh được thái độ "thiên vị" về giai cấp như Thánh Giacôbê đề cập đến trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Giả sử trong lúc anh em hội họp, có người đi vào, tay đeo nhẫn vàng, mình mặc áo sang trọng; lại cũng có người nghèo khó đi vào, áo xống dơ bẩn; nếu anh em chăm chú nhìn người mặc áo rực rỡ mà nói: 'Xin mời ông ngồi chỗ danh dự này'. Còn với người nghèo khó thì anh em lại nói rằng: 'Còn anh, anh đứng đó', hoặc: 'Anh hãy ngồi dưới bệ chân tôi'. Ðó không phải là anh em xét xử thiên vị ở giữa anh em và trở nên những quan xét đầy tà tâm đó sao?"
Nếu tư tưởng của Thiên Chúa bao giờ cũng hoàn toàn vượt lên trên lý lẽ tự nhiên của con người và ngược lại với khuynh hướng vị kỷ hưởng thụ của con người, thì những gì Ngài làm đề khiến con người bàng hoàng sửng sốt, thậm chí không thể nào tin được và chấp nhận được, như trường hợp của Chúa Giêsu "là Đức Kitô" kỳ dị trong bài Phúc Âm hôm nay. Bài Đọc 1 hôm nay, Thánh Giacôbê cũng cho chúng ta thấy được Vị Thiên Chúa "dị chúng nhân" của chúng ta như sau: "Không phải Thiên Chúa đã chọn người nghèo trước mắt thế gian, để nhờ đức tin, họ trở nên giàu có và được thừa hưởng nước Người đã hứa cho những kẻ yêu mến Người đó sao?", và chỉ có họ mới có thể xác tín như câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay thôi: "Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe".
Có thể nào bạn tưởng tượng được có bảy người nổi tiếng của thành phố Saigon hoặc Hoa Thịnh Ðốn cùng tụ nhau lại, từ giã gia đình sự nghiệp và sống cô độc trong một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa không? Ðiều đó đã xảy ra trong thế kỷ XIII, ở thành phố Firenza phồn thịnh và văn vật. Lúc ấy, thành phố này tan nát vì tranh chấp chính trị cũng như vì lạc giáo Cathari (trong những điều lầm lạc, họ cho rằng ma quỷ là chúa đối nghịch và Ðức Giêsu chỉ là một thiên thần). Ðời sống luân lý thời ấy thật thấp và tôn giáo dường như không có ý nghĩa gì. Năm 1240, bảy người quý phái của Firenza cùng quyết định ra khỏi thành phố đến một nơi cô quạnh để cầu nguyện và phục vụ Thiên Chúa.
Thâật vậy, bảy vị thánh này là bảy thương gia tên tuổi ở xứ Florence, thuộc dòng tộc Toscane, sống vào thế kỷ XIII. Sau khi được ơn soi sáng nhân ngày lễ Ðức Mẹ lên trời, bảy anh em đều có cùng một chí hướng tận hiến làm tôi Chúa và mở nước Ðức Mẹ, đã bán hết của cải phân phát cho người nghèo rồi lui về đồng quê ở trong một căn nhà tồi tàn để ngày đêm suy niệm sự thương khó Chúa Giêsu cùng những sự khổ đau của Mẹ Thánh Người.
- Cha Morandi sinh năm 1198 ở Florence, cao niên nhất và làm Bề Trên dòng trong 16 năm đầu và được Chúa gọi về ngày 01/01/1262.
- Cha Bonandi Untêmati chào đời năm 1206, tính hiền hòa và có nhiều tài. Ngài rất ưa thích đời sống thinh lặng suy niệm sự thương khó Chúa Giêsu và Ðức Mẹ. Người từ trần ngày 31/8/1257.
- Cha Monetto Antelara với trí thông minh hiếm có, ngài đã trau dồi văn chương và thần học. Ngày 20/8/1268, ngài được Chúa cất về trời.
- Cha Amideo sinh năm 1024, gia đình ngài bị tản mác vì chiến tranh. Tính tình luôn vui vẻ trẻ trung trong một tâm hồn quảng đại và trong trắng. Ngài mất ngày 18/4/1266.
