SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 1Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a
"Ðavit được xức dầu làm vua Israel".
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: "Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua".
Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Eliab và nói: "Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?" Và Chúa phán cùng Samuel: "Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn". Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: "Chúa không chọn ai trong những người này". Samuel nói tiếp: "Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?" Isai đáp: "Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên". Samuel nói với Isai: "Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về". Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: "Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó". Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 5, 8-14
"Từ trong cõi chết, ngươi hãy đứng lên và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, thì nhờ sự sáng mà được tỏ bày ra; vì mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: "Hỡi kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 8, 12b
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài)
"Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một tiên tri".
Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Ðó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói "Chúng tôi xem thấy", nên tội các ngươi vẫn còn".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
... để nhờ đó anh ta có thể nhìn thấy Người bằng cả đôi mắt thể lý của anh ta
và nhận biết Người bằng đôi mắt tâm linh của anh ta nữa: "Lạy Ngài, tôi tin".
Vẫn theo chiều hướng dự tòng dọn mình lãnh nhận Phép Rửa Kitô giáo ở 3 tuần cuối của Mùa Chay, một chiều hướng tái sinh bởi nước và Thần Linh, vị Thần Linh được Chúa Kitô Vượt Qua ban cho các tông đồ là nền tảng của Giáo Hội khi Người phục sinh từ trong kẻ chết, Giáo Hội tiếp tục sử dụng bài Phúc Âm theo Thánh ký Gioan (hơn là Thánh ký Mathêu theo chu kỳ phụng vụ Năm A). Thật vậy, chủ đề cho chung phụng vụ lời Chúa, đặc biệt là nội dung của Bài Phúc Âm, nếu Chúa Nhật III Mùa Chay tuần trước phụng vụ Lời Chúa liên quan đến mạch nước sự sống, thì Chúa Nhật IV Mùa Chay tuần này phụng vụ Lời Chúa liên quan đến ánh sáng thần linh.
Thật vậy, ở Bài Đọc 1 được trích từ Sách Samuel quyển một, tuy không hề đề cập rõ ràng đến ánh sáng, nhưng lại gián tiếp liên quan đến ánh sáng thần linh, đến việc sáng suốt nhận thức và khôn ngoan chọn lựa đúng như ý Chúa muốn. Ở chỗ, Vị sứ giả Samuel được Thiên Chúa sai "đến nhà Isai dân thành Bêlem", vì Ngài đã "chọn một người con của ông ấy lên làm vua", nhưng không cho Samuel biết đích danh là ai, để xem vị sứ giả này tự mình khôn ngoan tới đâu, sáng suốt đến cỡ nào.
Thế nhưng, thực tế đã cho thấy ngài sứ giả Samuel theo trực giác tự nhiên đã bị lầm lẫn ngay từ đầu: "Samuel gặp ngay Eliab và nói: 'Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?' Và Chúa phán cùng Samuel: 'Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn'". Và cuối cùng, nhờ ánh sáng thần linh, sứ giả Samuel đã xức dầu phong vương đúng con người được Thiên Chúa tuyển chọn: "'Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó'. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi".
Bởi thế, tâm tình của chung Bài Đáp Ca hôm nay, cách riêng câu họa của bài Đáp Ca này thật là thích hợp cho cả sứ giả Samuel đã nhờ ánh sáng thần linh của Chúa mà xức dầu đúng nhân vật được Ngài dự tính tuyển chọn: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi". Phần thiếu niên Đavít, chính nhờ
"Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi" mà Đavít đã có được cảm nghiệm thần linh về sự hiện diện của Chúa nơi bản thân mình, cũng như về sự dẫn dắt của Chúa trong cuộc đời của mình từ nhỏ, nhất là trong vai trò chăn dắt dân Chúa của Đavít, một cảm nghiệm thần linh đã được chính ngài là tác giả Thánh Vịnh sau này bày tỏ trong đoạn thứ 22 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Ở Bài Đọc 2, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã nhắc nhở Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Êphêsô gốc gác dân ngoại này rằng: "Xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa". Bởi vì họ cũng như tất cả mọi dân tộc khác không phải là dân Do Thái là dân tộc được vị Thiên Chúa chân thật duy nhất "là ánh sáng" (1Gioan 1:5) tuyển chọn để tỏ mình ra cho trong suốt giòng lịch sử cứu độ của dân tộc ưu tuyển này, nên tất cả dân ngoại đều "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), cho đến "thời gian viên mãn" (Galata 4:4), thời điểm "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), như "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9).
Chính vì họ "được kêu gọi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng" (1Phêrô 2:9) như thế mà Thánh Phaolô đã khuyên dạy họ hãy sống xứng đáng với thân phận sáng láng của mình: "Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng" - Như thế nào? Nếu không phải bằng những gì là lành thánh chân thật: "bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật", nhờ đó họ mới sống đẹp lòng Thiên Chúa là Đấng chân thật và thiện hảo: "Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn".
Thật vậy, bởi nguyên tội, bản tính loài người đã bị băng hoại đến độ họ trở thành như bị mù từ lúc mới sinh, một tình trạng mù lòa về tâm linh, đã được tỏ lộ ngay nơi hai nguyên tổ sau nguyên tội. Ở chỗ, cho dù có mở mắt ra sau nguyên tội mà vẫn không nhận biết mình, đến độ vẫn chối quanh chạy tội bằng cách đổ lỗi cho nhau (xem Khởi Nguyên 3: 7,12-13). Thậm chí có thể nói con người mù lòa trước cả nguyên tội nữa. Ở chỗ họ đã tin vào rắn quỉ gian dối hơn tin vào Vị Thiên Chúa Hóa Công vô cùng chân thật của mình mà ăn trái cấm bất tuân tối thượng lệnh và Thánh Ý tối cao của Ngài. Phải, người mù từ bẩm sinh trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay là hình ảnh tiêu biểu cho tình trạng mù lòa từ lúc bẩm sinh của con người ngay từ khi còn ở trong vườn địa đàng, thậm chí ngay cả trước nguyên tội nữa; cho dù họ đã được Thiên Chúa dựng nên "rất tốt đẹp" (Khởi Nguyên 1:31) nhưng tự bản chất của mình là tạo vật hữu hạn, so với Thiên Chúa toàn hảo và vô hạn, họ vẫn là loài thụ sinh "bất toàn".
Đúng thế, tự mình, là tạo vật thấp hèn và mang một bản tính thọ sinh không thể nào toàn hảo như Thiên Chúa và toàn hảo bằng Thiên Chúa, Đấng "là ánh sáng, nơi Ngài không có tối tăm" (1Gioan 1:5), mà con người, muốn được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa theo dự án tối hậu của việc Ngài dựng nên họ, không thể nào không nhận biết Ngài, nhưng lại cần phải được chính Ngài tỏ mình ra cho, nhờ đó họ mới có thể như người mù từ lúc mới sinh trong Bài Phúc Âm hôm nay, sau khi được chữa lành một cách lạ lùng, đã nhận biết Ngài qua Con của Ngài là Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18): "'Anh có tin Con Thiên Chúa không?' Anh thưa: 'Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?' Chúa Giêsu đáp: 'Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh'. Anh ta liền nói: 'Lạy Ngài, tôi tin', và anh ta sấp mình thờ lạy Người".
Người mù từ lúc mới sinh được chữa lành trong Bài Phúc Âm hôm nay, cho dù đã được chữa lành và chưa biết vị đã chữa lành cho mình, nhưng vẫn tỏ ra khôn ngoan sáng suốt hơn thành phần có thẩm quyền trong dân nói chung và thành phần biệt phái duy luật đầy giả hình nói riêng, không bị mù từ thuở mới sinh như anh ta, qua những câu đối đáp của anh ta khiến họ không thể làm gì nổi anh ta, và đã phải đuổi anh ta đi, như Thánh ký Gioan thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: 'Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt'. Mấy người biệt phái nói: 'Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat'. Mấy kẻ khác lại rằng: 'Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?' Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: 'Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?' Anh đáp: 'Ðó là một Tiên tri'. Họ bảo anh ta: 'Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?' Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài".
Nếu so sánh thì cái mù lòa thiêng liêng về tâm linh và đức tin của thành phần biệt phái trong Bài Phúc Âm hôm nay mới đáng thương và cần được chữa lành, hơn là nạn nhân mù từ thuở mới sinh được chữa lành, đúng như Chúa Giêsu đã nhận định và cảnh giác họ: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói 'Chúng tôi xem thấy', nên tội các ngươi vẫn còn".
Thật vậy, cái mù lòa về tâm linh mới là những gì gây ra tội, chứ cái mù lòa thể lý cho dù từ lúc mới sinh chẳng những không bởi tội mà còn là dịp để Thiên Chúa được vinh hiển nữa, như chính Chúa Kitô đã khẳng định với thành phần môn đệ của Người, thành phần, như các người biệt phái, vẫn quan niệm là do tội: "Môn đệ hỏi Người: 'Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?' Chúa Giêsu đáp: 'Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh". Mà quả thực Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi nạn nhân mù từ lúc mới sinh này, khi đích thân anh ta đã hiên ngang bênh vực và làm chứng cho Đấng chữa lành cho anh ta, dù anh ta chưa biết rõ Người là ai, và sau khi đã được Người chính thức tỏ mình ta cho thì đã nhận biết Người ngay lập tức bằng cử chỉ sụp lậy Người.
Thành phần giả hình biệt phái mù quáng thật sự là bị mù về tâm linh, một cái mù nguy hiểm hơn là cái mù về thể lý của nạn nhân mù từ lúc mới sinh, vì cái mù tâm linh liên quan đến phần rỗi đời đời của họ. Nhưng, để chữa lành cái mù tâm linh ấy, họ cũng cần phải được Thiên Chúa, qua Con của Ngài "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), tái diễn phương pháp chữa lành người mù từ lúc mới sinh, như đầu bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa' (chữ Silôe có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được".
Đúng thế, để chữa lành cái mù về tâm linh liên quan đến đức tin cứu độ của thành phần biệt phái giả hình trong bài Phúc Âm hôm nay, hay của bất cứ ai mang triệu chứng hoặc bệnh trạng như họ, bất cứ là thành phần nào, họ đều cần đến một yếu tố bất khả thiếu đó là "bùn", một thứ "bùn linh", vì được trộn bởi "nước miếng" từ miệng của chính Chúa Giêsu, và thứ "bùn linh" này còn phải được bôi lên "mắt" của họ, rồi sau đó họ còn cần phải tự rửa sạch thứ "bùn linh" này nữa ở nơi họ cần phải tới (được sai đi = hồ Siloe).
Thứ "bùn linh" đây là gì, nếu không phải là một hợp chất sang hèn lẫn lộn (sang bởi chất nước bọt từ miệng lưỡi của Vị Thiên Chúa làm người + hèn bởi đất là chất làm nên xác thể tầm thường của con người), một hợp chất "bùn linh" bất khả thiếu tiêu biểu cho cả Lời Chúa cao cả lẫn bản chất yếu hèn của con người, một hợp chất có thể nói là tiêu biểu cho mầu nhiệm ngôi hiệp (hypostatic union) ở nơi chính Ngôi Vị Thần Linh là Lời Nhập Thể, Đấng có hai bản tính: Thiên Tính cao sang và nhân tính thấp hèn, Đấng mà "ai theo Tôi sẽ không đi trong tăm tối nhưng sẽ được ánh sáng sự sống" (Gioan 8:32), Đấng đã thực sự chữa lành và tỏ mình ra cho nạn nhân mù từ lúc mới sinh: "Chính Người đang nói với anh đây", để nhờ đó anh ta có thể nhìn thấy Người bằng cả đôi mắt thể lý của anh ta và nhận biết Người bằng đôi mắt tâm linh của anh ta nữa: "Lạy Ngài, tôi tin".
Cho dù đã được bôi thứ bùn linh này lên đôi mắt bị lù từ lúc mới sinh như thế, nạn nhân này vẫn chưa được sáng mắt, cho đến khi đi rửa ở Hồ Siloe, nhờ đó anh ta mới dễ dàng tỏ ra hành động tin tưởng và tôn thờ khi gặp lại chính Đấng chữa lành cho mình, một Đấng tỏ mình ra cho anh bằng tất cả ngôi vị của Người bao gồm cả thần tính lẫn nhân tính, được biểu hiệu qua bùn linh ở trên mắt anh ta, vi nước ở Hồ Siloe lẫn ý nghĩa "sai đi" của hồ này liên quan đến vai trò của Chúa Thánh Thần, một thứ "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:8), nhắm đến chỗ "dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13) là Chúa Giêsu Kitô. Và vì thế, kinh nghiệm tu đức và sống đức tin cho thấy, cho dù Kitô hữu có được chính Chúa Kitô tỏ mình ra cho, như thể họ được Người đắp bùn lên đôi mắt mù lòa của họ, nhưng họ vẫn chưa nhận ra Người, cho đến khi họ đi rửa, tức là được tác động bởi Thánh Thần, sau đó họ mới nhận ra Chúa Kitô, như người mù từ lúc mới sinh ở đoạn cuối của Bài Phúc Âm hôm nay.
Lễ trọng kính Thánh Giuse ngày 19/3/2023 đã bị CN 4 Mùa Chay át nên được dời vào Thứ Hai hôm nay 20/3
19 tháng 3
THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC MA-RI-A
lễ trọng
Thiên cung hoan hỷ tán dương ngài,
Giáo Hội tưng bừng khắp đó đây,
Lạy thánh Giu-se, ngài xứng đáng
Làm bạn Nữ Hoàng, hạnh phúc thay !
Thấy người thai nghén mà bỡ ngỡ,
Lo lắng hoài nghi rộn tâm tình,
Thiên sứ bảo rằng : thai nhi đó
Chính là do bởi Chúa Thánh Linh.
Bế bồng ấp ủ Chúa còn thơ,
Rồi ẵm sang Ai, trốn quân thù,
Lạc ở Sa-lem, tìm lại thấy,
Vui buồn sướng khổ mấy mươi thu !
Chư thánh chỉ trông phúc thiên đàng
Một khi lìa khỏi chốn dương gian.
Nhưng phần Thánh Cả được hồng phúc
Sống ở thế này cạnh Thánh Nhan.
Cậy nhờ công đức thánh Giu-se,
Nguyện Chúa Ba Ngôi khấng phù trì.
