SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XV Thường Niên
Năm A (Chúa
Nhật) và Năm
Lẻ
(trong tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is
55, 10-11
"Chúng làm cho đất phì nhiêu".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán: "Như mưa tuyết từ
trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng chúng thấm xuống đất,
làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người gieo có hạt giống,
cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng Ta phán ra sẽ không
trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta,
và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 64,
10abcd. 10e-11. 12-13. 14
Ðáp: Hạt giống
rơi vào đất tốt, và sinh hoa kết quả (Lc 8, 8).
Xướng: 1) Chúa đã viếng thăm ruộng
đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần. Sông ngòi
của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì. -
Ðáp.
2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này
cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội nước vào những luống cày, và Ngài san
bằng mô cao của ruộng đất. Ngài làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài
chúc phúc cho mầm cây trong đất. - Ðáp.
3) Chúa đã ban cho một năm hồng
ân, và lốt xe ngự giá của Ngài khơi nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu
có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi vận xiêm-y hoan hỉ. - Ðáp.
4) Ðồng ruộng đông chật những đàn
chiên dê, và các thung lũng được che lợp bằng ngũ cốc; muôn loài đều hát
xướng và hoan ca. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm
8, 18-23
"Các tạo vật ngóng trông sự mạc
khải của con cái Thiên Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng
những đau khổ ở đời này không thể sánh với vinh quang sắp tới sẽ được
mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các tạo vật ngóng trông sự mạc khải của
con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải
vì chúng muốn như vậy, nhưng vì Ðấng đã bắt nó phải tùng phục với hy
vọng là các tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để
được thông phần vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng
ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi tạo vật đều rên siết và đau đớn như
người đàn bà trong lúc sinh con. Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà
cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng
rên siết trong khi ngóng chờ phúc làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác
chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga
17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13,
1-9 {hoặc 1-23}
"Kìa, có người gieo giống đi
gieo lúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Ngày ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và
đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh Người đông đảo đến nỗi
Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ.
Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này đây, có người gieo giống đi
gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến
ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì
không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm
rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó
chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được
một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
[Các
môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với
họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước
Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được
dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy
dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không
nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về
họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng
thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo
mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta
lại chữa chúng cho lành". Phần các con, phúc cho mắt các con vì được
thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con:
Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các
con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không
được nghe.
"Vậy, các con hãy nghe dụ ngôn về
người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời mà không hiểu, thì
quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc hạng gieo
dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc
vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông
nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì
lập tức nó vấp ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng
lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà
không sinh hoa kết quả được. Hạt gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng
mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một trăm, có hạt
sáu mươi, có hạt ba mươi".]
Ðó là lời Chúa.
Cảm Nghiệm Lời Chúa
Căn cứ vào diễn
tiến của Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta thấy tính cách liên tục về nội dung
và ý nghĩa của Phụng Vụ Lời Chúa được Mẹ Giáo Hội cố ý tuần tự dọn ra
cho con cái của mình mỗi Chúa Nhật hằng tuần.
Thật vậy, nếu Chúa Nhật XIV tuần trước, Chúa Giêsu đã đề cập tới "những
điều ấy", như đã chia sẻ, là chính những điều về chính bản thân
Người, một Mầu Nhiệm Thần Linh được Cha trên trời mạc khải cho thành
phần bé mọn hơn là thành phần khôn ngoan thông thái, thì Chúa Nhật XV
tuần này và 2 Chúa Nhật XVI và XVII tiếp theo, Giáo Hội đã hoàn toàn bỏ
tất cả đoạn 12, và nhẩy sang đoạn 13 của Thánh ký Mathêu, đoạn về Mầu
Nhiệm Nước Trời là chính Chúa Kitô được Người diễn tả bằng các dụ ngôn
khác nhau. Và dụ ngôn đầu tiên đó là dụ ngôn về "người gieo giống"
như thế này:
"Này đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt
rơi xuống vệ đường, chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá
sỏi, chỗ có ít đất, nó liền mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời
mọc lên, bị nắng gắt, và vì không đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt
rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết nghẹt. Có hạt rơi xuống đất
tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt
ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe".
Dụ ngôn chính
yếu về "người gieo giống" nhưng nội
dung lại chỉ liên quan đặc biệt đến hạt giống cùng với 4 môi trường đón
nhận khác nhau của nó: vệ đường hững hờ, đá sỏi cứng cỏi, bụi gai phân
tâm và đất tốt đáp ứng. Tuy nhiên, chính yếu vẫn là "người gieo giống"
liên quan đến đường lối hay cách thức gieo giống của người này: một là
"người gieo giống" trong dụ ngôn này không chuyên nghiệp trong việc gieo
giống, chẳng biết gieo giống là gì, chẳng biết gieo làm sao cho đúng nơi
đúng chỗ; hai là "người gieo giống" ấy có quá nhiều hạt giống trong
kho lẫm của mình nên bất cần những hạt giống gieo xuống có văng đi đâu
cũng chẳng thiệt hại gì!
Đúng thế, giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn. Ở chỗ, "Thiên Chúa là
Đấng giầu lòng xót thương" (Epheso 2:4) không
phải chỉ ban ơn phúc của Ngài cho những ai tốt lành tài năng (có một tấm
lòng như đất tốt), còn người xấu xa kém cỏi (có một tấm lòng như vệ
đường, sỏi đá hay bụi gai) thì không.
Là Đấng dựng nên tất cả mọi người và từng người, Thiên Chúa biết ai cũng
cần đến ân sủng của Ngài, cần đến mạc khải thần linh của Ngài là Đức
Giêsu Kitô để có thể được cứu độ, thì Ngài không thể nào không tỏ ra cho
họ một cách nào đó, hợp với khả năng nhận thức và cuộc đời của họ. Bằng
không, Ngài là một Thiên Chúa thiên vị, bất công, thưởng phát bất phân
minh.
Còn trách nhiệm của thành phần lãnh nhận ơn của Ngài và mạc khải của
Ngài thì thuộc về kẻ lãnh nhận. Đó là lý do, trong phần dẫn giải dụ ngôn
(không buộc đọc), Chúa Giêsu đã ghép hạt giống gieo xuống đồng hóa với
chính lãnh nhận nhân:
"Hạt
rơi trên đá sỏi là
kẻ khi
nghe lời giảng, thì tức khắc vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu
trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất thời, nên khi cuộc bách hại, gian
nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp ngã. Hạt
rơi vào bụi gai là
kẻ nghe
lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời, ham mê của cải, khiến lời giảng
bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt
gieo trên đất tốt là
kẻ nghe
lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến nỗi có hạt được một
trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi".
Trước
khi gieo xuống một trong 4 môi trường đón nhận nào đó, thì "hạt
giống", như Chúa Giêsu dẫn giải, chính
là "lời
giảng về Nước Trời", thế nhưng khi đã rơi xuống và
chạm đến một nơi nào đó thì "lời giảng về Nước Trời" này
lại hoàn toàn lệ thuộc vào môi trường của nó, để có thể đâm mộng nẩy mầm
và phát triển cùng sinh hoa kết trái theo bản chất hạt giống của nó cho
tới khi nó đạt được trọn vẹn tầm vóc hạt giống ấn định của nó, đúng như Lời
Chúa phán trong Sách Tiên Tri Isaia trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Như mưa tuyết từ trời rơi xuống và không trở lên trời nữa, nhưng
chúng thấm xuống đất, làm cho đất phì nhiêu, cây cối sinh mầm, cho người
gieo có hạt giống, cho người ta có cơm bánh ăn, cũng thế, lời từ miệng
Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực
hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác".
Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu theo nguyên tắc và về phía "người
gieo giống" "lời từ miệng Ta phán ra sẽ không trở
lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng nó thực hiện ý muốn của Ta, và
làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác", mà thực tế và về phía
nhân loại lại hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ đất tốt là môi trường đáp ứng
duy nhất trong 4 môi trường đáp ứng Lời Chúa, thì làm sao lại xẩy ra
chuyện "sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả"!
Vậy "kết quả" ở đây là gì? Nếu không
phải là những gì Thiên Chúa muốn, những gì "người gieo giống" muốn,
đều được nên trọn đúng như ý muốn của Ngài, như chính Ngài đã khẳng
định: "nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng
Ta uỷ thác", nghĩa là nó chứng thực "Thiên Chúa là
Đấng giầu lòng xót thương" tất cả mọi người và từng người, bất kể
họ là thành phần tốt xấu hay lành dữ: "Ngài làm cho mặt trời mọc lên
trên kẻ lành người dữ và làm mưa xuống trên người công chính và kẻ bất
chính" (Mathêu 5:45).
Nếu nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm gieo giống, Con Thiên Chúa là Lời
hằng ở cùng Cha (xem Gioan 1:1) "đã hóa thành nhục thể" (Gioan
1:14), "là ánh sáng chiếu trong tăm tối, một tối tăm không át được
ánh sáng" (Gioan 1:5), thì nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua Lời của Con mình,
Ngài còn có thể biến dữ thành lành, chết thành sống, như Ngài đã thực
hiện nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã Vượt Qua sự chết mà vào
sự sống, Đấng sống lại từ cõi chết, tức là Người đã đi vào tận thâm cung
bí ẩn nhất của chết chóc, của sự dữ, để biến căn tính tối tăm khổ nạn
thành ánh sáng phục sinh, biến nọc độc chết chóc tử giá thành sự sống
vinh quang, chẳng những cho riêng con người mà còn cho chung toàn thể
tạo vật nữa. Và đó là tất cả ý nghĩa của lời Thánh Phaolô trong Thư Roma
ở Bài Đọc 2 hôm nay:
"Anh em thân mến, tôi nghĩ rằng những đau khổ ở đời này không thể
sánh với vinh quang sắp tới sẽ được mạc khải cho chúng ta. Vì chưng các
tạo vật ngóng trông sự mạc khải của con cái Thiên Chúa. Các tạo vật đã
phải tùng phục cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn như vậy, nhưng vì
Ðấng đã bắt nó phải tùng phục với hy vọng là các tạo vật sẽ được giải
thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần vào sự tự do vinh
hiển của con cái Thiên Chúa. Vì chúng ta biết rằng cho đến bây giờ, mọi
tạo vật đều rên siết và đau đớn như người đàn bà trong lúc sinh con.
Nhưng không phải chỉ có các tạo vật, mà cả chúng ta là những kẻ hưởng ơn
đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên siết trong khi ngóng chờ phúc
làm nghĩa tử và ơn cứu độ thân xác chúng ta".
Như thế thì quả thực "lời
từ miệng Ta phán ra sẽ không trở lại với Ta mà không sinh kết quả, nhưng
nó thực hiện ý muốn của Ta, và làm tròn sứ mạng Ta uỷ thác". Bài
Đáp Ca hôm nay đã chất chứa tâm tình đầy lạc quan và hy vọng của "các
tạo vật sẽ được giải thoát khỏi vòng nô lệ sự hư nát, để được thông phần
vào sự tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa":
1) Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới giội: Ngài làm cho đất trở
nên phong phú bội phần. Sông ngòi của Thiên Chúa tràn trề nước, Ngài đã
chuẩn bị cho thiên hạ có lúa mì.
2) Vì Ngài đã chuẩn bị như thế này cho ruộng đất: Ngài đã tưới giội
nước vào những luống cày, và Ngài san bằng mô cao của ruộng đất. Ngài
làm cho đất mềm bởi thấm nước mưa; Ngài chúc phúc cho mầm cây trong đất.
3) Chúa đã ban cho một năm hồng ân, và lốt xe ngự giá của Ngài khơi
nguồn phong phú. Ðống đất hoang vu có nước chảy đầm đìa, và các đồi núi
vận xiêm-y hoan hỉ.
4) Ðồng ruộng đông chật những đàn chiên dê, và các thung lũng được
che lợp bằng ngũ cốc; muôn loài đều hát xướng và hoan ca.
Vậy chúng ta hãy sử dụng chính câu Alleluia hôm nay để nguyện rằng: "Lạy
Cha, 'Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật'. -
Alleluia".
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
1, 8-14. 22
"Chúng ta hãy đàn áp Israel, kẻo nó
sinh sản ra nhiều".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, nhà vua mới lên
ngôi cai trị nước Ai-cập, ông không biết Giuse, nên nói với dân chúng rằng:
"Kìa, dân tộc con cái Israel nhiều và hùng mạnh hơn chúng ta. Nào, chúng ta
hãy khôn khéo đàn áp chúng, kẻo chúng gia tăng lên nhiều. Và nếu xảy ra
chiến tranh, chúng sẽ tiếp tay quân thù đánh lại chúng ta, rồi rút lui khỏi
xứ chúng ta".
Vậy vua truyền lệnh cho các trưởng
dịch bắt họ làm việc cực nhọc hơn, bắt họ xây những thành Phithom và Ramsê
làm kho tàng cho Pharaon. Nhưng người ta càng đàn áp họ, thì họ lại càng
sinh sản và bành trướng nhiều hơn. Các người Ai-cập càng ghen ghét con cái
Israel và càng bắt họ làm việc khổ cực hơn. Người ta làm cho đời sống họ
thêm cay cực, bắt họ làm những việc nặng nhọc, nhồi đất, đúc gạch và làm mọi
công việc đồng áng. Bấy giờ vua Pharaon truyền lệnh cho toàn dân của vua
rằng: "Bất cứ con trai (Do-thái) nào mới sinh, thì hãy ném nó xuống sông,
chỉ để lại những trẻ gái mà thôi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 123, 1-3.
4-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi
ở nơi danh Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Nếu như Chúa không che chở
chúng tôi - Israel hãy xướng lên - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi
thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi
rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi. - Ðáp.
2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất,
trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi; bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập
lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Người đã không để chúng tôi nên mồi trao
đưa vào răng chúng. - Ðáp.
3) Hồn chúng tôi như cánh chim non
thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng
tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành
trời đất! - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 34 -
11, 1
"Thầy không đến để đem hòa bình,
nhưng đem gươm giáo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông
đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian:
Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để
gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ
chồng mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu
mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con
gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình
mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì
sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp
Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp
một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên
tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính,
thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những
người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ,
thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu".
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy xong các
điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng
trong các thành phố của các ông.
Ðó là lời Chúa.
sự sống gươm giáo
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XV Thường Niên là bài phúc âm
tiếp theo loạt bài phúc âm của Thánh ký Mathêu về huấn từ sai đi của Chúa
Giêsu với 12 tông đồ. Bài phúc âm hôm nay là phần cuối cùng của bài huấn từ
sai đí ấy, một phần huấn từ bao gồm 2 điểm chính yếu liên quan đến "gươm
giáo" và "bát nước".
"Gươm giáo": "Các
con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế gian: Thầy không đến để
đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để gây chia rẽ con
trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình: và thù
địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn
Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào không vác thập giá mình mà theo Thầy,
thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ
nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
"Bát nước": "Kẻ
nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp
Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri,
thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính
với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công
chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã
mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người
ấy không mất phần thưởng đâu".