- Cha Sottinêo và cha Ugucxio là hai người bạn thân thiết từ hồi thơ ấu. Sottinêo thích đời sống tĩnh mịch và suy niệm. Ugucxio yêu thích hoạt động bác ái giúp đỡ người nghèo và bệnh nhân. Cả hai là cánh tay phải của dòng và đều được Chúa cất về ngày 03/5/1282.
- Thầy Alêxu Phacônêri sinh năm 1200, trẻ tuổi nhất và sống lâu nhất trong dòng. Mặc dù được trí thông minh đặc biệt, nhưng luôn sống khiêm tốn, chân thành và trọng đức khiết tịnh. Ngài được Chúa gọi về khi đầy 110 tuổi.
Mộ các ngài được xây cất cùng một nơi và Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII đã phong các ngài lên bậc Hiển Thánh của Giáo Hội.
Dịp lễ Đức Mẹ Mông Triệu này, các ngài đã được Đức Mẹ thúc đẩy sống đời hoàn thiện. Sau khi bán hết của cải, công việc đầu tiên của họ là việc cấp dưỡng cho thân nhân (vì hai người vẫn còn lập gia đình và hai người nữa goá vợ) và phân phát cho những người nghèo hèn túng khổ và rút vào núi Senario, gần Firenza. Nơi đó “họ hoàn toàn tận hiến để phục vụ Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria cách trung thành hơn”. Bản văn kể tiếp: “Để theo gương anh em, họ đón nhận thêm vài người… Tất cả tạo thành cộng đoàn Tôi Tớ Đức Mẹ, dựa trên sự khiêm nhường, sống chung theo quyết định của anh em và tuân giữ luật khó nghèo.” Bảy người cùng sống khó nghèo, khắc khổ bằng của ăn xin hằng ngày. Các ngài chọn luật dòng thánh Âu-tinh và thành lập dòng “Tôi tớ Đức Mẹ” . Mục đích của dòng là rao giảng Chúa Giêsu chịu đóng đinh và sự thương khó của Mẹ Maria.
Một người tu dòng này kể lại công cuộc lập dòng như sau: Đó là bảy người rất đáng kính trọng mà Đức Mẹ kết hợp lại thành một nhóm bảy ngôi sao, vì họ hợp nhất nhau cả hồn xác. Ngài đã dùng họ để khởi sự dòng tôi tớ Ngài.
Khi tôi vào dòng, không ai trong số bảy người đó còn sống, trừ một người tên A-lê-xi-ô. Đức Mẹ đã muốn để anh sống đến bây giờ hầu chúng tôi có thể biết về nguồn gốc dòng tu nhờ anh kể lại. Như chính tôi đã kinh nghiệm và thấy tận mắt đời sống của anh A-lê-xi-ô bấy giờ, không những có sức khuyến khích người ta nhờ gương sáng, mà còn làm cho người ta nhận ra được đời sống trọn lành của anh, của các bạn đồng nghiệp với anh và của dòng.
Được Chúa soi sáng và được Đức Mẹ thúc đẩy cách đặc biệt, khi đã quyết định sống thành cộng đồng, các anh bỏ nhà cửa và gia quyến; để lại cho họ những gì là cần thiết, còn bao nhiêu thì phân phát cho kẻ nghèo. Rồi các anh tìm những người có ý kiến hay, có đời sống tốt, có gương sáng đẹp để bày tỏ dự tính mình cho họ.
Thế là anh em trèo lên đỉnh núi Sê-na-ri-ô, dựng một cái nhà nhỏ theo ý mình, rồi đưa nhau lên ở trên đó. Tại đây, anh em mới nhận ra rằng không những mình phải nên thánh mà cũng còn phải chiêu mộ đồng nghiệp để phát triển dòng mới mà Đức Mẹ đã dùng mình để khởi công. Thế nên, sau khi đã quyết định nhận thêm người, anh em đã rước thêm một ít người khác và làm cho dòng to lớn thêm. Tất cả mọi công việc ấy, trước là do Đức Mẹ dựng lên, sau là nhờ tinh thần khiêm nhường của anh em; thành tựu nhờ anh em đồng tâm nhất trí, và bảo tồn được nhờ đức khó nghèo.