Dẫn dắt đoàn con lên cõi thọ,
Muôn đời ca tụng Chúa từ bi.
Thánh Giu-se trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Chúa Giê-su
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, linh mục.
Đây là đường lối thông thường của Chúa khi Người ban những ơn riêng cho một thụ tạo có trí khôn : Chúa thương tuyển chọn và ban cho ai một ơn đặc biệt hay một địa vị cao trọng nào, thì Người cũng ban mọi đặc sủng cần thiết cho kẻ được tuyển chọn ấy cũng như cho nhiệm vụ của họ. Những đặc sủng này còn tô điểm thêm cho bản thân họ rất nhiều.
Điều này được chứng thực cách tuyệt hảo nơi thánh cả Giu-se. Thánh nhân được coi là cha của Chúa Giê-su Ki-tô và thật sự là bạn trăm năm của Đức Ma-ri-a, nữ hoàng trần thế và nữ vương các thiên thần. Chúa Cha hằng hữu đã chọn thánh Giu-se để thánh nhân trung thành dưỡng nuôi và gìn giữ Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, và Đức Ma-ri-a hiền thê của thánh nhân. Đây là hai kho tàng quý giá nhất của Người. Thánh nhân đã chu toàn nhiệm vụ ấy một cách rất trung thành. Vì thế, Chúa đã nói với thánh nhân : Hỡi người tôi tớ tài giỏi và trung thành, hãy vào hưởng niềm vui của chủ.
Nếu bạn muốn nói đến vị thế của thánh Giu-se trong Hội Thánh Đức Ki-tô, thì không phải thế này sao : thánh nhân chính là con người được tuyển chọn, con người đặc biệt. Nhờ có thánh nhân đứng bảo lãnh mà Đức Ki-tô đã vào trần gian một cách hợp pháp và đàng hoàng ? Vậy nếu toàn thể Hội Thánh mắc nợ Đức Mẹ Đồng Trinh, vì nhờ Mẹ mà Hội Thánh được đón nhận Đức Ki-tô, thì sau Đức Mẹ, thánh Giu-se phải được Hội Thánh biết ơn và tôn sùng hơn hết.
Thánh nhân chính là điểm kết của Cựu Ước. Nơi thánh nhân, các tổ phụ và ngôn sứ đón nhận được hoa trái Thiên Chúa hứa ban. Điều mà Thiên Chúa đã rủ tình hứa ban cho các vị ấy, nay trở thành một con người bằng xương bằng thịt, và một mình thánh Giu-se được tiếp đón.
Suốt cuộc đời dương thế, Đức Ki-tô đã sống thân tình với thánh Giu-se, đã quý trọng và tôn kính thánh nhân như người con đối với cha mình, thì hẳn không thể nghi ngờ gì nữa : nay trên trời, chẳng những Đức Ki-tô không chấm dứt, mà còn gia tăng và kiện toàn những tâm tình ấy.
Bởi đó, thật thích đáng khi Chúa nói thêm : Hãy vào hưởng niềm vui của chủ. Đúng ra, niềm vui thấm nhập cõi lòng khi con người được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng Chúa vẫn thích nói thế này hơn : Hãy vào hưởng niềm vui... Chúa muốn ta hiểu sâu xa rằng : Không những niềm vui thấm nhập vào lòng người, nhưng nó còn bao trùm, cuốn hút, và, như một vực thẳm mênh mông vô tận, nó tràn ngập con người.
Lạy thánh Giu-se, xin nhớ đến chúng con và cầu thay nguyện giúp cho chúng con bên toà Đức Ki-tô là Dưỡng Tử của ngài. Xin kêu cầu bạn trăm năm của ngài là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh rủ lòng thương xót chúng con. Người là Thân Mẫu Đức Ki-tô, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Đây bậc Thánh cả thiên đàng hãnh diện,
Niềm cậy trông và cột trụ trần gian,
Chúng con dâng lời tán tụng đôi hàng,
Xin hiền phụ Giu-se thương nhận lãnh.
Dòng Đa-vít, Chúa tạo thành se định
Được kết duyên cùng Trinh Nữ ngọc ngà,
Con Chúa Trời âu yếm gọi là “Cha”,
Ngài cộng tác vào công trình cứu độ.
Ngài lặng lẽ ngắm nhìn Ngôi Thiên Tử,
Giờ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn,
Đấng bao đời ngôn sứ đã ngợi khen,
Ngài thờ lạy đầu tiên cùng Đức Mẹ.
Đây Chúa Tể càn khôn, đây Thượng Đế,
Một dấu tay là địa ngục hãi hùng,
Cả thiên đình đều phụng mệnh khiêm cung
Mà không quản vâng ý ngài trọn vẹn.
Lời vinh tụng, dâng Ba Ngôi trìu mến
Đã ban cho ngài chức trọng quyền cao,
Được ngài thương hằng nâng đỡ nguyện cầu,
Đoàn chúng tử sẽ thông phần vinh phước.
Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giê-su cho thánh cả Giu-se, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Giáo Hội biết luôn luôn cộng tác với Đức Giê-su, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 Sm 7, 4-5a. 12-14a. 16
"Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của Ðavít, tổ phụ Người".
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Nathan rằng: "Hãy đi nói với Ðavít tôi tớ Ta rằng: Khi ngày của ngươi đã viên mãn, ngươi sẽ yên nghỉ với các tổ phụ ngươi; sau đó, Ta sẽ cho miêu duệ ngươi lên kế vị và Ta sẽ làm cho triều đại người được vững bền. Chính người sẽ xây cất một ngôi nhà để kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngôi báu triều đại người được củng cố đến muôn đời. Ta sẽ là Cha của người, và người sẽ là con Ta. Nhà của ngươi và triều đại của ngươi sẽ vững chắc đến muôn đời trước mặt Ta, ngôi báu ngươi sẽ vững bền mãi mãi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 4-5. 27 và 29
Ðáp: Miêu duệ người tồn tại đến muôn đời (c. 37).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời; qua mọi thế hệ, miệng tôi loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Ta đã ký minh ước cùng người ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ". - Ðáp.
3) Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, và Thiên Chúa là Ðá Tảng cứu độ của con". Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 4, 13. 16-18. 22
"Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin, được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ của mọi người chúng ta, (như có lời chép rằng: Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều dân tộc) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế". Vì vậy, ông đã được kể như sự công chính.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 83, 5
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, phúc cho những ai ngụ nơi nhà Chúa, họ sẽ khen ngợi Chúa đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 1, 16. 18-21. 24a
"Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.
Ðó là lời Chúa.
- - - - - - - - - - - - - -
Hoặc: Lc 2, 41-51a
"Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người.
Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói, đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Giuse trong buổi triều kiến chung 19/3/2003
1. Hôm nay chúng ta cử hành lễ trọng kính Thánh Giuse, vị hôn phu của Mẹ Maria (x Mt 1:24; Lk 1:27). Phụng vụ diễn tả Ngài là “cha” của Chúa Giêsu (x Lk 2:27,33,41,43,48), sẵn lòng thực thi các dự án thần linh, ngay cả khi những dự án này vượt quá tầm mức hiểu biết loài người. Nơi “người con Vua Đavít” (Mt 1:20; Lk 1:27) này, Sách Thánh được nên trọn và Lời Hằng Sống đã làm người, bởi quyền năng Thánh Linh, trong cung lòng của Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse được Phúc Âm diễn tả như là “một con người công chính” (Mt 1:19), và Ngài là mẫu gương sống đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
2. Chữ “công chính” nói lên tính cách cương trực về luân lý của Ngài, việc Ngài chân thành gắn bó với việc thực hành lề luật cũng như thái độ hoàn toàn cởi mở trước ý muốn của Cha trên trời. Ngay cả trong những lúc khó khăn, vào những lúc thảm cảnh, người thợ mộc khiêm hạ thành Nazarét này cũng không bao giờ chiếm cho mình thứ quyền thách đố dự án của Thiên Chúa. Ngài chờ đợi tiếng gọi từ trên cao và âm thầm tôn kính mầu nhiệm ấy, bằng cách để cho Chúa hướng dẫn. Một khi lãnh nhận công việc, Ngài thi hành với tất cả trách nhiệm thành tín: Ngài chuyên chú lắng nghe thiên thần khi được yêu cầu nhận Trinh Nữ Nazarét làm hiền thể của Ngài (x Mt 1:18-25), trong cuộc trốn sang Ai Cập (x Mt 2:13-15) cũng như trong cuộc trở về Do Thái (x Ibid 2:19-23). Qua một số giòng chữ, tuy ít nhưng quan trọng, các vị thánh ký đã cho thấy Ngài như là một vị bảo quản ân cần của Chúa Giêsu, một phu quân lưu tâm và trung tín, vị thi hành quyền bính của mình trong gia đình bằng một thái độ phục vụ liên lỉ. Sách Thánh không nói cho chúng ta biết hơn nữa về Ngài, nhưng trong cái câm nín này đã gói ghém chính kiểu cách sứ vụ của Ngài, đó là một cuộc hiện hữu được sống động trong âm thầm của cuộc sống hằng ngày, nhưng bằng một đức tin vững chắc vào Đấng Quan Phòng.
3. Hằng ngày Thánh Giuse phải cung ứng các nhu cầu của gia đình bằng việc làm chân tay khó nhọc của Ngài. Vì lý do này, Giáo Hội đã có lý để đặt Ngài là quan thày của thành phần lao động.
Bởi thế, lễ trọng hôm này cũng là một cơ hội rất thuận lợi để suy nghĩ về tầm quan trọng của việc làm trong đời sống con người, nơi gia đình cũng như ngoài cộng đồng.
Con người là chủ thể và là vai chính của việc làm, và theo chiều hướng của sự thật này, người ta có thể dễ dàng nhận thức được cái liên hệ trọng yếu hiện hữu giữa con người, việc làm và xã hội. Hoạt động của con người, theo Công Đồng Chung Vaticanô II, được phát xuất từ con người và qui hướng về con người. Theo ấn định và ý muốn của Thiên Chúa, nó phải phục vụ thiện ích thực sự của nhân loại và giúp cho “con người, là một cá nhân cũng như là một phần tử của xã hội, có thể vun trồng và thực thi ơn gọi toàn diện của mình” (x Vui Mừng Và Hy Vọng, 35).
Để làm trọn công việc này, cần phải vun trồng “một linh đạo thực sự của việc làm nhân bản” được sâu xa bắt nguồn từ “Phúc Âm làm việc”, và là một linh đạo các tín hữu được kêu gọi để loan truyền và làm chứng cho ý nghĩa việc làm theo Kitô Giáo trong các hoạt động nghề nghiệp khác nhau của họ (x Thông Điệp Laborens Exercens, 26).
4. Chớ gì Thánh Giuse, một vị thánh cao cả và khiêm hạ, trở thành một mẫu gương khiến thành phần lao động Kitô hữu noi theo bắt chước, kêu cầu Ngài trong hết mọi hoàn cảnh. Hôm nay đây, Tôi xin ký thác cho vị bảo quản ân cần Thánh Gia Nazarét này giới trẻ, thành phần đang sửa soạn cho một tương lai nghề nghiệp, thành phần thất nghiệp và những ai đang phải chịu khốn khó vì thiếu nghề nghiệp, các gia đình và toàn thế giới của việc làm cùng với những mong đợi và thách đố, những trục trặc và chiều kích của nó.
Xin Thánh Giuse, quan thầy chung của Giáo Hội, trông coi toàn thể cộng đồng giáo hội, và như một con người thực sự của hòa bình, cầu cho toàn thể nhân loại, nhất là cho những người đang bị đe dọa trong thời gian chiến tranh này đây, tặng ân thái hòa và bình an cao quí.
Anh Chị Em thân mến,
Thánh Giuse là vị chúng ta long trọng mừng lễ hôm nay đây, là gương mẫu sống đức tin. Là vị bảo vệ Thánh Gia, “con người công chính” (Mt 1:19) này là một con người lao động khiêm tốn, và là một phu quân và thân phụ trung thành. Đời sống của Ngài cho chúng ta thấy một lòng tin tưởng bất khả chuyên thay vào Đấng Quan Phòng thần linh.
Thánh Giuse sẵn sàng thực hiện dự án của Thiên Chúa giành cho Ngài cũng như cho Mẹ Maria, ngay cả khi dự án này dường như vượt trên mức độ hiểu biết của loài người.
Giáo Hội cũng cử hành mừng Thánh Giuse là Quan Thày của Thành Phần Lao Động nữa. Trong một thế giới toàn cầu hóa hôm nay đây chúng ta cần phải nhắc nhở mình là phẩm vị của con người phải đóng vai trò quan trọng chính yếu nơi tất cả mọi thứ phát triển về xã hội cũng như kinh tế. Là một con người của hòa bình, chúng ta hãy cầu với Thánh Giuse cho những ai đang bị de dọa bởi chiến tranh và chúng ta kêu cầu tặng ân thái hòa cao quí cho toàn thể gia đình nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 19/3/2003.
Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật III Mùa Chay về Thánh Giuse 19/3/2006
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse, nhưng vì trùng với Chúa Nhật III Mùa Chay nên phụng vụ được dời vào ngày mai. Tuy nhiên, khung cảnh Thánh Mẫu của buổi nguyện Kinh Truyền Tin kêu mời chúng ta hãy kính can suy niệm về hình ảnh vị hôn phu của Trinh Nữ Maria Rất Thánh, quan thày của Giáo Hội hoàn vũ. Tôi muốn nhắc lại là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta cũng rất sùng kính Thánh Giuse, vị được ngài giành hẳn một bức tông thư ‘Redemptoris Custos’, Vị Bảo Hộ Của Đấng Cứu Chuộc, và là giáo hoàng chắc chắn đã cảm thấy được sự hỗ trợ của thánh nhân trong giờ lâm tử.
Hình ảnh của vị đại thánh này, cho dù vẫn âm thầm kín ẩn, có một tầm vóc quan trọng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Trước hết, vì thuộc về chi tộc Giuđa, thánh nhân đã có liên hệ với Chúa Giêsu theo giòng dõi vua Đavít, bởi đó, khi hiện thực những lời hứa về Đấng Thiên Sai, người con của Trinh Nữ Maria mới thực sự được gọi là ‘con vua Đavít’.
