PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

MÙA THƯỜNG NIÊN TUẦN VII

CHÚA NHẬT NĂM A & TRONG TUẦN NĂM LẺ

 

 

 

Chúa Nhật

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Lv 19,1-2. 17-18

"Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình".

Trích sách Lêvi.

Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy nói cho toàn thể cộng đồng con cái Israel: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi. Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8 và 10. 12-13.

Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Ðáp.

Xướng 2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. Ðáp.

Xướng 3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Ðáp.

Xướng 4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 16-23

"Tất cả là của anh em, nhưng anh em thuộc về Ðức Kitô,

và Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh, mà chính anh em là đền thờ ấy.

Ðừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy hãy nên điên dại để được khôn ngoan: vì sự khôn ngoan của thế gian này là sự điên dại đối với Thiên Chúa, vì có lời chép rằng: "Chính Người bắt chợt những người khôn ngoan ngay trong xảo kế của họ". Lại có lời khác rằng: "Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền". Vậy đừng có ai còn tự phô trương nơi loài người. Vì tất cả là của anh em, dù là Phaolô, hay Apollô, hoặc Kêpha, hoặc thế gian, sự sống hay sự chết, hoặc hiện tại hay tương lai. Tất cả là của anh em, nhưng anh em thuộc về Ðức Kitô, và Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 38-48

"Các con hãy yêu thương thù địch các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ.

"Các con cũng đã nghe dạy rằng: 'Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì còn có công gì? Nào những người thu thuế không làm như vậy ư? Và nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con mà thôi, thì các con có làm gì hơn? Nào dân ngoại không làm như vậy sao? Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 5, 38-48

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu Năm A hôm nay tiếp ngay sau Bài Phúc Âm của cùng vị thánh ký Chúa Nhật VI tuần trước về Bài Giảng Trên Núi nói chung của Chúa Giêsu giảng dạy cho riêng các vị tông đồ và về cách thức so sánh giữa luật cũ với giáo huấn mới của Người nói riêng. Sở dĩ Người tiếp tục sử dụng đường lối so sánh này là vì, cũng trong bài Phúc Âm tuần trước, ở ngay đầu bài, Người đã khẳng định "đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn".

 

Nên ngay sau đó, Người đã so sánh về 3 vấn đề tiêu biểu liên quan đến 3 trong 10 điều răn Chúa đó là "sát nhân", "ngoại tình" và "thề nguyền" theo luật cũ với giáo huấn mới của Người, một giáo huấn mới thật là sâu xa và siêu việt hợp với tinh thần và ý nghĩa hàm xúc của lề luật Thiên Chúa ban qua trung gian Moisen. Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Thường Niên Năm A hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục so sánh, nhưng không phải về 3 điều tiêu cực như trong Bài Phúc Âm tuần trước mà là 2 điều tích cực liên quan đến chính đức bác ái trọn hảo - perfectae caritatis, một đoạn Phúc Âm được kết thúc ở lời kêu gọi là tâm điểm và cốt lõi của Bài Giảng Trọn Lành Trên Núi: "Vậy các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Ðấng trọn lành".

 

Nếu 3 điều tiêu cực trong bài Phúc Âm tuần trước liên quan đến chính bản thân của người giữ luật thì 2 điều được Chúa Giêsu mang ra so sánh trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến tha nhân, đến bác ái yêu thương: điều thứ nhất về hành động bác ái theo công bằng: "Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'", và điều thứ hai về đối tượng bác ái là tha nhân: "Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch".

 

Trước hết, về hành động bác ái theo công bằng thì Chúa Giêsu dạy các tông đồ "là muối đất... là ánh sáng thế gian", như Người đã khẳng định trong Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật V Thường Niên Năm A, phải đối xử một cách trọn lành hơn nữa, vượt trên những gì là công bằng hay công lý, như thể lấy lành báo oán vậy: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

 

Ở đây, trong lời giáo huấn trọn lành này, Chúa Giêsu không ngăn cấm chống lại điều gian ác xấu xa tai hại mà chỉ nhấn mạnh đến chuyện nạn nhân vẫn phải thương thành phần phạm nhân của mình: "đừng chống cự lại với kẻ hung ác". Ở những chỗ nào: ở 3 điều căn bản chính yếu liên quan đến toàn thể con người của nạn nhân, bao gồm danh giá về tinh thần, sở hữu về thể chất và đến công khó về việc làm. Về danh giá: "Ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa"; về sở hữu: "Ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa"; và về công khó: "Ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm". Nghĩa là sẵn sàng nhường nhịn tha nhân trong hết mọi sự: "ai xin cứ cho (- có là để chia sẻ), ai mượn đừng chối (- nợ là để tha thứ)".