Cộng đoàn huynh đệ này, người Florence gọi là “Những Kẻ phục vụ – Servites”, dần dần nảy sinh thành một Dòng tôn giáo, dựa theo luật thánh Augustinô, thích ứng với các sống hiện tại của họ. Dòng Tôi Tớ Đức Bà được Hội Thánh công nhận vào năm 1304 và cả bảy bị thành lập được phong thánh vào năm 1888 do Đức Giáo Hoàng Léô XIII. Dòng đã dần dần thiết lập rộng ra tại các nước Pháp và Đức.
Mặc dầu dòng gặp trăm bề khó khăn lúc ban đầu, nhưng dòng đã thực sự phát triển mạnh mẽ.
Ngày nay Dòng Tôi Tớ Đức Bà có mặt trên Mỹ châu, Nam Phi, Australia và vùng Ấn Độ. Sống thành những cộng đoàn nhỏ, các tu sĩ này đáp ứng các đòi hỏi hiện tại: Giáo xứ, dạy dỗ, tuyên úy…
Nhà dòng đã chọn bốn đặc điểm sau đây làm quy luật sống:
Đặc điểm thứ nhất là về đời sống Hội Thánh: Cả bảy anh em đều nhất quyết giữ mình độc thân hoặc đời sống khiết tịnh trọn đời, mặc dầu có người chưa lập gia đình, người thì đã thành hôn, người khác lại đã thoát khỏi vướng bận phu thê vì lẽ bạn mình đã chết.
Điểm thứ hai liên hệ đến sự phồn vinh của thị xã: Là vì trong bảy anh em, người làm thương mại, kẻ trao đổi hàng hoá, người lại làm nghề buôn. Nhưng khi đã tìm được ngọc quý tức là dòng tu, thì không những anh em phân phát tất cả tài sản cho kẻ nghèo, mà còn vui vẻ dâng mình phục vụ Thiên Chúa và Đức Mẹ cách trung thành.
Điểm thứ ba là lòng kính mến Đức Mẹ. Ở Phơ-lô-răng, bấy giờ có một hội kính Đức Mẹ, thành lập đã từ xưa. Vì lẽ sự cổ xưa ấy, cũng như vì sự đông đảo và thánh thiện của những người trong hội, hội vượt xa các hội khác và được coi là hội lớn của Đức Mẹ. Bảy anh em trước khi đến sống chung với nhau, đã ở trong hội này, họ tỏ ra yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt.
Điểm thứ tư là về đời sống thiêng liêng. Họ yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Họ quy hết mọi việc về Người, theo đúng như thứ tự đòi buộc. Họ tôn vinh Người trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Cả bảy vị thánh lập dòng đã được Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII tôn phong Hiển thánh, dịp lễ mừng 50 năm linh mục của ngài.
Cuộc sống của bảy vị lập dòng Tôi Tớ Đức Bà, ngoài những điểm khác, đặc biệt là tình yêu trìu mến với Đức Trinh Nữ Maria, và qua Mẹ, là Đức Giêsu. Theo linh đạo của dòng, tình yêu phải được sống trong tiếng thưa Vâng của Đức Maria, theo gương Mẹ đã trao ban suốt cuộc đời, đặc biệt dưới chân Thánh Giá.
Đời sống cộng đoàn được các thánh lập Dòng dựa trên sự khiêm tốn, hoà thuận, nghèo khó, luôn thực tập tình yêu đối với Thiên Chúa trên hết mọi sự, đồng thời phục vụ các Kitô hữu. Tình yêu đã nối kết họ giữa nhau và với Thiên Chúa, thúc đẩy họ đến với các thành thị loài người, thường trong thời gian huynh đệ tương tàn (thời của họ). Các tu sĩ dòng Tôi Tớ Đức Bà trở thành những người đi kiến tạo hoà bình và phục vụ kẻ khốn khổ.
Ơn gọi của bảy vị thánh lập Dòng để sống một cuộc đời anh hùng thánh thiện, đã thúc đẩy họ từ bỏ tất cả. “Và khi họ tìm được viên ngọc quí, không những họ chia sẻ tài sản cho người nghèo, mà còn tận hiến cách vui vẻ cho Thiên Chúa và cho Đức Trinh Nữ Maria để phục vụ thật trung thành”. Phúc Âm Thánh lễ gợi lên dụ ngôn người buôn ngọc quí (Mt13,44-46), trong khi bài đọc một nhắc đến đời sống cộng đoàn của bảy vị. Họ sống trên núi Senario cuộc sống cộng đoàn và cầu nguyện của Tông đồ xưa ở Giêrusalem, một lòng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Giêsu (Cv 1,12-14).