Trước hết về "gươm giáo". Nếu
chúng ta chỉ lấy nguyên câu Chúa Giêsu nói ở ngay đầu bài phúc âm hôm nay: "Thầy
không đến để đem hòa bình,
nhưng đem gươm giáo", thì
chắc chắn Người là tên phản kitô, vì giáo huấn của Người chất chứa
những gì là phản nhân bản, chia rẻ, vô luân thường đạo lý. Thế nhưng, căn cứ
vào ý tưởng của toàn đoạn văn, Người quả là chí lý khi khẳng định một câu
nói lạ lùng hầu như lạc giáo như thế. Và nhất là căn cứ vào ý nghĩa Thánh
Kinh của "gươm
giáo" là chính Lời Chúa "sắc
hơn gươm hai lưỡi" (xem
Do Thái 4:12).
Ở chỗ, Chúa Giêsu quả thực hoàn
toàn không chủ ý gây ra chia rẽ giữa con người với nhau, nhưng giáo huấn của
Người và tinh thần của Người tự bản chất vượt lên trên tất cả những gì là tự
nhiên, nếu không muốn nói là những gì phản tự nhiên theo cảm nhận chủ quan
nơi nhiều người: "Kẻ
nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con
trai con gái hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy", khiến
họ không thể nào chấp nhận được bất cứ ai,
thậm chí là thành phần thân
nhân ruột thịt của họ: "thù
địch của người ta lại là chính người nhà mình", muốn sống
theo giáo huấn và tinh thần ngược đời của
Người: "Kẻ
nào không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ
nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì
Thầy, thì sẽ tìm lại được nó".
Sau nữa về "bát
nước". Bởi thế, trước những
con người sống theo giáo huấn và tinh thần của Chúa Kitô có vẻ lập dị điên
khùng như vậy mà vẫn tiếp nhận họ thì phải kể là những ai tiếp nhận họ
phải có một đức tin mãnh liệt, bởi những người tiếp nhận này đã nhận ra
Người nơi thành phần thừa sai của Người: "Kẻ
nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy", và
chính vì thế họ đáng được tưởng thưởng xứng đáng, cho dù so với công sức
của thành phần thừa sai được họ tiếp nhận thì việc họ tiếp
nhận ấy chẳng đáng là bao, chẳng khác gì như một "bát nước lã" vậy
thôi: "Kẻ
nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã với danh
nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con: người ấy không mất phần
thưởng đâu". Tại
sao? Bởi vì: "Kẻ
nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần
thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa
người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính".
"Sự sống gươm giáo" theo chiều
hướng của bài Phúc Âm hôm nay cũng được thể hiện nơi bài đọc một cùng ngày,
một bài đọc được trích từ Sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái, sau một thời
gian dài hơn 400 năm sinh sống bên Ai Cập từ ngày Giuse làm tể tướng ở đất
nước này đã cứu cả dân Ai Cập lẫn các dân trong vùng, bao gồm cả đại
gia đình tổ phụ Giacóp khỏi nạn đói kém, đã bắt đầu trải qua một cuộc thử
thách đầy gian nan khốn khổ để ngăn đà phát triển về dân số của họ, như
bài đọc 1 thuật lại:
"Trong những ngày ấy, nhà vua mới lên ngôi cai trị nước Ai-cập, ông không
biết Giuse, nên ... vua
truyền lệnh cho các trưởng dịch bắt họ làm việc cực nhọc hơn, bắt họ xây
những thành Phithom và Ramsê làm kho tàng cho Pharaon. Nhưng người ta càng
đàn áp họ, thì họ lại càng sinh sản và bành trướng nhiều hơn. Các người
Ai-cập càng ghen ghét con cái Israel và càng bắt họ làm việc khổ cực hơn.
Người ta làm cho đời sống họ thêm cay cực, bắt họ làm những việc nặng nhọc,
nhồi đất, đúc gạch và làm mọi công việc đồng áng. Bấy giờ vua Pharaon truyền
lệnh cho toàn dân của vua rằng: 'Bất cứ con trai (Do-thái) nào mới sinh, thì
hãy ném nó xuống sông, chỉ để lại những trẻ gái mà thôi'".
Thế
nhưng, như biến cố
Giuse bị các anh thù ghét âm
mưu sát hại đã được Thiên Chúa là Đấng quan phòng thần linh biến thành sự
lành cho dân tộc được Ngài tuyển chọn thế nào, trong biến cố dân Do Thái ở
Ai Cập bị cả vua lẫn dân Ai Cập cố ý tìm cách đầy đọa
họ cũng không ngoài ý Đấng đã
hứa với Tổ Phụ Giacóp (trong bài đọc 1 Thứ Sáu tuần trước) trước
khi đại gia đình của vị tổ phụ này sang Ai Cập lánh nạn đói:
"Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy
xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ
xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse
đã vuốt mắt cho ngươi" (Khởi Nguyên 46:3-4).
Việc đại gia đình của
tổ phụ Giacóp di dân sang Ai Cập và sống ở Ai Cập là vì
niềm tin, tin vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, vị Thiên Chúa
luôn thủy chung, không bao giờ bỏ rơi họ, nhất
là khi xẩy ra những biến cố khiến họ phải khốn cùng và kêu lên cùng Đấng duy
nhất có thể cứu họ, Đấng duy nhất họ tin tưởng, cũng
là Đấng muốn sử dụng hay lợi dụng chính những lúc con người cùng khổ bất
lực để tỏ mình ra cho họ làm họ càng tin vào Ngài hơn nữa, như
tâm tình đầy xác tín của bài Đáp Ca hôm nay:
1)
Nếu như Chúa không che chở chúng tôi - Israel hãy xướng lên - nếu như Chúa
không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người
ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi.
2)
Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi;
bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Người đã
không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng.
3)
Hồn chúng tôi như cánh chim non thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt
chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở
nơi danh Chúa, là Đấng tạo thành trời đất!
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
2, 1-15a
"Bà đặt tên cho trẻ là Môsê, vì vớt
nó dưới nước lên; và khi đã khôn lớn Môsê đi thăm anh em".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, có một người đàn
ông thuộc nhà Lêvi đi cưới vợ cũng trong chi tộc mình. Nàng mang thai và
sinh hạ một con trai. Thấy con trẻ khôi ngô tuấn tú, nàng giấu kín trong ba
tháng. Khi thấy không thể nào giấu kín được nữa, nàng liền lấy chiếc thúng
trét nhựa thông, rồi bỏ đứa trẻ vào trong, đem thả trong đám sậy ở bờ sông.
Chị đứa bé đứng xa xa để quan sát sự việc xảy ra thế nào.
Bấy giờ có công chúa con Pharaon xuống
tắm dưới sông, còn các nữ tỳ đi bách bộ theo bờ sông. Khi thấy cái thúng mây
ở giữa bụi sậy, nàng sai một nữ tỳ xuống vớt lên, vừa mở ra, thấy một trẻ
nam nằm khóc trong đó, nàng thương hại và nói: "Ðây là đứa trẻ Do-thái". Bấy
giờ chị đứa trẻ thưa với công chúa rằng: "Bà có muốn tôi đi tìm cho bà một
phụ nữ Do-thái có thể nuôi đứa trẻ này không?" Công chúa đáp: "Ði tìm đi".
Chị đứa trẻ liền đi kêu mẹ nó. Công chúa Pharaon nói với mẹ đứa trẻ rằng:
"Chị hãy lãnh nuôi đứa trẻ này giùm tôi, tôi sẽ trả công cho chị". Chị ta
liền nhận nuôi đứa trẻ, và khi nó lớn lên, thì đem đến cho công chúa
Pharaon. Công chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi, đặt tên cho nó là Môsê và nói:
"Vì tôi đã vớt nó dưới nước lên".
Trong những ngày ấy, Môsê đã khôn lớn,
liền đi thăm anh em mình, người thấy họ cơ cực, và thấy một người Ai-cập
đang hành hung một người Do-thái là anh em của mình. Sau khi đã nhìn qua
nhìn lại, không thấy ai, Người liền hạ sát tên Ai-cập và vùi thây dưới cát.
Hôm sau, người đi ra, thấy hai người Do-thái đang đánh lộn với nhau, người
bảo kẻ có lỗi rằng: "Tại sao anh đánh người bạn của anh?" Anh ta trả lời:
"Ai đã đặt anh làm lãnh tụ và quan án xét xử chúng tôi? Anh cũng muốn giết
tôi như anh đã giết người Ai-cập hôm qua sao?" Môsê lo sợ và nói: "Việc này
người ta đã hay biết rồi sao?"
Pharaon nghe biết câu chuyện, liền tìm
giết Môsê. Nhưng Môsê đã lánh mặt nhà vua, trốn sang xứ Mađian.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 68, 3. 14.
30-31. 33-34
Ðáp: Các bạn khiêm cung,
các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (x. c. 33).
Xướng: 1) Tôi bị dìm trong hố bùn lầy,
không có chỗ để đặt chân nương tựa. Tôi bị rơi trong đầm sâu nước lớn, và ba
đào đang lôi cuốn thân tôi. - Ðáp.
2) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện
cầu lên Chúa. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời
con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. - Ðáp.
3) Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy
Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen
danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. - Ðáp.
4) Các bạn khiêm cung hãy nhìn coi và
hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe
những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 20-24
"Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon
sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành
đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi Corozain,
khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và
Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà
ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô
và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì
ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu
các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại
cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ
được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Ðó là lời Chúa.
sự sống vớt
lên
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba trong Tuần XV Thường Niên hôm nay chất
chứa chính những lời "Chúa
Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không
chịu sám hối", và
trong lời vừa có tính cách cảnh cáo vừa khiển trách này, Người đã so sánh
tính cách trầm trọng của "các thành" này là Corazain,
Bethsaida và Capharnaum với
những thành đã bị trừng phạt trong Cựu Ước như Tyro,
Sidon và Sodoma:
"Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy
ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo
nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày
phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi
sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra
tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các
ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi".
Căn
cứ vào lời cảnh báo và khiển trách có vẻ dữ dội trên đây của Chúa Giêsu
trong bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề được đặt ra ở đây là:
1- Nếu Chúa Giêsu biết trước rằng
các thành ở trong Cựu Ước xưa, như Tyro, Sidon và Sodoma mà được xem thấy
phép lạ Người làm như ở Corozain, Bethsaida hay Capharnaum, họ đã ăn năn sám
hối, để khỏi bị trừng phạt thì
tại sao bấy giờ Thiên Chúa
không làm phép lạ để cứu các thành ấy;
2- Ngược lại, nếu Người đã biết
trước rằng các
thành được thấy các phép lạ Người làm vào
thời của Người sẽ
bị trừng phạt nặng hơn những thành đã bị trừng phạt trước đó thì
tại sao Người vẫn cứ mất công
vô ích làm
phép lạ ở những thành ấy chứ?
Câu
trả lời đó là nếu ai được trao bao nhiêu nén ân sủng, 2 nén, 5 nén hay 10
nén, chỉ cần sinh lời gấp trăm là đủ, tức là 2 nén cần sinh lợi 2 nén, 5 nén
cần sinh lợi 5 nén và 10 nén cần sinh lợi 10 nén (xem
Mathêu 25:14-23), thì ai
không chấp nhận ân sủng hay không làm cho ân sủng sinh lợi cũng bị xét xử
và trừng
phạt tùy theo tội trạng và hoàn cảnh của họ (xem Luca 12:47-48): "Người
tôi tớ nào biết ý chủ mình mà không sẵn lòng làm theo sẽ bị đòn nặng hơn...
Càng được trao phó
nhiều thì càng bị đòi nhiều", như các thành ở vào thời Chúa Giêsu được
thấy các phép lạ Người làm tất nhiên phải nhận
biết Người hơn mới phải, và
vì không nhận biết nên sẽ hứng chịu luận phạt cân xứng.
Vì Thiên
Chúa không làm phép lạ ở các thành bị phạt trong Cựu Ước nên
Người đã không trừng phạt họ nặng nề như các thành được thấy phép lạ trong
thời Chúa
Giêsu. Thật ra Người có làm
phép lạ ở thành Sodoma đấy chứ, đó là thành này như một bãi bùn lầy tội
lỗi đã chứng kiến thấy một bông sen công chính là Lot "gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn". Biết đâu
việc Thiên Chúa ra tay trừng phạt các thành ấy ngay ở đời này đã làm cho
nhiều tội nhân trong các thành ấy bấy
giờ đã tỏ lòng thống
hối ăn năn trước
khi chết vì thấy án phạt tỏ tường Thiên
Chúa giáng xuống để trừng trị tội
lỗi của họ. Còn
các thành được thấy phép lạ
của Chúa Giêsu, tuy không bị trừng phạt một cách tỏ tường và công khai cả
thành như các thánh trước kia ấy, cũng sẽ bị trừng phạt một cách nào đó xứng
với tội lỗi của họ.
Đúng thế, cho dù có "trừng phạt" con
người tội lỗi, Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu cũng chỉ sử dụng
những đau khổ, thậm chí cả chết chóc, để cảnh báo con người và làm cho con
người nhận biết Ngài để cuối cùng được cứu độ mà thôi, chứ không bao giờ
muốn tận diệt con người hay vui thú khi thấy con người bị đời đời hư đi.
Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan muốn lợi dụng tất cả mọi sự, dù tốt hay
xấu, để tỏ mình ra cho con người, để họ nhận biết Ngài mà được sự sống thần
linh của Ngài.
Trong trường hợp khốn cùng của dân
Do Thái ở Ai Cập, tuy không phải do tội lỗi của họ, như sau này, trong cuộc
hành trình băng qua sa mạc vào Đất Hứa, hay khi họ sống trong Đất Hứa
cho đến khi bị lưu đầy, mà do lòng người Ai Cập từ vua đến dân không muốn
cho họ phát triển nên đã đầy đọa
họ, nhưng Thiên Chúa lại lợi
dụng hoàn cảnh này của dân được Ngài tuyển chọn để chẳng những tỏ
mình ra cho họ như là vị Thiên Chúa Cứu Độ, mà
còn qua họ tỏ cho cả dân ngoại Ai Cập biết quyền toàn năng làm chủ mọi sự
của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của dân Do Thái, cũng là Vị Thiên Chúa
trời đất của mọi dân nước, Đấng
làm chủ lịch
sử của loài
người.
Đó là lý do trong bài đọc 1 chúng ta
thấy Thiên Chúa đã cho xuất hiện một Moisen, một bé trai Do Thái, vị
cứu tinh tương lai của
dân Do Thái, chẳng
những không bị bóp mũi chết như
lệnh của vua, mà
còn được chính công chúa của vua nuôi dưỡng khôn lớn một cách an toàn ngay
trong hoàng cung
Ai Cập: "Công
chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi, đặt tên cho nó là Moisen và
nói: 'Vì tôi đã vớt nó dưới nước lên'", cho đến
khi lánh nạn sang Midian vì
bị lộ chân tướng của mình: "Pharaoh
nghe biết câu chuyện liền tìm giết Moisen. Nhưng Moisen đã lánh mặt nhà vua
mà trốn
sang xứ Madian".
Bài Đáp
Ca hôm nay dường như chất chứa tâm tưởng và tình trạng của
riêng Moisen và của chung dân Do Thái trước
khi được Thiên Chúa tuyển chọn và ra
tay giải thoát.
