SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Xh 17, 3-7
"Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng: "Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". Môsê kêu lên cùng Chúa rằng: "Con sẽ phải làm gì cho dân này? Còn một chút nữa là họ ném đá con rồi". Chúa liền phán bảo Môsê: "Ngươi hãy tiến lên, đi trước dân chúng và dẫn các bậc kỳ lão Israel đi theo, tay ngươi cầm gậy mà ngươi đã dùng mà đánh trên nước sông. Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel. Ông đặt tên nơi đó là "Thử Thách", vì con cái Israel đã phàn nàn và thách thức Chúa mà rằng: "Chúa có ở với chúng tôi hay không?"
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c. 8)
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người! - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5, 1-2. 5-8
"Lòng mến Chúa đổ xuống lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, khi được đức tin công chính hoá, chúng ta được hoà thuận với Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó, và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa. Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta. Ngay từ khi chúng ta còn yếu hèn, Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 4, 42 và 15
Lạy Chúa, Chúa thật là Ðấng cứu chuộc thế gian; xin ban cho con nước hằng sống, để con không còn khát nữa.
Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài)
"Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 4, 5-15. 19b-26. 39a. 40-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Samaria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa".
Và người đàn bà nói với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem". Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Từ một tội nhân lẻ loi cô độc đột nhiên biến thành một ngôn sứ công khai
Sau hai Chúa Nhật 1 và 2 mở đầu cho Mùa Chay hơn 5 tuần lễ cho đến Tuần Thánh, Phụng Vụ Lời Chúa cho riêng chu kỳ phụng niên Năm A bắt đầu các bài Phúc Âm chủ đề theo Thánh Ký Gioan hơn là theo Thánh ký Mathêu là Phúc Âm vốn giành cho chu kỳ phụng vụ Năm A. Và loạt 3 bài Phúc Âm theo chủ đề của Thánh ký Gioan cho 3 Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay này hoàn toàn thích hợp cho tiến trình tái sinh của thành phần dự tòng Kitô giáo.
Vì nội dung của bài Phúc Âm Chúa Nhật 3 Mùa Chay liên quan đến mạch nước sự sống (bể nước rửa tội Thanh Tẩy), của bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 Mùa Chay liên quan đến ánh sáng sự sống (nến sáng đức tin Công Chính), và của bài Phúc Âm Chúa Nhật 5 Mùa Chay liên quan đến sự sống bất tử (sự sống thần linh Thánh Sủng).
Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 3 Mùa Chay hôm nay liên quan đến mạch nước sự sống, và vì thế phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều tập trung vào đề tài nước sự sống này.
Trước hết, ở Bài Đọc 1, được trích từ Sách Xuất Hành, mạch nước sự sống này: 1- xuất phát từ một tảng đá trong sa mạc; 2- khi tảng đá (ám chỉ Chúa Kitô là Đá tảng) được đập vào bởi cái gậy (ám chỉ đức tin là khả năng giao tiếp thần linh) của Moisen; 3- để dân Do Thái được giãn cơn khát.
Sau nữa, ở Bài Đọc 2, được trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Kitô hữu giáo đoàn Rôma, mạch nước sự sống này được gói ghém trong lời Vị Tông Đồ Dân Ngoại, ám chỉ tình yêu của Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài: "tình yêu của Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Ðấng đã được ban cho chúng ta".
Sau hết, ở chính Bài Phúc Âm, mạch nước sự sống ấy được Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai ban cho những ai tin vào Người, điển hình là người nữ Samaritanô ngoại lai tội lỗi, và mạch nước Người ban đây không phải là mạch nước tự nhiên được người phụ nữ này hằng ngày phải từ nhà mất công ra kín lấy tự dưới Giếng Giacóp, trái lại, mạch nước sự sống Người ban cho chị sẽ khiến chị "không bao giờ còn khát nữa" - Tại sao? - "vì nước Tôi ban cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
"Mạch nước sự sống đời đời" đây là gì đã được chính Thánh ký Gioan chú thích ở đoạn 7 câu 39: "(Ở đây Người ám chỉ Thần Linh mà những ai tin vào Người được lãnh nhận...)", Vị Thần Linh được ban cho họ qua cuộc phục sinh vinh hiển của Người (xem cùng đoạn chú thích này và ở đoạn 20:22). Đúng thế, con người được cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Kitô tử giá, nhưng được công chính hóa bằng cuộc phục sinh của Người, nhờ Thánh Thần Người thông ban cho họ. Đó là lý do Giáo Hội Công giáo cử hành Phép Rửa cho thành phần dự tòng vào Thánh Lễ Vọng Phục Sinh hằng năm.
Hình ảnh "thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" ngay từ ban đầu, trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự, cho thấy quả thực "không ai được vào Nước Trời nếu không được tái sinh bởi nước và Thần Linh" (Gioan 3:5), và muốn làm con cái của Thiên Chúa cần phải có Thánh Thần của Ngài:
"Quả thế, những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Trí mà anh em đã lãnh nhận không phải là thứ thần trí nô lệ khiến anh em cảm thấy sợ sệt như trước; nhưng là Thần Trí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: 'Abba! Cha ơi!' Chính Thần Trí này chứng thực cho thần trí của chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa". (Roma 8:14-16).
Vậy vấn đề được đặt ra ở đây là người nữ Samaritanô ngoại lai trong bài Phúc Âm hôm nay đã được Chúa Giêsu ban cho mạch nước sự sống này hay chưa, thứ nước mà chị chỉ mới hiểu một cách mơ hồ theo hướng lợi ích tự nhiên cho bản thân của chị nhưng vẫn cứ xin: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa"?
Căn cứ vào những diễn biến sau đó thì chị đã được Chúa Giêsu ban cho chị mạch nước sự sống này rồi, vì chính Người là mạch nước sự sống ấy, khi Người tỏ mình ra cho chị: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây". Đó là lý do, ngay sau khi Chúa Giêsu tỏ mình ra cho chị, tức ban cho chị mạch nước sự sống thì chị liền được biến đổi.
Ở chỗ, nếu trước đó, chị sợ dân làng bao nhiêu, nên không dám ra kín nước ban sáng cho mát, mà chỉ dám lén ra ban trưa dù nắng nóng cho an toàn, vì ai cũng biết chị là một người đàn bà lăng loàn, sống với 6 người đàn ông không phải là chồng của chị, thì ngay sau khi được gặp gỡ Chúa Giêsu và được Người tỏ mình ra cho như mạch nước sự sống, chị đã mạnh dạn hẳn lên, không còn sợ gì nữa, hoàn toàn được biến đổi, từ thân phận một tội nhân lẻ loi cộ độc đột nhiên thành một ngôn sứ công khai bằng chính lời loan báo và chứng từ của bản thân mình: "Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: 'Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?'"
Như thế, lời Chúa Kitô phán với người đàn bà Samaritanô ở bờ giếng Giacóp này quả thực đã hoàn toàn ứng nghiệm và trở thành hiện thực: "Nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", chẳng những nơi chính bản thân của chị, ở chỗ biến đổi con người tội lỗi của chị thành một vị ngôn sứ khả tín, sống động, hùng hồn đầy thuyết phục, mà còn nhờ vai trò làm ngôn sứ của chị mà "Nước" Người ban cho chị đã "vọt đến sự sống đời đời" nơi cả dân làng ngoại lai của chị nữa:
"Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng. Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: 'Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế'".
Tóm lại, cuộc gặp gỡ có vẻ tình cờ này đã được dàn dựng hết sức tài tình bởi một đạo diễn chuyên nghiệp câu cá đó là Nhân Vật Giêsu Nazarét:
1- Câu cá không phải ở bờ sông hồ mà là ở một cái giếng nước sâu, đó là giếng Giacóp, và câu cá bằng cách ngồi chờ hơn là đứng;
2- Con cá xộp này ở dưới giếng sâu tù túng kín đáo hơn là ở sông hồ lộ thiên phơi phới vì nó có một đời sống quá lăng loàn bê bối đầy mặc cảm;
3- Đó chính là người phụ nữ Samaritanô ở khu làng gần Giếng Giacóp này, một người đàn bà sống với 6 người đàn ông không phải là chồng mình;
4- Vì mặc cảm và sợ dân làng nên con cá này không dám ra giếng kín nước ban sáng cho mát như mọi người mà là ban trưa không có một ai;
5- Không ngờ hôm ấy lại có một con người xa lạ ngối đấy, qua cách ăn mặc và nét mặt là người Do Thái, nên con cá không lo sợ bị điểm mặt chỉ tên;
6- Chính vị nam nhân Do Thái lạ mặt này cũng đã cố tình đến giếng nước này vào buổi trưa, lúc các môn đệ của mình phải rủ nhau vào làng kiếm ăn;
7- Bằng không làm sao nam nhân lạ mặt Do Thái này có thể dễ dàng gặp được người đàn bà lăng loàn vốn sợ đám đông và câu được con cá xộp này;
8- Cuộc gặp gỡ này được mở đầu bằng lời "xin cho tôi uống" của vị nam nhân Do Thái, khởi đầu đóng vai trò thụ động của một người khốn khó ăn xin;
9- Con cá xộp đầy im lặng và mặc cảm này nghe thế thoạt tiên muốn phản ứng chạy trốn bằng câu thoái thác như thể giữa ông và tôi kỵ nhau mà;
10- Nhưng nam nhân đạo diễn chuyên nghiệp câu cá này nhất định không buông tha nên bắt đầu lật ngược thế cờ: nếu chị biết tôi và ơn Chúa thì...
11- Con cá xộp nhất định tìm cách làm chủ tình hình nếu không thể thoát thân: ông không có gầu thì làm sao kín nước được nếu không nhờ đến tôi;
12- Vị nam nhân càng tỏ ra cao cờ hơn ai hết khi đánh trúng tim đen của chị này, khiến chị đang làm chủ trở thành thụ động xin vị này thứ nước lạ;
13- Đến độ chị ta đã dễ dàng và sẵn sàng tiết lộ đời tư của chị ra cho vị nam nhân lạ mặt Do Thái mới gặp lần đầu này biết rằng: tôi không có chồng;
14- Cho đến khi chị thấy vị nam nhân lạ mặt không biết từ đâu tới này biết hết đời tư lăng loàn trắc nết của mình, chị mời giật mình trước một vị tiên tri;
15- Để rồi chị đã tự động bỏ vò nước ở lại đó và chạy vội về làng để công khai loan báo về một vị mà chị đã gặp và cho rằng đó là Đấng Thiên Sai...
Thứ Hai
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 V 5, 1-15a
"Có nhiều người phong cùi trong Israel, nhưng không có một người nào trong
bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy
thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông
còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ
một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà
Naaman. Cô ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở
Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến
tâu vua rằng: "Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền
nói: "Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ". Naaman ra đi,
mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua
Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua
biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông
khỏi phong cùi".
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là Chúa, có
thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa lành
phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi Êlisêô, người
của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người đến tâu vua
rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ biết trong
Israel có một vị tiên tri".