Phúc Âm Thánh Mathêu nhấn mạnh một cách đặc biệt đến những lời tiên tri về đấng thiên sai được nên trọn nơi vai trò của Thánh Giuse: nơi việc Chúa Giêsu được hạ sinh (2:13-15); tên gọi ‘Nazarene’ (2:22-23). Trong tất cả những điều này, thánh nhân đã cho thấy bản thân của ngài, như vị hôn thê Maria của mình, là giòng dõi đích thực của đức tin Abraham: niềm tin nơi Thiên Chúa đã hướng dẫn các biến cố lịch sử theo dự án cứu độ thần linh của Ngài. Sự cao cả của thánh nhân, như Mẹ Maria, còn trổi vượt hơn nữa, vì sứ vụ của thánh nhân được thực hiện trong khiêm hạ cũng như trong sự khuất kín ở nhà Nazarét. Hơn nữa, chính Thiên Chúa, nơi bản thân Người Con nhập thể của Ngài, đã chọn đường lối cùng lối sống ấy trên cuộc đời trần gian.
Từ gương mẫu của Thánh Giuse, tất cả chúng ta lãnh nhận một lời mời mmạnh mẽ trong việc trung thành, đơn sơ và khiêm hạ công việc được Thiên Chúa quan phòng ấn định cho chúng ta. Trước hết tôi đang nghĩ đến những người làm cha làm mẹ, và tôi nguyện cầu để họ luôn có thể cảm nhận được vẻ đẹp của một đời sống giản dị và cần cù, chuyên chú vun trồng mối liên hệ vợ chồng và nhiệt thành làm trọn sứ vụ giáo dục cao cả nhưng không dễ dàng gì.
Xin Thánh Giuse cầu cho các vị linh mục là thành phần thực thi vai trò làm cha đối với cộng đồng giáo hội biết yêu mến Giáo Hội một cách thiết tha và hoàn toàn dấn thân phục vụ, và nâng đỡ thành phần tu trì tận hiến biệt hân hoan và trung thành tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm sống khó nghèo, thanh tịnh và tuân phục. Xin thánh nhân bảo vệ thành phần lao động trên thế giới để họ góp phần bằng các nghề nghiệp khác nhau của họ cho sự tiến bộ của toàn thể nhân loại, và xin thánh nhân giúp cho hết mọi Kitô hữu nhận biết ý muốn của Thiên Chúa một cách tin tưởng và mến yêu, nhờ đó cộng tác vào việc làm trọn công cuộc cứu độ.
Khi Đức Thánh Cha vừa nói hết câu đầu tiên của bài huấn từ truyền tin trên đây, câu “Anh Chị Em thân mến. Hôm nay, ngày 19/3, là lễ trọng kính Thánh Giuse”, liên được đoàn hành hương cả 50 ngàn người vỗ tay vang rền khu Quảng Trường Thánh Phêrô. Có một số người cầm biểu ngữ với những chữ như “Auguri, Joseph!” (Chúc Mừng Giuse). Đức Thánh Cha đã mỉm cười và nói cám ơn mấy lần.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/3/2006
Thứ Hai
(Tuần IV Mùa Chay - Nếu không bị át bởi Lễ Thánh Giuse như Năm 2023)
Bài Ðọc I: Is 65, 17-21
"Thiên hạ sẽ không còn nghe tiếng khóc lóc và than van nữa".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Thiên Chúa phán: "Này Ta tác tạo trời mới, đất mới; người ta sẽ không
còn nhớ lại dĩ vãng, và cũng sẽ không bận tâm đến dĩ vãng nữa. Nhưng các
ngươi hãy hân hoan và nhảy mừng cho đến muôn đời trong các việc Ta tác tạo,
vì đây Ta tác tạo một Giêrusalem hân hoan và một dân tộc vui mừng. Ta sẽ hân
hoan ở Giêrusalem, sẽ vui mừng nơi dân Ta, và từ đây người ta sẽ không còn
nghe tiếng khóc lóc và than van nữa. Ở đó sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu,
không còn người già chết sớm nữa, vì người chết trăm tuổi cũng còn gọi là
chết trẻ, người không sống đến trăm tuổi, kể là bị chúc dữ. Họ sẽ xây cất
nhà cửa và cư ngụ ở đó, sẽ trồng nho và ăn trái nho".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11e-12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân
thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài
đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. - Ðáp.
2) Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài.
Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài
vẫn có suốt đời. Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng
vui hoan hỉ. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu
giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con, lạy Chúa
là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Lc 15, 18
Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: Thưa cha, con đã lỗi
phạm đến trời và đến cha.
Phúc Âm: Ga 4, 43-54
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị
tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân
chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở
Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có
một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin
Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống
chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những
phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức
trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói
và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con
ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ
cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông
mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Ðó là phép lạ thứ hai
Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
thành phần dân ngoại dễ tin vào Người hơn là chính dân của Người
Thứ Ba
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì
tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy
dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn
nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi
qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và
đây nước chảy từ bên phải. Khi đó có người đàn ông đi ra về hướng đông, tay
cầm sợi dây, ông đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước tới mắt
cá chân. Ông đo một ngàn thước tay nữa và dẫn tôi đi qua dưới nước đến đầu
gối. Ông còn đo một ngàn thước tay và dẫn tôi đi qua dưới nước đến ngang
lưng. Ông lại đo thêm một ngàn thước tay nữa, và đây là suối nước, tôi không
thể đi qua được, vì nước suối dâng lên cao quá, phải lội mới đi qua được,
nên người ta không thể đi qua được. Người ấy nói với tôi: "Hỡi người, hẳn
ngươi đã xem thấy". Rồi ông dẫn tôi đi, rồi dẫn trở lại trên bờ suối. Khi
trở lại, tôi thấy hai bên suối có nhiều cây cối. Người ấy lại nói với tôi:
"Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa,
rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả
những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất
nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự
sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến.
Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của
nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có
trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức
ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Chúa
thiên binh hằng ở cùng ta, và ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ (c. 8).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu
giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ
xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng
Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh
sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các
ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên
vũ trụ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14a
Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm
vui ơn cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 1-3a. 5-16
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại
Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa,
chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người
đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người
nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết
anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa:
"Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết
tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy
vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi.
Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi
bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta
trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi:
"Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không
biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được
lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói
cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong
ngày Sabbat.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho "một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm" ấy
đã kèm theo cả một hiện tượng phải gọi là quái lạ hay quái gở chưa từng thấy.
From: Hoabg <hoangtho1946@yahoo.com.vn>
Date: 2017-03-31 4:05 GMT-07:00
Subject: VỀ: PVLC Thứ Ba Tuần IV Mùa Chay
28-3-2017
To: Tinh Cao
<daminhmariacaotantinh@gmail.com>, TDFatima
<tdfatima+noreply@googlegroups.com>, TNFatima <tnfatima@googlegroups.com>
Tôi đọc bài nầy thấy quá hay tuy nhiên xin có một nhận xét để
"bênh vực" cho anh bại liệt:vì anh ta rất trung thưc .anh ta muốn tôn vinh
và củng muốn mọi người tôn vinh nên ngay khi biết được người đả chửa lành
anh ta đả báo cho nhửng kẻ đả tra khảo.... chứ không phải đẻ tố
cáo. Xin chân thành góp ý.
From: Tinh
Cao <daminhmariacaotantinh@gmail.com>
Date: 2017-03-31 10:12 GMT-07:00
Subject: Re: VỀ: PVLC Thứ Ba Tuần IV Mùa Chay 28-3-2017
To: Hoabg <hoangtho1946@yahoo.com.vn>
Cc: TDFatima <tdfatima+noreply@googlegroups.com>,
TNFatima <tnfatima@googlegroups.com>
Rất cám ơn người anh em đã, trước hết tiếp nhận bài chia sẻ Phụng
Vụ Lời Chúa hằng ngày của tôi mà còn đọc kỹ và góp ý nữa. Tôi cảm thấy rất
vui khi có người anh chị em của mình đồng cảm với mình như thế.
Nói chung, những gì chúng ta chia sẻ với nhau về Phụng Vụ Lời
Chúa (Chúa Nhật hay hằng ngày hoặc suốt tuần như tôi đang làm) là do suy
niệm, cảm nghiệm và suy diễn của từng tâm hồn với Lời Chúa được ghi lại
trong chung Thánh Kinh và riêng Phúc Âm, không buộc ai cũng phải có cùng một
cảm nhận như nhau, vì tác động của Chúa Thánh Thần nơi mỗi tâm hồn như "gió
muốn thổi đâu thì thổi" (Gioan 3:8).
Về trường hợp của nạn nhân bất toại 38 năm trong bài Phúc Âm được
người anh cho rằng hành động cho những ai vốn ác cảm với Chúa Giêsu biết là
vị đã chữa lành cho anh ta trong ngày hưu lễ là cố ý để họ cùng anh tôn vinh
Người, hơn là tố cáo Người, tôi xin được lợi dụng dịp này để dẫn giải thêm
một số chi tiết nữa cho sáng tỏ thêm vào bài chia sẻ khá dài của tôi nhé:
Trước hết, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu nạn nhân bại liệt 38 năm này có ý
tốt, muốn nói ra phép lạ chỉ để tôn vinh Vị đã chữa lành cho mình thì tại
sao ngay trước đó Chúa Giêsu lại tự động đến gặp lại anh ta để cảnh giác anh
ta, như để ngăn ngừa anh ta về hành động anh ta sắp làm, một hành động
rất nguy hiểm cho phần hồn của anh ta: "Này,
anh đã được lành bệnh, đừng
phạm tội nữa,
kẻo phải khốn khổ hơn trước"? Thường
thì Chúa căn dặn một số nạn nhân được chữa lành "đừng nói với ai" (Mathêu
8:4; Marco 1:44) để rồi chính những nạn nhân này đã đích thân loan truyền
phép lạ của Người. Ở đây, trường hợp của nạn nhân bại liệt 38 năm hoàn toàn
khác hẳn. Nếu anh ta muốn tôn vinh Chúa Kitô thì tại sao anh ta không tôn
vinh trước mặt chung công chúng mà chỉ cho những kẻ hạch hỏi anh ta thôi?
Sau nữa, nạn nhân bất toại 38 năm được chữa lành này hoàn toàn
khác với người mù từ lúc mới sinh trong
bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Mùa Chay vừa rồi, một người mù khi Chúa Giêsu trở
lại với anh ta một lần nữa, thì anh ta, sau khi biết được vị đã chữa lành
và được chính Người tỏ mình ra thì tuyên xưng đức tin và phục xuống thờ lạy
Người, trong khi đó, nạn nhân bại liệt 38 năm này khi đươc gặp lại
chính Đấng chữa lành cho mình thì chẳng những không bày tỏ một lời cám ơn
nào và chúc tụng Người thì chớ lại còn báo cho thành phần hạch hỏi anh ta
nữa, một hành động anh ta chẳng cần phải làm, mà dù có làm thì anh ta đáng
lẽ phải bênh vực Người như nạn nhân bị mù từ lúc mới sinh mới đáng gọi là
tôn vinh Đấng đã chữa lành cho mình một tật nguyền đã tuyệt vọng.
Sau hết, nạn nhân bại liệt 38 năm này khi bị hạch hỏi thì không
biết vị chữa mình là ai, thế nhưng sau khi được gặp lại vị ấy, lần bị vị này
cảnh báo việc làm tội lỗi sắp xẩy ra của anh ta, thì anh ta dường như cảm
thấy bị chạm tự ái, thành ra hình như trở nên ác cảm hơn với vị đại ân nhân
của mình, đến độ, anh ta đã nói thẳng tên "Giêsu" của vị ân nhân của mình ra
cho những ai hạch hỏi anh ta, một tên gọi mà tự nhiên anh ta biết được, dù
vị chữa lành anh ta không hề nói cho anh ta biết tên của Người, như Người tỏ
mình ta cho người mù từ lúc mới sinh. Như thế thì có thể suy thêm rằng nạn
nhân bại liệt 38 năm này dường như đã biết vị chữa lành cho mình là "Giêsu"
ngay từ đầu, vì anh ta đâu có mù như người mù từ lúc mới sinh, nhưng khi bị
hạch hỏi lần đầu thì anh ta giấu tên vị ấy đi như để bênh vực và trả ơn cho
vị ân nhân của mình, sau đó anh ta lại tự động nói tên vị này ra, một tên
anh ta đã biết rồi, do vị ấy đã
trở lại cảnh giác anh ta một cách tiêu cực.
Đó là một chút suy diễm thêm về trường hợp người bại liệt 38
năm được chữa lành về phần xác nhưng nếu không khéo lại bị nguy hiểm về phần
hồn. Chúng ta cũng thế, nếu không biết lợi dụng ơn Chúa ban nhưng không,
chúng ta cũng sẽ đi đến chỗ nguy hiểm đến phần rỗi đời đời của chúng ta. Vậy
chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta xứng đáng nhận ơn của Ngài và sử
dụng ơn Ngài cho xứng đáng, cho nên.
Chúc người anh một Mùa Phục Sinh tràn đầy bình an nhé.
Xin cầu cho tôi với.
cao tấn tĩnh
Thứ Tư
Bài Ðọc I: Is 49, 8-15
"Ta đã đặt ngươi nên giao ước của dân, để ngươi phục hưng xứ sở".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Trong thời thuận tiện, Ta đã nghe lời ngươi; trong ngày cứu
độ, Ta đã cứu giúp ngươi; Ta đã gìn giữ ngươi và đã đặt ngươi nên giao ước
của dân, để ngươi phục hưng xứ sở, và thu hồi các tài sản bị phân tán, để
ngươi nói với tù nhân rằng: "Các ngươi hãy ra", và nói với những kẻ ở trong
tối tăm rằng: "Các ngươi hãy ra ngoài sáng". Họ được nuôi dưỡng trên các nẻo
đường, và các đồi trọc sẽ trở thành đồng cỏ. Họ sẽ không còn đói khát nữa,
gió nóng và mặt trời không làm khổ họ, vì Ðấng thương xót họ sẽ là người
hướng dẫn họ và đưa họ đến uống ở suối nước. Ta sẽ biến đổi tất cả các núi
của Ta thành đường đi, và các lối đi của Ta sẽ được bồi đắp cho cao. Này
đoàn người từ xa đến. Kìa những kẻ từ hướng bắc và hướng tây lại, và những
người từ miền nam lên.