1)
Tôi bị dìm trong hố bùn lầy, không có chỗ để đặt chân nương tựa. Tôi bị rơi
trong đầm sâu nước lớn, và ba đào đang lôi cuốn thân tôi.
2)
Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc
biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù
trợ trung thành của Chúa.
3)
Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân
con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với
bài tri ân.
4)
Các bạn khiêm cung hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các
bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân
của Người bị bắt cầm tù.
Tiểu Sử Thánh Camillô
Câu chuyện xảy ra năm 1550 tại 1 làng nhỏ tại miền trung Italy, làng
Bucchianico bên bờ biển. Dân làng rất hiền lành và chăm chỉ. họ cùng nhau
sống an bình trong ơn nghĩa Chúa.
Dòng tộc De Leliis là 1 dòng quý tộc, sống
tốt lành nên được dân làng rất yêu quý, tôn trọng.
GIẤC MƠ CỦA MẸ
Camilla De Compellis, bạn đời của đại uý Giovani De Lellis đã có thai khi đã
60 tuổi. mặc dù đã cao tuổi nhưng bà rất vui mừng đón nhận hồng ân Chúa ban.
Tuy nhiên, 1 nỗi lo lắng bao trùm bà khi bà mơ thấy con mình sẽ sinh ra dẫn
đầu 1 đoàn quân đồng phục, trên ngực có thập giá đỏ, đi khắp mọi nơi. Bà
nghĩ rằng con mình sau này sẽ trở thành tướng cướp.
CAMILLO CHÀO ĐỜI
Ngày 25 tháng 05 năm 1550 , bà Camilla đang cùng mọi người tham dự thánh lễ
kính thánh Ubano, Giáo hoàng tử đạo, bổn mạng giáo xứ, thì bà đau bụng lâm
bồn . Mọi người vội vã đưa bà về nhưng chưa kịp về đến nhà thì bà tới giờ
sanh, mọi người liền đưa bà vô 1 chuồng ngựa gần nhất.
Bà sinh 1 bé trai khoẻ mạnh. để ghi nhớ nỗi
nhọc nhằn của người mẹ cao tuổi, bé được đặt tên là Camillo De Lellis.
GIOVANNI DE LELLIS CHA CỦA CAMILLO
Ông Giovanni De Lellis vông cùng vui mừng vì hồng ân Chúa ban cho là đứa con
trai thông minh, khoẻ mạnh. Ông bàn với vợ về việc nuôi dạy cho con nên
người tốt.
Nhưng ông Giovanni phai đi xa thường xuyên,
Camillô ở nhà dưới sự chỉ dạy của mẹ. cậu bé càng lớn càng càng mảng chơi và
quạy phá như giặc.
TUỔI THƠ
Camillô thường đàn đúm với người anh họ Onofrio và những trẻ nghịch ngợm
khá. Chúng quậy phá làm khu xóm rất khó chịu nên họ kêu ca với ông Giovannni
và bàCamilla để ông bà dạy bảo.
Camillô được ửi tới trường nhưng cậu bé
chẳng chịu học hành gì. Cậu muốn theo nghề chiến binh của cha en nghĩ rằng
chỉ cần biết đọc biết viết là đủ. Suốt ngày cậu cờ bạc lêu lổng.
CAMILLÔ NHẬP NGŨ
biết con trai mình chẳng chịu học hàng tới nơi tới chốn, ông Giovanni lo cho
con trai nhập ngũ để học kỹ cương nhà binh hầu trở nên người tốt. Camillo
gia nhập lữ đoàn Hải Quân hoàng gia. Ông Giovanni dành nhiều thời gian ân
cần dạy con. Tuy nhiên chẳng bao lâu ông lâm bệnh và qua đời ở tuổi 70.
Camillo mồ côi cả cha lẫn mẹ. giống như những chiến sĩ hải quân khác,
Camillô trải qua nhiều huấn luyện, thử thách và tham gia nhiều trận chiến.
CỜ BẠC
Tệ nạn cờ bạc rất phổ biến trong đời chiến binh thế kỷ XVI. Mồ côi cả cha
lẫn mẹ, Camillô buồn nên chỉ biết lao vào cơ bạc cho khuây khoả. một lần,
bọn xấu lợi dụng, Camillô bị thua sạch. Càng cố gỡ , càng thua đến độ
Camillô phải gán cả quần áo.
BÃO BIỂN
giới trẻ thườn cậy sức mạnh mình. họ tin vào số phận nhiều hơn là tin vào
Thiên Chúa. Chỉ khi nào gặp hiểm nguy họ mới chạy tới Chúa.
Một lần thuỷ thủ đoàn đang di chuyển từ Tây
Ban Nhatrở về Naplethì gặp bão lớn. Bảo kéo dài suốt 3 ngày 3 đêm mà vẫn
không có dâu hiệu giảm đi, mọi người ai nấy đều mệt mỏi và lo sợ.
Camillô cầu nguyện khấn xin Chúacho thoát
nạn. chàng hứa với Chúa rằng khi thoát nạn chàng sẽ đi tu dâng mình cho
Chúa. Nhưng khi tàu thoát nạn cập bến, Camillô đã quên hết những nguy hiểm
và những gì đã khấn hứa cùng Chúa.
LẦN ĐẦU TIÊN TẠI NHÀ THƯƠNG
Camillô cao 2 mét, rất khoẻ mạnh và thường không ngại khó khăn xông pha hiểm
nguy. Anh có 1 vết thương nhỏ bên trên mắt cá chân. vết thương lúc đầu nhỏ
nhưng càng ngày càng lan rộng . Camillô phải đi nhà thương tháng James tại
thàng phố Roma để chữa trị. ở nhà thương chẳngbao lâu vết thương đã khá hơn
nhưng Camillo muốn ở lại chữa cho dứt điểm . trong thời gian này, Camillo
nhận nhiệm vụ phục vụ bệnh nhân trang trải cuộc sống thường nhật. nhưng
Camillo chẳng chịu phụ vụ bệnh nhân mà suốt ngày lo chơi bời , cờ bạc. do
vậy Camillo bị đuổi ra khỏi nhà thương.
ĂN XIN
Mùa đông Châu Âu lạnh cóng. những chiến binh thường về quê ẩn đông. những
người vô gia cư thì phải đi ăn xin hoặc là trộm cướp để sinh sống. Camillo
đã nướng sạch mọi sự vào cờ bạc nên phải đi xin ăn. Đứng ngả mủ xin những
người qua lại tại Manphredonia, Camillo cảm thấy vô cùng xâu hổ nhưng không
còn con đường nào khác. May thay 1 người qua đường động lòng thương giới
thiệu Camillo vô giúp việc cho Dòng Capuchins để sống qua ngày.
CHA ANGELLO
Khi làm việc trong Dòng Capuchins, một hôm Camillo được cử tới 1 tu viện
khác của Dòng để lãnh lương thực, thực phẩm. sau khi đã chuẩn bị xong mọi
thứ đã sẵn sàng trở về, Camillo được cha Angello, bề trên cộng đoàn tiếp
chuyện. Ngài khuyên dạy Camillo rằng phần rỗi linh hồn là phần quan trọng
nhất. Ngài còn khuyên Camillo từ bỏ mọi tội lỗi để trở nên người tốt.
những điều cha Angello chỉ dạy đánh động
trái tim Camillo. Chàng cám ơn cha và xin Cha cầu nguyện cho mình.
CAMILLO ĂN NĂN THỐNG HỐI
Ngày 02 tháng 02 năm 1575, Camillo lên đường trở về Manphredonia. Trên đường
về , Camillo suy gẫm về những gì đã xãy đến trong cuộc đời mình . Chúa ban
cho Camillo ơn đặc biệt . Chàng mạnh dạn ý thức với thân phận tội lỗi của
mình. Camillo vội vã xuống ngựa và quỳ xuống trên đường lởm chởm đá. Anh
khóc “ lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi. sao con không nhận biết Chúa sớm hơn”.
Camillo tạ ơn Chúa về những ơn Chúa ban.anh
quyết tâm không rời bỏ Chúa nữa và sẽ mau mắn đi tu như đã hứa cùng Chúa.
TRỞ LẠI THÀNH ROMA
Ngay sau khi trở lại Manphredonia, Camillo xin tu Dòng Capuchins. Trong Dòng
Camillo sống tốt với hết mọi người nên được mọi người rất yêu quý. Nhưng vết
thương cũ nơi chân lại hoành hành làm cho Camillo không thể tiếp tục tu
được. Anh bị bề trên Dòng cho ngừng tu để chữa trị vết thương.
Camillo trở lại nhà thương thánh James ở
thành phố Rome nơi anh đã từng chữa trị vết thương. lần này Camillo cũng
nhận nhiệm vụ phục vụ bệnh nhân như trước. Tuy nhiên, khác với lần trước,
lần này Camillo phục vụ chăm sóc bệnh nhân với hết cả tấm lòng mình.
QUẢN LÝ NHÀ THƯƠNG
Sau 4 năm chữa trị bệnh viện tại nhà thương. Camillo rời nhà thương để quay
trở lại dòng Capuchins. Nhưng vết thương ở chân lại hoành hành . Camillo 1
lần nữa phải rời dòng capuchins không được tu nữa . Biết làm gì bây giờ?
Camillo quay lại nhà thương thánh James tình nguyện phục vụ những bệnh nhân
nghèo. Anh được tín nhiệm làm quản lý nhà thương.
SÁNG LẬP DÒNG
Camillo đêm ngày chăm sóc bệnh nhân. Đêm 15 tháng 08 năm 1582 , Camillo được
linh hứng về một ý tưởng thành lập Dòng. Anh muốn phục vụ bệnh nhân vì tình
yêu Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người đau khổ bệnh tật chứ không phải vì lý
do tiền bạc.
LỜI ĐỘNG VIÊN CỦA CHÚA GIÊSU TỪ THẬP GIÁ
chẳng bao lâu Camillo quy tụ được 5 thanh niên cùng ý chí với mình. họ mượn
1 phòng trong nhà thương làm nơi cầu nguyện và hội họp trao đổi với nhau mỗi
ngày.
những ngày đầu tiên gầy dựng dòng gặp rất
nhiều khó khăn từ nhiều phía xã hội cũng như Giáo Hội . Camillo hầu như đã
nản chí muốn bỏ cuộc. nhưng 1 đêm, đang khi Camillo cầu nguyện, Chúa Giêsu
rời thập giá xuống an ủi Camillo “con hãy vững tâm, đừng sợ, đừng bỏ cuộc.
đây là công việc của ta, chứ không phải con .
CHỊU CHỨC LINH MỤC
Camillo quyết định thành lập nhóm những người thiện chí để phục vụ bệnh
nhân. Nhưng anh chỉ là 1 người bình thường thì khó lòng có thể chiêu mộ được
nhiều người. Do vậy Camillo quyết định sẽ học để trở thành Linh mục. mặc dù
đã 30 tuổi, Camillo vẫn khiêm nhường đăng kí với những người trẻ.
Nhờ ơn Chúa, Camillo được Đức cha Goldwell
truyền chức linh mục ngày 26 tháng 05 năm 1584. Tân linh mục dâng lễ mở tay
ngày 10 tháng 06 năm 1584 cùng với bệnh nhân tại nhà thương tháng James.
THẬP GIÁ ĐỎ
Cha Camillo muốn gắn trên áo dòng thập giá đỏ như là dấu chỉ tình yêu của
Thiên Chúa ban cho những người nghèo khổ bệnh tật. Đức Giáo hoàng Sistus X
đã phê chuẩn nguyện vọng này. Cha Camillo và các thành viên của Dòng hết sức
yêu quý và trân trọng biểu tượng cao đẹp này.
một lần cha chia sẻ rằng “ đây là biểu
tượng mẹ tôi đã gặp trong giấc mơ. Bà nghĩ rằng đó là dấu chỉ dữ. nhưng
Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta. Thập giá đỏ chính là dấu chỉ tình yêu
Chúa ban cho nhân loại, và là biểu tượng của niềm vinh danh Chúa.
PHỤC VỤ BỆNH NHÂN DÙ HY SINH TÍNH MẠNG
Cha Camillo và những thành viên của Dòng ngoài việc giữ các lời khấn Phúc Âm
: khó nghèo, trong sạch, vâng lời còn khấn lời khấn thứ 4 : phục vụ người
bệng cho dù có nguy hại đến tính mạng.
XÂY
DỰNG MỞ MANG NHÀ DÒNG
Cha Camillo đi khắp các thành phố lớn của Italy để gầy dựng, mở mang và phát
triển nhà dòng. Ngài muốn đòan sủng của dòng lan rộng khắp nơi tới những
người đau khổ bệnh tật .Chẳng bao lâu nhà dòng đã phát triển tại rất nhiều
thành phố của Italy.
Cha Camillo được các thành viên bầu chọn là
Bề trên tổng quyền. Bởi vậy ngài luôn đi kinh lý để lắng nghe, giúp đỡ và
giải quyết những công việc của Dòng.
PHỤC VỤ KHI BỆNH DỊCH
Rome vào triều đại Đức Giáo Hòang Gregory XIV dịch bệnh hoành khắp thành phố
làm thiệt mạng 60 ngàn người. Cha Camillo và các tu sĩ của dòng ngày đêm
phục vụ bệnh nhân không nghỉ ngơi. Họ giúp bệnh nhân ăn uống tắm giặt, thuốc
thang. họ cũng luôn cận kề bên những người lâm chung để an ủi động viên và
cầu nguyện cho bệnh nhân .
PHỤC VỤ TRÊN BIỂN
Cha Camillo đã nhiều lần vượt biển . Mỗi khi ngài tới tàu, việc đầu tiên
ngài hỏi các thủy thủ đòan xem có ai bị bệnh trên tàu không . Ngài luôn tình
nguyện sống cùng những bệnh nhân để phục vụ cho họ mặc dù những nơi như vậy
thường hôi hám và tối tăm. Mỗi khi tàu ghé cảng, cha Camillo thường mua chút
gì đó làm quà cho những ai bệnh tật không thể tự mình đi lại được.
PHỤC VỤ TRONG CHIẾN TRANH
Cha Camillo trở lại chiến trường lần nữa. nhưng lần này với thập giá đỏ trên
ngực ngài và các đồng nghiệp tới để phục vụ thương bệnh binh của chiến
tranh.
Cha Camillo và những cộng sự phục vụ bệnh
nhân hết sức mình. Nơi nào có thập giá đỏ, nơi đó bệnh nhân được quan tâm
phục vụ nơi đó có sự trao nhận tình yêu.
PHỤC VỤ KHI BỘ HÀNH
rất nhiều khi người ta gặp cha Camillo vác bênh nhân trên vai. Đôi khi không
phải là 1 người nhưng là 2 hay 3 người. Một lần khi ngang qua một khu phố
giàu có, Cha Camillo gặp 1 người bệnh nằm vất vưởng cô đơn bên vệ đường.
Những người qua lại không ai ngó ngàng chi đến người nghèo khổ đó cả . Cha
Camillo cúi xuống ân cần vác bệnh nhân lên vai đem về cộng đòan để chăm sóc.