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với
Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được
lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và
đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ
phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở
Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay
sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu
cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo
cha: "Hãy đi tắm, thì được sạch". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan
như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như
da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông
đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có Thiên
Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 41, 2. 3, và Tv 42, 3. 4
Ðáp: Hồn
con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt
Chúa Trời? (x. Tv 41, 3)
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời
ôi! - Ðáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra
mắt Chúa Trời? - Ðáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng
dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Ðáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được
hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên
Chúa của con. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 129, 5 và 7
Con trông cậy Chúa, con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng
từ bi và chan chứa ơn cứu độ.
Phúc Âm: Lc 4, 24-30
"Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà
thôi đâu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội
đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được
tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia
có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành
khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn
thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng
không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người
Syria".
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy
Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô
Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Vì họ "nghèo khổ" về đức tin, bị giam cầm" bởi cứng lòng,
"mù lòa"
bởi thành kiến, và "ngục tù"
trong tội lỗi
Hành
trình Mùa
Chay 40 ngày tiếp
tục và đã
tiến vào
tuần lễ Thứ Ba, và hôm nay là Thứ Hai trong Tuần Ba Mùa Chay này, chủ đề
"Tôi tự bỏ mạng sống của mình đi để rồi lấy lại" (Gioan 10:17) cho
chung Mùa Chay, bao gồm cả Tuần Thánh, vẫn
phản ảnh qua ý nghĩa của chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, nhất là Bài
Phúc Âm.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, hình như chúng ta chỉ thấy được nửa phần đầu của chủ đề Mùa Chay là "Ta tự ý bỏ sự sống của mình đi", chẳng thấy đâu là "để rồi lấy nó lại". Bởi vì, Thánh ký Luca trình thuật lại trong Bài Phúc Âm được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày hôm nay là sự kiện "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực".
Tại sao "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ" đến độ muốn sát hại Người, bằng cách "xô Người xuống vực" như thế? Phải chăng vì họ đã bị Chúa Giêsu ngấm ngầm chê là thiếu đức tin, ở chỗ không chịu tin vào Người, một con người rất tầm thường đã từng sống trong khu làng của họ và với họ trước kia, giờ đây đã dám cho mình như hai vị đại tiên tri Thời Cựu Ước là Elia và Elise nữa, như lời Người đã nói với họ và về họ khi họ đặt vấn đề về sự khôn ngoan và quyền năng khác thường của Người:
"Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Hai trường hợp được Chúa Giêsu dẫn chứng trên đây cho thấy cả hai nạn nhân được chữa lành đều là thành phần dân ngoại nhưng lại tin vào các vị tiên tri của dân Do Thái và nhờ đó họ đã có được một cảm nghiệm thần linh về Vị Thiên Chúa của dân Do Thái, Đấng hằng ở cùng dân tộc được tuyển chọn này và tỏ mình ra cho dân Do Thái dọc suốt giòng lịch sử cứu độ của họ.
Bài Đọc 1 hôm nay chỉ liên quan đến trường hợp thứ hai: "có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria". Sách Các Vua Quyền Thứ 2 đã cho biết là viên quan bị phong cùi này, vì muốn khỏi bệnh nên tin người tớ gái Do Thái, và đã tìm sang đất Do Thái.
"Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô ta nói với bà chủ: 'Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi'. Naaman đến tâu vua rằng: 'Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này'. Vua xứ Syria liền nói: 'Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ'. Naaman ra đi, mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo".
Nhưng sau khi đến gặp Tiên Tri Êlise, ông đã hoàn toàn thất vọng đến độ tức giận bất mãn bỏ đi, vì ông thấy ông là một vị quan có thế giá với nhà vua Syria mà bấy giờ lại bị một vị tiên tri Do Thái coi thường, chẳng những không thèm ra mặt tiếp ông, lại còn truyền ông phải làm một việc quá ư là tầm thường, ai làm cũng được và làm ở đâu cũng được, chứ không xuất hiện để trực tiếp chữa lành cho ông một cách uy nghi trang trọng giống như ở trong các nghi thức có tính cách cung đình:
"Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với Naaman rằng: 'Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được lành sạch'. Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: 'Tôi tưởng ông ấy ra đón tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở Ðamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay sao?' Ông trở về lòng đầy tức giận".
Đến đây chúng ta mới thấy đâu là biên giới giữa tự nhiên và siêu nhiên, giữa người sống theo tự nhiên và người sống theo đức tin cũng như sống bằng đức tin. Đức tin nơi viên quan Naaman người Syria bị phong cùi này là ở chỗ thắng vượt bản tính tự nhiên và khuynh hướng tự nhiên của ông, để làm theo những gì vượt lên trên sự khôn ngoan và hiểu biết hạn hẹp của ông, nhất lạ biết hạ mình xuống lắng nghe sự thật, dù sự thật đó xuất phát từ thành phần tôi tớ tầm thường của ông:
"Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: 'Thưa cha, vị tiên tri có yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch'. Naaman xuống tắm bảy lần ở sông Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch".
Chỉ có đức tin mới làm được những gì bản tính tự nhiên và khả năng trần thế của con người không thể nào làm được, dù họ có chức vị, khôn ngoan và quyền lực đến đâu chăng nữa, như bản thân của viên quan Naaman người Syria trong Bài đọc 1 hôm nay. Và cũng chỉ có đức tin mới làm cho con người cảm thấy được thực tại thần linh siêu việt ở bên trên họ nhưng lại ở ngay cõi lòng họ và trong cuộc sống của họ, như đã xẩy ra cho viên quan người Syria bị phong cùi được chữa lành:
"Sau đó ông và đoàn tùy tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ðến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: 'Thật tôi biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel'".
Cho dù Chúa Giêsu trong trình thuật của Bài Phúc Âm hôm nay có vẻ không được thành công như Tiên Tri Elisa trong Bài Đọc 1, nhưng Người, Đấng bị dân làng Nazarét của Người muốn sát hại Người, vẫn có thể tỏ mình ra cho thành phần không tin Người biết rằng:
1- Chính vì họ không tin mà họ không thấy phép lạ Người làm ở nơi họ và giữa họ như họ đã từng nghe thấy Người làm ở các nơi khác, nhất là ở Carphanaum;
2- Cho dù họ có muốn sát hại Người mà cũng không được như ý muốn, bởi "Người tiến qua giữa họ mà đi", cho họ thấy rằng Ngưòi quả là Đấng quyền năng, là Đấng được Tiên Tri Isaia nói đến như chính Người đã minh định với họ.
Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã "lấy lại sự sống" của mình khi Người bị dân chúng sát hại, không phải chỉ ở chỗ "Người tiến qua giữa họ mà đi", không làm gì được Người, mà chính là ở chỗ Người tỏ mình ra cho họ thấy được những gì Tiên Tri Isaia nói về Người đã thực sự được ứng nghiệm, ứng nghiệm nơi chính đám dân chúng muốn sát hại Người, vì đám dân làng Nazarét bấy giờ quả thực tiêu biểu cho các thành phần được Thiên Chúa gửi Vị Thiên Sai được xức dầu Thần Linh và đầy Thần Linh là Chúa Kitô đến cho họ, vì họ "nghèo khổ" về đức tin, "bị giam cầm" bởi cứng lòng, "mù lòa" bởi thành kiến, và "ngục tù" trong tội lỗi (xem Luca 4:18).
Nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét bị dân làng Nazarét trong Bài Phúc Âm hôm nay mưu toan sát hại Người, nhưng không làm gì được Người, trái lại, chính họ lại trở thành chứng cớ hiển nhiên về vai trò Thiên Sai của Chúa Kitô, Đấng được Thiên Chúa tiên báo qua Tiên Tri Isaia, một Vị Thiên Sai nơi các thành phần cần được Người "loan báo cho Năm Hồng Ân của Chúa" (Luca 4:19), và chính vì thế mà ai nhận ra Người bằng đức tin sẽ có được một cảm nghiệm thần linh như thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi!
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con.
Thứ Ba
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 3, 25. 34-43
"Với tâm thần sám hối và tinh thần khiêm tốn, chúng tôi được chấp nhận".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Trong những ngày ấy, Adaria đứng giữa lửa mở miệng cầu nguyện rằng: "Vì danh
Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng huỷ bỏ lời giao ước
của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con. Vì Abraham kẻ Chúa
yêu, Isaac tôi tớ Chúa, và Israel người lành thánh của Chúa, những kẻ Chúa
đã hứa cho sinh con cháu ra nhiều như sao trên trời và như cát bãi biển. Vì
lạy Chúa, chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội
lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi. Hiện giờ không còn vua chúa,
thủ lãnh, tiên tri, không còn của lễ toàn thiêu, lễ hiến tế, lễ vật, nhũ
hương và nơi để dâng lên Chúa của đầu mùa để được Chúa thương. Nhưng với tâm
hồn sám hối và với tinh thần khiêm tốn, chúng con xin Chúa chấp nhận; chúng
con như những con dê, bò rừng và những chiên béo được dâng lên Chúa làm của
lễ toàn thiêu, xin cho của hiến tế chúng con dâng trước tôn nhan Chúa hôm
nay, được đẹp lòng Chúa, vì những ai tin tưởng nơi Chúa không phải hổ thẹn.
Và bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan
Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con
theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những
việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh
quang".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 4bc-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy
Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài (c. 6a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về
lối bước của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa
là Thiên Chúa cứu độ con. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn
đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu
của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường
lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm
cung đường lối của Ngài. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra.
Phúc Âm: Mt 18, 21-35
"Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng
không tha thứ cho chúng con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm
đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?" Chúa
Giêsu đáp: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần
bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ
với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn
nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả
tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van
lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất
cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên
đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói
rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn
rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các
bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả
câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã
tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý
hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các
con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh
em mình".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình, sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất ...
là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa
Mùa Chay hôm nay ở vào ngày Thứ Ba của Tuần Thứ Ba, ngày được bao trùm bởi bầu khí của lòng thương xót Chúa như được cảm nghiệm thấy ở phụng vụ lời Chúa trong ngày, một lòng thương xót Chúa được tỏ hiện rõ ràng nhất và tối hậu nhất nơi việc khoan dung độ lượng tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi.
Đúng thế, Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường cho rằng "tên đầy tớ độc ác" trong dụ ngôn Chúa dạy về sự tha thứ đóng vai chính, một dụ ngôn Chúa muốn dùng để trả lời cho vấn nạn được tông đồ Phêrô đặt ra hỏi Người: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Nhưng thật ra, căn cứ vào chung phụng vụ lời Chúa hôm nay, và riêng Bài Phúc Âm, chúng ta mới khám phá thấy rằng lòng thương xót Chúa là điểm then chốt được Giáo Hội muốn nhấn mạnh đến hôm nay khi Giáo Hội chọn đọc Bài Phúc Âm này cùng với Bài Đọc 1 cho cùng ngày.
Trước hết, chúng ta thấy dụ ngôn Chúa Giêsu sử dụng để trả lời cho câu hỏi phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần trong Bài Phúc Âm hôm nay, về bố cục, có hai phần rõ ràng: phần đầu về "người đầy tớ độc ác" bày tôi được vị vương chủ của hắn rộng lượng tha thứ, và phần sau về "người đầy tớ độc ác" này không chịu tha thứ cho con nợ của mình như chính bản thân đã được vị vương chủ tha nợ cho.