Trời hãy ca ngợi, đất hãy nhảy mừng, núi đồi hãy hân hoan chúc tụng! Vì Chúa
đã an ủi dân Người và sẽ xót thương những người cùng khổ.
Nhưng Sion nói: "Chúa bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi". Nào người mẹ có thể
quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù
người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 8-9. 13cd-14. 17-18
Ðáp: Chúa
là Ðấng nhân ái và từ bi (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giầu ân sủng. Chúa hảo tâm
với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
2) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc
Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng
đứng thẳng lên. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối, và thánh thiện trong việc Chúa làm.
Chúa gần gũi mọi kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6, 2
Ðây là lúc thuận tiện. Ðây là ngày cứu độ.
Phúc Âm: Ga 5, 17-30
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con
cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta
cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì
không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là
Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ
rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình
làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng
làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết
mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi
các ngươi sẽ phải thán phục. Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống
lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống
là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con
trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng
Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã
sai Ngài. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng
đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết
mà qua cõi sống. Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay
bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống.
Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa
Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử,
vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi
kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành
thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy. Và án Ta xử thì
công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã lợi dụng chính vấn đề ngày hưu lễ cần phải nghỉ ngơi
theo luật lệ và thông lệ của dân Do Thái để mạc khải cho họ thấy tất
cả ý nghĩa sâu xa về việc làm đối với Đấng hiện hữu luôn sống động
và năng động không bao giờ nghỉ ngơi, như chính Chúa Kitô khẳng định
ở ngày đầu bài Phúc Âm hôm nay: "Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc".
Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho việc "người Do-thái
chống đối (Người) vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát". Nghĩa là
sở dĩ Người "hay chữa bệnh ngày sa-bát" là vì "Cha tôi vẫn
làm việc, thì tôi cũng làm việc". Đúng thế, nếu căn cứ vào luật
phải nghỉ ngày hưu lễ, tức là ngày thứ bảy, là vì ngày thứ bảy là
ngày chính Thiên Chúa đã nghỉ, hoàn toàn không còn tiếp tục việc tạo
dựng của Ngài như 6 ngày trước đó nữa, thì Chúa Giêsu đã làm điều
sai trái, ở chỗ Người chẳng những phạm luật Moisen (cũng là luật
Thiên Chúa ban cho dân do Thái qua ông) mà Người còn không đúng với
ý nghĩa của ngày thứ bảy ban đầu nữa (xem Khởi Nguyên 2:2-3).
Tuy nhiên, nếu hiểu đúng nghĩa của ngày thứ bảy, thời điểm Thiên
Chúa nghỉ việc tạo dựng, nhưng lại là thời điểm được thánh hóa: "Thiên
Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày này..."
(Khởi Nguyên 2:3). Nghĩa là ngày thứ bảy là ngày thánh trong tuần,
ngày để làm những việc thiêng liêng với Chúa và lành thánh với tha
nhân, xa lánh những mối bận tâm trần thế, chỉ chú tâm đến phần hồn
hơn là phần xác (như làm việc xác v.v.). Đó là lý do Kitô giáo đã
giữ ngày Chúa Nhật, thay ngày thứ bảy, vì là ngày thứ nhất trong
tuần, ngày Chúa Kitô phục sinh. Chúa Kitô đến không phải để hủy lề
luật mà làm cho nó nên trọn là như thế và ở chỗ đó.
Con người ta là tạo vật duy nhất được Thiên Chúa dựng nên sau cùng
nhưng lại là loài tạo vật được Ngài chăm chú tạo dựng một cách rất
đặc biệt theo chủ ý riêng của Ngài (xem Khởi Nguyên 1:26-28). Bởi
thế, sau khi tạo dựng nên họ theo hình ảnh của Ngài và tương tự như
Ngài, Ngài đã tiếp tục ở với con người, tiếp tục tỏ mình ra cho họ,
nghĩa là thánh hóa họ, một việc thánh hóa chỉ xẩy ra trong ngày thứ
bảy là thời điểm Ngài nghỉ việc tạo dựng bề ngoài để chuyên vào việc
thánh hóa bề trong, ở chỗ làm cho con người tin vào Ngài, như Chúa
Giêsu đã khẳng định về công việc của Cha Người: "Công
việc của Thiên Chúa đó là hãy tin vào Đấng Ngài sai"
(Gioan 6:29).
Vậy Chúa Giêsu chữa lành trong ngày thứ bảy là một việc rất chính
đáng, chẳng những nên làm mà còn cần phải làm nữa, vì việc chữa lành
của Người hợp với mục đích của ngày thứ bảy là ngày làm việc lành
thánh, ngày thánh hóa con người, để nhờ được chữa lành nạn nhân
đương sự và những ai quen biết đương sự tin vào Người mà được cứu
độ, đúng như bản chất việc làm của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy là
ngày thánh, ngày Ngài thánh hóa con người nơi việc tỏ mình ra của
Con Ngài, Đấng Ngài muốn con người tin tưởng mà được cứu độ và thánh
hóa.
Chúa Giêsu quả thực đã chí lý khi cho dân Do Thái bấy giờ biết lý do
tạo sao Người hay chữa lành vào ngày thứ bảy, đó là vì "Cho đến
nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Trong bài
Phúc Âm hôm nay, ở đoạn ngay sau đó, Người còn cho họ biết "Chúa
Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì
Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy". Chẳng hạn, như
Người trưng dẫn một việc quan trọng và chính yếu nhất của ngày thứ
bảy là ngày thánh hóa đó là: "Chúa Cha cho người chết sống lại và
làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai
sống là tùy ý Người",
nên "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng
đã sai Ta, thì được sống đời đời".
Cho dù việc Người làm phép lạ trong ngày hưu lễ chính đáng và chí lý
mấy đi nữa, đúng như mục đích và ý nghĩa của ngày thứ bảy theo ý
định thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một hành động, theo dân Do
Thái nói chung và thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật trong
dân nói riêng, phạm luật và sai trái, nên Người đã bị "người
Do-thái chống đối", vậy
mà Người
lại còn như đổ thêm dầu vào lửa qua cách xưng hô của Người
với Đấng đã sai Người, mà tình hình căng thăng và đụng độ càng trở
nên kịch liệt hơn nữa, đến độ họ tìm cách sát hại Người, như Thánh
ký Gioan ghi nhận ở ngay câu Người nói: "Bởi
vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những
Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và
như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa".
Thế nhưng
là "ánh
sáng thật soi chiếu mọi người đã đến trong thế gian"
(Gioan 1:9), như "ánh sáng chiếu trong tăm tối, một
thứ tối tăm không át được ánh sáng"
(Gioan 1:5), Chúa Giêsu đã lợi dụng cái tối tăm và lầm lạc của dân
Người nơi chính tình trạng rất đạo đức tốt lành của dân mình, ở chỗ
họ hết sức bảo vệ luật lệ (liên quan đến phép lạ Người làm vào ngày
hưu lễ) và coi trọng phẩm vị cao cả của Thiên Chúa (liên quan đến
lời Người xưng hô với Thiên Chúa), nhưng không hoàn toàn phản ảnh
tất cả sự thật của mạc khải thần linh mà Người là tột đỉnh và là tất
cả.
Bởi thế, qua bài Phúc Âm hôm nay, Người đã chứng thực về Người liên quan đến mối liên hệ mật thiết với Cha của Người là Đấng đã sai Người, bằng cách Người đã nói cho họ biết rõ: Người và Cha cùng làm một việc như nhau (1); Người là hiện thân đại diện của Cha và cho Cha nơi loài người (2), và Người là thừa tác viên ban sự sống của Cha cho loài người (3).
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Turibio Alfonso de Mongrovejo, được sinh ra tại vùng Léon xứ Tây Ban Nha vào khoảng năm 1538; học luật tại Salamanca trước khi trở thành tỉnh trưởng Grenada. Dù được phong thánh từ năm 1726, nhưng việc nhớ đến ngài cũng mới đây thôi.
Thánh Turibio là vị Tông Đồ vĩ đại của Pêru và những vùng Châu Mỹ La Tinh. Đất nước này bị Pizarro chinh phục theo lệnh nhà vua Tây Ban Nha, được vua Philippe II thiết đặt một Tổng Giáo Phận mới tại Lima và Turibio được gọi làm tổng giám mục vào năm 1580, khi ngài còn là giáo dân. Lima được nâng lên thành tòa giám mục vào năm 1541 và thẩm quyền của ngài vươn dài trên tất cả các nước nằm giữa Panama và Rio de La Plata. Địa phận mà ngài lãnh nhận từ năm 1581, trải dài 520 km dọc Thái Bình Dương: đi từ Nicaragua của Paraguay đến Argentina. Từ lúc khởi đầu sứ vụ, thánh Turibio cố gắng triệu tập nhiều Công Đồng và Công Nghị để tạo dựng hàng giáo sĩ và nâng cao nền luân lý của dân chúng, đặc biệt của người Indiens. Ngài những nơi cư trú của dân nghèo địa phương để củng cố họ. Ngài qua đời ngày 23.03.1606 trong một cộng đoàn người Indiens, vào cuối cuộc hành trình mục vụ. Đó là ngày thứ Năm Tuần Thánh. Ngài ao ước trong những giây phút cuối đời, người ta hát cho ngài nghe Thánh Vịnh 115 và 30, có đệm đàn, trong khi người ta giơ Thánh Giá cho ngài. Di hài của ngài được chuyển về Lima vào năm 1607.
2. Thông điệp và tính thời sự
Phụng Vụ gợi lên “những hoạt động Tông Đồ” của thánh Turibio và “tình yêu của ngài đối với chân lý”, đã làm cho Hội Thánh phát triển. Với một lòng can đảm, vị Tân Tổng Giám Mục Lima đảm nhiệm công tác Phúc Âm hóa và canh tân, đối mặt với các gương xấu làm cho sứ vụ của ngài hóa ra khó khăn, cũng như đối mặt với sự kháng cự của chính quyền thực dân và của một số Dòng tu chống lại sự nhiệt tình của ngài. Đối lại với những người kết án ngài cứ theo phong tục, ngài luôn nhắc lại lời của Tertullien: “Đức Giêsu không nói “Tôi là phong tục”, nhưng Người nói “Tôi là chân lý”.
Thánh Turibio rất được người Indiens yêu mến vì ngài nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ của họ. Ngài đã thăm viếng mục vụ 3 lần trong địa phận mênh mông. Ngài thành công tái lập lại kỷ luật khi triệu tập 13 công nghị địa phận và công bố các sắc lệnh của Công Đồng miền; trong đó có Công Đồng Lima vào năm 1582-1583, có thể so sánh với Công Đồng Tridentinô đối với Châu Mỹ La Tinh. Ngài cho thấy mức độ tình yêu của mình trong lúc dịch tả hoành hành đến độ dám hy sinh mạng sống mình vì ơn cứu độ cho đoàn chiên.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV đã so sánh thánh Turibio với thánh Charles Borromêô. Thật vậy, sự quảng đại của ngài đã làm cho dân Chúa được lớn dậy trong “một đức tin và một sự thánh thiện luôn tiến triển”, đã làm cho ngài trở thành một mẫu người truyền giáo. Bản văn được trích dẫn trong Phụng Vụ Giờ Kinh, rút từ các Sắc Lệnh của Công Đồng Vaticanô II (Trách nhiệm mục vụ của các giám mục), khuyến khích các giám mục trình bày giáo lý Kitô giáo có sự hoà hợp và luôn phải bảo vệ. Cũng thế, như tài liệu dạy, “trong việc chuyển đạt, các ngài phải xác tín sự lo lắng của Mẹ Hội Thánh đối với mọi người ...Các ngài phải đặc biệt lo cho người nghèo và người bần khổ”. Các điều này đã được thánh Turibio thực hiện cách tuyệt vời, qua việc mình sống cho mọi người, để canh tân Hội Thánh của Pêru. Trong lo lắng để mang đến cho mọi người ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, thánh Turibio đã trở thành hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Ngài nói: “Thiên Chúa sẽ bảo tôi tường trình mọi hoạt động của tôi, nhất là trong việc thực hành sứ vụ. Ích gì khi tôi cứu được nhiều người, mà lại bỏ sót một người vì lỗi của tôi.”
Enzo Lodi (Nguồn:tgpHaNoi)
https://www.kath-vietnamesen.de/phung-vu-2/23-03-thanh-turibio-mongrovegio-giam-muc-le-nho-tuy-chon/
3- Tiểu sử:
Có những trẻ em như đã biết Chúa làm gì, trong khi những người khác lo tìm
kiếm. Những trẻ này biết an ủi và giúp đỡ người khác. Chẳng hạn dân Mayorga
nước Tây Ban Nha, ngày kia, được thấy một em bé đến bên một phụ nữ đang giận
dữ. Bà này mất một vật mà không mong tìm lại. Đứa trẻ nhã nhặn giải thích
cho bà rằng: đừng nên làm như vậy bởi vì điều đó làm phiền lòng Thiên Chúa.
Đứa trẻ tốt lành và tế nhị này tên là Turibiô, con thứ của lãnh chúa
Mongrôvejô.
Ở trường Valladolid rồi ở Salamanca, Ngài thường nhịn ăn để giúp đỡ người
nghèo, Ngài còn muốn thống hối thay cho các tội nhân đến nỗi Ngài bị buộc
phải bỏ những hy sinh. Người ta có thể tiên đoán là người sẽ thành một tông
đồ bởi Ngài đã biết sống đúng đắn.
Khi đã lớn đủ, cùng với sự khôn ngoan, thông hiểu khá vững chãi, Ngài được
vua Philippê II đặt làm chánh án tòa án Granada. Khi địa phận Lima trống
ngôi năm 1578, thật ngạc nhiên khi người được chỉ định là một giám mục lại
là Turibinô một giáo dân. Nghe tin này, Turibinô khóc ròng, Ngài quì dưới
chân thánh giá viết thư cho nhà vua, trong đó Ngài tự diễn tả như một kẻ thù
tồi tệ của vua vì những bất xứng của mình. Nhưng các lý lẽ ấy đã không lay
chuyển được ai. Ngài thụ phong linh mục rồi giám mục và nhậm địa phận năm
1581.