Lạy Thiên Chúa từ bi, Chúa đã ban cho bảy vị thánh lập dòng Tôi Tớ Đức Mẹ lòng yêu mến nồng nàn, khiến các ngài sùng kính Đức Mẹ và nhiệt thành củng cố đức tin của dân Chúa. Xin cũng ban cho chúng con một lòng yêu mến nồng nàn như vậy (Lời nguyện Nhập lễ, lễ bảy thánh lập dòng tôi tớ Đức Mẹ).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 2, 14-24. 26
"Cũng như xác không hồn là xác chết, thì đây đức tin không việc làm là đức tin chết".
Trích sách của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu có ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Ðức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: "Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là đức tin chết tận gốc rễ.
Nhưng có người sẽ nói: "Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm". Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi. Anh tin Thiên Chúa là Ðấng duy nhất ư? Như thế là đúng. Ma quỷ cũng tin như thế và chúng run sợ. Hỡi người khờ dại, anh có muốn biết rằng đức tin không việc làm là đức tin chết không? Abraham, tổ phụ chúng ta, đã chẳng nhờ việc làm mà được công chính hoá khi hiến dâng con mình là Isaac trên bàn thờ đó sao? Anh có thấy rằng: đức tin hợp tác với việc làm, và nhờ việc làm mà đức tin được hoàn hảo đó không? Như vậy đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh rằng: "Abraham đã tin vào Thiên Chúa và việc ấy được kể là điều công chính cho người, và người đã được gọi là bạn thiết nghĩa của Thiên Chúa".
Do đó anh em có thấy rằng: người ta nhờ việc làm mà được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi không? Quả vậy, cũng như xác không hồn là xác chết, thì đức tin không việc làm là đức tin chết.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Phúc đức thay người ham mộ luật pháp của Chúa (c. 1b).
Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.
3) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 8, 34-39
"Ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thần thánh".
Và Ngài nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Bóng thánh giá đã xuất hiện
ngay từ ban đầu trong vườn địa đường, ngay trước cả nguyên tội!
Bài Phúc Âm của Thánh ký Marco cho Thứ Sáu tuần VI Thường Niên hôm nay thuật lại lời Chúa Giêsu khẳng định với "dân chúng cùng các môn đệ" của Người về điệu kiện ắt có và đủ, bất khả thiếu và bất khả phân ly để nhờ đó họ có thể xứng đáng làm môn đệ của Người và theo Người cho tới cùng, bằng không chắc chắn họ sẽ đứt gánh giữa đường một cách nào đó và vào một lúc nào đó. Điều kiện tối căn bản và cần thiết đó là: "Ai muốn theo Tôi thì hãy từ bỏ chính bản mình đi và vác thập giá của mình mà theo Tôi".
Thật ra chính bản thân của con người chẳng những không có gì là xấu đến độ phải bỏ đi, trái lại, mà còn là một yếu tố bất khả thiếu để làm nên con người, để là một con người. Bởi vì, bản thân đó chính là cái tôi của từng cá thể con người, một bản ngã đặc thù duy nhất trên trần gian này, hoàn toàn khác với bất kỳ một ai được sinh ra trên đời này, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế. Và chính cái tôi đặc thù ấy, cái bản ngã duy nhất ấy trên trần gian được coi là căn tính của từng cá thể con người ấy mà họ mới là hình ảnh Thiên Chúa là vị Thiên Chúa duy nhất.
Nếu con người không có bản ngã, không có cái tôi thì cũng chẳng khác gì loài vật, một tập thể bao gồm cả đống hay cả đoàn sinh vật hổ lốn, nhìn con nào cũng như nhau, và con người hổ lốn như con vật như thế sẽ chẳng có trách nhiệm gì về việc mình làm, và việc họ làm sẽ chẳng có giá trị nhân bản... Vậy thì tại sao Chúa Giêsu lại bảo những ai muốn theo Người cần phải "bỏ chính bản thân mình" đi như thế?
Xin thưa, là vì bản thân của chung con người và của từng bản vị con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa duy nhất mà còn được dựng nên tương tự như Ngài nữa (xem Khởi Nguyên 1:26,27), nghĩa là bản thân của con người chẳng những là một cá thể duy nhất mà còn là một cá thể có khả năng hiệp thông nữa mới hoàn toàn trọn vẹn đạt đến tầm vóc làm người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Thiên Chúa chân thật duy nhất nhưng cũng là Vị Thiên Chúa hiệp thông thần linh 3 Ngôi.