Thế nhưng, về nội dung, ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn về tha thứ trong bài Phúc Âm này là ở chỗ "các con hãy thương xót như Cha là Đấng thương xót" (Luca 6:36), đúng như lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người để kết luận bài Phúc Âm hôm nay: "Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
Nghĩa là, chúng ta được Thiên Chúa là Cha tha thứ thế nào chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy, tha một cách bao dung, quảng đại, liên lỉ, không bao giờ cùng, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định và muốn các tông đồ môn đệ của người thi hành: "Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Việc tha thứ cho nhau một cách quảng đại bao dung và liên tục bất tận như Cha trên trời như thế đã được Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn về sự tha thứ của vị vương chủ "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y", một con nợ bầy tôi đã "mắc nợ" vua "mười ngàn nén bạc", nhưng "không có gì trả", có nghĩa là không thể nào trả nổi, bởi thế cho "nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ", nghĩa là tất cả những gì quí báu nhất con nợ có được, liên quan đến chính bản thân hắn cùng gia đình hắn và gia tài của hắn, để bù đắp phần nào món nợ hắn không thể trả thôi.
Chúng ta nên chú ý một chi tiết về lòng bao dung quảng đại đến vô lý của lòng thương xót Chúa trong dụ ngôn này, đó là trong khi người bầy tôi "sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả'", thì cho dù người con nợ bầy tôi này không xin tha nợ, mà chỉ xin khất nợ và hứa sẽ trả sau, không biết cho tới bao giờ mới trả hết, ấy vậy mà vị vương chủ lại "động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y" mới là chuyện kỳ cục chứ, mới hay chứ.
Ấy thế mà, khi đã được hoàn toàn "trả tự do", không còn nợ nần gì với vị vương chủ của mình nữa, không còn sợ bị đòi nợ nữa, không còn phải lo lắng làm sao để trả nợ đầy đủ và đúng hẹn nữa, thì "người đầy tớ độc ác" này lại đối xử với một con nợ của hắn hoàn toàn ngược lại với những gì hắn đã được đối xử. Ở chỗ, hắn là bầy tôi được vương chủ cao cả tha hết nợ, trong khi người bạn của hắn, ngang hàng với hắn, hắn lại muốn làm vua của người bạn hắn.
Thật vậy, theo dụ ngôn của Chúa, "một người bạn" của hắn chỉ nợ hắn một chút xíu thôi, "một trăm bạc", vì vai vế bạn bè ngang hàng với nhau, chỉ là tạo vật như nhau, không nhiều như món nợ khổng lồ hắn không thể trả, vì hắn đóng vai bầy tôi với chủ nợ là vương đế cao cả, nhưng đã được chủ nợ cao cả này hoàn toàn tha bổng, "mười ngàn nén bạc", thế mà, dù con nợ của hắn đã van xin hắn khất nợ như hắn đã làm: "Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: 'Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh'", nhưng hắn đã đối xử với con nợ của hắn hoàn toàn trái ngược lại với vị vương chủ của hắn đã đối xử với hắn: "Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong".
Dụ ngôn trong Bài Phúc Âm hôm nay về lòng "thương xót như Cha là Đấng thương xót" ở chỗ chúng ta đã được Thiên Chúa tha thứ thế nào, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau như vậy. Nghĩa là Lòng Thương Xót Chúa không phải chỉ là một đặc ân cho riêng một ai xứng đáng, mà là cho tất cả mọi người, cần phải truyền đạt và loan truyền qua những ai đã nhận lãnh đặc ân này, qua những ai đã được thương xót.
Những ai không biết tha thứ cho anh chị em mình: "xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con", sống hẹp hòi, luôn có những thái độ chấp nhất với những người anh chị em ngang hàng với họ xúc phạm đến họ, là những người chưa thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa là Đấng vô cùng cao cả bị họ xúc phạm đến, chưa hiểu được lòng thương xót Chúa là gì, hay thậm chí lợi dụng lòng thương xót Chúa, bóp méo lòng thương xót Chúa, giam nhốt lòng thương xót Chúa và hủy hoại lòng thương xót Chúa nơi bản thân mình, và vì thế, họ đã bị tẩu hỏa nhập ma, vì chính lòng thương xót Chúa từ một hồng ân đã biến thành tai họa cho họ, biến thành một "tên lý hình" như phần kết luận của dụ ngôn cho thấy:
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: 'Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?' Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ".
Phải, mang thân phận là tội nhân, không một con người tạo vật nào không cần đến lòng thương xót Chúa, nhất là thành phần được hưởng lòng thương xót Chúa mà không sống lòng thương xót Chúa, đến độ bị chính lòng thương xót Chúa hành hạ cho đến khi họ biết sống lòng thương xót Chúa: "cho đến khi trả hết nợ".
Là một tội nhân được Thiên Chúa tha thứ mà không biết thứ tha cho những ai phạm đến mình thì chẳng khác gì người con cả đối xử với đứa em hoang đàng của mình trong dụ ngôn người cha nhân hậu với hai đứa con đáng thương (xem Gioan đoạn 15), hay như thành phần đòi ném đá người đàn bà ngoại tình như thể mình không có tội gì (xem Gioan đoạn 8).
Là một tội nhân, mỗi khi xưng tội là chúng ta chỉ thực hiện cử chỉ "khất nợ" hơn là trả nợ, vì cho dù được LTXC qua vị linh mục giải tội chúng ta được tha tội nhưng rồi chúng ta lại tái phạm cùng tội vừa xưng thì quả thực việc xưng tội của chúng ta chỉ mang tính cách khất nợ... cho tới chết. Tuy nhiên, Kitô hữu nào sống trên đời mà không hề đoán xét ai, hay không bao giờ chấp nhất bất cứ một ai phạm đến mình, thì khi qua đời, Thiên Chúa sẽ chẳng phán xét họ hay chấp tội họ, cân xứng với cái đấu họ đong cho tha nhân khi còn sống, nghĩa là họ như được hưởng ơn toàn xá, được vào thẳng Thiên Đàng, không cần qua luyện ngục vậy.
Lòng thương xót Chúa quả thực là một hồng ân đối với loài người tội nhân, ở chỗ, Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tội nhân không phải vì họ mà là vì chính Ngài - nếu vì họ thì họ chỉ đáng phạt, xứng với tội lỗi của họ. Nhưng cho dù họ tội lỗi bất xứng với Ngài và đáng bị phạt như thế chăng nữa, Ngài vẫn thương xót họ và tha thứ cho họ bởi Ngài chính là tình yêu vô cùng nhân hậu.
Đó là lý do, trong Bài Đọc 1 hôm nay, khi cầu xin cho dân tộc của mình đang trải qua hoạn nạn khốn khổ: "chúng con đã trở nên yếu hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi nơi...", Adaria đã nại đến chính Thiên Chúa cho thân phận dân tộc của mình: "Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con mãi mãi cho quân thù, và xin đừng hủy bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất lòng từ bi Chúa khỏi chúng con".
Chẳng những thế, Adaria còn xin lòng thương xót Chúa tỏ mình ra nơi thân phận đáng phạt của họ để cho lòng thương xót Chúa được sáng tỏ hơn nữa, đúng như dự án và đường lối tỏ mình ra tối đa hết cỡ của lòng thương xót Chúa: "Bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh quang".
Bài Đáp Ca hôm nay hoàn toàn phản ảnh ý nghĩa và chiều hướng của chung phụng vụ Lời Chúa trong ngày, cách riêng với Bài Đọc 1 cùng ngày về lòng thương xót Chúa, vị "Thiên Chúa cứu độ", vị Thiên Chúa thương xót nhân loại tội lỗi khốn khổ bởi chính mình Ngài là Đấng "nhân hậu và công minh", chỉ biết đối xử với loài người tạo vật thấp hèn đầy những yếu đuối của họ bằng "lòng thương xót tự muôn đời vẫn có":
1) Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước
của Ngài. Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên
Chúa cứu độ con.
2) Lạy Chúa, xin hãy nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự
muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân
hậu của Ngài, thân lạy Chúa.
3) Chúa nhân hậu và công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài.
Thứ Tư
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðnl 4, 1. 5-9
"Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môi-sen nói với dân chúng rằng: "Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và
huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào
chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các
ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền
dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành
các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu; các ngươi phải tuân giữ
và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt
muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: "Thật, dân tộc
vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt". Không một dân tộc vĩ đại nào
được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh
chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ
nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi
hôm nay không?
"Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và
đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các
ngươi biết các điều ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 15-16. 19-20
Ðáp: Giêrusalem
hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của
ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc
phúc cho con cái ngươi trong thành nội. - Ðáp.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy
rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như
tro bụi trắng. - Ðáp.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh
Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không
công bố cho họ các huấn lệnh của Người. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Xh 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Mt 5, 17-19
"Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để
huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy
trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai
huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như
vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người
ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
"Các
con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ
lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ,
nhưng để kiện toàn", liên
quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua
Hôm nay là Thứ Tư của Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này nhấn mạnh đến việc tuân giữ lề luật Chúa, đúng như hai câu tiêu biểu ở trên đầu của Bài Đọc 1 cũng như của Bài Phúc Âm cho thấy: "Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm" (Bài Đọc 1) và "Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời" (Bài Phúc Âm).
Ở Bài Phúc Âm, chính Chúa Giêsu đã chẳng những đề cao tính chất bất khả thay đổi của lề luật mà còn đến việc trung thành với lề luật, bao gồm cả việc tuân giữ lề luật cũng như giảng dạy lề luật, kèm theo tác dụng tích cực hay tiêu cực trong việc tuân giữ lề luật và giảng dạy lề luật như thế nào nữa:
"Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai hủy bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu lề luật quan trọng như vậy và bất khả di dịch như thế thì tại sao Chúa Giêsu lại phán một câu, cũng ngay trong Bài Phúc Âm hôm nay, như thể lề luật vẫn là những gì chưa trọn hảo, cần phải được hoàn hảo hóa bởi Người nữa: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn".
Trong câu khẳng định này của Chúa Giêsu chúng ta thấy chất chứa một mối liên hệ giữa lề luật và bản thân Chúa Giêsu, Đấng mà "khi thời điểm viên trọn, đã được sinh hạ bởi một người nữ, được hạ sinh theo lề luật để cứu những ai lệ thuộc lề luật khỏi lề luật hầu chúng ta lãnh nhận thân phận làm dưỡng tử" (Galata 4:4).
Quả thực, đúng như Chúa Giêsu đã minh định "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri". Người không hủy bỏ những gì Cha Người đã sử dụng để hướng dẫn dân Do Thái trong lịch sử cứu độ của họ, nhờ đó, dân tộc như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên trần gian này mới thực sự tỏ ra là một dân tộc nổi bật nhất trong các dân tộc trên thế gian này, vì họ là dân của Chúa, chẳng khác gì ngọn hải đăng đối với các dân tộc khác được gọi chung là dân ngoại, không phải dân Do Thái.
Vị trung gian môi giới Moisen của họ đã bày tỏ cho họ thấy cảm nhận cái diễm phúc được Thiên Chúa hướng dẫn bằng các lề luật siêu việt của Ngài ấy trong Bài Đọc 1 như sau:
"Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: 'Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt'. Không một dân tộc vĩ đại nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta ở bên cạnh chúng ta khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như tôi trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?"