Địa phận dành cho Turibiô có những khó khăn đến nỗi có thể ngăn chặn Ngài
lại nếu Ngài không phải là một vị thánh. Địa phận có chu vi là sáu trăm dặm,
gồm nhiều thành phố và làng mạc rải rác trên hai dãy núi Andes.
Người Tây Ban Nha khai phá tân thế giới, ức hiếp dân chúng cách man rợ. Muốn
cải hóa bằng roi, họ bắt dân làm nô lệ và muốn khai hóa dân thì họ lại chỉ
thông cho dân những tật xấu của mình. Nhìn dân da đỏ say sưa liên lỉ,
Turibiô không thể cầm được nước mắt Ngài quở trách những người chinh phục vì
những lạm dụng cướp bóc của họ và tuyên cáo rằng: những cớ vấp phạm ấy phải
dừng lại cho chân lý và tình thương ngự trị.
Vị mục tử đi tìm kiếm mọi con chiên của mình. Sa mạc nóng cháy, núi cao
tuyết phủ, thú rừng hung tợn, tất cả đều không làm Ngài nản chí, những người
Tây ban Nha quyền thế trở thành phó vương, rồi đến vua Philippe II, do những
báo cáo sai lầm đã trách cứ Ngài. Nhưng tất cả những lề luật nghiêm khắc đó
đã không làm cho Ngài tháo lui. Ngài biện hộ rằng: Chính Chúa Kitô chứ không
phải thế gian sẽ phán xét Ngài.
Turibiô học ngôn ngữ dân Peru, Ngài dạy dỗ dân da đỏ như một người cha nhân
từ. Lòng bác ái nhân từ của Ngài đối với họ không có giới hạn. Khi Ngài tới
một làng hẻo lánh, dân chúng đổ xô đến với Ngài. Trước hết Ngài thăm hỏi
những người đau yếu và không chữa chạy cho họ được, Ngài dạy cho họ biết
chết lành. Khi phân phát tình yêu Chúa Kitô, Ngài cũng tái lập sự công bình.
Dần dần các thành phố và cả những nơi cô quạnh có người Kitô hữu cư ngụ đông
đảo. Thánh Turibiô thiết lập các chủng viện, các viện cứu tế.
Trong hai mươi lăm năm, Ngài đi thăm viếng giáo phận rộng lớn và hoang dã
của mình ba lần, mỗi lần phải mất tới bảy năm. Ngài kiên trì ngồi tòa mỗi
sáng. Người ta nói rằng: khi cầu nguyện, Ngài tỏa chiếu từ khuôn mặt một tia
sáng siêu nhiên. Mệt nhọc đã là một việc sám hối rồi, Ngài còn hy sinh và ăn
chay thêm nữa. Khi có ôn dịch trong giáo phận, Ngài tăng gấp đôi lời cầu
nguyện hãm mình, Ngài cũng tổ chức nhiều cuộc rước, khi tham dự chính Ngài
rơi lệ uớt cả thánh giá cầm trong tay.
Trong khi bất dầu cuộc kinh lý mớí, Ngài đã ngã bệnh tại Santa, Ngài chỉ
biết lập lại lời thánh Phaolô: “Tôi ao ước thoát khỏi những ràng buộc của
thể xác để kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô”.
Gần chết Ngài xin những người chung quanh hát lời thánh vịnh: - Tôi vui mừng
khi nghe nói cùng tôi: chúng ta đi về nhà Thiên Chúa
Thế là cái chết của Ngài được coi như một thánh lễ. Lời cuối cùng của Ngài
là lời chính chúa Kitô: - Lạy Chúa, con phó thác linh hồn con trong tay
Chúa. Ngài tự đi tới thánh đường Santa để lãnh các bí tích cuối cùng và kết
hiệp với Thánh Thể, Ngài qua đời năm 1606.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-03-thanh-turibio-mogrovejo-giam-muc-1536-1606-53750
LIMA. Trong sứ điệp gửi các GM toàn nước Peru, ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các
giáo phận tại đây hăng say truyền giảng Tin Mừng, theo gương thánh Toribio.
Sứ điệp của ĐTC được gửi tới các GM Peru, công
bố ngày 24-4-2006 tại Vatican, nhân dịp mừng kỷ niệm 400 năm qua đời của
thánh Toribio de Mogrovejo, TGM giáo phận Lima, bổn mạng hàng GM Mỹ châu la
tinh. Các buổi lễ kỷ niệm đã được gửi sự hôm 22-1 năm nay với thánh lễ đồng
tế trọng thể của tất cả các GM Peru tại Nhà thờ chính tòa Lima.
ĐTC cũng đã cử ĐHY Nicholas de Jesus Lopez
Rodriguez, TGM giáo phận Santo Domingo, làm Đặc Sứ của ngài, chủ sự các lễ
nghi kỷ niệm kết thúc, tiến hành từ ngày hôm qua, 24-4, đến 29-4-2006 tại
Lima. Đặc biệt có một hội nghị quốc tế tiến hành từ ngày 24 đến 28-4 này về
đề tài: ”Thánh Toribio de Mogrovejo: mục tử, thánh nhân và ngôn sứ”.
Thánh Toribio sinh năm 1538 tại tỉnh Leon bên
Tây Ban Nha, và tuy là một giáo dân, ngài được vua Filipo II bổ nhiệm làm
chánh án pháp tòa điều tra (Inquisition) tại thành phố Granada. 8 năm sau
đó, ngài được bổ nhiệm làm TGM giáo phận Lima, Peru. Ngài thụ phong trước
khi lên đường sang nhận giáo phận.
Trong sứ điệp gửi các GM Peru, ĐTC đề cao tấm
gương của thánh Toribio xả thân và tận tụy xây dựng và củng cố các cộng đoàn
Giáo Hội. Thánh nhân đã triệu tập Công nghị thứ 3 của giáo tỉnh Lima
(1582-1583), soạn thảo sách giáo lý, và thành lập Đại chủng viện Lima vẫn
còn hoạt động cho đến nay. ĐTC cầu mong chủng viện này tiếp tục mang lại
những hoa trái phong phú, trong một thời đại đang cần cấp thiết thăng tiếng
ở gọi LM và tu sĩ, để đáp ứng trách vụ kiến tạo các cộng đoàn Kitô..
ĐTC nhắc lại rằng: ”Tinh thần truyền giáo sâu xa
của thánh Toribio đã thúc đẩy Người cố gắng học nhiều ngôn ngữ khác nhau để
đích thân rao giảng cho mọi người được ủy thác cho sự săn sóc mục vụ của
Thánh Nhân. Đồng thời Thánh Toribio cũng chứng tỏ lòng tôn trọng phẩm giá
của mọi người, dù họ thuộc giai tầng nào trong xã hội; Người luôn nỗ lực
hoạt động để họ cảm thấy mình thực sự là con cái Thiên Chúa” (SD 24-4-2006)
G. Trần Đức Anh OP
5- “Thánh Turibiô: tấm gương của người mục tử châu Mỹ Latinh”
Bước sang ngày cuối cùng, 21-01, trong chuyến tông du Chilê và Pêru, vào buổi sáng, lúc 10g30, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các giám mục Pêru tại Tòa Tổng giám mục Lima.Tại cuộc gặp, Đức Thánh Cha chia sẻ với các giám mục Pêru những suy tư về Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục giáo phận Pêru và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương về một mục tử hết lòng vì đoàn chiên, chuyên chăm “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh” và không ngừng suy tư, sáng tạo những phương cách truyền giáo mang lại hiệu quả cao nhất. Sau đây là toàn văn huấn từ của Đức Thánh Cha.
Đề tài chuyến tông du này là hiệp nhất và hy vọng. Đề tài này là cả một chương trình tuy đầy thách đố nhưng lại thôi thúc chúng ta, khiến chúng ta nhớ đến những thành tựu đầy quả cảm của Thánh Turibiô Mogrovejo, Tổng giám mục của giáo phận này và là bổn mạng của hàng giám mục châu Mỹ Latinh, tấm gương “xây dựng sự hiệp nhất của Hội thánh”, như Thánh Gioan Phaolô II, vị tiền nhiệm của tôi, đã nói về ngài trong chuyến tông du đầu tiên của ngài đến đất nước này.[1]
Đặc biệt, vị thánh giám mục này vẫn được mô tả là một “Môsê mới”. Như anh em biết, tại Vatican có bức họa Thánh Turibiô băng qua một con sông lớn, nước rẽ ra trước mặt ngài như trong biến cố Biển Đỏ, nhờ đó ngài sang được bờ bên kia, nơi có đông đảo sắc dân bản địa đang đợi ngài. Đằng sau Thánh Turibiô là cả một đoàn người đông đảo, tượng trưng cho đoàn dân trung tín bước theo vị mục tử thực thi sứ mạng Phúc âm hóa.[2] Hình ảnh này có thể dùng làm điểm tựa cho suy tư tôi muốn chia sẻ với anh em. Thánh Turibiô, một con người muốn tới được bờ bên kia.
Chúng ta gặp ngài từ lúc ngài nhận bài sai đến những vùng đất này với sứ mạng làm một người cha và vị mục tử. Ngài rời bỏ sự an toàn của khung cảnh cuộc sống quen thuộc để bước vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ, chưa từng biết đến và đầy thử thách. Ngài lên đường đến vùng đất hứa dưới sự hướng dẫn của đức Tin “một bảo đảm cho những niềm hy vọng” (Dt 11, 1). Đức Tin và sự tín thác vào Chúa đã thôi thúc ngài, khi ấy và suốt quãng đời còn lại, để sang tới bờ bên kia, nơi chính Chúa đang đợi ngài giữa cả một đoàn người đông đảo.
1. Thánh nhân muốn sang bờ bên kia để tìm người xa lạ và kẻ lạc lối. Như vậy, ngài phải bỏ lại đằng sau cuộc sống tiện nghi ở tòa giám mục và ngược xuôi khắp lãnh thổ được trao phó cho mình trong những chuyến đi thăm mục vụ; ngài cố gắng đến thăm và ở lại bất cứ nơi nào đang cần đến ngài! Ngài đi ra gặp gỡ mọi người men theo những con đường, theo lời kể của cha bí thư, dê rừng nhiều hơn người. Turibiô phải đương đầu với khí hậu thất thường và địa hình đủ loại, “trong 21 năm làm giám mục, thì 18 năm sống bên ngoài thành phố, ba lần rảo khắp giáo phận”.[3] Ngài biết đây là cách duy nhất để làm một chủ chăn: sống gần gũi đoàn chiên của mình, ban các bí tích, và không ngừng khuyến khích các linh mục của mình cũng làm như vậy. Ngài không chỉ dùng lời nói, mà còn qua chứng từ, bằng cách đi đầu trong công cuộc Phúc âm hóa. Ngày nay chúng ta có thể gọi ngài là giám mục “đường phố”. Một giám mục mang đôi giày cũ sờn vì cuốc bộ, di chuyển không ngừng, bước ra ngoài để “rao giảng Tin Mừng cho mọi người: ở mọi nơi, trong mọi dịp, không chút chần chừ, miễn cưỡng và sợ hãi. Niềm vui Tin Mừng thì dành cho mọi người: không thể gạt ai ra ngoài”.[4] Thánh Turibiô thấu hiểu điều đó biết bao! Không chút sợ hãi và chần chừ, ngài để mình chìm vào lục địa của chúng ta để loan báo Tin Mừng.
2. Ngài muốn sang tới bờ bên kia không chỉ về mặt địa lý mà còn về phương diện văn hóa. Vì thế, ngài làm nhiều cách để Phúc âm hóa bằng ngôn ngữ của người bản địa. Với Công nghị Lima lần thứ ba, ngài soạn sách dạy giáo lý và dịch sang tiếng Quechua và Aymara. Ngài khuyến khích hàng giáo sĩ học ngôn ngữ của đoàn chiên mình coi sóc để ban các bí tích cho họ cách nào họ hiểu được. Tuy thường thăm viếng và sống với đoàn chiên, nhưng ngài thấy thế vẫn chưa đủ, vì mới chỉ hiện diện bằng thể xác, mà còn phải học ngôn ngữ của mọi người, vì chỉ bằng cách này, họ mới hiểu Tin Mừng và để Tin Mừng chạm vào cõi lòng họ. Đường hướng này cần thiết cho chúng ta biết bao, những mục tử của thế kỷ hai mươi mốt! Bởi vì chúng ta đang phải học những ngôn ngữ hoàn toàn mới, chẳng hạn, ngôn ngữ kỹ thuật số của thời đại chúng ta. Học để biết ngôn ngữ hiện nay của giới trẻ, của các gia đình, của con cái chúng ta… Như Thánh Turibiô, không những phải hiểu rõ, hiện diện và chiếm lĩnh không gian, mà còn phải có khả năng xây dựng phương pháp tiếp cận cuộc sống con người, để đức Tin có thể bén rễ và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Để làm điều đó, chúng ta phải nói được ngôn ngữ của họ. Chúng ta phải đến được những nơi có những câu chuyện và những loại hình mới đang sinh sôi nảy nở, để mang lời Chúa Giêsu đến tận trái tim các thành phố và người dân chúng ta.[5] Việc Phúc âm hóa nền văn hóa đòi hỏi chúng ta phải bước vào tận thâm sâu của nền văn hóa đó, khai sáng nó tận bên trong bằng Tin Mừng.
3. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia của đức ái. Đối với vị thánh bổn mạng của chúng ta, không thể Phúc âm hóa mà không có đức ái. Ngài hiểu rằng hình thức cao nhất của Phúc âm hóa là cuộc sống chúng ta phải noi theo gương Chúa Giêsu tự hiến mình vì yêu thương mọi người nam nữ. Bằng cách này sẽ nhận ra được con cái Thiên Chúa và con cái sự dữ: tất cả những ai không thực hành sự công chính đều không xuất phát từ Thiên Chúa, và những ai không yêu thương anh em, chị em mình, thì cũng vậy (x. 1 Ga 3, 10). Trong những chuyến thăm viếng mục vụ, ngài thấy những lạm dụng và hà khắc mà người bản địa phải gánh chịu, nên vào năm 1585, ngài đã không chùn tay ra vạ tuyệt thông cho viên Corregidor (quan Án sát) ở Catajambo, tự đặt mình vào thế chống lại toàn bộ hệ thống tham quan nhũng lại và cả một mạng lưới lạm quyền, chính vì thế “ngài lãnh đủ sự thù hằn của nhiều người”, trong đó có viên Phó vương.[6]Chúng ta thấy, người mục tử là thế đó, là người hiểu rằng không bao giờ điều tốt đẹp phần hồn lại tách khỏi điều tốt đẹp phần xác, hơn nữa, khi danh dự và phẩm giá con người bị đe dọa. Tinh thần ngôn sứ của vị giám mục là: không sợ tố cáo những lạm dụng và sự hà khắc đối với dân mình. Qua đó, Thánh Turibiô lưu ý toàn thể xã hội và từng cộng đồng rằng đức ái bao giờ cũng đi đôi với công bình. Đồng thời không thể thật sự Phúc âm hóa nếu không vạch trần và lên án mọi tội lỗi chống lại sự sống của anh chị em mình, nhất là những người dễ bị tổn thương nhất.