PHỤC VỤ BẤT CỨ NƠI NÀO
Một lần đang khi đi chung xe ngựa với 1 nhà quý tộc. Cha Camillo nhìn thấy 1
người bệnh yếu ớt nằm bên đường . Ngài đề nghị cho xe dừng và xuống ẵm người
bệnh lên xe. Nhà quý tộc rùng mình khiếp sợ vì nguy hiểm và hôi hám nhưng
cũng rất cảm kích bởi tình yêu của cha Camillo với bệnh nhân.
NHU CẦU CỦA BỆNH NHÂN TRƯỚC
Cha Camillo luôn có lòng yêu mến và tôn trọng các phẩm trật trong Giáo Hội.
Nhưng ngài luôn đặt nhu cầu cấp bách của bệnh nhân lên trên hết. Có lần trên
đường từ tu viện tới nhà thương , Cha Camillo gặp Đức Hồng Y bảo trợ của
Dòng, Đức Hồng Y hỏi qua tình hình của Dòng, của bệnh nhân . Ngài muốn trao
đổi với cha Camillo một số việc có liên quan đến nhà Dòng, cha Camillo chỉ
nồi cháo trên tay và nói : “ thưa cha,con phải đi vội vì bệnh nhân có thể
đang chờ con”. Nói xong , cha Camillo cúi xuống kính cẩn hôn nhẫn Đức Hồng Y
rồi vội vã tới nhà thương.
PHỤC VỤ TRONG LỤT LỘI
Noel năm 1598 , đê sông Tibe bị vỡ, nước tràn ngập khắp nơi . Người ta vội
vã di chuyển chạy lụt. Cha Camillo và các tu sỹ của Dòng lặn lội suốt đêm để
di chuyển bệnh nhân mà vẫn không xuể. Khi nước đã dâng tới ngang lưng. họ
phải vác bệnh nhân trên vai để tránh cho bệnh nhân không bị nứơc lạnh. Cha
thầm nghĩ “ Giá như có hàng trăm tay để phục vụ bệnh nhân”.
MUỐN PHỤC VỤ SUỐT ĐỜI
Do lao động quá kiệt sức , cha Camillo bị các bác sĩ yêu cầu nghỉ ngơi tại
tu viện, không được tiếp tục làm việc bên nhà thương . Cha vẫn muốn phục vụ
bệnh nhân . Cha xin được giữ chìa khóa phòng làm việc của cha bên nhà thương
tới sau khi cha qua đời , Cha nói “ cho dù thân xác cha không còn bên nhà
thương, nhưng tâm hồn và tình yêu của cha luôn ở cùng những bệnh nhân
nghèo”.
GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG
Thành Rome đêm 14 tháng 7 năm 1614 tối sẫm như mực. Mọi người quy tụ quanh
cha Camillo để cầu nguyện cho ngài. Đức Hồng Y tới ban phép sức dầu thánh
cho cha cùng ban cho cha phép lành tòa thánh. Sau khi mọi người vừa dứt lời
cầu nguyện, Cha Camillo trút hơi thở cuối cùng.
với 40 năm phục vụ Chúa hiện diện trong
người bệnh, cha Camillo hưởng thọ 65 tuổi.
TÌNH YÊU CHA CAMILLO SỐNG MÃI
Đã mấy trăm năm, cho dù cha Camillo không còn nữa nhưng tinh thần của ngài
vẫn sống giữa những người nghèo khổ bệnh tật, những người bị ruồng bỏ, bị
đẩy ra bên thềm của xã hội. tinh thần và tình yêu của cha vẫn được sống,
trao và nhận bởi những tu sĩ dòng Camillian và những ai yêu quý đòan sủng
của Dòng.
VINH QUANG
những người nghèo khổ bệnh tật luôn tìm được an ủi nơi cha Camillo cũng như
không ngừng cầu nguyện cho ngài. nhờ sữ hiệp thông này, Chúa đã ban cho niềm
vinh quang cho tôi tớ của Chúa. Năm 1886 Đức Giáo Hòang Leo XII đã tông
phong cha Camillo lên hàng Hiển Thánh đồng thời là thánh bảo trợ bệnh nhân.
Năm 1939 Đức Giáo Hòang Pio XI tôn vinh
thánh Camillo là thánh bảo trợ các nhà thương và thầy thuốc.
PHÁT TRIỂN DÒNG TRÊN KHẮP THẾ GIỚI
Hơn 400 năm hình
thành và phát triển. Dòng Camillo nam va Camillo nữ hiện diện và phục vụ
bệnh nhân nghèo trên hơn 40 nước trên thế giới. Tình yêu của Chúa qua cách
thế của cha Camillo đã được gieo vào Việt Nam . chúng ta tạ ơn Chúa và hy
vọng linh đạo của dòng sẽ luôn không ngừng phát triển.
Có mộ phản hồi
tới “Tiểu Sử”
Thánh Camillo de Lellis
http://www.camillovn.org/tieu-su-thanh-camillo-a24.html
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
3, 1-6. 9-12
"Chúa hiện ra trong ngọn lửa cháy
từ giữa bụi gai".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên
cho ông nhạc gia là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông lùa đoàn chiên qua sa mạc,
đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra với ông trong ngọn
lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng không bị
thiêu rụi. Môsê nói: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai
không bị thiêu rụi?"
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa
bụi gai Người gọi ông: "Môsê, Môsê!" Ông thưa: "Dạ con đây!" Chúa nói:
"Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ ngươi đang đứng là
nơi thánh". Chúa lại nói: "Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi. Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp". Môsê che mặt, vì
không dám nhìn Thiên Chúa.
Chúa phán với ông: "Tiếng kêu van của
con cái Israel đã thấu đến Ta; Ta đã thấy họ bị người Ai-cập hà hiếp khổ
cực. Bây giờ ngươi hãy lại đây, và Ta sai ngươi đến Pharaon, để ngươi dẫn
đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-cập".
Môsê thưa cùng Thiên Chúa rằng: "Con
là ai mà dám ra trước mặt Pharaon và dẫn đưa con cái Israel ra khỏi Ai-cập?"
Chúa bảo ông: "Ta sẽ ở cùng ngươi; và cứ dấu này mà biết Ta đã sai ngươi:
Khi ngươi dẫn đưa dân Ta ra khỏi Ai-cập, thì ngươi hãy tế lễ Thiên Chúa trên
núi này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2.
3-4. 6-7
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi
và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc
tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn
tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai
lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong
thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. - Ðáp.
3) Chúa thi hành những việc công minh,
và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường
lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 25-27
"Chúa đã giấu không cho những người
khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha
là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người
hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé
mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó
cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai biết Cha trừ ra
Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Ðó là lời Chúa.
sự sống bé mọn
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ
Tư tuần XV Thường Niên, thuật lại lời Chúa Giêsu nguyện
cầu chúc tụng dâng
lên Cha của Người liên quan đến mạc khải thần linh, bao gồm thành
phần xứng hợp với mạc khải thần linh này và
tác nhân thực hiện mạc khải thần linh này:
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã
giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà
lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi
sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng
không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho".
Thành phần xứng hợp với mạc khải thần linh: Trong lời
nguyện cầu chúc tụng này, Chúa Giêsu đã xác định rõ thành phần xứng hợp với
mạc khải thần linh này không phải là "những
người hiền triết và khôn ngoan", mà
là "những
kẻ bé mọn". Tại
sao thế?
Tại vì mạc khải thần linh là những
gì siêu việt, những gì liên quan đến đức tin siêu nhiên, vượt lên trên (hơn
là phản nghịch với) kiến thức tự nhiên của con người, đến độ cho
dù con người có khôn ngoan thông thái đến thế nào đi nữa thì
tự mình họ cũng
chẳng có thể nào nắm
bắt và thấu hiểu được những
gì Thiên Chúa muốn mạc khải cho biết.
Nhất là đối với những kẻ tự
cao tự đại cho mình là thày đời như thành phần luật sĩ và biệt phái trong
dân Do Thái.
Tác nhân thực hiện mạc khải thần linh: Đó
là chính Con, Đấng đã đến "để tỏ Cha ra" (Gioan 1:18). Thật vậy, "Thiên
Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24), trong khi con người
là thụ tạo vừa hữu hình lại hữu hạn, không thể nào biết được Thiên Chúa là
ai và như thế nào, nếu không được Con tỏ ra cho: "không
ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho". Đó
là lý do, "không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa nếu không được
tái sinh từ trên cao" (Gioan 3:3), vì "cái gì sinh bởi xác thịt là
xác thịt, cái gì sinh bởi Thần Linh là thần linh" (Gioan 3:6).
Đúng thế, chính vì con người không
thể lên trời để biết được một cách chính xác Thiên Chúa là ai và như thế nào
mà đích thân Thiên Chúa tự giáng làm người nơi "Lời đã hóa thành nhục thể"
(Gioan 1:14), nơi Đấng "tuy danh phận là Thiên Chúa nhưng.... đã tự hủy
ra như không, mặc lấy thân phận tôi mọn..." (Philiphê 2:6-7).
Bởi thế, chỉ có "những
kẻ bé mọn" như
Người và với Người mới có thể nhận ra Người, Đấng cũng chính là mạc khải
thần linh của Thiên Chúa, như nhiều trường hợp xẩy ra trong thành phần
bình dân đại chúng đã được
các Phúc Âm thuật lại.
Trong bài đọc
1 cho năm lẻ hôm nay, chúng ta thấy Thiên Chúa đã
tỏ mình ra cho một con người tầm thường, sống thân phận lưu lạc, "chăn
chiên cho ông nhạc gia là Jethro, tư
tế xứ Midian", chẳng
biết tương lai đi về đâu, đó là Moisen, một nhân vật đã cảm thấy bất xứng và
bất lực trong sứ vụ được Thiên Chúa trao phó, như chính chàng đã thú nhận
trong bài đọc 1 hôm nay: "Con
là ai mà dám ra trước mặt Pharaon và dẫn đưa con cái Israel ra khỏi
Ai-cập?"
Vị "Thiên
Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp", tức
là Vị Thiên Chúa đã lập giao ước với tổ phụ dân Do Thái của Ngài này
chẳng những tỏ mình ra cho riêng Moisen
mà còn qua chàng tỏ mình ra cho
chung dân Do Thái là "những
kẻ bé mọn" đang ở trong tình
trạng làm nô lệ cho dân Ai Cập, khi Ngài ra tay toàn năng giải thoát họ: "Tiếng
kêu van của con cái Israel đã thấu đến Ta; Ta đã thấy họ bị người Ai-cập hà
hiếp khổ cực. Bây giờ ngươi hãy lại đây, và Ta sai ngươi đến Pharaon, để
ngươi dẫn đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-cập".
Bài Đáp
Ca hôm nay như âm vang lời chúc tụng của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm về đức
công minh của Thiên Chúa, một đức công minh phản ảnh tình yêu vô cùng nhân
hậu của Ngài đối với "những
kẻ bé mọn", bằng
việc tỏ mình ra cho họ, như Ngài đã từng làm với Moisen và dân Do Thái, cả
hai được câu Đáp Ca thứ 3 nhắc tới:
1) Linh hồn
tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh
Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của
Người.
2) Người đã tha thứ
cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng
ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng.
3)
Chúa thi hành những việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị
ức. Người tỏ cho Moisen được
hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel.
Thứ Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
3, 13-20
"Ta là Ðấng tự hữu. Ðấng tự hữu sai
tôi đến với anh em".
Trích sách Xuất Hành.
(Khi nghe tiếng Thiên Chúa phán ra từ
giữa bụi gai), Môsê thưa với Người rằng: "Này con sẽ đến với con cái Israel
và bảo họ: Thiên Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ có
hỏi con "Tên Người là gì", con sẽ nói sao với họ?" Thiên Chúa nói với Môsê:
"Ta là Ðấng Tự Hữu". Chúa nói: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: Ðấng Tự
Hữu sai tôi đến với anh em".
Thiên Chúa lại nói với Môsê: "Ngươi sẽ
bảo con cái Israel thế này: Thiên Chúa của tổ phụ anh em, Thiên Chúa của
Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp sai tôi đến với anh em.
Ðó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ qua mọi thế hệ.
Ngươi hãy đi họp các kỳ lão Israel lại và bảo họ rằng: Chúa là Thiên Chúa tổ
phụ anh em, là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac và Thiên Chúa Giacóp
hiện ra với tôi và phán rằng: Ta đã thăm viếng các ngươi, Ta đã thấy tất cả
những sự ngược đãi đối với các ngươi trong đất Ai-cập, nên Ta nói rằng: Ta
sẽ dẫn đưa các ngươi khỏi cảnh khốn khó ở Ai-cập, mà đem vào đất Canaan,
Hêthê, Amorrha, Phêrêzê, Hêvê và Giêbusa, là đất chảy đầy sữa và mật.
"Chúng sẽ nghe lời ngươi. Vậy ngươi và
các kỳ lão Israel hãy đi đến vua Ai-cập và tâu cùng vua rằng: Chúa là Thiên
Chúa người Do-thái đã gọi chúng tôi. Chúng tôi phải đi ba ngày đàng lên nơi
hoang địa, để tế lễ Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
"Nhưng Ta biết rằng vua Ai-cập sẽ
không để cho các ngươi ra đi đâu, trừ khi ra tay hùng mạnh. Vì thế Ta sẽ giơ
tay ra đánh phạt Ai-cập bằng những phép lạ mà Ta sẽ làm giữa họ. Khi đó, vua
mới để cho các ngươi đi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 1và 5.
8-9. 24-25. 26-27
Ðáp: Tới muôn đời Chúa
vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Hoặc đáp: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan
hô danh Người; hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy nhớ lại những
điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều miệng Người phán
quyết. - Ðáp.
2) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh
ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký
cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.
3) Chúa đã khiến dân Người sinh sản
rất đông, và làm cho họ uy dũng hơn cả quân thù. Người đã đổi lòng chúng để
chúng ghét dân Người, và đối xử gian ngoan với các tôi tớ của Người. - Ðáp.
4) Bấy giờ Người đã sai Môsê là tôi tớ
của Người và Aaron mà Người đã chọn. Các ông thực hiện những phép lạ của
Người giữa bọn chúng, và những điều kỳ diệu trong lãnh thổ họ Cam. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con
hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của
Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 28-30
"Ta hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến
với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho
các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách
của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Ðó là lời Chúa.
sự sống mệt mỏi
Bài
Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XV Thường Niên hôm nay là
bài phúc âm tiếp ngay sau bài phúc âm hôm qua, như thể Người kín đáo kêu gọi
những ai "những
người hiền triết và khôn ngoan" là
thành phần không được mạc khải thần linh tỏ ra cho như "những
kẻ bé mọn" trong
bài Phúc Âm hôm qua cho biết,
hãy làm sao sống "hiền lành và khiêm nhượng" như Người thì tự nhiên
"mạc khải thần linh" sẽ được tỏ hiện cho họ như cho "những
kẻ bé mọn".
"Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai mệt
mỏi và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta
và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn
các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì
nhẹ nhàng".