Và cũng chính vì lề luật được Thiên Chúa thương yêu truyền dạy cho họ như thế để họ xứng đáng với ơn gọi chuyên biệt của họ giữa tất cả mọi dân tộc cũng như với thân phận ưu tuyển của mình như là sản nghiệp của Thiên Chúa trên thế gian này, hơn tất cả mọi dân tộc khác, mà họ phải trung thành tuân giữ lề luật của Ngài cũng như truyền dạy lề luật của Ngài cho nhau nữa:
"Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà tôi dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi nên biết, tôi thừa lệnh Chúa là Thiên Chúa tôi mà truyền dạy cho các ngươi biết lề luật và huấn lệnh của Chúa, để các ngươi thi hành các điều ấy trong phần đất mà các ngươi chiếm hữu... Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi, đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy".
Chính dân Do Thái, qua thánh vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay, cũng đã cảm thấy đúng như vậy, khi vang lên những ý thức thần linh về lời thần linh của Thiên Chúa là chính cốt lõi của lề luật cho họ và làm nên lề luật của họ như sau:
1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa. Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các chốt cửa thành ngươi; Người đã chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
Thật ra, lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn", liên quan đến chính bản thân của Người, đến mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm cứu độ tất cả loài người, chứ không riêng gì dân Do Thái, đúng như ý định cứu độ của Thiên Chúa ngay từ ban đầu sau nguyên tội xẩy ra cho chung loài người (xem Khởi Nguyên 3:15).
Đúng thế, chính Chúa Giêsu sau khi sống lại từ trong kẻ chết Người để chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản tính đã bị băng hoại từ nguyên tội và bởi nguyên tội, đã chứng tỏ rằng Người đã "kiện toàn", chứ không "hủy bỏ", "lề luật và các tiên tri", hay nói cách khác, tất cả những gì đã được viết ra hay đề cập đến trong lề luật và bởi các vị tiên tri đều đã được trọn vẹn ứng nghiệm nơi Người, như chính Người đã sử dụng đến chính "lề luật và các tiên tri" để chứng thực rằng Người đã sống lại, và vì thế Người là "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).
Lần thứ nhất Người đã chứng thực với hai môn đệ đi Emmau (Luca 24: 25-27):
"Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: 'Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh".
Lần thứ hai Người đã chứng thực với 11 tông đồ ngay trong cùng tối của ngày thứ nhất trong tuần đó (Luca 24: 44-46):
"Rồi Người
bảo: 'Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách
Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và
các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm'. Bấy giờ Người mở
trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: 'Có lời Kinh Thánh chép rằng:
Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại...'".
Trong Biến Cố Biến Hình, được Giáo Hội chọn đọc từ các bài Phúc Âm của bộ Phúc Âm Nhất Lãm, bao giờ cũng cho Chúa Nhật II Mùa Chay, như chu kỳ phụng niên Năm C, Thánh ký Luca cho biết: "Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem", đã cho thấy rõ lời tính chất xác thực của lời Chúa Giêsu tuyên bố trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn" bằng cuộc Vượt Qua của Người.
Như thế, Chúa Giêsu quả thực đã tự mình ứng nghiệm những gì được cho là chủ đề của chung Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh liên quan đến Cuộc Vượt Qua của Người: "Tôi tự ý bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Ngày 15:
Thánh Clemente Maria Hofbauer, linh
mục dòng Chúa Cứu Thế
Clemente
Hofbauer sinh ngày 26.12.1752 tại đất nước Áo, vừa đúng 30 năm sau khi Thánh
An Phong sáng lập DCCT. Có một chi tiết hết sức dễ thương trong tuổi thơ ấu
của cậu bé Clemente Hofbauer. Năm cậu vừa lên 7 thì người cha qua đời. Bà mẹ
dắt cậu đến dưới chân Thánh Giá, chỉ lên tượng Chúa Giê-su chịu đóng đinh và
bảo: "Con ơi, kể từ nay, người này sẽ là cha của con" Tất cả như là một hạt
giống ban đầu của Ơn Gọi Thiên Chúa muốn gieo vào lòng cậu bé Clemente. Có
thể nói, chính lời dặn dò nhắn nhủ của bà mẹ đã xác định cho Clemente rằng:
kể từ nay chỉ có Chúa Giê-su mới là Ðấng duy nhất mà cậu sẽ phải tuân phục
và tận hiến cuộc đời cho Ngài.
Năm 1769, khi
vừa tròn 24 tuổi, chàng thanh niên Clemente quyết định xin vào tu trong Ðan
Viện Tivoli, để rồi 2 năm sau đó, thầy tình nguyện xin vào sa mạc để ẩn tu.
Trong 3 năm liền cầu nguyện chiêm niệm, thầy lại khám phá ra ý định Thiên
Chúa muốn thầy không dừng lại ở nếp sống ẩn tu, nhưng quả cảm dấn thân cho
Ơn Gọi hoạt động truyền giáo. Thế là thầy lại khẳng khái trình với Bề Trên
để xin chia tay ra đi. Suốt trong 4 năm ròng, thầy Clemente đã rong ruổi
vượt đường xa hành hương về Rô-ma không dưới 5 lần để chọn một Dòng Tu hoạt
động.
Và thế là lại
thêm một chi tiết lý thú ghi dấu trong đời thánh nhân. Tháng 9 năm 1784, một
lần nữa lại đến Rô-ma, băn khoăn không biết chọn Dòng nào giữa quá nhiều
Dòng Tu, thầy nảy ra ý rủ một thầy bạn, một buổi sớm mai, hễ tiếng chuông
của Nhà Nguyện Tu Viện nào ở Rô-ma rung lên những tiếng chuông đầu tiên thì
hai người sẽ tìm đến để xin nhập Dòng. Hai người thao thức cả đêm, đến khi
vừa mới chợp mắt thì tiếng chuông một Tu Viện DCCT ở Rô-ma đã vang lên trước
nhất, cả hai trỗi dậy vội vã lên đường tìm đến Nhà Dòng và đã được đón nhận.
Ngày 24.10.1784, thầy Clemente mặc áo Dòng, và một năm sau, ngày 19.3.1785,
đúng lễ kính Thánh Giu-se, ngài tuyên khấn và nhận sứ vụ Linh Mục trong
DCCT, một Linh Mục DCCT đầu tiên không phải là người Ý, nhưng là người Áo.
Cuộc đời mục vụ
của cha Clemente khởi đi từ cộng đoàn Saint-Bennon tại thành phố Varsovie.
Cha đặc biệt quan tâm phục vụ trẻ em bị bỏ rơi, những thanh niên mù chữ,
những cô gái điếm bất đắc dĩ, những người già bị hất hủi, và cả đến những
bệnh nhân tâm thần. Cha và cộng đoàn DCCT ở đây cũng không quên tổ chức
những tuần Ðại Phúc, hay phải nói cho đúng, ngài đã biến mỗi ngày trong tuần
thành một phiên Ðại Phúc với kinh nguyện, Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể, giảng
thuyết bằng nhiều thứ tiếng cho từng đối tượng người Ðức hay người Ba-lan,
và nhất là miệt mài ngồi tòa Giải Tội cho hàng đoàn người sám hối từ khắp
nơi tuôn về...
Rồi đây, xuyên
qua các biến cố lịch sử chiến tranh và bạo động, trải qua những chống đối và
bách hại, những ngộ nhận và ngăn trở của chính quyền lẫn giáo quyền, cha
Clemente sẽ nghiệm chứng trong cuộc đời mình Lời Chúa trong Tin Mừng Lu-ca:
"Anh em hãy ra đi, này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy
sói..." (Lc 10, 3) bởi cha không thể dừng chân mãi tại Saint-Bennon cho dẫu
nhu cầu mục vụ ở đây ngày một đòi hỏi bức thiết.
Cha Clemente
không bao giờ quên sự thúc bách của Tin Mừng, của "lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt lại ít..." (Lc 10, 2) để tiếp tục lên đường, "không mang theo túi tiền,
bao bị, giày dép..." (Lc 10, 4), cha chỉ một lòng thực hiện Thánh Ý Thiên
Chúa để đưa DCCT vượt ra khỏi dãy núi Alpes của vương quốc Napoli để đến các
nước miền Âu Châu như Ba Lan, Tiệp Khắc, rồi qua Áo, Thụy Sĩ..., và cứ thế
mà lan tỏa đi khắp thế giới, đến miền Bắc Mỹ để rồi từ Canada, DCCT sẽ đặt
chân đến Việt Nam năm 1925 mà có được Tỉnh DCCT Việt Nam như ngày nay.
Chia sẻ đến đây,
tự nhiên chúng tôi nhớ đến một lời kinh nguyện hằng ngày của anh em DCCT
Việt Nam đã được phổ thành bài hát: "Lạy Chúa, ngay giữa lòng Hội Thánh,
Chúa đã cho khai sinh gia đình Dòng chúng con mang tên Chúa Cứu Thế sáng
danh Vua Trời. Như là một cây nho Chúa thương vun trồng và chăm sóc, mang
đến những chùm nho, Ơn Cứu Thế bình an, chan chứa khắp trần gian..."
Thư Thánh
Phao-lô Tông Ðồ gửi cộng đoàn Cô-rin-tô có khẳng định: Phao-lô trồng,
A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay
người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Ðấng làm cho lớn lên, mới đáng
kể (x. 1 Cr 3, 6 - 7).
Trong tâm tình
khiêm tốn của Linh Mục và Tu Sĩ Dòng Chúa Cứu Thế khám phá ra chính Thánh Ý
Chúa đã chọn để cho Thánh An-phong gieo hạt giống đầu tiên mà mọc lên thành
một cây nho sinh hoa kết quả tốt tươi, trong đó có công sức vun tưới của
Thánh Clemente Hofbauer, thế nhưng trên hết, chúng ta vẫn phải chung nhau
một lời tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ðức Giê-su, Ðấng mà Nhà Dòng đã xin được
mang tên là Chúa Cứu Thế. Chính Ngài chứ không phải ai khác, đã chọn Thánh
An-phong làm người sáng lập Dòng, đã sai Thánh Clemente đưa Dòng lan tỏa
vươn nhánh ra khắp nơi trên thế giới, trong đó có quê hương Việt Nam chúng
ta.
Cha Clemente
Maria Hofbauer được Chúa gọi về ngày 15.3.1820. Mọi ngộ nhận và ngăn trở từ
mọi phía không còn nữa, ngược lại, đám tang của ngài trở thành một cuộc khải
hoàn của Tình Yêu Thiên Chúa Quan Phòng. Những ước mơ và công trình dở dang
của ngài rồi sẽ được nối tiếp, hoàn tất và phát triển rực rỡ. Người ta tuôn
về bên mộ ngài để cầu nguyện xin ơn chữa lành cả thể xác lẫn tâm hồn, các
anh em DCCT cũng như nhiều tu sĩ các Dòng tìm đến, cúi đầu mặc niệm và tĩnh
tâm để như thể tìm nơi ngài một nghị lực lên đường cho sứ vụ truyền giáo.
Năm 1909, cha được Ðức Giáo Hoàng Pi-ô 10 nâng lên hàng Hiển Thánh. Mãi mãi,
DCCT đề cao ngài như vị Thánh Tổ thứ hai, sau Thánh An-phong.