Thế nhưng, thực tế cho thấy, ngay từ ban đầu, thậm chí ngay trước cả nguyên tội, loài người, ở một nghĩa nào đó, đã theo chiều hướng nội, nghĩa là chỉ biết đến cái duy nhất vị kỷ của mình (hướng nội cũng là hướng hạ, hướng băng hoại) hơn là mối hiệp thông yêu thương (hướng ngoại cũng là hướng thượng, hướng thăng hóa). Đó là lý do ngay từ ban đầu, vì chỉ hướng nội và hướng hạ như thế mà con người, nơi hai nguyên tổ của mình, đã thực sự bị mất đi sự sống thần linh chân thật, nơi việc bất tuân phục ý muốn toàn thiện vô cùng khôn ngoan đầy yêu thương của Thiên Chúa Hóa Công.
Phải "bỏ chính bản thân mình đi" là ở chỗ đó, ở chỗ bỏ ý riêng của mình để tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, ngay trước cả nguyên tội. Sau nguyên tội lại càng phải "bỏ chính bản thân mình đi" hơn nữa, bởi cái bản thân của con người ấy đã trở thành xấu xa và mù tối gây ra bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục và tính mê nết xấu là hậu quả của nguyên tội và là mầm mống tội lỗi, càng bất xứng với Thiên Chúa, và càng không thể nào hiệp thông thần linh như Chúa muốn và với Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và toàn ái.
Như thế, nếu "bỏ chính bản thân mình đi", ở chỗ theo Thánh ý tối cao của Thiên Chúa toàn thiện, hơn là ý riêng của mình chỉ là một tạo vật hèn hạ bất toàn, thì không phải là một việc tự diệt hơn là hoán cải, mà thành quả là được thăng hóa, là "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48), là "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), là "đi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9).
Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, ý riêng của con người hầu như bao giờ cũng khác với Ý Chúa thậm chí còn phản lại Ý Chúa nữa, bởi thế, làm theo Ý Chúa hơn là ý riêng của mình bao giờ cũng tạo nên những cây thập tự giá, về hình thức là hai thanh gỗ dọc ngang: thanh gỗ dọc "xuống" ám chỉ ý muốn của Thiên Chúa và thanh gỗ "ngang" tiêu biểu cho ý muốn của con người. Như thế chúng ta thấy ở ngay trong vườn địa đường, nghĩa là ngay từ ban đầu, ngay trước cả nguyên tội, ngay khi chưa có tội lỗi, đã xuất hiện hình bóng thánh giá, ở chỗ: lệnh cấm đụng đến cây biết lành biết dữ của Thiên Chúa ban "xuống" cho con người, lại là những gì hoàn toàn trái với ý muốn con người "ngang" ngược không muốn tuân theo lệnh của Ngài.
Và đó là lý do để "bỏ chính bản thân mình đi" cũng chính là "vác thập giá của mình" vậy. Đến đây chúng ta mới thấy được cái chí lý của lời Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người, muốn làm môn đệ của Người cần phải vừa "bỏ chính bản mình" vừa phải "vác thập giá của mình" nữa: "Ai muốn theo Tôi thì hãy từ bỏ chính bản mình đi và vác thập giá của mình mà theo Tôi".
Chính vì "bỏ chính bản thân mình đi", ở chỗ theo Thánh ý tối cao của Thiên Chúa toàn thiện hơn là ý riêng của mình chỉ là một tạo vật hèn hạ bất toàn, mà việc "bỏ chính bản thân mình đi" này mới mang lại thành quả là sự sống: "ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình", mới giúp con người thoát được cái hậu quả chết chóc và tự diệt, đúng như những gì Chúa Giêsu cảnh báo trong chính lời Người mời gọi theo Người ở bài Phúc Âm hôm nay: "ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất".