 

Sau nữa, về đối tượng bác ái là tha nhân, giáo huấn trọn lành của Chúa Giêsu dạy các tông đồ phải đối xứ trọn lành như Cha trên trời như thế này: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: Các con hãy yêu thương thù địch các con, hãy làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con, để các con nên con cái Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương".

 

Ở đây, đối với chính đối tượng của đức ái trọn lành là tha nhân, thành phần cho dù "hung ác" đến đâu, theo giáo huấn của Chúa Giêsu, cũng "đừng chống cự lại", thậm chí, còn phải "yêu thương thù địch" của mình nữa, tức là phải yêu thương, chứ không được hận ghét, thù hằn, trả đũa v.v., những thành phần "thù địch" được Chúa Giêsu liệt kê tiêu biểu là "những kẻ ghét các con" "những kẻ bắt bớ và vu khống các con". Ở chỗ, "làm lành cho những kẻ ghét các con, và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ và vu khống các con". Có nghĩa là lấy đức bác ái mà bù đắp cho những vấp phạm của nhau, chứ đừng biến thân phận cao cả làm con cái của Chúa trên trời là Đấng trọn lành thành thân phận tầm thường của những kẻ "thu thuế" tội lỗi hay "dân ngoại" nhơ bẩn.

 

Chỉ khi nào chung con người và riêng thành phần môn đệ Chúa Kitô sống giáo huấn trọn lành này của Người họ mới sống đúng với ý muốn của Thiên Chúa tạo dựng nên họ và tuyển chọn họ, như Ngài đã tỏ ra trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, là Thiên Chúa các ngươi", một nỗ lực thánh hóa cho xứng với thân phận làm con cái của mình liên quan đến đức ái trọn hảo đúng như giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Ðừng giữ lòng thù ghét anh em, nhưng hãy răn bảo họ công khai, để khỏi mang tội vì họ. Ðừng tìm báo oán, đừng nhớ lại lời mắng nhiếc của kẻ đồng hương. Hãy yêu thương các bạn hữu như chính mình. Ta là Chúa", Đấng được Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận và tuyên xưng "là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi" (câu 3).

 

Giáo huấn trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi nói chung và trong bài Phúc Âm hôm nay nói riêng tự bản chất là tất cả những gì khôn ngoan thần linh được truyền đạt cho con người qua thành phần môn đệ của Người, một thứ khôn ngoan siêu việt mà thế gian vốn thấp hèn và hướng hạ đầy những gương mù không thể nào hiểu được và chấp nhận chứ chưa nói đến thi hành. Đó là lý do trong bài Đọc 2 hôm nay, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã vừa bày tỏ cảm nghiệm thần linh của ngài vừa khuyên dạy tín hữu thuộc giáo đoàn Corintô lắm thứ rắc rối như sau:

 

"Ðừng có ai lừa dối mình. Nếu có ai trong anh em cho mình là người khôn ngoan ở đời này, thì kẻ ấy hãy nên điên dại để được khôn ngoan: vì sự khôn ngoan của thế gian này là sự điên dại đối với Thiên Chúa, vì có lời chép rằng: 'Chính Người bắt chợt những người khôn ngoan ngay trong xảo kế của họ'. Lại có lời khác rằng: 'Chúa biết tư tưởng của những người khôn ngoan là hão huyền'. Vậy đừng có ai còn tự phô trương nơi loài người".

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 1, 1-10

"Sự khôn ngoan được tác tạo trước mọi loài".

Khởi đầu sách Huấn Ca.

Mọi sự khôn ngoan đều bởi Thiên Chúa, và luôn luôn đã ở với Người và có từ trước muôn thuở.

Ai đếm được cát biển, giọt mưa và số ngày từ muôn đời? Ai đã đo được trời cao, đất rộng và biển sâu? Ai có thể khám phá ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa có trước muôn vật?