Ðể kết thúc,
chúng ta hãy cùng nhau chú ý đến một câu, một chi tiết trong bài Tin Mừng
Thánh Lễ mừng kính Thánh Clemente ngày 15 tháng 3: "Khi ấy, Ðức Giê-su chỉ
định 72 người và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các
thành, các nơi mà chính Ðức Giê-su cũng sẽ đến..." (Lc 10, 1). Hóa ra các
môn đệ được sai đi trước để dọn đường, để vỡ đất khai hoang trồng trọt. Còn
chính Ðức Giê-su, Ngài sẽ làm cho cánh đồng Tin Mừng trổ sinh bao thóc lúa
bội thu.
Vì thế, chúng ta
xác tín rằng: DCCT, Dòng của Chúa Giê-su, tức là đã được đặt nền móng trên
chính Ðức Ki-tô. Và rồi, Thánh Clemente, đến các thế hệ anh em tu sĩ DCCT đã
được sai đi mở đường để rồi chính Ðức Giê-su Ngài sẽ đến, để qua anh em Tu
Sĩ Linh Mục, qua cả những anh chị em Giáo Dân đang cộng tác nhiệt thành với
chúng tôi, Ngài tuôn tràn Ơn Ðức Ðộ cho mọi người, nhất là những người nghèo
đói bất hạnh về vật chất lẫn tinh thần, để mọi người cùng nhận ra: "Triều
đại Thiên Chúa đã đến gần" (Lc 10, 9).
Xin tạ ơn Thiên
Chúa, xin biết ơn Thánh Clemente. Amen.
Lm. Lê
Quang Uy, DCCT
(Trích dẫn từ Ephata Việt Nam số 104, năm 2003)
Thứ Năm
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 7, 23-28
"Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây Chúa phán: Ta truyền cho họ lời này: Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta
sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi
trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh
phúc.
Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng
xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra
khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên
tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai
nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói
cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi
hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của
họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn
nhắc đến nữa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94, 1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các bạn đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để
hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng
tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn
dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba,
như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách
Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Lc 11, 14-23
"Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được
và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta
nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin
Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên
nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi
các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ
quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ
xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là
nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải
người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn,
thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước
đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là
phân tán".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được.
Ngày Thứ Năm trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa được Giáo Hội cố ý chọn đọc cho ngày này, nội dung của cả Bài Đọc 1 lẫn Bài Phúc Âm đều trở nên như một lời khẳng định rằng chỉ khi nào con người vào qua cửa hẹp và đi theo con đường hẹp mới có thể đạt đến sự sống chân thật và phúc thật, bằng ngược lại sẽ toàn là bất hạnh và diệt vong (xem Mathêu 7:13-14).
Đúng thế, trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Luca thuật lại những lời Chúa Giêsu, sau khi "trừ một quỷ câm", và "khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được", khiến "dân chúng đều bỡ ngỡ", đã vạch trần những tâm tưởng thiển cận có tính cách xuyên tạc và chụp mũ cho việc Người làm: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ", một việc không ai trên trần gian này có thể làm được ngoại trừ Thiên Chúa hay những ai được Thiên Chúa ở cùng.
Thậm chí việc Người trừ quỉ như thế, một việc không ai là loài người thuần túy có thể làm được vẫn chưa hay lắm, vẫn chưa thể làm cho một số người trong họ tin, đến độ, như Bài Phúc Âm cho thấy, họ còn muốn "xin Người một dấu lạ từ trời xuống", nghĩa là những gì đúng như ý của họ, có tính cách chủ quan như họ nghĩ, thì họ mới tin, còn những gì khác, cho dù là việc của Thiên Chúa đi nữa, cho dù lạ lùng mấy chăng nữa, cho dù họ không thể nào làm được v.v., họ cũng không tin.
Chẳng hạn, việc trừ quỉ, dù họ không làm được nhưng họ vẫn hiểu được nên cũng chẳng đáng tin. Theo kiến thức của họ về việc Chúa Giêsu trừ quỉ đó là vì quỉ nhỏ phải sợ quỉ lớn, mà Chúa Giêsu lấy quyền quỉ lớn mà trừ quỉ con thì tất nhiên phải có công hiệu 100%, đâu có gì là lạ, đâu có gì đáng phục, bởi thế, đối với họ, Người còn cần phải thực hiện thêm "một dấu lạ từ trời xuống" nữa.
Bởi thế, Chúa Giêsu, cho dù bản thân của Người và phẩm vị là Con Thiên Chúa của Người bị xúc phạm một cách trắng trợn và vô cùng trầm trọng như vậy, ở chỗ, Người bị coi như cũng bị quỉ ám, bị chính tướng quỉ ám thì Người mới có thể trừ được quỉ con nơi con người nạn nhân ở đầu bài Phúc Âm hôm nay.
Tuy nhiên, là hiện thân của Cha trên trời là Đấng Thương Xót (xem Luca 6:36), Người vẫn tỏ ra "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), vẫn tỏ ra nhân từ đối với những con người lầm lạc đáng thương, nhưng Người vẫn không thể nào chấp nhận cái sai lầm của họ, nên đã vạch ra cho họ thấy cái mẫu thuẫn nơi lập luận lý lẽ có tính cách ác cảm của họ với Người như sau:
"Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Qua câu minh giải này của mình, Chúa Giêsu cho những ai có ý nghĩ Người "nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ" chẳng những thấy được cái mâu thuẫn sai lầm của họ: "Nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được?", mà còn cho họ thấy trách nhiệm gây ra bởi những gì họ nói: "Chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi", nhất là cho họ biết được thật sự Người đã lấy quyền nào mà trừ quỉ, và chính quyền lực ấy là "một dấu lạ từ trời xuống" đúng như họ mong muốn: "Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Thật vậy, "một dấu lạ từ trời xuống" chứng thực "nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi" đó là việc Thiên Chúa bắt đầu trực tiếp nhúng tay vào công cuộc cứu chuộc loài người cho khỏi quyền lực tối tăm và sự chết do ma quỉ gây ra từ nguyên tội. Bởi vì, "ngón tay Thiên Chúa" đây ám chỉ Thần Linh của Thiên Chúa, như Thánh ký Mathêu ghi lại lời Chúa Giêsu minh định cũng trong cùng một trường hợp này: "Nếu bởi Thần Linh của Thiên Chúa mà Tôi trừ quỉ thì triều đại Thiên Chúa đã đến trên quí vị rồi đó" (12:28).
Câu nói của Chúa Giêsu ở cuối Bài Phúc Âm hôm nay cũng ám chỉ đến chính quyền lực của Thần Linh Thiên Chúa mạnh hơn quyền lực của tướng quỉ Belzebul, chẳng những có thể trừ được cả đám quỉ con mà còn trừ được cả quỉ vương, diệt trừ được cả vương quốc của hỏa ngục, của ngụy thần nữa, thành phần là quyền lực sự dữ và chết chóc đã thống trị loài người từ nguyên tội và đang bị tiêu diệt qua việc trừ quỉ của nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét Thiên Sai Cứu Thế:
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".
"Nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn" ở đây không phải là ám chỉ đến "Thần Linh của Thiên Chúa" hay sao, vì chỉ có "ngón tay Thiên Chúa" mới có thể "tước hết khí giới hắn tin tưởng (ám chỉ khí giới của ma quỉ là giả dối gian ác, kiêu căng tự ái, hận thù ghen ghét, bất tuân phản loạn v.v.), và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt (những gì đã bị ma quỉ tước đoạt đây ám chỉ chính loài người đã loài trở thành nô lệ của ma quỉ, thuộc về ma quỉ)".
Sự kiện Chúa Giêsu trừ quỉ tiên báo vương quốc của ma quỉ đã đến lúc bị hủy diệt, và con người được giải thoát khỏi quyền lực thống trị và cầm buộc của chúng mà tự họ không thể nào thoát được. Thế nhưng, chỉ có ai muốn được giải cứu, chấp nhận việc giải cứu của Người mới thoát được quyền lực của hỏa ngục mà thôi. Phải chăng đó là ý nghĩa lời Chúa Giêsu kết thúc Bài Phúc Âm hôm nay: "Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán", một lời còn được phản ảnh nơi nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay.
Qua miệng lưỡi của Tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã kêu gọi dân của Ngài hãy sống "thuận" theo Ngài như Ngài mong muốn để xứng đáng với Ngài là Đấng yêu thương tuyển chọn họ, và nhờ đó họ cũng được và mới được hạnh phúc: "Các ngươi hãy nghe lời Ta, thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân Ta. Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc". Thế nhưng, tiếc thay, dân của Ngài vẫn tiếp tục sống "nghịch" với Ngài, như chính Ngài đã nhận định về họ như sau:
"Nhưng họ không nghe, họ không chịu lắng tai, họ vẫn chạy theo ý định và lòng xấu xa của họ, họ đã ngoảnh mặt đi chứ không nhìn Ta. Từ ngày cha ông họ ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, ngay từ sáng sớm, Ta lần lượt sai các tiên tri tôi tớ của Ta đến với họ, nhưng họ không nghe Ta, không chịu lắng tai nghe. Họ tỏ ra cứng đầu cứng cổ, và còn sống tệ hơn cha ông họ! Ngươi có nói cho họ biết tất cả các điều ấy, thì họ sẽ không nghe ngươi đâu; Vậy ngươi hãy nói cho họ biết: Này là dân không chịu nghe lời Chúa là Thiên Chúa của họ, không chấp nhận kỷ luật, lòng trung tín đã mất và miệng họ không còn nhắc đến nữa".
Đó là lý do trong Bài Đáp Ca hôm nay, thánh vịnh gia đã kêu gọi dân của mình hãy nhận biết Thiên Chúa và nghe lời Ngài chứ đừng cứng lòng trước những mạc khải thần linh cứu độ của Ngài nữa:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi; chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 14, 2-10
"Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay
chúng tôi làm ra".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi
đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lấy lời Chúa và trở về với
Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: "Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều
lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Asurô sẽ không giải thoát
chúng tôi, chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh
chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm
được sự thương xót".
Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi
giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ và đâm rễ như
chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây
ô-liu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi
núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ
được lừng danh như rượu Liban.
Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và
săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi
sẽ sinh hoa kết quả.
Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết
được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những
người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80, 6c-8a. 8bc-9. 10-11ab. 14 và 17
Ðáp: Ta
là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, hãy nghe Ta răn bảo (x. c. 11 và 9a).
Xướng: 1) Tôi đã nghe lời nói mới lạ rằng: Ta đã cứu vai ngươi khỏi mang
gánh nặng, tay ngươi không còn phải mang thúng mủng. Trong cảnh gian truân
ngươi cầu cứu, và Ta giải thoát ngươi. - Ðáp.
2) Ta đáp lời ngươi từ trong áng mây vang ran sấm sét, Ta thử thách ngươi
gần suối nước Mêriba. Hỡi dân tộc Ta, hãy nghe Ta răn bảo, Israel, ước chi
ngươi biết nghe lời Ta! - Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một
chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi
ra khỏi Ai-cập. - Ðáp.
4) Phải chi dân của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối Ta mà ăn
ở: Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc
đá chảy ra. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm:
Phúc cho những ai thành tâm thiện chí giữ lấy lời Chúa, và nhẫn nại sinh hoa
kết quả.