Điển hình nhất cho những "ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình" đó là các vị tử đạo, nghĩa là những vị chẳng những có đức tin mà còn sống đức tin nữa, đến độ dám hiên ngang làm chứng cho đức tin bằng chính cái chết về thể lý của mình. Thánh Giacôbê tông đồ, trong Bài Đọc 1 hôm nay đã xác tín về một đức tin đích thực và trọn hảo, như nơi các vị tử đạo, như thế này: "đức tin hợp tác với việc làm, và nhờ việc làm mà đức tin được hoàn hảo". Chính nhờ "đức tin được hoàn hảo" "nhờ việc làm", việc làm chứng như thế mà, như câu xướng 2 của Bài Đáp Ca hôm nay: "Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính".
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 3, 1-10
"Không ai có thể kiềm chế được cái lưỡi".
Trích thư của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, đừng để lắm người trong anh em làm thầy: vì anh em biết rằng do đó, anh em sẽ bị xét đoán nặng hơn. Tất cả chúng ta đã sai lỗi nhiều lần. Nếu ai không sai lỗi trong lời nói, thì là người trọn lành, vì kẻ ấy có thể chế ngự được thân xác mình. Nếu chúng ta tra được hàm thiết vào miệng ngựa để bắt nó tùng phục chúng ta, thì chúng ta cũng có thể điều khiển được cả mình nó. Kìa, cả những chiếc thuyền, tuy to lớn và bị cuồng phong lôi cuốn, mà một bánh lái nhỏ điều khiển chúng theo ý người hoa tiêu. Cũng thế, lưỡi là một chi thể bé nhỏ, nhưng cao rao nhiều điều vĩ đại.
Kìa, một ngọn lửa có là bao, mà đốt cháy cả một khu rừng lớn. Lưỡi cũng là ngọn lửa, là cả một thế giới gian ác. Lưỡi là một trong các chi thể của chúng ta, nó làm hoen ố cả thân xác, được hoả ngục nhen nhúm lên, nó đốt cháy cả cuộc đời chúng ta. Mọi loài cầm thú, muông chim, rắn rít, và cá biển đang và đã bị loài người chế ngự. Nhưng không ai có thể chế ngự được cái lưỡi: một tai hoạ bất trị, và chứa đầy nọc độc giết người. Với cái lưỡi, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa là Cha; với cái lưỡi, chúng ta chúc dữ con người đã được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi chính cái miệng mà phát xuất ra vừa lời chúc tụng, vừa lời chúc dữ. Hỡi anh em, đừng để xảy ra như thế.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 11, 2-3. 4-5. 7-8
Ðáp: Phần Ngài, lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con (c. 8a).
Xướng: 1) Xin cứu nguy, lạy Chúa! Vì không còn nữa kẻ hiền nhân, không còn nữa sự trung tín giữa con người! Thiên hạ nói với nhau những điều man trá, nói bằng cặp môi gian giảo, tâm địa nước đôi. - Ðáp.
2) Xin Chúa diệt hết các cặp môi gian giảo, mọi cái lưỡi ngoa ngôn, những đứa tự khoe: "Nhờ tấc lưỡi của ta, ta mạnh; cặp môi ta biện hộ cho ta, đối với ta có ai là Chúa?" - Ðáp.
3) Lời của Chúa là những lời chân thật, là kim ngân đã thử, bảy lần gạn lọc, hết trơn bụi đất. Phần Ngài, lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con, xin bảo vệ chúng con khỏi thế hệ này mãi mãi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 9, 1-12
"Người biến hình trước mặt các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Và các ông hỏi Người: "Tại sao các biệt phái và luật sĩ lại nói Êlia phải đến trước đã?" Người đáp: "Êlia phải đến trước để sửa lại mọi sự, và như có lời chép về Con Người rằng 'Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ'. Vậy Thầy bảo cho các con hay: Êlia đã đến rồi và chúng xử với người mặc ý chúng, như đã chép về người".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
"Một đám mây
bao phủ" ...
"bằng chứng cho những thực tại vô hình"
Sau khi đã tiết lộ cái thâm cung bí sử rùng rợn nhất đối với các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này, liên quan đến một Đức Kitô khổ nạn và tử giá, cũng như sau khi khẳng định điều kiện đầy gian nan khốn khó để có thể xứng đáng và khả năng theo làm môn đệ của mình ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu hôm qua, Chúa Giêsu, trong Bài Phúc Âm hôm nay, đã dường như muốn trấn an các vị, bằng cách tỏ vinh quang của Người ra cho các vị thấy qua 3 vị tông đồ đại diện là Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi cao, như được Thánh ký Marco thuật lại như sau: "Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế".