4. Thánh Turibiô muốn sang tới bờ bên kia trong việc đào tạo hàng linh mục của mình. Ngài thành lập chủng viện đầu tiên theo tinh thần hậu công đồng Triđentinô tại phần đất này của thế giới, nhờ đó đã khuyến khích việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ngài nhận thấy việc đi thăm khắp nơi và nói cùng một ngôn ngữ thì không đủ: Giáo hội cần gầy dựng các mục tử người địa phương của mình và từ đó trở thành người mẹ sinh nhiều con cái. Để đạt mục tiêu này, ngài bảo vệ việc truyền chức linh mục cho các mestizos (thổ dân lai da trắng) – một vấn đề gây tranh cãi hồi đó – và tìm cách cho mọi người thấy rằng: nếu hàng giáo sĩ cần phải trổi vượt trong bất cứ lĩnh vực nào, thì vì sống thánh thiện chứ không phải do nguồn gốc chủng tộc.[7] Việc đào tạo này không giới hạn trong việc học hành ở chủng viện, mà còn được tiếp tục qua những cuộc thăm viếng mục vụ không ngừng của ngài. Tại những nơi đến thăm, ngài có thể thấy tận mắt “tình trạng các linh mục của mình” và nói cho họ biết những lưu ý của mình. Người ta thuật lại câu chuyện vào đêm Vọng Giáng sinh, người chị gái tặng ngài một chiếc áo mặc trong các dịp lễ. Ngay hôm đó, ngài đi thăm một linh mục, và thấy hoàn cảnh sống của vị linh mục này, ngài đã lấy chiếc áo vừa được tặng đem biếu vị linh mục.[8] Từng làm cha sở, nên ngài hiểu các linh mục của mình. Vị mục tử cố gắng đi thăm các linh mục, đồng hành, khích lệ và góp ý với các ngài. Ngài nhắc các linh mục nhớ mình là mục tử chứ không phải người trông coi cửa hàng, vì vậy phải chăm sóc và bảo vệ đoàn chiên indios như con mình.[9] Ngài không ngồi bàn giấy mà thực hiện điều đó, nên biết rõ đoàn chiên của mình và đoàn chiên nhận ra tiếng ngài, đó là tiếng của người mục tử nhân lành.
5. Ngài muốn sang tới bờ bên kia của sự hiệp nhất. Với một cách thức đáng khâm phục và mang tính tiên tri, ngài thực hiện việc mở ra các khả năng cho những thành phần khác nhau trong cộng đoàn dân Chúa được hiệp thông với nhau và tham gia vào việc chung. Thánh Gioan Phaolô II đề cập đến việc này khi nói chuyện với các giám mục Pêru; ngài lưu ý: “Công nghị Lima lần thứ ba chính là kết quả của nỗ lực đó, được thánh Turibiô hướng dẫn, khích lệ và chỉ đạo; công nghị mang lại hoa trái dồi dào là sự hiệp nhất trong đức Tin, những chuẩn mực mục vụ và tổ chức, và quan điểm thiết thực về việc hội nhập châu Mỹ Latinh như từng mong ước”[10] Chúng ta biết rất rõ sự hiệp nhất và đồng thuận này đạt được từ một bối cảnh căng thẳng với những xung đột gay gắt. Chúng ta không thể phủ nhận những căng thẳng và khác biệt; cuộc sống không thể không có sự xung khắc. Tuy nhiên chúng đòi hỏi chúng ta, là con người và là Kitô hữu, phải đương đầu và đối phó với chúng. Nhưng để đối phó với chúng trong tinh thần hiệp nhất, trung thực và đối thoại chân thành, mặt đối mặt, thì phải lưu ý đừng rơi vào cám dỗ lãng quên quá khứ, hoặc cứ bị giam cầm trong quá khứ, thiếu tầm nhìn để xem xét những con đường dẫn đến hiệp nhất và hòa bình. Công nghị đó là nguồn mang lại sự khích lệ trong cuộc hành trình của Hội đồng Giám mục chúng ta, để biết rằng sự hiệp nhất luôn chiếm ưu thế so với xung đột.[11] Anh em hãy lưu tâm xây dựng sự hiệp nhất. Đừng giam mình mãi trong những chia rẽ phát sinh bè phái và ngăn cản ơn gọi của chúng ta là trở nên bí tích hiệp thông. Anh em hãy nhớ: sức thu hút của Giáo hội tiên khởi là nhờ các tín hữu yêu thương nhau. Đó chính là – hiện tại và mai sau vẫn là – cách tốt nhất để Phúc âm hóa.
6. Đã đến lúc Thánh Turibiô tới bến bờ cuối cùng, tới miền đất ngài đã nếm trước tại mỗi bờ bến ngài để lại sau lưng. Nhưng lần này, ngài không một mình rời bến. Như trong bức họa tôi đã nhắc đến trên đây, ngài đi gặp các thánh được cả một đoàn người đông đảo vây quanh. Ngài là vị mục tử chất vào “túi xách của mình” các tên tuổi và những gương mặt. Họ là giấy thông hành đưa ngài về trời. Tôi không muốn bỏ qua giai điệu cuối cùng này, giây phút vị mục tử trao linh hồn mình cho Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện điều đó giữa dân mình, rồi một thổ dân tấu lên khúc sáo chirimíagiúp linh hồn ngài được thư thái bình an. Thưa anh em, mong sao lúc chúng ta bước vào cuộc hành trình cuối cùng này, chúng ta cũng được như vậy. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta được hồng phúc ấy.[12]
Thứ Năm
Bài
Ðọc I: Xh 32, 7-14
"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà
ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã
chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng
đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa
ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy
rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ
với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một
dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi
cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra
khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo
dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa
nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ
đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng:
"Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ
ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi
sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều
dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng.
Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng
đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và
những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa
chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt
họ. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối
và được sống".
Phúc Âm: Ga 5, 31-47
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về
Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta,
và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi
Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của
loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan
là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời
gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha
đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm
chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính
Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng
Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng
giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra
cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn
đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu
đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không
chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ
đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm
vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các
ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các
ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin
Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta.
Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi
tin lời Ta được?"
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Thứ Năm trong Tuần IV Mùa Chay hôm nay, phụng vụ lời Chúa bề ngoài có vẻ liên quan đến hiện tượng hay khuynh hướng ngẫu tượng nơi dân Do Thái, cả Cựu Ước lẫn vào thời Chúa Kitô, nhưng sâu xa liên quan đến mạc khải thần linh của Thiên Chúa, một mạc khải thần linh đã đạt đến tột đỉnh ở nơi bản thân của Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại là một mạc khải thần linh bị chính dân Người chống đối và trù dập.
Ở ngay đầu đoạn cuối của bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã công khai và
thẳng thắn cho chung dân Do Thái đang tụ tập lại nghe Người bấy giờ biết
chính vì cái khuynh hướng trần tục của họ đã trở thành lý do tại sao họ
không thể nào có thể chấp nhận được chứng từ chân thực của Người về Người:
Thứ Sáu
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Kn 2, 1a. 12-22
"Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã".
Trích sách Khôn Ngoan.
Những kẻ gian ác suy nghĩ chín chắn, đã nói rằng: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ
công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng
ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật. Nó tự
hào mình biết Thiên Chúa và tự xưng là con Thiên Chúa. Chính nó là sự tố cáo
những tư tưởng của chúng ta. Vì nguyên việc thấy nó, chúng ta cũng cáu, thấy
bực mình, vì nếp sống của nó không giống như kẻ khác, và đường lối của nó
thì lập dị. Nó kể chúng ta như rơm rác, nó xa lánh đường lối chúng ta như xa
lánh những gì dơ nhớp, nó thích hạnh phúc cuối cùng của người công chính, nó
tự hào có Thiên Chúa là Cha. Vậy chúng ta hãy xem coi điều nó nói có thật
hay không, hãy nghiệm xét coi những gì sẽ xảy đến cho nó, và hãy chờ xem
chung cuộc đời nó sẽ ra sao. Vì nếu nó thật là con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh
vực nó, sẽ giải thoát nó khỏi tay những kẻ chống đối nó. Chúng ta hãy nhục
mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy
kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu
nó!" Chúng nghĩ như vậy, nhưng chúng lầm, vì tội ác của chúng đã làm cho
chúng mù quáng. Và chúng không biết ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa, nên
cũng chẳng hy vọng phần thưởng công chính, và chúng cũng không ưa thích vinh
dự của những tâm hồn thánh thiện.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 17-18. 19-20. 21 và 23
Ðáp: Chúa
gần gũi những kẻ đoạn trường (c. 19a).
Xướng: 1) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần
ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu
lo. - Ðáp.
2) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương
dập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải
thoát. - Ðáp.
3) Ngài gìn giữ họ xương cốt vẹn toàn, không để cho một cái nào bị gãy. Chúa
cứu chữa linh hồn tôi tớ của Ngài, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Ngài,
người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 94, 8ab
Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng, nhưng hãy nghe tiếng Chúa phán.
Phúc Âm: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ
Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của
người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi,
nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết
sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà
chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta
biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết
Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói
rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta
mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng
Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm
cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
cho dù Chúa Kitô có làm chứng về Người thế nào chăng nữa,
dân chúng vẫn không thể nào tin tưởng được Người là Đấng Thiên Sai của họ
Ngày 25 tháng 3
LỄ TRUYỀN TIN
lễ trọng
Phụng Vụ Giờ Kinh
Loài người mê muội tối tăm
Bao đời u uất bao năm đui mù,
Sắt đồng đá gỗ trơ trơ,
Cũng tin là “Chúa” cũng thờ như “cha”.
Bao lâu tin quấy thờ tà,
Bấy lâu phó mặc quỷ ma cầm đầu,
Cuộc đời thân phận ngựa trâu,
Chết đi muôn kiếp chìm sâu ngục hình.
Nhưng Con Thiên Chúa chẳng đành,
Để cho ma quỷ mặc tình hại ta,
Công trình tạo dựng của Cha,
Lẽ nào đổ vỡ tiêu ma dưới trần.
Nên Ngài mặc xác phàm nhân
Cho người dương thế thông phần phục sinh,
Cùm gông thần chết tan tành,
Phàm nhân lên ở thiên đình cùng Cha.
Hôm nay vũ trụ sum hoà,
Ánh hồng rực rỡ bông hoa tươi cười,
Mừng Con Chúa đã vào đời,
Ẩn thân trong dạ một người Nữ Trinh.
Kỷ nguyên mới đẹp bình minh,
Hoàng kim thời đại thành hình vẻ vang,
Phàm nhân gặp gỡ Thiên Hoàng,
Trần ai gần gũi thiên đàng từ đây.
Giê-su, xin hát dâng Ngài,
Là Con Thánh Mẫu trọn đời đồng trinh,
Muôn câu hát, vạn lời kinh,
Cùng dâng Thánh Phụ, Thánh Linh muôn đời.
Bí tích giao hoà của chúng ta
Trích thư của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.
Đấng uy nghi đã nhận lấy thân phận thấp hèn ; Đấng quyền năng nhận kiếp người yếu đuối ; Đấng hằng hữu nhận xác phàm phải chết. Để trả món nợ mà những kẻ mang thân phận làm người như chúng ta mắc phải, bản tính bất khả tổn thương đã phối hợp với bản tính có thể chịu đau khổ. Như thế, Vị Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, là con người Giê-su Ki-tô, vừa có thể chết, lại vừa không thể chết ; và đó chính là phương dược cứu chữa chúng ta.
Thế nên Đấng là Thiên Chúa thật đã mang lấy đầy đủ và nguyên vẹn bản tính của một con người thật mà sinh ra. Người vẫn hoàn toàn là Thiên Chúa, đồng thời cũng hoàn toàn là người như chúng ta. Tôi nói “là người như chúng ta” theo nghĩa là như những gì Đấng Tạo Hoá đã dựng nên nơi chúng ta từ thuở ban đầu và cũng là những gì Người đã nhận lấy để tái tạo.
Vì nơi Chúa Cứu Thế, không có dấu vết của những gì mà tên lừa gạt đã đưa vào thế gian và con người bị lừa gạt đã mắc phải. Cho nên, dẫu Người chấp nhận chia sẻ thân phận mỏng giòn của phàm nhân chúng ta, Người vẫn không thông phần vào tội lỗi của chúng ta.
Người đã mặc lấy thân nô lệ mà không nhiễm vết nhơ tội lỗi, đã nâng cao nhân tính mà không hạ thấp thần tính : Đấng Tạo Hoá và Chủ Tể muôn loài đã muốn trở nên một người giữa những người có sinh có tử, nên đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, và nhờ đó, vốn là Đấng vô hình, Người đã hoá nên hữu hình cho chúng ta được thấy. Nhưng trút bỏ vinh quang như thế là Người đã rủ tình thương xót mà hạ cố, chứ không phải là Người đã bị mất quyền năng. Vậy Đấng, trong uy thế của một vì Thiên Chúa, đã làm ra con người, cũng chính là Đấng nay làm người trong thân phận của một kẻ tôi tớ.
Thế là Con Thiên Chúa đã đi vào hạ giới của chúng ta. Người từ ngai trời mà xuống, nhưng không rời bỏ vinh quang của Cha. Người được sinh ra theo một lối sinh khác để đi vào một thế giới khác.