Phúc Âm: Mc 12, 28b-34
"Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng:
"Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: "Hỡi Israel, hãy nghe đây:
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa
ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi". Còn đây là
giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi". Không
có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy,
đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài
Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức
mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ
vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không
còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì
nữa.
Ðó là lời Chúa.
Suy
niệm
Vì chỉ có một "Thiên Chúa chân thật duy nhất" (Gioan 17:3) mà ý thức thần linh về Ngài trong nội tâm của con người cần phải trở thành một mối liên hệ thần linh với Ngài trong đời sống đức tin của họ
Hôm nay, Thứ Sáu trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay, phụng vụ lời Chúa trong ngày cùng nhắm đến một thực tại thần linh duy nhất cũng là một ơn gọi duy nhất vô cùng quan trọng cho phần rỗi của con người, đó là "Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa duy nhất, và ngươi hãy kính mến Người" (Bài Phúc Âm), và chính vì thế mà "chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra" (Bài Đọc 1).
NGÀY 17 THÁNG 3
THÁNH PATRICK
Lễ Nhớ tùy ý
Truyện Thánh Patrick
Thánh Patrick đặt nền tảng công cuộc tông đồ trên việc cầu nguyện và hãm mình.
Câu truyện cuộc đời thánh Patrick từ khởi đầu đến kết thúc là một
cuộc mạo hiểm thánh thiện. Sinh trong một gia đình Công Giáo tại nước Anh
vào cuối thế kỷ IV, bấy giờ là thuộc địa của Roma, khi còn là một thiếu
niên, Patrick đã bị bọn hải tặc bắt đem về Ái nhĩ lan, một miền đất từng có
thời rất văn minh, nhưng khi ấy đã suy tàn. Tại Ái nhĩ lan, Patrick bị bán
cho một tộc trưởng, và ông này bắt ngài đi chăn heo. Theo truyền tụng, nơi
ngài bị bắt là Slemish, hiện nay là Antrim.
Patrick luôn coi thảm họa này như một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống vì tội lỗi của ngài. Ngài đã kể lại, Khi ấy tôi mười sáu tuổi. Tôi không biết Thiên Chúa thật; và tôi bị bắt sang Ái nhĩ lan với nhiều ngàn người khác, đáng với tội lỗi chúng tôi, vì chúng tôi đã xa lìa Chúa, không giữ các giới răn của Người, không tùng phục các linh mục, những vị thường nhắc nhở cho chúng tôi về phần rỗi của chúng tôi.1
Tuy nhiên, giữa cảnh lầm than, ngài đã hồi tưởng lại những bài học
thời thơ ấu và trở về với Chúa. Giờ đây, sau khi tôi đã đến Ái nhĩ lan, công
việc hằng ngày của tôi là chăn dắt đoàn vật; và tôi thường cầu nguyện vào
ban ngày. Lòng yêu mến và kính sợ Chúa ngày càng gia tăng, đức tin tăng
triển, tinh thần được đánh động, thành ra trong một ngày tôi thường đọc
nhiều trăm kinh, và ban đêm cũng gần được chừng ấy; tôi thường ở lại trong
rừng và trên núi vì mục đích ấy. Trước lúc tảng sáng, tôi thường thức dậy để
cầu nguyện, trên tuyết, trong băng giá, trong mưa. Tôi không cảm thấy đau
đớn, cũng không biếng trễ như giờ đây, bởi vì khi ấy tinh thần trong tôi rất
sốt sắng.2
Sau sáu năm trong hoàn cảnh ấy, Patrick đã tìm cách trốn thoát. Trước tiên, nhờ một số nhà buôn tốt bụng, ngài đã trốn sang Pháp, và sau cùng, ngài đã về đến quê hương và được hân hoan chào đón. Vào thời điểm ấy, Patrick không có ý định trở lại nơi bị bắt trước kia, nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác. Và quả thật, trong những thị kiến ban đêm, tôi đã nhìn thấy một người tên là Victoricus từ Ái nhĩ lan đến, mang theo vô số thư từ. Ông trao cho tôi một bức, và tôi đọc phía trên bức thư có hàng chữ ‘tiếng kêu từ Ái nhĩ lan’; và trong khi đang đọc lớn phần đầu bức thư ấy, tôi nghĩ rằng ngay lúc ấy tôi nghe thấy tiếng kêu của những người đang sống gần khu rừng Foclut, sát với biển Tây. Họ đồng thanh kêu lớn: ‘Chúng tôi năn nỉ, ôi bạn trẻ, hãy đến, và một lần nữa hãy đi lại giữa chúng tôi.’ Tôi tan nát trong lòng, không đọc thêm nữa. Và thế là tôi thức giấc. Cám tạ Thiên Chúa, vì sau nhiều năm, Chúa đã ban cho họ điều họ kêu xin.3
Sau đó, Patrick sang Auxerre, Pháp một vài năm để chuẩn bị cho sứ
mạng bằng việc học tập dưới quyền thánh Germanus, người được Đức Celestine I
giao phó việc chuẩn bị cho công cuộc truyền giảng xứ Ái nhĩ lan. Tuy nhiên,
Patrick vô cùng thất vọng vì không được tuyển chọn; sứ vụ được giao phó cho
một người khác tên là Palladius.4 Nhưng Palladius đã qua đời ngay khi vừa
đặt chân đến Ái nhĩ lan, và thế là đoàn người đành quay về Auxerre. Lúc ấy,
Patrick được chọn để thay thế và được thánh Germanus tấn phong giám mục.
Hướng đến mọi tầng lớp xã hội.
Khi đặt chân lên đất Ái nhĩ lan vào năm 432 để truyền giáo cho một
dân tộc ngoại giáo hiếu chiến, thánh Patrick đã có một đức tin sắt đá kiên
vững trong mọi thử thách, một sự khôn ngoan thực tế, và một kiến thức về đất
nước, ngôn ngữ và phong tục địa phương.
Trong công việc, thánh Patrick đã giữ một tập quán. Mỗi khi đến một
miền nào, trước tiên thánh nhân đến trình diện và giảng Phúc Âm cho vị tộc
trưởng địa phương, và trao tặng một ít quà cáp theo tập tục thời ấy. Các tài
liệu cổ xưa kể lại, mặc dù có một số tộc trưởng qui thuận đức tin, nhưng một
số kẻ khôn ngoan thế gian vẫn giữ lại một số tập tục dễ dãi của tổ tiên họ.
Tuy nhiên, thánh Patrick luôn yêu cầu hai điều mà lúc nào ngài cũng thành
công: xin một miếng đất để xây nhà thờ; và xin phép tộc trưởng để rao giảng
cho dân chúng.
Kế đó, thánh Patrick hướng về phía các con trai con gái của vị tộc
trưởng. Lúc này, thành công của ngài hầu như rất khả quan. Lúc trước tại Ái
nhĩ lan, khi chưa nghe biết về Thiên Chúa, người ta thờ lạy bụt thần và các
sự quái gở. Gần đây, họ đã trở thành một dân tộc của Chúa, và được gọi là
con cái Chúa. Các con trai con gái của các tộc trưởng Ái nhĩ lan trở thành
các đan sĩ và trinh nữ của Chúa Kitô.
Đặc biệt, một nữ lưu Ái nhĩ lan dòng dõi quí phái vị vọng, rất xinh
đẹp, khôn lớn, và đã được rửa tội; sau một vài ngày, bà đã đến gặp chúng tôi
vì một lý do gì đó. Bà tỏ cho chúng tôi biết bà đã được một thiên thần của
Thiên Chúa cảnh báo, và khuyên bà hãy trở thành một trinh nữ của Chúa Kitô,
và sống thân mật với Thiên Chúa. Cám tạ Chúa, sáu ngày sau, rất đáng khen và
hăm hở, bà ấy đã giúp tất cả các trinh nữ của Thiên Chúa làm theo như bà;
nhưng vì không được sự đồng ý của cha mẹ họ; nên họ bị thân nhân bắt bớ và
quở mắng; tuy nhiên, con số họ ngày càng gia tăng.5
Điều này đã đặt nền tảng cho công cuộc hoán cải về sau của rất đông
dân thường mà thánh Patrick đã đề cập đến. Chính ngài đã đích thân rửa tội
cho ‘nhiều ngàn người”: Điều hết sức cần thiết là chúng ta phải giăng những
chiếc lưới của chúng ta để đem vô số đám đông về cho Chúa. Mọi nơi nên có
linh mục được phong chức để rửa tội và nâng đỡ những người nghèo khó và túng
quẫn.6
Tuy nhiên, ta không nên nghĩ rằng mọi việc đều xuôi thuận. Nhiều lúc
thánh Patrick đã gặp nguy hiểm từ mọi nơi, nhất là bọn Druids, những kẻ đối
nghịch không đội trời chung. Nhờ khôn ngoan, thánh nhân đã thoát được; và
hơn một lần, Chúa quan phòng đã phải can thiệp để cứu ngài. Tuy nhiên, thử
thách gian truân nhất đối với thánh Patrick là sự chống đối từ phía các anh
em Kitô giáo tại Anh và Pháp. Họ truyền cho nhau nhiều câu truyện bịa đặt về
ngài, đến độ ngài đã phải dùng ngòi bút để tự vệ. Nhờ đó, chúng ta ngày nay
mới may mắn có được quyển Tự Thuật của thánh nhân, tài liệu chủ yếu về những
chi tiết trong cuộc đời của ngài.
Đức tin và văn hóa.
Giáo đoàn do thánh Patrick thành lập mang một số đặc trưng rất rõ
nét. Sứ điệp Phúc Âm ăn rễ sâu và biến đổi từ bên trong mà không hủy diệt
nền văn hóa Celtic. Chúng ta giờ đây khó mà tưởng tượng được dân tộc và văn
hóa của họ sẽ như thế nào, nếu không được thấm nhuần tinh thần Kitô Giáo sâu
xa, ngay cả nhiều thế kỷ về sau. Vì thế, nền văn hóa ấy luôn phù hợp với đức
tin. Về giáo lý cũng như về việc truyền bá Phúc Âm nói chung, chúng ta được
mời gọi đem sức mạnh Phúc Âm vào trái tim của từng nền văn hóa và mọi nền
văn hóa. Vì mục đích này, người làm công tác giáo lý phải tìm hiểu các nền
văn hóa và những yếu tố chính của chúng; phải biết các biểu hiện ý nghĩa
nhất của chúng; phải tôn trọng các giá trị và sự phong phú riêng của chúng…
Họ phải ghi nhớ hai điều sau đây.
Thứ nhất, không được tách rời sứ điệp Phúc Âm khỏi nền văn hóa nguyên
thủy của nó (tức là thế giới Thánh Kinh, chính xác là địa phương văn hóa mà
Chúa Giêsu thành Nazareth đã sống), cũng đừng tách biệt khỏi những nền văn
hóa mà sứ điệp Phúc Âm đã được diễn tả theo dòng các thế kỷ.