Biến cố biến hình toàn thân, chứ không phải chỉ "hiển dung" (như một số người ngày nay thích sử dụng từ ngữ có vẻ mới lạ có tính chất văn vẻ hay hay này) về khuôn mặt của Chúa Giêsu mà thôi, là một dấu báo về cuộc phục sinh vinh hiển của Người, một cuộc phục sinh chỉ xẩy ra sau cuộc khổ nạn và tử giá của Người, để nhờ đó, Người có thể tỏ hiện trọn vẹn tất cả quyền năng thần linh của Người ra ở chỗ chiến thắng tội lỗi và sự chết, thậm chí, vì Người từ kẻ chết hay từ cõi chết sống lại mà Người còn biến đổi tối tăm thành ánh sáng và sự chết thành sự sống nữa, chứ không phải, qua mầu nhiệm nhập thể của mình, Người chỉ là "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5).
Đó là mục đích và tất cả ý nghĩa của Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm bao gồm cả khổ giá và phục sinh, hoàn toàn ứng nghiệm những gì Thánh Kinh báo trước về Đấng Thiên Sai Giêsu hay về Đức Giêsu Kitô, như chính Chúa Kitô Phục Sinh đã sử dụng chứng lý Thánh Kinh để làm cho cho các tông đồ về việc sống lại của Người khi Người hiện ra với các vị, bao gồm cả thành phần 2 môn đệ đang trên đường đi về làng Emmau lẫn các vị tông đồ ở Nhà Tiệc Ly lần đầu tiên vào tối ngày thứ nhất trong tuần:
Với 2 môn đệ về làng Emmau: "Bấy giờ Ðức Giêsu nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ!Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?' Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh".
Với các tông đồ ở Nhà Tiệc Ly: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm".
Chính vì biến cố biến hình trên núi ám chỉ mầu nhiệm vượt qua đúng như lời Thánh Kinh liên quan đến lề luật và các ngôn sứ như thế mà trong khi biến hình mới có hai nhân vật tiêu biểu của Cựu Ước xuất hiện, một liên quan đến lề luật là Moisen và một liên quan đến tiên tri là Elia: "Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu".
Cũng chính vì biến cố biến hình trên núi, ám chỉ mầu nhiệm vượt qua đúng như lời Thánh Kinh là những gì được Thiên Chúa ấn định như thế và sẽ xẩy ra đúng như vậy, mà Thiên Chúa đã phải đích thân lên tiếng chứng thực Đấng Thiên Sai của Ngài, một Đấng Thiên Sai Vượt Qua từ khổ giá đến vinh quang phục sinh, qua sự kiện được Thánh ký Marco ghi nhận trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: 'Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người'".
"Đám mây bao phủ các ngài" đây biểu hiệu cho Chúa Thánh Thần, Đấng "bao phủ bà" (Luca 1:35), Đấng cũng đã đậu trên Chúa Giêsu ở Sông Jordan khi Người lãnh nhận Phép Rửa của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (xem Gioan 1:33; Marco 1:10). Vì Thánh Thần là Thần Chân Lý dẫn vào tất cả sự thật (xem Gioan 16:13) mà "từ đám mây có tiếng phán", để chứng tỏ Người thực sự là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, "là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Gioan 1:34).
Như thế, với sự hiện diện của Thần Chân Lý ở biến cố biến hình kèm theo tiếng phán ra, đã cho thấy tất cả những gì Người nói về Người (như bài Phúc Âm liên quan đến cuộc vượt qua của Người hôm Thứ Năm vừa rồi) và tất cả những gì Người đã tỏ mình ra cho các tông đồ (như trong biến cố biến hình trong bài Phúc Âm hôm nay) đều chân thực và chắc chắn sẽ xẩy ra đúng như vậy theo như Thánh Kinh đã tiên báo, đều chẳng những đáng tin tưởng chấp nhận mà còn cần phải tin tưởng chấp nhận nữa, nhưng phải là một đức tin như Bài Đọc 1 hôm nay định nghĩa và xác quyết:
"Ðức tin là nền tảng của những điều hy vọng, là bằng chứng cho những thực tại vô hình... Không có đức tin, thì không thể đẹp lòng Chúa, vì chưng ai đến gần Thiên Chúa, thì phải tin có Thiên Chúa, và Người thưởng công cho những kẻ tìm kiếm Người".