Nói là “vào một thế giới khác”, vì trong giới Thiên Chúa, Người vô hình, còn trong giới phàm nhân, Người hữu hình. Đấng vô biên đã muốn trở thành hữu hạn. Đấng vẫn hiện hữu trước thời gian đã bắt đầu hiện diện từ một thời điểm. Đấng là Chúa Tể càn khôn đã mặc lấy thân nô lệ, che giấu hết uy quyền vô biên của mình. Đấng là Thiên Chúa không thể chịu đau khổ, đã chẳng quản nên người phàm có thể chịu khổ đau. Và Đấng bất tử đã chẳng nề chấp nhận luật tử sinh.
Quả thế, Đấng thật sự là Thiên Chúa cũng thật sự là con người, và sự phối hợp này không có chi dối trá, vì giữa phận hèn phàm nhân và thần tính cao cả vẫn có một quan hệ hỗ tương.
Thiên Chúa vẫn nguyên vẹn là Thiên Chúa khi Người cúi xuống xót thương. Cũng vậy, con người không mất tư chất của mình khi phẩm vị được nâng lên. Cả hai bản tính cùng hoạt động, nhưng lại thông hiệp với nhau. Đó là một điều đặc biệt : Ngôi Lời vẫn hoạt động theo bản tính của Ngôi Lời, còn xác phàm vẫn theo bản tính xác phàm.
Một đàng rạng ngời vinh quang vì phép lạ, một đàng quỵ ngã vì nhục hình. Ngôi Lời không mất đi vinh quang ngang hàng với Cha thế nào, thì xác phàm của Người cũng không rời bỏ bản tính nhân loại của chúng ta như thế.
Phải nhắc đi nhắc lại rằng Người chỉ là một hữu thể duy nhất, vừa thật sự là Con Thiên Chúa, vừa thật sự là con của loài người. Người là Thiên Chúa, bởi lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Người là một con người, bởi Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
XLạy Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, xin nhậm lời Chúa do thiên sứ truyền lại : Này đây bà sẽ thụ thai và sinh con, và con bà sinh hạ vừa là Thiên Chúa, vừa là người. Lạy Mẹ Ma-ri-a,
Đchính vì thế, Mẹ được ngợi khen là có phúc hơn mọi người phụ nữ.
XMẹ sẽ thụ thai, nhưng vẫn mãi tinh tuyền, Mẹ sẽ sinh con, nhưng vẫn luôn trinh khiết.
Đchính vì thế, Mẹ được ngợi khen là có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Rực rỡ ngày lên báo tin lành,
Thiên thần mang đến Mẹ Đồng Trinh
Lời Thiên Chúa hứa và thực hiện
Cho cả trần gian hưởng thái bình.
Đấng tự ngàn đời đã sinh ra
Từ lòng muôn thuở Chúa Ngôi Cha,
Giáng trần phải chọn người thân mẫu
Sống kiếp phàm nhân chẳng nề hà.
Chân Lý ngàn thu nay nhập thể
Trong lòng Trinh Nữ chẳng ai ngờ,
Chỉ hồn trong trắng được chiêm ngưỡng,
Xin giãi sáng vào cõi bùn nhơ.
Được phúc cưu mang Đấng Cửu Trùng,
Dẫu là tỳ nữ rất khiêm cung,
Giờ đây Bà Chúa trên Thiên Quốc
Xin Mẹ hằng thương chúng con cùng.
Muôn tiếng ngợi khen dâng kính Chúa
Giáng trần sinh bởi Mẹ Đồng Trinh.
Ngài cùng Thánh Linh và Thánh Phụ
Thiên thu hiển trị cõi thiên đình.
Khắp cả trần gian hãy biết rằng
Tin Mừng giải thoát đã tràn lan,
Sau thời nô lệ đầy tăm tối
Đến lúc tự do ngập huy hoàng.
Lời sấm bao đời của Ê-sai
Về người Trinh Nữ, ứng nghiệm thay !
Thiên thần loan báo, và Trinh Nữ
Nhờ Chúa Thánh Linh, đã thụ thai.
Lời Chúa, Mẹ tin rất vững vàng,
Nay thành mầm sống Mẹ cưu mang,
Đấng trời cùng đất không chứa nổi,
Giờ hoá thai nhi sống ẩn tàng.
Này A-đam mới rửa tinh tuyền
Những gì nhơ nhớp bởi tội nguyên,
Tổ phụ kiêu căng làm đổ vỡ,
Cháu con khiêm tốn dựng xây lên.
Chúc tụng Ngôi Cha, Đấng tạo thành,
Hát mừng Thánh Tử, Vị Cứu Tinh,
Đấng đầu thai xuống lòng Trinh Nữ
Do bởi phép mầu Chúa Thánh Linh.
Hôm nay Thiên Chúa sai thiên sứ báo tin vui cứu độ cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Vậy ta hãy tha thiết nguyện cầu :
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ Chúa Cứu Thế, - xin rủ tình thương tất cả những ai đang mong chờ ơn cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Chúa đã sai thiên sứ Gáp-ri-en báo tin mừng bình an cho Đức Mẹ, - xin cho toàn thế giới nhìn nhận rằng Con Một Người chính là Đấng nhân loại đợi trông.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã cho Ngôi Lời đến ngự trong lòng Đức Mẹ để ở giữa chúng con, - xin cho chúng con biết noi gương Đức Mẹ mà đón rước Ngôi Lời của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Chúa là Đấng thương xót kẻ nghèo hèn, và ban của đầy dư cho người đói khổ, - xin nâng đỡ những ai kiệt sức, trợ giúp kẻ cơ bần và an ủi người đang hấp hối.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Chỉ mình Chúa thực hiện những kỳ công vĩ đại, - xin thương cứu chúng con trong ngày Chúa cho kẻ chết được phục sinh.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được đầy tràn ân sủng.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a để cứu độ loài người. Này chúng con tuyên xưng Đấng Cứu Độ là Thiên Chúa thật và là người thật, xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 7, 10-14
"Này trinh nữ sẽ thụ thai".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa phán bảo vua Achaz rằng: "Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới lòng đất hay ở trên trời cao!" Nhưng vua Achaz thưa: "Tôi sẽ không xin, vì tôi không dám thử Chúa". Và Isaia nói: "Vậy nghe đây, hỡi nhà Ðavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư, mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
2) Như trong cuốn sách đã chép về con, lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và luật pháp của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
4) Con chẳng có che đậy đức công minh Chúa trong lòng con; con đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ Chúa; con đã không giấu giếm gì với đại hội về ân sủng và lòng trung thành của Chúa. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 10, 4-10
"Ở đoạn đầu cuốn sách đã viết về tôi là, lạy Chúa, tôi thi hành thánh ý Chúa".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, máu bò và dê đực không thể xoá được tội lỗi. Vì thế, khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho con một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên con nói: Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về con ở đoạn đầu cuốn sách. Sách ấy bắt đầu như thế này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật". Ðoạn Người nói tiếp: "Lạy Chúa, này con đến để thi hành thánh ý Chúa". Như thế đã bãi bỏ điều trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hoá nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia hoặc Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 1, 14ab
(Mùa Chay: bỏ Alleluia)
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người. -Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ". Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt Bà.
Ðó là lời Chúa.
"Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này"
ĐTC Biển Đức XVI chủ tế và giảng lễ Thánh Lễ Đồng Tế Với Tân 15 Hồng Y Thứ Bảy Lễ Mẹ Thai Lời ngày 25/3/2006 tại Quảng Trường Thánh Phêrô
Quí Hồng Y và Thượng Phụ thân mến,
Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm và Linh Mục,
Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô!
Tôi cảm thấy hết sức hân hoan chủ sự đồng tế này với các vị tân hồng y sau cuộc mật nghị hồng y hôm qua, và tôi thấy là thích đáng thực hiện cuộc mật nghị hồng y này vào ngày lễ trọng Truyền Tin. Thật vậy, trong việc nhập thể của Con Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy nguồn gốc của Giáo Hội. Hết mọi sự được bắt đầu từ đó. Hết mọi sự hiện thực của Giáo Hội về lịch sử và từng cơ cấu thuộc tổ chức Giáo Hội cần phải được hình thành bởi nguồn mạch nguyên khởi này.
Chúng phải được hình thành bởi Chúa Kitô, Lời nhập thể của Thiên Chúa. Chính Người là Đấng chúng ta liên lỉ chúc tụng là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Đấng mà nhờ Người ý muốn cứu độ của Thiên Chúa Ngôi Cha được hoàn tất. Tuy nhiên, ngày của mọi ngày hôm nay đây chúng ta chiêm ngưỡng khía cạnh này của mầu nhiệm ấy – khía cạnh suối nguồn thần linh tuôn chảy qua một mạch nước đặc biệt đó là Trinh Nữ Maria. Thánh Bênađô đã nói về điều này bằng hình ảnh ‘aquaeductus’ sống động (cf. "Sermo in Nativitate B.V. Mariae": PL 183, 437-448). Thế nên, khi cử hành việc nhập thể của Người Con, chúng ta không thể không tôn vinh Mẹ của Người.
Lời thiên thần loan báo cho Mẹ, Mẹ đã chấp nhận, và khi Mẹ đáp lại bằng tất cả tâm hồn của mình là ‘Này tôi… xin vâng như lời ngài truyền’ (Lk 1:38), thì Lời hằng hữu bắt đều hiện hữu như là một con người trong thời gian.
Mầu nhiệm khôn lường này không ngừng trở thành những gì là bàng hoàng ngỡ ngàng từ đời nọ đến đời kia. Thánh Âu Quốc Tinh tưởng tượng ra một cuộc đối thoại giữa ngài và vị thiên thần Truyền Tin, khi đặt vấn đề là: ‘Ôi Thiên Thần, xin nói cho tôi hay là tại sao điều này đã xẩy ra nơi Mẹ Maria?’ Câu trả lời được vị thiên sứ đáp lại chất chứa chính những lời chào kính: ‘Kính mừng đầy ơn phúc’ (x Sermo 291.6). Thật vậy, vị thiên thần, ‘khi hiện ra với Mẹ’, đã không gọi Mẹ theo tên trần gian của Mẹ là Maria, mà bằng tên thần linh của Mẹ, ‘Đầy ơn phúc – gratia plena’, một tên theo nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là ‘yêu dấu’ (x Lk 1:28) vì Mẹ luôn được Thiên Chúa biết đến và mang dấu vết Thiên Chúa. Giáo phụ Origen đã nhận định rằng không có danh xưng nào như thế được ban cho bất cứ một con người nào, và là một danh xưng duy nhất trong toàn bộ Thánh Kinh (cf ‘In Lucam’ 6:7).
Nó là một danh hiệu ở thể thụ động, thế nhưng ‘cái thụ động’ này của Mẹ Maria, Vị luôn được và đang được Chúa mãi mãi ‘yêu thương’, bao gồm việc tự do ưng thuận của Mẹ, việc đáp ứng cá nhân và nguyên vẹn của Mẹ: Khi được yêu thương, Mẹ Maria hoàn toàn chủ động, vì Mẹ chấp nhận một cách quảng đại làn sóng yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên Mẹ. Cả ở việc này nữa, Mẹ cũng là người môn đệ trọn hảo của Con Mẹ, Đấng hiện thực tất cả tự do của mình qua việc tuân phục Chúa Cha.
Trong bài đọc thứ hai, chúng ta nghe một đoạn tuyệt vời được tác giả của bức Thư gửi Do Thái viết khi dẫn giải Thánh Vịnh 39 theo ý nghĩa nhập thể của Chúa Kitô: “Khi Chúa Kitô vào trần gian, Người đã thưa… ‘Này Con đây, Con xin đến để làm theo ý Cha, Ôi Thiên Chúa’” (10:5-7). Trước mầu nhiệm của hai lời ‘Này con đây’ của Chúa Kitô và Vị Trinh Nữ, lời này phản ảnh trong lời kia, làm nên câu Amen duy nhất dâng lên ý muốn yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta cảm thấy đầy những ngỡ ngàng và tri ân cảm tạ, và chúng ta cúi mình xuống tôn thờ.
Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’.
Trong linh đạo của ngài, cũng như trong thừa tác vụ liên lỉ của ngài, sự hiện diện của Mẹ Maria như là Người Mẹ và là Nữ Vương của Giáo Hội đã trở thành hiển nhiên trước mắt mọi người. Nhất là ngài đã quảng bá sự hiện diện từ mẫu của Mẹ nơi vụ ám sát ngày 13/5/1981 ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Để tưởng nhớ biến cố bi thương này, ngài đã đặt một bức ảnh Đức Trinh Nữ bằng vi thạch ghép trên cao Tông Dinh Giáo Hoàng, nhìn xuống Quảng Trường Thánh Phêrô, để hỗ trợ những giây phút chính yếu và diễn tiến hằng ngày cho giáo triều dài lâu của ngài. Đúng một năm từ khi giáo triều của ngài đi vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn vượt qua đầy khổ đau nhưng thực sự là vinh thắng. Tấm hình Truyền Tin, hơn bất cứ tấm hình nào khác, giúp chúng ta thấy rõ lý do tại sao hết mọi sự trong Giáo Hội trở về với mầu nhiệm Mẹ Maria chấp nhận Lời thần linh, nhờ đó, qua tác động của Thánh Linh, giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại mới được hoàn toàn niêm ấn.
Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này, trong chân trời đầy ân phúc của lời Mẹ ‘xin vâng’ theo ý muốn của Thiên Chúa. Mối liên hệ này với Mẹ Maria tự nhiên khơi lên trong tất cả chúng ta một âm hưởng rất mến thương, thế nhưng, trước hết nó có một giá trị khách quan. Giữa Mẹ Maria và Giáo Hội thực sự có một mối liên hệ tự nhiên, được Công Đồng Chung Vaticanô II nhấn mạnh qua quyết định khéo léo của mình, trong việc đưa phần về Đức Trinh Nữ vào đoạn kết của hiến chế ‘Ánh Sáng Muôn Dân’ về Giáo Hội.