Trong lời
kêu gọi này của Chúa Giêsu, theo thứ tự, chúng ta thấy mấy điều rất chí lý
cho dù ngược đời sau đây:
1- "Hãy
đến với Ta tất cả, hỡi những ai mỏi
mệt và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi":
Ở đây Chúa Giêsu kêu gọi "tất
cả những ai mệt mỏi và gánh nặng" thì
"hãy đến với" Chúa để Người "bổ sức cho". Thật vậy, theo tâm
lý, sở dĩ con người cảm thấy cuộc đời đã trở thành "gánh nặng"
nơi các trách nhiệm hay nghĩa vụ, kể cả những gì vốn được họ mơ ước
theo đuổi, như địa vị danh giá chức quyền hay tình yêu hôn nhân v.v., là vì
trong lòng họ đã cảm thấy "mệt
mỏi", chán chường.
Nhưng
tại sao lại hay xẩy ra hiện tượng bất nhất này, đến độ có thể đi đến chỗ bỏ
cuộc hay đứt gánh giữa đường thảm thương này? Phải chăng đó là lý do Chúa
Giêsu sau khi kêu gọi họ thì Người đã khuyên
họ như sau:
2- "Hãy
mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an":
Phải chăng vì họ hung hăng dữ
tợn và kiêu căng tự ái, không "hiền lành và khiêm nhượng" như Người
mà họ mới dễ bị "mệt
mỏi và
gánh nặng", gây ra bởi
những đụng chạm và thất vọng, không được như những gì họ chủ quan mong muốn
hay tham vọng?
Nếu quả thật như vậy thì Chúa chỉ
cho họ cách chữa trị vô cùng công hiệu, đó là chịu trước
học sau, ở chỗ: "Hãy
mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta" - mang ách
trước rồi mới học sau, chứ không phải học trước cho thông rồi mới biết
cách để mà mang ách,
hoàn toàn ngược đời.
Tại sao? Tại vì, theo kinh nghiệm
tu đức, một khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận cái "ách" của Chúa là tất
cả những thử thách và trái ý Chúa gửi đến cho chúng ta hay để xẩy ra cho
chúng ta, như muốn nhắc nhở chúng ta hay thanh tẩy chúng ta một cách
nào đó, thì tự
nhiên chúng ta được nên giống Chúa, "hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng".
Một thí dụ rất điển hình và thực
tế đó là chúng ta thường xin Chúa ban ơn cho con được có lòng khiêm nhượng,
thế nhưng khi Chúa ban cho chúng ta ơn khiêm nhượng thì chúng ta không nhận
một cách rất trắng trợn và phũ phàng. Ở chỗ, ơn khiêm nhượng Chúa ban cho
chúng ta đó là khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xỉ nhục chúng ta hay tát
chúng ta ngay trước mặt mọi người, nếu chúng ta sẵn sàng chịu đựng
không trả đũa và tha cho họ thì
không phải là chúng
ta đã "hiền
lành và khiêm nhượng" như
Chúa ngay
lúc bấy giờ rồi hay sao, nhờ đó, đúng
như Chúa cam đoan: "tâm
hồn các ngươi sẽ gặp được bình an" hay
sao!?!
3- "Ách
của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng": "Ách"
của Chúa đây là gì và "gánh" của Chúa đây là chi, nếu không phải điều
kiện để theo Người, đó là "bỏ mình đi ('ách') và
vác thập giá ('gánh') mà
theo Thày"
(Mathêu 16:24). Đúng thế,
cho đến khi nào con người biết "bỏ mình đi"
và "vác thập giá", họ mới cảm thấy tất cả mọi sự xẩy ra trong
cuộc đời của họ, những gì mà trước kia đã từng làm cho họ cảm thấy "mệt
mỏi và gánh nặng"
thì bấy giờ, nhờ "hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng", nhờ "tâm
hồn được bình an", lại
trở thành "êm ái
và nhẹ nhàng".
Trong bài đọc 1 cho năm lẻ
hôm nay, trong khi dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn đang "mệt mỏi
và nặng gánh" trong tình trạng làm tôi cho dân Ai Cập, vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất của họ, "Đấng hiện hữu" luôn ở với họ, là "Thiên
Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp" tổ
phụ họ, ngỏ ý muốn "bổ
sức" cho họ vì Ngài "đã
thấy tất cả những sự ngược đãi đối với (dân
Do Thái) trong
đất Ai-cập", bằng
cách, qua Moisen được
Ngài tuyển chọn và sai đi, "sẽ
giơ tay ra đánh phạt Ai-cập bằng những phép lạ mà Ta sẽ làm giữa họ. Khi đó,
vua mới để cho các ngươi đi", và "sẽ
dẫn đưa (dân Do Thái) khỏi
cảnh khốn khó ở Ai-cập, mà đem vào đất Canaan, Hêthê, Amorrha, Phêrêzê, Hêvê
và Giêbusa, là đất chảy đầy sữa và mật".
Những gì Thiên Chúa đã
làm cho Dân Do Thái, từ khi đưa họ sang Ai Cập cho đến khi dân của Ngài bị
ngược đãi ở Ai Cập, để qua cơ hội này Ngài tỏ mình ra là Vị Thiên Chúa chân
thật duy nhất của họ, Vị "Thiên
Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp", bao
giờ cũng trung thành với giao ước của Ngài, nhất là qua việc Ngài ra tay
giải phóng họ khỏi cảnh làm nô lệ ở Ai Cập qua
trung gian Moisen, những gì
cần được Dân Do Thái cảm nhận và chúc tụng, như trong bài Đáp Ca cho thấy:
1) Hãy ca
tụng Chúa, hãy hoan hô danh Người; hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân.
Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm, những phép lạ, và những điều
miệng Người phán quyết.
2)
Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn
thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với
Isaac.
3)
Chúa đã khiến dân Người sinh sản rất đông, và làm cho họ uy dũng hơn cả quân
thù. Người đã đổi lòng chúng để chúng ghét dân Người, và đối xử gian ngoan
với các tôi tớ của Người.
4)
Bấy giờ Người đã sai Môsê là tôi tớ của Người và Aaron mà Người đã chọn. Các
ông thực hiện những phép lạ của Người giữa bọn chúng, và những điều kỳ diệu
trong lãnh thổ họ Cam.
Thánh Apollinaris
Ravenna
20/7
(thế kỷ thứ 1)
Vị thánh này sống ở thế kỷ thứ nhất. Những điều chúng ta biết về thánh nhân
được trích từ sách “Tông Đồ Công Vụ” và các tài liệu, bài giảng của hai
thánh Bêđa và Phêrô kim ngôn.
Thánh Apollinaris sinh tại Antioch, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài là môn đệ của thánh
Phêrô. Thánh Phêrô đã đặt Apollinaris làm giám mục và sai ngài tới truyền
giáo tại Ravenna, nước Ý. Ở đó, Apollinaris đã làm cho nhiều người trở về
với Giáo hội bằng gương sáng đời sống thánh thiện cũng như bằng những lời
ngài rao giảng. Nhân danh Đức Kitô, thánh Apollinaris có thể chữa lành những
người đau bệnh.
Thánh Apollinaris làm giám mục trong thời trị vì của hoàng đế Vespasian. Vì
những cuộc bách hại các Kitô hữu, Apollinaris đã bị đi đày bốn lần. Thực sự,
không chắc là Apollinaris đã bị chết vì đức tin, nhưng thánh nhân đã bị giam
cầm và bị hành hạ rất nhiều lần trong suốt hai mươi năm làm giám mục giáo
phận Ravenna. Thánh nhân được dân chúng tôn nhận như vị thánh tử đạo năm 79
bởi những cuộc bách hại ngài chịu vì Chúa Kitô, thậm chí dù ngài đã làm ơn
cứu sống những người bách hại ngài dưới thời cấm cách đạo của hoàng đế
Vespasian.
Thánh tích của ngài hiện còn ở tu viện Benedictine ở Classe, Ravenna, nước Ý
và nhà thờ Thánh Lambert ở Düsseldorf, Germany. Nhiều thế kỷ sau, ngài hiện
ra với Thánh Ramuald trong một thị kiến.
Các thánh tử đạo là những chứng nhân của Chúa Kitô và của Tin mừng. Hết thảy
chúng ta cũng được mời gọi để trở nên những chứng nhân của Chúa qua cuộc
sống đức tin. Đời sống của thánh Apollinaris cho chúng ta biết các thánh tử
đạo không chỉ là những người làm chứng cho Chúa Kitô vì đã dám hy sinh mạng
sống, mà các ngài còn trung thành sống Tin mừng của Chúa suốt trọn cuộc đời,
ngay cả trong những nghịch cảnh đau thương.
nguon:https://dongten.net/2019/07/19
APÔLLINARÊ,
GIÁM MỤC, TỬ ĐẠO
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng kính thánh Apôllinarê, Giám Mục, Tử Đạo.
Chúng ta không có nhiều tài liệu lịch sử về vị Giám Mục này.
Tài liệu chỉ cho chúng ta biết: Vị thánh này sống ở thế kỷ thứ nhất và
những điều chúng ta biết được về thánh nhân được đều được trích từ các tài
liệu và bài giảng của hai thánh Bêđa và Phêrô kim ngôn. Đây là hai
vị thánh tiến sĩ nổi tiếng của Giáo Hội. Tuy
nhiên các tài liệu này cũng rất hạn chế.
Một cách vắn gọn thì tài liệu cho chúng ta biết Thánh
Apôllinarê sinh tại Antiôkia. Ngài là môn đệ của thánh Phêrô Kim Ngôn. Thánh
Phêrô đã đặt Apôllinarê làm Giám mục và sai ngài tới truyền giáo tại
Ravenna, nước Ý. Ở đó, Apôllinarê đã làm cho nhiều người trở về với Giáo
hội bằng gương sáng đời sống thánh thiện cũng như bằng những
lời ngài rao giảng. Nhân danh Đức Kitô, thánh Apôllinarê có thể chữa lành
những người đau bệnh.
Thánh Apôllinarê làm Giám mục trong thời trị vì của hoàng đế Vespasianô. Vì
những cuộc bách hại các Kitô hữu, Apôllinarê đã bị đi đày bốn lần. Thực
sự, không chắc là Apôllinarê đã bị chết vì đức tin, nhưng thánh nhân đã bị
giam cầm và bị hành hạ rất nhiều lần trong suốt 20 năm làm Giám mục Giáo
phận Ravenna. Thánh nhân được dân chúng tôn kính như vị thánh tử đạo bởi
những cuộc bách hại ngài phải chịu vì Chúa Kitô.
Tóm lại đời sống của thánh Apôllinarê đã cho chúng ta thấy thánh nhân là
người đã can đảm làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài can đảm hy sinh cả mạng sống
để nói lên lòng trung thành của mình đối với Tin Mừng của Chúa suốt trọn
cuộc đời.
II. BÀI HỌC.
Kính thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người không còn muốn tin vào
Thiên Chúa nữa.
Một câu truyện như một minh họa cho sự việc này:
“Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến
trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên
Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan
ngạc nhiên hỏi:
-Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì
trục trặc chăng?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi
chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên
Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có
gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin
Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược
lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn
công thuyết phục con người nữa.
Con người sống như Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tĩnh nghiêm trọng
đáng cho chúng ta, những đồ đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời
sống mình hôm nay.
Thánh Apôllinarê ngày xưa bằng lời rao giảng và nhất là bằng cuộc sống tốt
lành, thánh thiện của ngài đã cho mọi người như đang được gần gũi với một
Thiên Chúa đầy lòng thương xót đang hiện diện giữa con người và làm cho con
người biết sống yêu thương nhau cũng như được sống một cuộc sống hạnh phúc
hơn.
Mỗi người chúng cũng hãy làm cho Chúa được lớn lên trong cuộc sống của chúng
ta cũng như trong cuộc sống của mọi người trên thế giới này để mọi người
đang sống trên thế giới đầy đau khổ này tìm được niềm vui và ý nghĩa cho
cuộc sống của mình.
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè ngoài bờ biển. Hôm đó mấy đứa con đang nô đùa,
xây lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì thấy một cụ bà xuất hiện. Tóc bà rối
bời trong gió, áo quần tả tơi. Bà vừa đi vừa cúi xuống nhặt những vật gì đó
trên mặt cát và cho vào giỏ.
Cha mẹ các trẻ thấy bà nghèo xơ nghèo xác như thế thì cấm các trẻ đến gần
bà. Nhưng khi đi ngang họ, bà mỉm cười với họ, nhưng họ quay mặt đi chỗ
khác. Ít hôm sau, cả gia đình biết bà cụ đó là người tình nguyện đi lượm các
mảnh thủy tinh rơi rớt trên bãi biển, để các trẻ em đi trên cát khỏi bị đứt
chân.
“Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không biết” (Ga. l,26)
Cụ bà nghèo khó tình nguyện làm việc âm thầm để cho các trẻ khỏi đứt chân.
Phải chăng bà là hình ảnh Chúa Giêsu. Người ở giữa mọi người, ban ơn
làm phúc cho mọi người mà loài người không biết, không nhận Người, khinh dễ
người. Và gioan Tiền hô, qua lối sống khổ hạnh khác thường, đã làm chứng cho
Đấng Cứu Thế. Như Gioan, mỗi người tin hữu cũng là chứng nhân cho Chúa Kitô
trong cuộc sống. Teillard de Chardin đã ví:
Anh
Sáng xuyên qua đám mây, người ta biết là có mặt trời trên đó. Nhìn vào đời
sống chúng ta, mọi người đoán được có Đức Kitô “.Và
Martin Luther King đã nói: “Chúng ta không chỉ làm chứng bằng lời
nói, mà còn bằng cuộc sống của mình” (Theo Như Thầy đã yêu)
Thiên Chúa mà chết đi khỏi tấm lòng con người, thì con người cũng bị hủy
diệt theo.
Xã hội chúng ta, đất nước, quê hương chúng ta đang cần những chứng nhân của
Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống. Chúng
ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để xác quyết Thiên Chúa đang
sống và hành động trong trần gian này.
Tự hào là môn đệ Chúa Giêsu, làm sao chúng ta có thể quên được nhật lệnh của
Thầy: “Chúng con hãy làm chứng!”
Đó là ơn gọi, là sứ mệnh, là căn tính, là lý do hiện hữu của người Kitô
chúng ta.
Ngày nay không ai lại không biết Mẹ Têrêsa thành Calcutta, một nữ tu Bác ái
chuyên việc tông đồ bằng cách phục vụ những kẻ mắc bệnh cùi, ốm đau, cùng
khổ, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm la liệt trên các hè phố tại
Calcutta, Ấn Độ.
Trước đây, có lần một vị sư Phật giáo nói với Mẹ: “Tôi biết và yêu mến Đức
Kitô lắm, nhưng tôi ghét Hội thánh của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị
nói, có lẽ các chị sẽ trớ nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Hội
thánh của Đức Kitô”.
Sau một năm, có dịp cùng làm việc với Mẹ Têrêxa, vị sư đó phát biểu: “Tôi đã
quan sát chị. Bây giờ tôi thực sự tin rằng các chị làm việc chỉ cốt để giúp
những người nghèo khổ xấu số nhất. Chúng tôi sẽ dâng cho các chị một ngôi
nhà trong khuôn viên chùa chúng tôi để làm bệnh xá miễn phí!”