Thứ hai, sức mạnh của Phúc Âm biến đổi và chấn hưng mọi sự. Khi hội
nhập vào một nền văn hóa, chắc chắn sức mạnh ấy sẽ chỉnh đốn nhiều yếu tố
của nền văn hóa này. Nếu như Phúc Âm đã bị biến dạng khi tiếp xúc với các
nền văn hóa, thì có lẽ đã chẳng còn giáo lý. Quên điều này tức là vấp vào
điều thánh Phaolô đã mạnh mẽ tố cáo là ‘làm trống rỗng sức mạnh thập giá của
Chúa Kitô’ (1 Cr 1:17).7
Điểm đặc trưng thứ hai của giáo đoàn mới mẻ này là bản chất tông đồ
sâu xa. Những người đầu tiên được hưởng nhờ lợi ích từ động lực tông đồ là
những người Picts xứ Scotland, sau đó là các bộ tộc man di định cư tại những
miền hoang tàn của đế quốc Roma tại Bắc Âu: Pháp, Đức, và xa nữa là
Lombardy. Kể từ giai đoạn ấy, quê hương Ái nhĩ lan của các nhà truyền giáo
thánh thiện và học thức đã nổi danh khắp thế giới Kitô Giáo là ‘đảo các
thánh và các học giả.’ Mặc dù giai đoạn hoàng kim ấy đã chấm dứt vào thế kỷ
IX, khi Ái nhĩ lan rơi vào tay những người Vikings xâm lược, nhưng các di
sản của thánh Patrick không suy suyễn và vẫn trường tồn qua các thăng trầm
của lịch sử.
Điểm đặc trưng thứ ba mà đức tin của thánh Patrick đã nung đốt cho
giáo đoàn ở đây là sự hợp nhất với Tòa Thánh, suốt từ khi có ủy nhiệm thư
đầu tiên của Đức Celestine. Thánh Patrick đã mô tả những người tín hữu yêu
quí của ngài là Giáo Hội người Ái nhĩ lan, tức là Giáo Hội Roma.8 Sau khi
thánh Patrick qua đời, thánh Columbanus đã thưa với Đức Boniface IV: Chúng
con những người Ái nhĩ lan… là môn đệ của thánh Phêrô và Phaolô… Chúng con
nắm giữ vững vàng đức tin Công Giáo mà chúng con trước tiên đã được lãnh
nhận từ cha.9 Lời tuyên xưng này đã được Đức Gioan Phaolô II nhắc lại vào
năm 1979: Ái nhĩ lan luôn luôn trung thành – ‘semper fidelis.’10
Ngày nay, khi cám tạ Thiên Chúa về đặc ân đức tin thánh Patrick đã truyền lại, chúng ta hãy quyết tâm noi theo gương sáng của ngài. Chúng ta hãy sống những lời được truyền tụng là của chính ngài:
Ngày Thánh Patrick
Dù Thánh Patrick là ai, ông chắc chắn cũng không bao giờ mong đợi sự ồn ào mà mình tạo ra 15 thế kỷ sau khi ông qua đời. Trên khắp thế giới, ngày được dành riêng cho vị Thánh bảo hộ của xứ Ireland (17/3) hiện được xem là một dịp kỷ niệm sôi động, hầu như chỉ mang tính thế tục về tất cả mọi thứ liên quan đến Ireland hoặc được cho là như vậy. Lễ diễu hành hàng năm trên Đại lộ Số 5 New York thường được mô tả là cuộc diễu hành quần chúng lâu đời nhất của nước Mỹ. Dù xuất phát từ trước cuộc Cách mạng Mỹ, sự kiện này chỉ bắt đầu sôi động kể từ những năm cuối thế kỷ 19, khi những người Ireland Công giáo di cư, chạy trốn khỏi nghèo khổ và đói khát, bắt đầu khẳng định bản sắc của mình. Những tập quán khác thì xuất hiện gần đây hơn: chỉ khoảng 50 năm qua, sông Chicago mới được nhuộm một màu xanh lá cây để đánh dấu dịp lễ này. Vậy Thánh Patrick là ai?
Về Thánh Patrick trong nền văn hóa đại chúng, chỉ có hai đặc điểm nổi bật trong cuộc đời ông: ông đã đuổi loài rắn khỏi Ireland, và ông đã sử dụng một loại cây của Ailen gọi là cây cỏ ba lá (shamrock) làm công cụ khi truyền đạo, sử dụng hình dạng ba lá để giải thích ý tưởng về một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba ngôi (Chúa Ba ngôi). Cũng giống như rất nhiều nhân vật khác xuất hiện bên rìa thế giới La Mã, trong thời kỳ bóng đêm do đế chế sụp đổ, câu chuyện về cuộc đời Thánh Patrick cũng bao gồm nhiều điều không rõ ràng. Có thể thấy rằng ông đã đến Ireland để rao giảng Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ năm và ông đã chết vào thời điểm nửa cuối thế kỷ đó. Bằng chứng vững chắc nhất mà chúng ta biết về việc Kitô giáo được truyền bá vào Ireland là vào năm 431 Đức Giáo Hoàng đã gửi một nhà truyền giáo có tên là Palladius đến hòn đảo này. Còn sứ mệnh của Thánh Patrick thì không có ngày tháng nào rõ ràng như vậy.
Tuy nhiên, điều mà chúng ta có là tư liệu riêng của ông: hai tài liệu tiếng Latin có ảnh hưởng lớn đã làm nổi bật lên nhân cách của vị thánh này. Trong một tài liệu được biết đến nhiều hơn trong hai bản, bản “Lời thú tội” (Confessio), vị thánh kể lại những chi tiết xúc động về cuộc sống riêng của mình. Ông lớn lên trên bờ biển phía tây nước Anh (có thể là Cumbria) trong một gia đình người Anh Cơ đốc giáo La Mã. Cha ông là một thầy phó tế và ông nội của ông là một linh mục. Khi còn là một thiếu niên, ông đã bị bắt cóc bởi bọn cướp Ai-len và bị giam cầm trong sáu năm, và chính trong khoảng thời gian bị giam cầm này mà ông lần đầu tiên nghe được một tiếng gọi linh thiêng. Bằng cách nào đó ông đã trốn thoát và lên một chiếc thuyền buồm trở về Anh, và sau những hành trình nguy hiểm ông đã hội ngộ được với gia đình của mình. Nhưng một mặc thị đã cho ông hay rằng những người dân Ireland đang kêu gọi ông quay trở lại và truyền bá đức tin Cơ đốc giáo.
Một cuộc sống đầy màu sắc của Patrick đã được viết lại 200 năm sau ngày ông mất, cũng bằng tiếng Latinh, bao gồm tất cả những chi tiết trên nhưng được thêm một vài điểm mới. Tài liệu này nói rằng ông đã được đào tạo cho chuyến đi truyền giáo tại Ai-len của mình thông qua một quá trình tiếp cận lâu dài với những giáo sĩ tại tu viện ở Gaul, tức nước Pháp ngày nay. Điều đó khá hợp lý, bởi hẳn ông đã phải đi tới một nơi nào đó để đạt được trình độ tiếng Latinh và thần học được thể hiện nổi bật trong các tác phẩm của mình.
Có lẽ có một điều đã kết nối Patrick với những kẻ hội hè, những người uống bia màu xanh lá cây và hát những bản ballad ủy mị từ Chicago đến Sydney vào ngày 17 tháng 3. Ông đã trải qua một phần trong cuộc đời mình không phải ở Ireland nhưng lại gắn chặt với Ireland từ xa, và đã đạt được những điều ông không bao giờ có thể có được nếu ông tiếp tục ở lại Đảo Ngọc Lục bảo (Emerald Isle – tức Ai-len).
http://nghiencuuquocte.org/2016/04/18/chung-ta-biet-gi-ve-thanh-patrick/
Khi bạn nghĩ về Ngày Thánh Patrick, có lẽ bạn nghĩ về bia xanh, bắn dây chuyền thủy tinh có tên là Kiss Kiss Tôi là người Ailen, và mọi người nói về việc họ bất ngờ như thế nào. Điều đó rất tốt và tốt, nhưng tôi cá là bạn không biết nhiều về nguồn gốc của ngày lễ, hay vị thánh mà nó tôn vinh. Chà, cởi cái mũ ngu ngốc đó ra, dừng nói chuyện như một yêu tinh trong một giây, và giáo dục cho mình một nụ cười.
Thánh Patrick, được coi là vị thánh bảo trợ của Ireland, thực ra được sinh ra ở Banna Venta Berniae, một thị trấn ở Anh, vào khoảng cuối những năm 300 sau Công nguyên. Đúng vậy, Patrick không phải là người Ireland. Và tên của anh ta không phải là Patrick, cũng là Maewyn Succat, nhưng anh ta không quan tâm đến điều đó nên anh ta đã chọn được gọi là Patricius ở tuyến dưới. Anh ta thực sự có nhiều biệt danh trong suốt cuộc đời: anh ta được nhiều người gọi là Magonus, bởi những người khác là Succetus, và một số người là Cothirthiacus. Nhưng chúng ta sẽ gọi anh ấy là Patrick vì những người khác cũng vậy. Có một chiếc nhẫn đẹp với nó ...
Cha của ông, Calpurnius, là một phó tế trong nhà thờ Cơ đốc giáo đầu tiên, nhưng Patrick không phải là một tín đồ. Mãi cho đến khi anh ta bị cướp biển Ailen bắt giữ năm 16 tuổi và bị bắt làm nô lệ trong sáu năm với tư cách là người chăn cừu mà anh ta chọn để chuyển sang Cơ đốc giáo. Khi ở phía đông bắc Ireland, Patrick đã học ngôn ngữ và văn hóa Ailen trước khi tìm cách trốn trở về Anh. Nhưng Patrick không giỏi trốn thoát rõ ràng, vì anh ta bị bắt trở lại. Lần này do người Pháp. Anh ta bị giam giữ ở Pháp, nơi anh ta đã học được tất cả về tu viện trước khi anh ta được thả ra và được gửi về Anh, nơi anh ta tiếp tục nghiên cứu Cơ đốc giáo tốt vào những năm hai mươi. Cuối cùng, Patrick tuyên bố rằng anh ta có một tầm nhìn bảo anh ta mang Cơ đốc giáo đến với người Ailen, những người chủ yếu là ngoại đạo và say xỉn vào thời điểm đó, vì vậy Patrick đã tìm đường trở về Ireland và mang theo một túi Cơ đốc giáo lớn.
Tuy nhiên, khi Patrick trở lại Ireland, anh và những cách giảng đạo của mình không được hoan nghênh, vì vậy anh phải rời đi và đáp xuống một số hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Ở đó, anh ta bắt đầu có được những người theo dõi, và cuối cùng anh ta chuyển đến đại lục để truyền bá tư tưởng Kitô giáo trên khắp Ireland trong nhiều năm tới. Trong thời gian này, Patrick đã rửa tội cho hàng ngàn người (một số người nói là 100.000), đã phong chức linh mục mới, hướng dẫn phụ nữ làm phiền, chuyển đổi con trai của các vị vua trong khu vực và hỗ trợ thành lập hơn 300 nhà thờ.
Văn hóa dân gian cũng kể về việc Patrick xua đuổi tất cả những con rắn khỏi Ireland, nhưng nghe có vẻ xấu xa, thực sự không có con rắn nào trên đảo bắt đầu. Lame, tôi biết. Nhưng Patrick có thể là người chịu trách nhiệm phổ biến shamrock, hoặc cây ba lá mà bạn sẽ thấy được dán khắp nơi ngày hôm nay. Theo truyền thuyết, Patrick đã sử dụng nó để dạy cho người Ireland khái niệm về Holy Holy Trinity. Họ đã có ba vị thần và được coi là số ba rất cao, vì vậy việc sử dụng shamrock của Patrick có thể đã giúp anh ta giành được nhiều sự ưu ái với người Ireland.