Đề tài về mối liên hệ giữa nguyên tố Phêrô và nguyên tố Thánh Mẫu cũng được thể hiện nơi biểu hiệu chiếc nhẫn mà tôi sắp sửa trao cho chư huynh. Chiếc nhẫn này luôn là dấu hiệu của hôn ước. Hầu hết tất cả chư huynh đã được một chiếc nhẫn vào ngày được tấn phong lên hàng giáo phẩm, như biểu lộ lòng trung thành và việc dấn thân của chư huynh trong vấn đề trông coi Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô (x. Nghi Thức Tấn Phong Giám Mục). Chiếc nhẫn tôi trao cho chư huynh hôm nay đây, chiếc nhẫn hợp với phẩm tước hồng y, là để xác nhận và củng cố việc dấn thân ấy, việc dấn thân cũng xuất phát từ tặng ân hôn ước, từ việc nhắc nhở cho chư huynh nhớ rằng trước hết và trên hết chư huynh cần phải mật thiết kết hợp với Chúa Kitô để hoàn thành sứ vụ của chư huynh là thành phần phù rể của Giáo Hội.
Chớ gì việc chư huynh chấp nhận chiếc nhẫn này, đối với chư huynh, là việc chư huynh lập lại tiếng ‘xin vâng’ của mình, tiếng ‘này con đây’ của chư huynh, ngỏ cả cùng Chúa Giêsu là Đấng đã chọn chư huynh và ủy nhiệm chư huynh, lẫn Giáo Hội, một Giáo Hội chư huynh được kêu gọi để phục vụ bằng tình mến yêu của một người bạn đời. Bởi vậy mà hai chiều kích của Giáo Hội là Thánh Mẫu và Phêrô, gặp nhau ở giá trị cao cả của ‘đức ái’ là đức làm trọn mỗi nguyên tố. Thánh Phaolô nói rằng đức ái là đặc sủng ‘cao trọng nhất’, là ‘đường lối tuyệt hảo nhất’ (1Cor 12:31,13:13).
Hết mọi sự trên thế giới này sẽ qua đi. Trong cõi vĩnh hằng chỉ có tình yêu mới tồn tại mà thôi. Vì lý do này, Chư Huynh thân mến, lợi dụng dịp thuận lợi của mùa Chay này, chúng ta hãy quyết tâm bảo đảm là hết mọi sự trong đời sống riêng tư của mình, cũng như trong hoạt động của Giáo Hội chúng ta tham phần, đều được tác động bởi đức ái và dẫn tới đức ái. Cả về khía cạnh này nữa, chúng ta được chiếu soi bởi mầu nhiệm chúng ta đang cử hành hôm nay đây. Thật vậy, việc đầu tiên Mẹ Maria làm sau khi lãnh nhận sứ điệp của Thiên Thần là ‘vội vã’ lên đường tới nhà của người chị họ Isave để phục vụ người chị này (x Lk 1:39).
Động tác của Vị Trinh Nữ này là một động tác của đức ái chân thực, một động tác khiêm tốn và can đảm, được tác động bởi niềm tin tưởng vào lời Chúa và được Thánh Linh động viên trong lòng. Những ai yêu thương thì quên mình và dấn thân phục vụ tha nhân.
Ở đây chúng ta có được hình ảnh và mô phạm của Giáo Hội! Hết mọi cộng đồng giáo hội, như Người Mẹ của Chúa Kitô, đều được kêu gọi hoàn toàn quảng đại chấp nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa là Đấng đến ngự trong Mẹ và dẫn Mẹ bước đi trên con đường yêu thương. Đó là con đường tôi đã chọn để khai triều của mình, khi mời gọi mọi người, bằng bức thông điệp đầu tiên của mình, trong việc xây dựng Giáo Hội trong đức ái như một ‘cộng đồng yêu thương’ (x Thiên Chúa Là Tình Yêu, phần 2).
Trong việc theo đuổi mục tiêu này, Chư Huynh Hồng Y khả kính, việc gắn bó về tinh thần và việc chủ động hỗ trợ của chư huynh là những gì hỗ trợ và an ủi tôi rất nhiều. Tôi cám ơn chư huynh về điều ấy, đồng thời tôi mời gọi tất cả mọi người trong chư huynh, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, hãy liên kết với nhau trong việc kêu cầu Thánh Linh, xin cho Hồng Y Đoàn được nhiệt thành hơn trong đức ái mục vụ, hầu giúp cho toàn thể Giáo Hội chiếu rạng tình yêu của Chúa Kitô trên thế giới, để chúc tụng và tôn vinh Ba Ngôi Chí Tháhh. Amen!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/3/2006
Thứ Bảy
(Nếu không bị át bởi Lễ trọng kính Đức Mẹ Thụ
Thai Lời Nhập Thể 25/3 như năm 2023 này)
Lời
Chúa
Bài Ðọc I: Gr 11, 18-20
"Con như chiên con hiền lành bị đem đi giết".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Lạy Chúa, Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những
mưu toan của chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con
đã không biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: "Chúng ta hãy bỏ cây vào
bánh của nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không
còn nhớ đến tên nó nữa".
Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công minh, và dò xét tâm can. Chớ
gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã phó thác việc con cho Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 7, 2-3. 9bc-10. 11-12
Ðáp: Lạy
Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa là Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con
khỏi mọi người đang lùng bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như
sư tử chộp bắt hồn con, xé nát ra mà không ai cứu gỡ. - Ðáp.
2) Xin minh xét cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi
con. Nguyện cho chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người
hiền đức, khi Ngài lục soát tâm can, ôi Chúa công minh. - Ðáp.
3) Thuẫn che thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên
Chúa là vị công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày. - Ðáp.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ga 11, 25a và 26
Chúa phán: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời
đời".
Phúc Âm: Ga 7, 40-53
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng
nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng
Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh
Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem,
quê hương của Ðavit?" Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người.
Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt
Người. Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông
này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành
thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời
rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và
các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết
gì lề luật". Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người
trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai
mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời
rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy
rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu nổi bật hơn bao giờ hết,
giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như thành phần lãnh đạo,
và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành.
Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng của Tuần IV Mùa Chay, bài Phúc Âm hôm nay
không hề có sự hiện diện chính thức của Chúa Giêsu một tí nào. Thế nhưng dù
không có lời nào Người phán hay việc nào Người làm, mà Người lại nổi bật hơn
bao giờ hết, giữa tình trạng chia rẽ trầm trọng nơi cả dân chúng cũng như
thành phần lãnh đạo, và giữa thành phần lãnh đạo với thành phần thừa
hành. Đó là chứng cớ cho thấy tầm ảnh hưởng quá ấn tượng của Người.
Trước hết, thành phần dân chúng đã chia rẽ nhau về Người như sau: "Khi
ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói
rằng: 'Ông này thật là tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'.
Người khác nữa lại nói: 'Đấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh
chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê
hương của Ðavit?' Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người".
Sau nữa, giữa
thành phần lãnh đạo với thành phần thừa hành: "Trong
số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người. Vậy
khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ
rằng: 'Tại sao các ngươi không điệu nó tới?' Các người thừa hành thưa rằng:
'Chẳng hề có ai nói như người ấy'. Các người biệt phái trả lời rằng: 'Chớ
thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người
biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề
luật'".
Sau hết, giữa chính nội bộ lãnh đạo với nhau: "Nicôđêmô
là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với
họ rằng: 'Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc
không biết rõ họ làm gì không?' Nhưng họ trả lời rằng: 'Hay ông cũng là
người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào
phát xuất từ Galilêa' Sau đó ai về nhà nấy".
Tình trạng chia rẽ này, cho dù giữa dân chúng với nhau hay giữa nội bộ
lãnh đạo với nhau, đều giống nhau và qui tụ lại ở chỗ cả hai thành phần này
cùng căn cứ vào xuất xứ của nhân vật Giêsu Nazarét là từ Galilêa chứ không
phải từ Giuđêa để suy diễn và quyết đoán về Người có thực sự là tiên tri hay
chăng, hoặc là đấng thiên sai hay chăng?
Dân chúng: "Đấng
Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân
bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"; Lãnh đạo: "Hay
ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có
tiên tri nào phát xuất từ Galilêa".
Đó là về phía
thành phần không chấp nhận Người. Còn về thành phần chấp nhận Người thì họ
lại căn cứ vào cảm nhận tự nhiên của họ, đúng hơn, căn cứ vào chính những gì
Người nói mà họ cảm nhận được Người là ai, đúng như Người chứng thực về
Người, rất đáng khả tín, rất đáng chấp nhận.
Trong khi chung
dân chúng: "sau khi nghe Chúa
Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: 'Ông này thật là
tiên tri'. Kẻ khác nói: 'Ông này thật là Ðấng Kitô'", thì thành phần thừa hành của các
vị trong giáo quyền cũng cảm thấy có một cái gì đó đặc biệt nơi Người: "Chẳng
hề có ai nói như người ấy".
Đến đây và ở
trong trường hợp của bài Phúc Âm hôm nay chúng ta mới thấy thật sự và hoàn
toàn ứng nghiệm lời tiên tri của tư tế Simeon là vị đã ẵm hài nhi Giêsu trên
tay lúc bé mới được 40 ngày mà nói: "Con Trẻ này sẽ trở thành cớ cho
nhiều người trong Israel vấp ngã hay chỗi dậy, trở thành một dấu hiệu đối
chọi" (Luca 2:34).
Chính Chúa Kitô
cũng cho dân Do Thái biết bản thân Người là cả một mầu nhiệm vô cùng cao cả
và thần linh, tự mình họ không thể nào thấu biết, cho dù Người không giấu
diếm họ một chút nào, trái lại đã nhiều lần và nhiều cách tỏ mình ra cho họ
biết tất cả sự thật về Người, theo kiểu cách loài người, đến độ, cả thành
phần môn đệ thân tín của Người cũng thế, cũng không hơn gì dân chúng và
thành phần lãnh đạo dân chúng, như chính Người đã quả quyết với các vị
như đã quả quyết với chung dân Do Thái rằng:
"Các con ơi,
Thày không còn ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ tìm kiếm Thày, nhưng
này Thày nói với các con những gì Thày đã từng nói với người Do Thái đó là
'nơi Tôi đi quí vị không thể nào đến được'" (Gioan 13:33; 7:33-34).
Thậm chí, Người
còn báo trước cho chung dân Do Thái và riêng thành phần lãnh đạo của họ
biết rằng: "Quí vị sẽ tìm Tôi nhưng quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí
vị" (Gioan 8:21), và quả thực đã xẩy ra hoàn toàn đúng như vậy, trong
Tuần Thánh. Ở chỗ, chẳng những cả một Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đã đồng
thanh lên án tử cho Người ngay khi Người chân nhận mình là Đấng Thiên Sai
như họ nhân danh Thiên Chúa hỏi Người, mà còn cả một tông đồ đoàn bỏ
chạy, một tông đồ Giuđa phản nộp Thày mình và nhất là một
lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô chối bỏ Thày mình ...
Tuy nhiên,
không phải vì thế, không phải thấy trước một tương lai đen tối như thế mà
Người, Đấng Thiên Sai đích thực của Thiên Chúa cảm thấy sợ hãi và toan tính
bỏ chạy. Trái lại, biết vai trò chủ chiên của mình, một "chủ chiên nhân
lành thí mạng sống mình vì chiên... cho chiên được sự sống và là sự sống
viên mãn" (Gioan 10:11,10) mà Người đã tuyên bố và tiên báo: "Tôi
tự ý bỏ mạng sống mình đi để rồi lấy nó lại" (Gioan 10:17).
Qua miệng tiên
tri Giêrêmia ở Bài Đọc 1 hôm nay, chính Người đã chấp nhận thân phận thiên
sai cứu thế đầy bất hạnh và vô cùng khốn nạn của mình một cách ngoan ngoãn
như con chiên bị đem đi giết như sau:
"Lạy Chúa,
Chúa đã tỏ cho con và con đã biết; vì Chúa đã chỉ cho con những mưu toan của
chúng. Còn con, con như chiên con hiền lành bị đem đi giết. Con đã không
biết chúng mưu toan hại con khi chúng nói: 'Chúng ta hãy bỏ cây vào bánh của
nó, chúng ta hãy diệt trừ nó khỏi đất kẻ sống, và người ta không còn nhớ đến
tên nó nữa'".
Thế nhưng,
mục đích Người "tự ý bỏ sự sống mình đi" là "để lấy lại",
chứ không phải để bị hủy diệt đời đời. Bởi thế, cũng qua miệng tiên tri
Giêrêmia trong Bài Đọc 1 hôm nay, Người đã an tâm chấp nhận mọi sự
theo ý Đấng đã sai Người: "Nhưng lạy Chúa các đạo binh, Chúa xét xử công
minh, và dò xét tâm can. Chớ gì con sẽ thấy Chúa báo thù chúng, vì con đã
phó thác việc con cho Chúa",
Đúng thế, cách
"báo thù" của Thiên Chúa bao giờ cũng là lấy lành mà
thắng dữ, lấy thiện mà báo ác, hay đúng hơn biến ác thành lành, một đường
lối siêu việt đến độ thế gian không thể nào hiểu được, chứ đừng nói làm
được, mà chỉ bàng hoàng ngỡ ngàng khi thấy chính mưu đồ đầy gian ác,
hết sức
khôn ngoan và hoàn toàn tự do của mình lại trở thành phương tiện và cơ
hội để Thiên Chúa thực hiện tất cả những gì Ngài muốn, theo đúng dự án thần
linh của Ngài: "Viên đá bị thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá gốc"
(Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42; Tông Vụ 4:11).
Bài Đáp Ca hôm
nay hoàn toàn phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 cùng ngày, chất chứa tâm tình
của một con người hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Vị Thiên Chúa của
mình, để Ngài muốn làm gì thì làm nơi mình cho ý muốn tối thượng của
Ngài được nên trọn:
1) Lạy Chúa là
Thiên Chúa con, con đến nương nhờ Ngài, xin cứu con khỏi mọi người đang lùng
bắt, và xin giải thoát thân con, kẻo có người như sư tử chộp bắt hồn con, xé
nát ra mà không ai cứu gỡ.
2) Xin minh xét
cho con, thân lạy Chúa, theo sự công chính và vô tội ở nơi con. Nguyện cho
chấm dứt sự độc dữ kẻ ác nhân, và xin Ngài củng cố người hiền đức, khi Ngài
lục soát tâm can, ôi Chúa công minh.
3) Thuẫn che
thân con là Thiên Chúa, Ðấng cứu độ những kẻ lòng ngay. Thiên Chúa là vị
công minh thẩm phán, và Thiên Chúa hăm doạ hằng ngày.