Nhờ các cuộc hoạt động từ thiện, bác ái, Mẹ Têrêsa đã nhận được nhiều giải
thưởng của chính phủ Ấn Độ, chẳng hạn như giải “Padna Shri” (Hoa huệ tuyệt
vời) năm 1963. Cùng năm đó, chính phủ Philippine tặng Mẹ giải thưởng
Magsaysay (giải thưởng dành cho vùng Đông Nam Á về các công cuộc xã hội).
Năm 1971, Mẹ lại được vinh dự lãnh giải thưởng “Hoà bình Gioan XXIII” do
chính tay Đức Phaolô VI trao tặng tại Rôma. Gần đây nhất, tháng 10 năm 1979,
Mẹ Têrêsa lại được hân hạnh nhận giải thưởng Nobel Hòa bình 1 979 là giải
thưởng lớn nhất và tiếng tăm nhất Thế giới.
Thế nhưng giải thưởng làm Mẹ Têrêsa thích thú và hãnh diện nhất chính là đưa
được nhiều người về với Hội Thánh Công giáo và làm cho nhiều người khác yêu
mến Hội Thánh của Đức Kitô hơn.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-20-07-thanh-apollinaregiam-muctu-dao-42537
Thứ Sáu
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
11, 10 - 12, 14
"Các ngươi hãy giết con chiên con
vào chiều tối. Hễ nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua các ngươi".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê và Aaron đã
làm các phép lạ trước mặt Pharaon như đã chép. Nhưng Chúa để cho Pharaon vẫn
cứng lòng, không cho phép con cái Israel ra khỏi nước mình.
Tại Ai-cập, Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: "Tháng này đối với các ngươi là tháng đầu, tức là tháng đầu năm.
Các ngươi hãy loan truyền cho toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: "Ðến
mồng mười tháng này, mỗi gia đình phải lo cho có một con chiên con. Nếu nhà
ít người, liệu ăn không hết một con chiên con, thì hãy hợp chung với những
người lân cận, tuỳ theo số người. Con chiên con phải không tì tích, là chiên
đực và được một tuổi. Các ngươi cũng có thể dùng một con dê đực theo quy
luật đó. Các ngươi nuôi nó cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể
cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó vào chiều tối. Tại mỗi nhà ăn thịt
chiên, người ta sẽ lấy máu chiên bôi lên hai khung cửa và trên thành cửa.
Ðêm đó, người ta sẽ ăn thịt chiên nướng với bánh không men và rau diếp đắng.
Các ngươi không được ăn thịt sống hay luộc, mà chỉ được ăn thịt nướng. Phải
ăn tất cả đầu, chân và lòng. Ðừng để thừa đến sáng hôm sau. Nếu ăn còn dư,
thì hãy thiêu huỷ đi.
"Các ngươi sẽ ăn như thế này: Hãy thắt
lưng, chân mang giày, tay cầm gậy và ăn hối hả, vì đây là lễ Vượt Qua của
Chúa. Ðêm đó, Ta sẽ rảo qua khắp nước Ai-cập. Ta sẽ giết chết tất cả con đầu
lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến loài vật. Ta là Chúa. Ta sẽ ra
án phạt tất cả các bụt thần Ai-cập. Máu bôi lên thành cửa nhà các ngươi sẽ
dùng làm dấu hiệu: Hễ nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua các ngươi, các ngươi sẽ
không bị huỷ diệt khi Ta trừng phạt nước Ai-cập.
"Các ngươi hãy ghi ngày đó làm ngày kỷ
niệm, và cử hành ngày đó như ngày đại lễ của Chúa, qua các thế hệ cho đến
muôn đời".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 115,
12-13. 15-16bc. 17-18
Ðáp: Con sẽ lãnh
chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa (c. 13).
Xướng: 1) Con lấy gì dâng lại cho Chúa
để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con? Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con
sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.
2) Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái
chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì
Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. - Ðáp.
3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi
làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng
Chúa trước mặt toàn thể dân Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất
nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 1-8
"Con Người cũng là chủ ngày
sabbat".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi
ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy
vậy, các người biệt phái thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm
điều không được phép làm trong ngày Sabbat". Người nói với các ông rằng:
"Các ông không đọc thấy Ðavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói lả
sao? Các ông cũng không đọc thấy Ðavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến,
bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn
mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư
tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao? Tôi bảo cho
các ông biết, đây có Ðấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết
được điều này là, "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông
không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày
Sabbat".
Ðó là lời Chúa.
sự sống vô tội
Trong bài
Phúc Âm cho Thứ Sáu
Tuần XV Thường Niên hôm nay, Chúa Giêsu lợi dụng vấn đề được các người biệt
phái đặt ra cho Người để dạy cho họ những gì họ cần phải học hỏi và đối xử.
Vấn đề được
các người biệt phái đặt ra: "Khi
ấy, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người
đói, liền bứt bông lúa mà ăn. Thấy vậy, các người biệt phái thưa với Người
rằng: 'Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép làm trong ngày
Sabbat'".
Những gì họ
cần phải học hỏi và đối xử: "Người
nói với các ông rằng: 'Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với
ông đã làm gì khi đói lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ
Chúa ăn bánh trưng hiến, bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn,
chỉ trừ các tư tế được ăn mà thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật
rằng: Ngày Sabbat, các tư tế trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc
tội đó sao? Tôi bảo cho các ông biết, đây có Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa.
Vì nếu các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn
hy lễ', chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội, vì chưng Con
Người cũng là chủ ngày Sabbat".
Hai vấn đề được
Chúa Giêsu đặt ra với
những người biệt phái trong trường hợp họ bắt
bẻ các môn đệ của Người về
luật kiêng việc xác trong ngày hưu lễ đó là lòng nhân từ và tinh thần luật,
hai chiều kích sống đạo hay hai yếu tố giữ đạo bất khả thiếu và bất khả phân
ly. Bởi vì, nếu tất cả lề luật và các tiên tri đều qui về hai điều răn trọng
nhất là mến Chúa và yêu người (xem Mathêu 22:40),
thì ai yêu thương là giữ trọn lề luật vậy (xem Roma 13:8,10).
Đó là lý do trong
câu trả lời của Chúa Giêsu,
Người đã nhấn mạnh đến chiều kích chính yếu là lòng nhân lành trước, rồi mới
tới chiều kích tinh thần luật sau: "nếu
các ông biết được điều này là, 'Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ',
chắc các ông không bao giờ lên án những người vô tội" (lòng
nhân lành), "vì
chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat" (tinh
thần luật).
"Con Người cũng
là chủ ngày Sabbat" nghĩa
là gì, nếu không phải Con Người là cốt lõi của
lề luật, bởi thế nếu giữ luật
mà không làm cho người ta đạt đến Con Người, gặp gỡ Con Người, hiệp nhất nên
một với Con Người thì kể như
họ đã bị lệch lạc, đã lầm đường lạc hướng.
Theo tâm lý tự nhiên và kinh
nghiệm sống đạo, chúng ta
thường nhìn nhau bằng con mắt của một quan án chí công liên quan đến luật
lệ. Ở chỗ, thấy nhau làm một điều gì đó không hay không phải, nhất là
những điều sai quấy tỏ tường, chúng ta thường nghĩ ngay đến tội này lỗi
kia, đến hình phạt phải chịu v.v., chứ ít khi hay hiếm khi chúng ta tỏ lòng
thương cảm với họ ngay bấy giờ, rồi sau đó tìm cách giúp họ đứng lên hay
vươn lên khỏi những gì họ vấp phạm, bằng lời cầu nguyện của mình hay bằng
những lời cảm thông cùng trấn an họ, trái lại, nhiều khi chúng ta lại còn
khinh bỉ họ, nói xấu họ và xa lánh họ nữa, chẳng khác gì như họ đã bị
vấp ngã trước mặt chúng ta, chúng ta chẳng những không chạy lại ân cần nâng
họ dậy còn nhổ vào họ hoặc thậm
chí đạp hay đá cho
họ một cái nữa vậy.
Nếu chúng ta hằng ngày đọc kinh
và đi lễ hay hằng tuần vẫn đi lễ và rước lễ, mà chúng ta vẫn cứ tiếp tục
sống thái độ soi mói một cách duy luật của những người biệt phái trong bài
Phúc Âm hôm nay, thì hãy tự xét xem lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta trong
bài Phúc Âm: "Ta
muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ".
Căn
cứ vào lời này của Chúa thì dường như Người có ý bảo chúng ta là nếu chúng
ta cứ bất nhẫn với anh em
chúng ta, cứ tiếp tục phán xét và luận án anh chị em chúng ta, dù
trong đầu óc của chúng ta, nhất
là với những người anh chị em tội nhân đáng thương hơn là đáng
khinh bỉ và lên án, chúng ta không nên đi lễ và rước
lễ nữa, Chúa không chấp nhận của lễ chúng ta dâng hay việc đạo đức
chúng ta làm, bởi chúng thực
sự không đẹp lòng Ngài, cho dù chúng ta không phạm tội trọng và vẫn có thể
dâng lễ và rước lễ, trừ
phi chúng ta nhận biết lỗi lầm của mình và quyết tâm chừa cải.
Trong bài đọc
1 cho năm lẻ hôm nay, trước khi giải thoát dân Do Thái khỏi Ai Cập, Thiên
Chúa đã thiết lập Lễ Vượt Qua
cho họ, bao gồm cả thời điểm cử hành lễ này: "Mùng mười của tháng đầu năm",
cả của ăn chính yếu là "một con chiên con", cả cách thức ăn bữa vượt
qua này: "thắt
lưng, chân mang giày, tay cầm gậy và ăn hối hả",
kèm theo cả mục đích lẫn lịch sử muôn đời cần phải ghi nhớ của nó:
"Vì đây là
lễ Vượt Qua của Chúa. Đêm đó, Ta sẽ rảo qua khắp nước Ai-cập. Ta sẽ giết
chết tất cả con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến loài vật. Ta
là Chúa. Ta sẽ ra án phạt tất cả các bụt thần Ai-cập. Máu bôi lên thành cửa
nhà các ngươi sẽ dùng làm dấu hiệu: Hễ nhìn thấy máu, Ta sẽ vượt qua các
ngươi, các ngươi sẽ không bị huỷ diệt khi Ta trừng phạt nước Ai-cập".
Cũng thế, Chúa Kitô, trước Cuộc Vượt
Qua của mình, Người cũng đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Lễ Vượt Qua của dân
Do Thái trong Cựu Ước và Thánh Thể Chúa Kitô cho Tân Ước đều là những gì
nhắc nhở tín hữu về một biến cố, biến cố giải thoát dân tộc hay
cứu độ nhân loại. Nếu Chúa
Kitô trở thành con chiên bị sát tế cho phần rỗi của loài người tội lỗi bằng
tất cả lòng thương yêu vô cùng nhân hậu như thế thì những ai cử hành Thánh
Thể của Người và lãnh nhận Thánh Thể của Người cũng phải có lòng nhân hậu
như Người, cho đến độ, cho dù con người có tội lỗi đến đâu chăng nữa, nhất
là thành phần cố
tình lên án tử cho Người (dân
Do Thái) và sát
hại Người (dân ngoại Rôma),
Người vẫn "xin Cha tha cho
họ vì họ lầm không biết việc họ làm" (Luca 23:34).
Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm ý nghĩa
của Thánh Thể là tinh
thần Tạ Ơn, tạ ơn bằng chính
"chén cứu độ" (câu 1), vì "Ngài
đã bẻ gãy xiềng xích cho con" (câu
2), nên không thể nào không chẳng những "hiến
dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ" mà
còn "giữ
trọn lời khấn xin cùng Chúa trước mặt toàn thể dân Ngài" (câu
3) bằng đời sống bác ái yêu thương nữa.
1)
Con lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con?
Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
2)
Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con
là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tì Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con.
3)
Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.
Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa trước mặt toàn thể dân Ngài.
Thánh Laurensô Brindisi, linh mục Tiến Sĩ Hội Thánh
Với nhiều tác phẩm giá trị về mặt thần học, luân lý, đạo đức,
thánh Laurensô Brindisi đã được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII vào
năm 1959, tôn vinh làm tiến sĩ Hội Thánh. Thánh Laurensô
Brindisi đã được tán dương như lời Chúa nói: ” Chúa đã cho người
lên tiếng giữa cộng đoàn, ban cho người đầy tinh thần khôn Ngoan
minh mẫn và mặc cho Ngài áo vinh quang” (Hc 15, 5).
THÁNH LAURENSÔ BRINDISI:
Thánh nhân có tên gọi là Jules César Russô sinh tại Brindisi,
vùng Apulia, miền Nam nước Ý Đại Lợi. Ngay từ hồi còn nhỏ, còn
niên thiếu, thánh nhân đã ước ao trở thành người hướng dẫn
các linh hồn. Để thực hiện gấc mơ phục vụ các linh hồn, thánh
nhân đã xin gia nhập dòng thánh Phanxicô ở Vêrôme. Với tấm lòng
mến Chúa và tha thiết phục vụ tha nhân, thánh Laurensô đã được
mặc tu phục Phanxicô vào năm 1575 và được gọi là thầy
Laurensô Brindisi. Thánh nhân có óc thông minh và trí khôn sắc
xảo, vì thế
những năm học ở Padua đã giúp Ngài trở nên thông thái, trở thành
một học giả, thông thạo nhiều ngôn ngữ như tiếng Pháp, Đức, Do
Thái, Hy Lạp, Syrie. Thánh nhân nhờ ơn Chúa giúp và Thánh Thần
tác động đã sẵn sàng bắt tay vào việc cải cách, cải tổ. Thánh
nhân đã dùng lời giảng dậy không bằng những lý thuyết suông mà
lồng vào lời Chúa để mang lại một sức sống mãnh liệt hầu lôi kéo
các linh hồn. Tiếng tăm của Ngài vang dội khắp nơi, khắp Trung
Âu. Thánh nhân còn hăng say với Thập Tự Quân. Thánh nhân đã dẫn
đầu đạo binh Hung Gia Lợi, thánh giá cầm tay để chống lại đạo
quân Thổ Nhĩ Kỳ. Thánh nhân đã chiến thắng, thành công vào năm
1601. Thánh nhân còn là một nhà ngoại giao tài giỏi của các Đức
Giáo Hoàng. Thánh nhân có đời sống liên kết rất thân mật với
Chúa. Ngài để ra nhiều giờ cầu nguyện và thực tập các nhân đức.
THÁNH LAURENSÔ BRINDISI QUA ĐỜI VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Thánh nhân được Chúa gọi về với Chúa khi Ngài đang hăng say thi
hành sứ mạng được Chúa trao phó ở Lisbone năm 1619. Ngài ra đi
về với Chúa trong sự khó nghèo, đơn sơ và thánh thiện. Thánh
nhân dù rất bận với công việc nhưng đã để lại rất nhiều sách có
giá trị bảo vệ đức tin công giáo. Năm 1881, Đức Giáo Hoàng Lêô
XIII đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh và Đức Thánh
Cha Gioan XXIII đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1959.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh Lô-ren-xô linh mục thần trí khôn
ngoan và dũng lực, để làm vinh danh Chúa và cứu các linh hồn.
Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban thần trí ấy
cho chúng con, để chúng con biết việc phải làm và làm điều đã
biết (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Laurensô, linh mục).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
https://dcvxuanloc.net/thanh-laurenso-brindisi-linh-muc-tien-si-hoi-thanh-ngay-2108/
ĐTC Biển Đức XVI
23/3/2011 – Bài 135 về Thánh Lawrence of Brindisi
Thứ Bảy
Ngày 22 tháng 7
THÁNH NỮ MA-RI-A MA-ĐA-LÊ-NA
lễ kính
Tiểu sử
Vốn là người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa Giê-su ban
ơn tha thứ, Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đã hết tình phục vụ Người. Trong cuộc
Thương Khó, khi các Tông Đồ mạnh ai nấy chạy thì thánh nữ đã can đảm
đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su, cùng với Đức Ma-ri-a, tông đồ Gio-an
và một số phụ nữ khác. Đức Giê-su đã tưởng thưởng lòng trung thành đơn
sơ của thánh nữ khi hiện ra với thánh nữ sáng ngày phục sinh và trao cho
thánh nữ trách nhiệm loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các môn đệ của
Người. Chẳng phải vô cớ mà phụng vụ Đông phương đã gọi thánh nữ là “tông
đồ của các Tông Đồ”.
Khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đến mộ và không thấy xác Chúa ở đó, bà tưởng
người ta đã đem đi mất, nên đi báo tin cho các môn đệ. Các ông đã đến,
đã thấy và tin như người phụ nữ đã nói. Rồi sau đó Kinh Thánh lại viết
về các ông rằng : Các
môn đệ trở về nhà và tiếp theo ngay : Bà
Ma-ri-a đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc.
Vì thế, cần phải suy nghĩ xem sức mạnh của lòng yêu mến đã đốt cháy tâm
trí của người phụ nữ này như thế nào. Dù các môn đệ bỏ mộ Chúa ra về, bà
vẫn không chịu bỏ về. Bà cố tìm Đấng bà không gặp, vừa khóc vừa tìm, và
vì lửa yêu mến bùng lên, bà khao khát tìm gặp Đấng bà tưởng người ta đã
đem đi mất. Vì bà ở lại để tìm, cho nên bà là người duy nhất được gặp
thấy Chúa, bởi vì sự kiên trì là sức mạnh không nhỏ của bất cứ việc lành
nào. Đấng là chân lý đã nói : Kẻ
nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Vậy trước hết bà đã tìm mà chẳng gặp ; bà cứ kiên trì tìm kiếm và rốt
cuộc bà đã gặp. Sự thể là ao ước mà không được mãn nguyện, thì càng ao
ước hơn ; khi lòng ao ước tăng lên, thì nó sẽ chiếm hữu điều nó tìm
được. Quả thật, lòng ao ước thánh thiện càng bị trì hoãn thì càng tăng.
Còn nếu lòng ao ước vì bị trì hoãn mà suy giảm thì không phải là ao ước
thật. Bất cứ ai muốn đạt tới chân lý, thì phải cháy lên ngọn lửa tình
yêu này. Như vua Đa-vít đã nói : Linh
hồn con khao khát Chúa Trời là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến
vào bệ kiến Tôn Nhan ?, và Hội Thánh còn nói trong sách Diễm ca : Trái
tim tôi đã bị thương tích vì tình yêu rồi thêm : Tâm
hồn tôi tan chảy.
Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ? Bà
được hỏi vì sao bà đau buồn là để cho lòng ao ước của bà tăng thêm ; vì
khi bà nhắc đến Đấng bà đang tìm, thì lòng bà càng cháy lửa yêu mến
Người hơn nữa.
Đức Giê-su gọi bà : Ma-ri-a ! Sau
khi Người đã gọi bà theo cách nói chung và bà không nhận ra, thì Người
gọi bà đích danh. Dường như Người muốn nói với bà : “Chị hãy nhận ra
Đấng đã nhận chị. Thầy không biết chị như biết bất cứ ai, Thầy biết rõ
chị.” Vậy bà Ma-ri-a vì đã được gọi đích danh, nên bà đã nhận ra Đấng
tác thành, và bà liền kêu lên : Ráp-bu-ni,
nghĩa là lạy Thầy.
Bởi chính Đấng bà đôn đáo tìm kiếm, thì cũng đang dạy dỗ trong tâm hồn
bà để bà tìm kiếm Người.
Lời nguyện
Lạy Chúa Cha hằng hữu, thánh nữ Ma-ri-a Ma-đa-lê-na là người thứ nhất
được Con Một Chúa giao cho sứ mạng loan Tin Mừng Phục Sinh. Nhờ lời
thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con cũng biết noi gương người mà rao
giảng mầu nhiệm Chúa Ki-tô phục sinh, để mai sau được vào Nước Trời
chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa,
hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Dc 3,
1-4a
"Tôi đã gặp người tôi yêu".
Trích sách Diễm Ca.
Suốt đêm trên giường ngủ, tôi đã tìm
kiếm người tôi yêu: Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng tôi không gặp được chàng.
Tôi chỗi dậy, và đi quanh thành phố, đi qua các phố xá và công trường, tôi
tìm kiếm người tôi yêu. Tôi đã tìm kiếm chàng, nhưng tôi không gặp được
chàng. Các người lính canh gác thành phố gặp tôi và tôi hỏi họ: "Các anh có
thấy người tôi yêu không?" Tôi vừa đi qua khỏi họ, thì gặp ngay người tôi
yêu.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc: 2 Cr 5,
14-17
"Từ nay chúng ta không biết Ðức
Kitô theo xác thịt nữa".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, lòng mến của Ðức Kitô
thúc bách chúng ta; chúng ta xác tín điều này là một người đã chết vì mọi
người, vậy mọi người đều đã chết. Và Ðức Kitô đã chết thay cho mọi người, để
những ai đang sống, thì không còn sống cho chính mình nữa, mà là sống cho
Ðấng đã chết và sống lại vì họ. Vì thế, từ nay chúng ta không còn biết ai
theo xác thịt nữa. Mặc dù nếu chúng ta đã biết Ðức Kitô theo xác thịt, thì
giờ đây chúng ta không còn biết như thế nữa. Vậy nếu ai đã trở nên một tạo
vật mới trong Ðức Kitô, thì những gì cũ đã qua rồi, vì đây mọi sự đều được
trở nên mới.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 62, 2.
3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa
con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên
Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác
con mong đợi Chúa như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước! - Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng
thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quang của Chúa. Vì
ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống; miệng con sẽ xướng ca ngợi khen
Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn
đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thoả dường như mỹ
vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để
con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh hồn con bám thân vào
Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Hỡi Maria, hãy
nói cho chúng tôi biết bà đã thấy gì trên đường? -Tôi đã thấy mộ của Ðức
Kitô hằng sống và vinh quang của Ðấng sống lại. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1.
11-18
"Bà kia, sao mà khóc? Bà tìm ai?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ
từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô và
người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người
ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy ở
đâu".)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà
than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi
nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng
chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác
Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà
quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết là Chúa
Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc?
Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang
xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy
xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni",
nghĩa là "Lạy Thầy". Chúa Giêsu bảo bà: "Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về
cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về
cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa
các con".
Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn
đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Ðó là lời Chúa.
Một Chút Chia Sẻ
Ngày 10/6/2016, ĐTC Phanxicô, qua sắc lệnh
của Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Các Bí Tích, "Apostolorum
Apostola / Apostle of the Apostles", Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên
đã được tặng cho danh hiệu "Tông Đồ của Các Tông Đồ", và lễ của chị trong
phụng niên hằng năm của Giáo Hội vào ngày 22/7, đã được nâng lên từ bậc lễ
nhớ (memorial) lên bậc lễ kính (feast), ngang bậc lễ với 12 vị tông đồ.
Quả thực chị là vị nữ thánh rất đặc biệt, nếu so với người Chị Matta của
mình, người chị cũng được Giáo Hội liệt vào sổ bộ các thánh, nhưng chỉ ở bậc
lễ nhớ ngày 29/7, lễ sau lễ của em mình 1 tuần 22/7. Và chúng ta thường hiểu
danh xưng "Tông Đồ của Các Tông Đồ" ở chỗ rất rõ ràng hiển nhiên, đó là,
theo Phúc Âm Thánh Gioan, chị là người được Chúa Kitô Phục Sinh sai đi loan
báo tin mừng phục sinh cho chính các tông đồ - mà được sai đi tức là đóng
vai trò "tông đồ" rồi vậy, lại được sai đến với và loan truyền cho chính các
Tông Đồ nữa, nên đáng được gọi "Tông Đồ của Các Tông Đồ"!
Tuy
nhiên, nếu phân tích về điều kiện tối yếu và ắt có và đủ, căn cứ vào trường
hợp 12 tông đồ được tuyển chọn trong số đông đảo các môn đệ, để có thể mang
danh "tông đồ", và xứng đáng thực hiện sứ vụ "tông đồ", một danh xưng chỉ
giành cho nam nhân, thì Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên có hợp với
danh xưng "tông đồ" này hay chăng? Tất nhiên, trước hết và trên hết, khi Đức
Thánh Cha, qua Tòa Thánh, đã công nhận và tuyên bố vấn đề này thì không thể
vô lý và sai lầm, dù không liên quan đến đức tin và luân lý, là 2 lãnh vực
liên quan trực tiếp đến ơn vô ngộ của Giáo Hoàng. Dầu sao, nhờ tìm hiểu
thêm, chúng ta, tự mình, sẽ càng thấy hợp tình hợp lý, một cách hết sức lý
thú hơn bao giờ hết.
Trước hết, về điều kiện tông đồ, liên quan
đến những yếu tố chính yếu để một con người được chọn làm tông đồ. Căn cứ
vào trường hợp của 12 tông đồ, thì trong số các môn đệ của Chúa Kitô, muốn
được trở nên "tông đồ" của Người, cần phải hội đủ 3 điều kiện: 1- Được Người
chọn gọi; 2- Được Người tỏ mình; 3- Được Người sai đi. Cả 12 tông đồ, tất
nhiên, đều hội đủ 3 điều kiện tối yếu này. Riêng Thánh Phaolô Tông Đồ Dân
Ngoại là vị tông đồ "sinh non" (1Corinto 15:8), cũng hội đủ 3 điều
kiện bất khả thiếu này, ở chỗ cũng được chính Chúa Kitô chọn gọi, tỏ mình và
sai đi, ngay trong biến cố trở lại của ngài (xem Tông Vụ 22:7-8,21). Vậy
trường hợp của Chị Thánh Maria Mai Đệ Liên thì sao?
Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên quả thực cũng đã được Chúa Giêsu chọn gọi, tỏ
mình và sai đi, ngay trong biến cố được Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 1-
Chị là người nữ môn đệ duy nhất đã được chính Chúa Kitô gọi: "Maria";
2- đã đích thân tỏ mình ra cho chị là Người đã sống lại: "Ðừng động đến
Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta", và 3- Chính Người cũng đã sai chị đi: "báo
tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: 'Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha
các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con'". Có thể
nói, nếu Chúa Kitô đã chọn 12 tông đồ trước cuộc Vượt Qua của mình, thì
Người cũng chọn thêm 2 tông đồ sau cuộc Vượt Qua của Người, đó là Thánh Nam
Phaolô và Thánh Nữ Maria Mai-Đệ-Liên. Như các bí tích cũng vậy, một số được
Người lập trước Vượt Qua (Thánh Thể và Thánh Chức - Luca 22:19), một số sau
Vượt Qua (Giải Tội - Gioan 20:22, và Rửa Tội - Mathêu 28:19).
Sau nữa, về tư cách tông đồ, liên quan đến phẩm tính cần phải có để xứng
đáng làm tông đồ, và làm tông đồ một cách xứng đáng, nghĩa là, vì người tông
đồ là người được sai đi làm chứng, thì bản thân của họ cần phải làm sao thực
sự cảm nhận được chính Đấng đã sai mình, hầu có thể làm chứng một cách trung
thực sống động về Đấng ấy và loan truyền Đấng ấy, bằng việc gắn bó với Đấng
ấy. Về yếu tố gắn bó với Chúa Kitô là Đấng đã chọn gọn, tỏ mình và sai đi
đối với vị "Tông Đồ của Các Tông Đồ" Maria Mai-Đệ-Liên này, có thể nói, là
yếu tố làm nên chính bản thân của chị, từ khi chị trở về cùng Chúa (xem Luca
7:36-38 + Gioan 11:2; Luca 8:2 + Marco 16:9), sống thân tình với Chúa (xem
Luca 10:38-42 + Gioan 12:1-3), theo Chúa cho đến cùng (xem Gioan 19:25), kể
cả sau khi Người được an táng trong mộ, như những gì liên quan đến chị được
bài Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay thuật lại.
Có thể nói, chị còn theo Chúa và gắn bó với Chúa Giêsu hơn chính các tông đồ
nữa, như khi chị được đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu với Mẹ Maria, cùng
với Tông Đồ Gioan (xem Gioan 19:25), và chị là người duy nhất, trong các phụ
nữ, bao gồm cả các vị tông đồ, hết sức quan tâm đến thi thể của Người Thày
chí thánh đã bị tử giá, cứ quanh quẩn bên ngôi mộ trống của Người, vẫn tìm
kiếm Người, dù chỉ là một thi thể, nhưng lại là một kỷ vật vô giá bất khả
thiếu của chị, cho đến khi chị được Người đích thân hiện ra với riêng mình
chị, dưới hình dạng, qua mắt của chị bấy giờ, như một người canh vườn.
Trong
số tất cả các môn đệ, nam và nữ, bao gồm cả các tông đồ, thì Chị Thánh Maria
Mai-Đệ-Liên là người môn đệ xông xáo nhất và tha thiết nhất với Chúa Kitô.
Nếu bảo rằng các môn đệ và tông đồ là nam nhân, nên sợ người Do Thái, không
thể làm như chị là phụ nữ. Tuy nhiên, tại sao sau khi nghe chị về báo lần
đầu tiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại ở ngay câu đầu, sau đó 2 tông đồ
Phêrô và Gioan đã chạy ra mồ, (những chi tiết ngay sau đó nhưng không cần
nhắc lại trong bài Phúc Âm cùng ngày - xem Gioan 20:3-10, bài Phúc Âm chỉ
liên quan đến chị), không còn sợ gì nữa? Thật
ra, xét cho cùng, nếu các tông đồ gắn bó với Thày mình thật, thì bất chấp
mọi nguy hiểm, như chính Tông Đồ Phêrô đã khẳng định trong Bữa Tiệc Ly: "Lạy
Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng." (Luca
22:33).
Tuy nhiên, so với Tông Đồ Gioan, người môn đệ duy nhất trong số 12 tông đồ
đã trung thành và theo Thày cho đến cùng, cho đến khi cùng với Mẹ Maria đứng
kề bên Thánh Giá Chúa Giêsu (xem Gioan 19:25), vị tông đồ đóng vai trò đại
diện cho Giáo Hội bấy giờ, thì vị nữ môn đệ gắn bó với Chúa Kitô, chẳng
những đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô như Tông Đồ Gioan, mà còn cả sau
khi Người ở trong mồ, bề ngoài, như phân tích trên đây, có vẻ hơn Tông Đồ
Gioan về tính cách gắn bó, bất chấp mọi sự, nhưng thật ra, về đức tin, vẫn
chưa bằng "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" ấy. Ở chỗ, vị tông đồ này cho
dù chưa thấy Chúa Kitô phục sinh, như Người hiện ra riêng với chị, được bài
Phúc Âm hôm nay thuật lại, mà chỉ cần thấy dấu hiệu của Người, thì đã tin
rằng Người sống lại rồi (xem Gioan 20:8): "Bấy
giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã
tin".