Ngày nay, Patricius được biết đến nhiều nhất với cái tên Saint Patrick. Mặc dù về mặt kỹ thuật, ông không phải là một vị thánh được phong thánh bởi Giáo hội Công giáo, nhưng ông được đánh giá cao trên khắp thế giới Kitô giáo. Nhưng tại sao lại nghỉ lễ? Tại sao luôn luôn là ngày 17 tháng 3? Cái gì với màu xanh lá cây? Và tại sao chúng ta nghĩ về một người quyến rũ không phải là người Ailen, không phải rắn là biểu tượng của Ireland?
Ngày thánh Paddy bắt đầu như một lễ kỷ niệm tôn giáo vào thế kỷ 17 để kỷ niệm cuộc đời của Thánh Patrick và sự xuất hiện của Kitô giáo ở Ireland. Ngày lễ ăn mừng này luôn luôn diễn ra vào ngày giỗ của Patrick, được cho là vào ngày 17 tháng 3 năm 461 sau Công nguyên. Vào đầu thế kỷ 18, những người nhập cư Ailen đã mang truyền thống đến các thuộc địa của Mỹ và chính tại đó, Saint Patrick bắt đầu trở thành biểu tượng của di sản và văn hóa Ailen ngày nay. Khi nhiều người Ailen đi qua Đại Tây Dương, lễ kỷ niệm Ngày lễ dần dần trở nên phổ biến. Thực tế, rất nhiều, cuộc diễu hành Ngày Thánh Patrick đầu tiên được tổ chức tại Boston vào năm 1737.
Vào giữa thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã chứng kiến một dòng người nhập cư Ailen khổng lồ hy vọng thoát khỏi Nạn đói lớn. Điều này đã biến việc quan sát Ngày Lễ tương đối quy mô nhỏ thành một lễ kỷ niệm đầy đủ mà mọi người muốn trở thành một phần của việc họ có phải là người Ireland hay không. Vào năm 1903, Ngày lễ trở thành một ngày lễ quốc gia ở Ireland và theo thời gian, nó đã biến thành ngày nay được gọi là Ngày Thánh Patrick. Ngày lễ đã được tổ chức trên khắp thế giới tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Canada, Argentina, Úc, New Zealand, Thụy Sĩ, Nga và thậm chí trên khắp châu Á. Khi điều đó xảy ra, Ngày Thánh Paddy rất nổi tiếng, nó được cho là được tổ chức ở nhiều quốc gia hơn bất kỳ lễ hội quốc gia nào khác. Những gì đã từng là một ngày khá lạnh của việc đi đến đại chúng, xem một cuộc diễu hành và ăn một bữa ăn thịnh soạn với gia đình đã biến thành bữa tiệc lớn nhất trên thế giới.
Nếu bạn đang tự hỏi tại sao bạn lại mặc màu xanh lá cây ngay bây giờ, thì có nhiều thứ hơn là bảo vệ khỏi những ngón tay bị chèn ép. Nó quay trở lại cuộc nổi loạn Ailen, khi những người lính Ailen mặc màu xanh lá cây khi họ chiến đấu chống lại người Anh bằng màu đỏ thương hiệu của họ. Cho đến lúc đó, màu sắc liên quan đến St. Patrick và Feast Day thực sự là màu xanh. Những người lính bài hát đã hát trong cuộc chiến năm 1798, Đêm Sự mặc của màu xanh lá cây, đã thay đổi tất cả những điều đó và làm cho màu xanh lá cây, màu của shamrocks, màu chủ đạo của Ireland. Từ đó trở đi, mọi người mặc màu xanh lá cây trong Ngày Thánh Patrick đoàn kết. Và khi Chicago nhuộm màu xanh của dòng sông lần đầu tiên vào năm 1962, việc mặc và trang trí màu xanh lá cây đã trở thành một phần của văn hóa nhạc pop. Bây giờ nó là phổ biến để phá vỡ rau xanh tốt nhất của bạn vào giữa tháng ba.
Được rồi, vậy tại sao tất cả uống rượu? Đó là một phần của lịch sử, một phần chúng ta chịu thua quảng cáo và một phần rập khuôn. Ban đầu, Ngày Thánh Patrick, hay Ngày Lễ, đã chứng kiến việc dỡ bỏ các hạn chế Mùa Chay trong ngày, mang lại cho các Kitô hữu một hơi thở khi họ tiến đến Lễ Phục Sinh. Về cơ bản, đó là một ngày để ăn và uống nhiều như bạn muốn trong lễ kỷ niệm, do đó là bữa ăn truyền thống của thịt xông khói và bắp cải. Nhưng thấm nhuần rượu whisky và bia không phải là một phần của phương trình. Trên thực tế, các quán rượu ở Ireland đã bị pháp luật buộc phải đóng cửa cho kỳ nghỉ cho đến cuối thế kỷ 20, và uống rượu vào Ngày Thánh Patrick đã rất khó chịu cho đến cuối những năm 1970.
Sau đó, một nỗ lực tiếp thị khổng lồ từ Budweiser trong thập niên 80 đã thuyết phục những người khao khát khát nước rằng uống bia và Ngày Thánh Patrick là một trong cùng một. Phần còn lại là lịch sử say rượu dường như không ai nhớ, vì tất cả đã được thay thế trong đầu của chúng tôi bằng các trích dẫn từ. Giống như Cinco de Mayo, nhiều người bây giờ sử dụng kỳ nghỉ như một cái cớ để uống đồ uống, điều này thúc đẩy định kiến tiêu cực bằng cách liên kết không chính xác hành động bị lãng phí với văn hóa Ireland. Nhưng, ít nhất bây giờ bạn có thể tự hào về Guinness vì bạn biết câu chuyện thực sự. Sláinte!
https://vi.goldavelez.com/lich-su-thuc-su-cua-ngay-thanh-patrick
Đọc bản văn trên, người chia sẻ Lời Chúa ở đây cảm thấy như là một bài dịch bởi kỹ thuật dịch hơn là người dịch, bởi nhiều chỗ lủng củng và tối nghĩa v.v.
Thứ Bảy
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Hs 6, 1b-6
"Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: Trong cảnh khốn khổ, từ ban mai, họ chỗi dậy chạy tìm kiếm
Ta. "Hãy đến, và chúng ta quay trở về với Chúa, vì Chúa bắt chúng ta, rồi sẽ
tha chúng ta; Chúa đánh chúng ta, rồi sẽ lại chữa chúng ta. Sau hai ngày
Người cho chúng ta sống lại, đến ngày thứ ba, Người đỡ chúng ta đứng lên, và
chúng ta sẽ sống trước mặt Người. Chúng ta hãy nhận biết Chúa và hãy ra sức
nhận biết Chúa. Người sẵn sàng xuất hiện như vừng đông, và sẽ đến cùng chúng
ta như mưa thuận và như mưa xuân trên mặt đất".
Hỡi Ephraim, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Hỡi Giuđa, Ta sẽ làm gì cho ngươi? Tình
thương các ngươi như đám mây ban sáng, như sương sớm tan đi. Vì thế, Ta dùng
các tiên tri nghiêm trị chúng, và Ta dùng lời từ miệng Ta phán ra mà giết
chúng. Án phạt các ngươi bừng lên như ánh sáng. Vì chưng, Ta muốn tình yêu,
chớ không muốn hy lễ. Ta muốn sự hiểu biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn
thiêu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 18-19. 20-21ab
Ðáp: Ta
muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ (Hs 6, 6).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng
tội ác. - Ðáp.
2) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu Chúa sẽ không
ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát, lạy Chúa, xin đừng chê
tấm lòng tan nát, khiêm cung. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin thịnh tình với Sion theo lòng nhân hậu, hầu xây lại thành
trì của Giêrusalem. Bấy giờ Chúa con sẽ nhận những lễ vật chính đáng, những
hy sinh với lễ toàn thiêu. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự
sống".
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là
người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu
nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng,
cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác:
tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi
tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi". Người thu
thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy
Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ta bảo các ngươi: người này ra về
được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên,
sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay
Ngày Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần Thứ Ba Mùa Chay hôm nay, Giáo Hội chọn đọc các bài phụng vụ lời Chúa cho ngày này có nội dung đề cao giá trị của đức bác ái yêu thương cao cả và bất khả thiếu trong đời sống đạo của Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, hơn là hy tế hay lễ vật của con người dâng lên Thiên Chúa, dù tự bản chất, các thứ hy tế hay lễ vật ấy vốn cao quí, tốt lành và cần thiết, liên quan đến phận vụ tôn thờ của con người đối với Thiên Chúa.
Đó là lý do, Chúa Giêsu đã nói với Chị Thánh Faustina rằng: "Giữa Cha và con có một vực thẳm vô đáy, một vực thẳm phân chia Tạo Hoá với tạo vật. Thế nhưng, vực thẳm này đã được tình thương của Cha lấp đầy" (Nhật ký 1576). Không phải hay sao, vực thẳm giữa họ là tạo vật với Người là Thiên Chúa, như từ đất tới trời, được lấp đầy khi "Lời hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), và giữa họ là tội nhân với Người là Tình Yêu, như từ hỏa ngục lên tới thiên đàng, đã được lấp đầy bằng chiều cao của cây Thánh Giá Người tử nạn.
Thế nên, hình như càng tội lỗi càng gần Nước Trời, càng gần với Lòng Thương Xót Chúa, càng nên thánh nhanh, một cách đốt giai đoạn như người thu thuế trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đúng như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với Chị Thánh Faustina: "Các đệ nhất đại tội nhân cũng đạt được tầm mức thánh thiện cao cả, chỉ cần họ tin tưởng vào tình thương của Cha" (Nhật ký 1784). Tôi vẫn hằng xin Chúa cho con luôn là một tội nhân mà luôn cảm thấy mình đáng thương, hơn là một thánh nhân mà lại cứ tưởng người khác đáng thương hơn mình.
Vì nếu bản chất của Thiên Chúa là tình yêu cô cùng nhân hậu, lúc nào cũng muốn tỏ ra hết cỡ bản chất thần linh này của mình để chứng thực mình là ai và như thế nào, thì ở đâu hay con người nào càng trở thành trống rỗng, bằng tất cả tấm lòng tan nát khiêm cung và tin tưởng của họ, thì họ càng được Ngài thông bản tính vô cùng trọn lành của Ngài là lòng thương xót cho họ, để lấp đầy tất cả mọi yếu hèn, khiếm khuyết, sai lầm và tội lỗi của họ, nhờ đó, bản thân họ hóa thánh, tức trở thành như là một cuộc thần hiển của Ngài, như một bụi gai (bản tính tội lỗi) bốc lửa (được thương xót) mà không bị thiêu rụi (không kiêu hãnh vì được thương) - (xem Xuất Hành 3:2).
Thứ Tư 27/6/2007 - Bài Giáo Lý 43 - Thánh Giáo Phụ Cyril thành Giêrusalem
18/3
https://giaophanphucuong.org/phung-vu-chu-thanh/thanh-cyrilo-thanh-gierusalem-896.html