Đến đây, chúng ta thấy được hai điểm then chốt trong trình thuật của bài
Phúc Âm hôm nay. Điểm then chốt thứ nhất, đó là, cho dù Chị Maria Mai Đệ
Liên đã gắn bó với Chúa Kitô như thế, vậy mà, cho dù có nhìn thấy Người, lại
tưởng là viên canh vườn! Tạo sao thế? Xin thưa, tại vì chị bị tiềm thức,
đúng hơn, bị tiền thức chi phối. Ở chỗ nào? Nếu không phải ở chỗ chị, cũng
như người chị Matta của chị, đã bày tỏ niềm tin vào sự phục sinh của con
người vào ngày tận thế mà thôi (xem Gioan 11:24), chứ không phải vào chính
thời điểm Chúa Kitô muốn chứng thực "Thày là sự sống lại và là sự sống"
(Gioan 11:25).
Chính vì bị chi phối bởi tiền thức về sự sống lại không phải ngay thời của
Chúa Giêsu, mà chị đã chạy vội về báo tin cho các tông đồ lần thứ nhất, một
tin buồn, khác hẳn với lần thứ hai là một tin vui, một sứ điệp phục sinh
thật sự từ Chúa và của Chúa, chứ không phải một sứ điệp xuất phát từ cảm
nhận loài người của chị: "Người
ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
(Gioan 20:2). Tuy nhiên, chính vì chị vẫn tiếp tục "tìm người
sống nơi kẻ chết" (Luca 24:5), mà chị bất ngờ và quả thực đã tìm được
Đấng "đã sống lại rồi, Người không còn ở đây" (Luca 24:6). Chính
việc chị nỗ lực tìm kiếm thi thể của Thày mình cho thấy một niềm hy vọng nào
đó, và nhất là muốn chứng tỏ chị vẫn tiếp tục gắn bó với Chúa, dù Chúa không
còn trên trần gian này nữa, theo tiền thức đã chi phối chị.
Chính vì niềm hy vọng và nỗi gắn bó hết sức thiết tha của chị như thế, mà
chị khác với hai môn đệ về Emmau, đi cả một quảng đường dài với Đấng Phục
Sinh, nghe Người giảng giải Kinh Thánh, thế mà vẫn không nhận ra giọng của
Người, tiếng của Người (xem Luca 24:25-27), thậm chí hơn cả các tông đồ, cho
dù thấy Người hiện ra, và nghe thấy tiếng của Người vào tối ngày thứ nhất
trong tuần, mà mãi mới chịu tin (xem Luca 24:36-43), trong khi đó, vừa nghe
thấy tiếng của Thày, lại là một tiếng gọi đích danh của mình nữa, chị liền
nhận ra ngay, và lập tức tin tưởng, bằng lời tuyên xưng: "Rabboni - Lạy
Thày" (Gioan 20:16).
Thế rồi, ngay sau đó, chị nghe thấy Chúa Kitô Phục Sinh phán với chị, như
bài Phúc Âm hôm nay được Thánh Gioan ghi nhận rằng: "Ðừng
động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta". Câu này có nghĩa là gì, nếu
không phải Người ngăn chị đang muốn nhào đến ôm chân của Người, tỏ lòng mừng
rỡ và gắn bó với Người, không bao giờ muốn mất Người nữa, như được Thánh Ký
Mathêu thuật lại (28:9). Cử chỉ "tiến lại gần, ôm chân Người mà bái lạy"
quả thực là cử chỉ riêng của chị, theo thói quen kính mến của chị, như khi
Người còn sống, mà chị đã 2 lần được xức thơm chân Người (xem Luca 7:38;
Gioan 12:3).
Trong Thánh Lễ Vọng Phục Sinh 2020 ngày 11/4, giữa mùa đại dịch covid-19 bị
phong tỏa toàn cầu, bao gồm cả Tòa Thánh Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
dẫn giải về bàn chân được chị thánh muốn ôm lấy như sau: "một
đôi chân đã từng đi rất xa để gặp gỡ chúng ta, cho đến độ đã tiến vào mồ mả
và chỗi dậy từ mồ mả. Các
chị đã ôm lấy đôi bàn chân đã chà đạp chết chóc và đã mở đường hy vọng.
Hôm nay đây, là những con người lữ hành đi tìm kiếm hy vọng, chúng con xin
bám lấy Chúa, lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúng con quay lưng lại với chết
chóc, và mở lòng của chúng con ra cho Chúa, vì Chúa là chính Sự Sống".
Đến đây, chúng ta thấy được vị nữ thánh này xứng với danh xưng "Tông Đồ của
các Tông Đồ", và vì thế, lễ của chị, từ Năm Thánh Thương Xót 2016, đã được
nâng lên từ bậc lễ nhớ (memorial), như Thánh Matta chị của chị, tới bậc lễ
kính (feast), như chính các vị tông đồ. Bởi chị chẳng những đã hội đủ 3 điều
kiện thiết yếu để trở thành tông đồ, mà còn là một người môn đệ gắn bó với
Thày mình hơn ai hết, nhờ đó chị mới có thể làm chứng về Người, với
chính thành phần là tông đồ, là những chứng nhân tiên khởi của Người.
Dù chị được Thánh Mathêu thuật lại ở trong nhóm mấy phụ nữ ra mộ sớm, nhưng,
theo Phúc Âm Thánh Gioan, thì chị là nữ nhân vật chính ra mồ sớm nhất, "lúc
trời còn tối" (Gioan 20:1), trước cả các phụ nữ ra mồ khi "vừa
ló rạng" (Mathêu 28:1). Có thể khi từ mộ Chúa trở về lần thứ 2, sau khi
chị được Chúa hiện ra riêng với chị rồi, và chị được Người sai về với các
tông đồ, để vừa
"báo tin" (Gioan 20:17) vừa làm chứng bằng chứng từ của chính bản
thân chị: "'Tôi
đã thấy Chúa' và kể lại những điều Người đã nói với mình" (Gioan
20:18), thì chị đã gặp các phụ nữ khác bấy giờ mới ra mộ, để rồi cả chị lẫn
họ, đều cùng nhau về "báo tin" (Mathêu 28:8) cho các tông đồ, với
tính cách thông tin cho các vị, hơn là chứng từ tỏ cho các vị, như câu được
Chị Thánh Maria Mai-Đệ-Liên tuyên bố trên đây, nên sứ điệp của 3 người phụ
nữ này chỉ mang tính cách là một tin nhắn, được 3 chị phụ nữ này truyền đạt
cho các tông đồ theo lời thiên thần, (chứ không phải lời của chính Chúa Kitô
Phục Sinh), đó là: "Người đã
trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ
được thấy Người" (Mathêu 28:7).
Xin Chị Thánh Mai Đệ Liên giúp cho thành phần môn đệ Chúa Kitô thời đại
chúng em được như chị, biết "chọn phần tốt hơn" (Luca 10:48), đó là
liên lỉ sống gắn bó với Chúa Kitô, để nhờ đó, chúng em mới có thể cùng xứng
đáng trở thành chứng nhân trung thực và sống động của Người như chị.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.
Thứ Bảy
(nếu không bị át đi bởi Lễ Kính Thánh Mai
Đệ Liên trùng ngày hôm nay)
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
12, 37-42
"Ðêm đó, Chúa dẫn dắt Israel ra
khỏi đất Ai-cập".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, con cái Israel đi
từ Ramessê tới So-coth, số đàn ông đi bộ, không kể con nít, chừng sáu trăm
ngàn. Và cũng có vô số dân tứ chiến cùng đi với họ, và vô số chiên bò và súc
vật. Họ làm bánh không men bằng bột mang theo từ Ai-cập, vì lúc ra đi họ bị
thối thúc rời Ai-cập, không kịp nhào men và cũng không kịp chuẩn bị lương
thực.
Thời gian con cái Israel cư ngụ ở
Ai-cập là bốn trăm ba chục năm. Thời kỳ đó đã mãn vào ngày toàn thể đạo binh
của Chúa đi ra khỏi đất Ai-cập. Ðêm đó là đêm phải giữ để kính nhớ Chúa đã
dẫn đưa họ ra khỏi đất Ai-cập. Qua các thế hệ, mọi con cái Israel phải giữ
đêm ấy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 135, 1 và
23-24. 10-12. 13-15
Ðáp: Bởi đức từ bi Người
muôn thuở.
Xướng: 1) Hãy ca ngợi Chúa, bởi Người
hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã nhớ chúng tôi, khi chúng
tôi bị nhục nhằn, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Và Người đã cứu chúng tôi
thoát khỏi địch nhân, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.
2) Người sát phạt người Ai-cập, giết
con đầu lòng của họ, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Và Người đã đưa Israel
ra khỏi giang san họ, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Do tay dũng lực và
thẳng cánh tay giơ, bởi đức từ bi Người muôn thuở. - Ðáp.
3) Người đã chia đôi Biển Ðỏ ra, bởi
đức từ bi Người muôn thuở. Và đưa Israel qua giữa trung tâm, bởi đức từ bi
Người muôn thuở. Người đã gìm Pharaon và binh mã xuống Biển Hồng, bởi đức từ
bi Người muôn thuở. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành
trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 14-21
"Người cấm họ đừng cho ai biết
Người, để ứng nghiệm lời đã phán".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái đi ra
ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người. Biết thế, Chúa
Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều được
Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời tiên
tri Isaia đã chép rằng:
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta
rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người
sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và
không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã
giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh
được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Ðó là lời Chúa.
sự sống còn
khói
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Bảy Tuần XV Thường Niên, tuy không
liên tục về đoạn văn với
bài Phúc Âm hôm qua, nhưng lại
liên tục về nội dung. Bài Phúc Âm hôm qua và bài Phúc Âm hôm nay cách nhau
bởi những câu Phúc Âm thuật lại về câu
chuyện Chúa Giêsu chữa lành cho một người bị co bại tay
vào ngày hưu lễ trong hội đường.
Bởi thế, liên
quan đến cả hai
lần liền về
ngày hưu lễ, lần trước về vụ các môn đệ của Người bứt bông lúa mà ăn trong
ngày hữu lễ ở bài Phúc Âm hôm qua, và lần sau về vụ chính Người chữa cho
người co bại tay vào ngày hưu lễ trong hội đường ở đoạn Phúc Âm giữa hai bài
Phúc Âm hôm qua và hôm nay,
mà ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay mới
có câu: "Khi
ấy, các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm
hại Người".
Thế
nhưng, vấn đề chính yếu của bài Phúc Âm hôm nay không phải là ở chỗ đó, chỗ
liên quan với thành phần biệt phái này, mà là liên quan đến chính bản thân
của Chúa Kitô, Đấng đến để đóng vai trò như thày thuốc cứu chữa
thành phần bệnh nhân trên thế
gian này (xem Mathêu 9:12), chứ không phải để tranh cãi và "luận phạt" (xem
Gioan 3:17). Đó là lý do bài
Phúc Âm hôm nay đã cho thấy khi những người Pharisiêu âm mưu hại Người thì: "Biết
thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy".
"Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy" không
phải là vì Người sợ thành phần biệt phái ám hại Người, cho bằng để
Người có thể tiếp
tục sứ vụ cứu chữa khẩn trương của Người: "ai
có bệnh, đều được Người chữa lành", một
sứ vụ chính yếu sẽ được Người hoàn tất nơi Cuộc Vượt Qua của Người,
và là một sứ vụ hoàn toàn phản ảnh tấm lòng
yêu thương vô cùng nhân hậu
của Người, đúng như những gì Tiên Tri Isaia đã báo trước về Người:
"Này là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp
lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự
công chính cho dân ngoại. Người không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe
tiếng Người ngoài đường phố. Người không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập
tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người khiến sự công minh được toàn thắng.
Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Thật ra, theo con mắt trần
gian thì khó lòng mà nhận biết nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô (Đấng
Thiên Sai), Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), nên dân làng của Người
và thành phần biệt phái cùng luật sĩ và những nhân vật trong Hội Đồng Đầu
Mục Do Thái đã khó lòng chấp nhận Người, cho đến độ đã cho Người là lộng
ngôn phạm thượng và lên án tử cho Người.
Tuy nhiên, nếu họ biết thật Thiên
Chúa là ai và như thế nào thì họ sẽ nhận biết Đấng Ngài sai. Đó là lý do
chính Chúa Giêsu đã khẳng định là dân Do Thái không tin vào Người là vì họ
không tin Thiên Chúa, không nhận biết Người là vì họ không nhận biết Thiên
Chúa hay nhận biết một cách sai lệch: "Quí vị chẳng biết Tôi cũng chẳng
biết Cha Tôi. Nếu quí vị biết Tôi thì quí vị cũng phải biết Cha Tôi nữa"
(Gioan 8:19).
Đúng thế, nếu "Thiên Chúa là Tình
yêu" (1Gioan 4:8,16) vô cùng nhân hậu, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã
thủy chung với dân Do Thái theo những gì Ngài đã hứa với tổ phụ của
họ, và đã vô cùng nhẫn nại với họ là thành phần liên lỉ trắng trợn bất trung
bội nghĩa với Ngài trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, thì quả thật Đấng
Thiên Sai của Ngài phải là "Người không
bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người
khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người".
Một
trong những biến cố chính yếu trong lịch sử cứu độ của Dân Do Thái đó là
biến cố Đại Xuất
Hành ra khỏi Ai Cập của họ, với
một con số không ít: "số
đàn ông đi bộ, không kể con nít, chừng sáu trăm ngàn", và
sau một thời gian không ngắn: "là
bốn trăm ba chục năm". Việc
Thiên Chúa giải phóng Dân Do Thái là dân riêng của Ngài đây không phải là
việc Ngài chứng tỏ là Ngài luôn ở với dân của Ngài và thương yêu chăm sóc
cho dân của Ngài theo lòng từ bi nhân hậu của Ngài hay sao?
Đó là lý do câu
chính yếu của Bài Đáp Ca hôm nay, liên quan đến việc dân Do Thái được Thiên
Chúa giải phóng khỏi Ai Cập, đã lập đi lập lại nhiều lần trong cả 3 câu
xướng là "Bởi
đức từ bi Người muôn thuở":
1)
Hãy ca ngợi Chúa, bởi Người hảo tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã
nhớ chúng tôi, khi chúng tôi bị nhục nhằn, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Và
Người đã cứu chúng tôi thoát khỏi địch nhân, bởi đức từ bi Người muôn thuở.
2) Người sát phạt
người Ai-cập, giết con đầu lòng của họ, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Và
Người đã đưa Israel ra khỏi giang san họ, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Do
tay dũng lực và thẳng cánh tay giơ, bởi đức từ bi Người muôn thuở.
3)
Người đã chia đôi Biển Đỏ ra, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Và đưa Israel
qua giữa trung tâm, bởi đức từ bi Người muôn thuở. Người đã gìm Pharaon và
binh mã xuống Biển Hồng, bởi đức từ bi Người muôn thuở.