Sự khôn ngoan được tác tạo trước muôn loài, và trí khôn được dựng nên từ vạn kiếp. Nguồn mạch sự khôn ngoan là lời Thiên Chúa trên các tầng trời, và lối vào sự khôn ngoan là các giới răn vĩnh cửu.

Căn nguyên sự khôn ngoan được mạc khải cho ai? Ai hiểu biết được mưu toan của sự khôn ngoan? Luật lệ khôn ngoan đã được mạc khải và tiết lộ cho ai? Và ai thấu triệt được trăm ngàn đường lối của nó?

Chỉ có một Ðấng Tối Cao là Ðấng Tạo Thành toàn năng, là Vua uy quyền và rất đáng kính sợ, Người ngự trên toà sự khôn ngoan và là Thiên Chúa thống trị.

Chính Người đã tạo thành sự khôn ngoan trong Thánh Thần, Người đã nhìn xem, tính toán và đo lường. Người đã đặt nó trên mọi công trình của Người, trên mọi sinh linh tuỳ lòng rộng rãi của Người, Người đã phân phát nó cho những ai yêu mến Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5

Ðáp: Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, từ đời đời vẫn có Chúa. - Ðáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 13-28

"Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.

Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.

Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.

Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

"Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Suy Niệm:

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco thuật lại sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho một đứa con trai cho khỏi bị quỉ câm ám. Sự việc chữa lành này xẩy ra sau biến cố Người biến hình trên núi (xem Marco 9:1-13), lúc Người cùng ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan xuống núi để đến với các môn đệ khác đang chờ Người ở dưới núi, và cũng chính là lúc "Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông".

 

Thánh ký Marco không thuật lại cho chúng ta biết chi tiết về vấn đề tranh luận giữa 9 môn đệ của Chúa Giêsu với các luật sĩ thông luật hơn các vị, thế nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán rằng về vấn đề trừ quỉ, một vấn đề sau đó đã được chính các vị đặt ra hỏi Chúa Giêsu, và cũng là vấn đề thành phần luật sĩ này đã có lần trước đó xuyên tạc rằng Người lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con (xem Marco 3:22).

 

Cũng có thể là bấy giờ các môn đệ ở dưới chân núi chờ Người thì đã cùng nhau và thay nhau trừ quỉ, nhưng không được, nên bị nhóm luật sĩ có mặt bấy giờ châm biếm: "Thày của các người đâu rồi. Các người làm gì mà trừ quỉ được, làm gì bằng sư phụ của các người, một tay phù thủy chuyên môn lấy quỉ tướng mà trừ quỉ con. Thứ tà thuật che mắt trẻ con chứ làm gì qua mặt bọn này được..."

 

Tất nhiên, nghe thấy thế, tự ái đoàn thể của các vị không thể nào không nổi lên, và vì thế các môn đệ có thể đã nhào vô bênh vực Thày và bảo vệ danh dự cho cả nhóm, chẳng hạn bằng cách chống đỡ như: "Các ông đừng có mà nói bậy. Thày của chúng tôi là một Đấng quyền năng xuất chúng chứ không phải tầm thường như các ông... Người mà có ở đây thì các ông cứ mở mắt ra mà xem... như lần trước..."

 

Chắc có thể vừa nói đến đây thì Chúa Giêsu cũng vừa xuất hiện. Bởi thế, ngay mở đầu bài Phúc Âm hôm nay, Thánh ký Marco đã cho thấy phản ứng của dân chúng bấy giờ như sau: "Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người...". Tại sao đám đông "kinh ngạc" - Phải chăng vừa nói đến Người thì Người liền xuất hiện!?

 

Tại sao họ lại có một phản ứng tương phản cùng một lúc: "sợ hãi" và "chạy đến chào Người"?? Đáng lẽ "sợ" Người thì theo phản ứng tự nhiên thì phải tránh Người chứ sao lại "chạy đến chào Người" là làm sao??? Phản ứng trái ngược lại xẩy ra cùng một lúc chỉ có thể hiểu là có một số thì cảm thấy "sợ hãi", chẳng hạn như thành phần luật sĩ, còn những người khác thì vui mừng "chạy đến chào Người" như họ gặp được vị cứu tinh của họ.

 

Trong những người vui mừng ấy chắc chắn là có các vị tông đồ, nhất là người cha của em trai nạn nhân bị quỉ câm ám. Bởi vì, con ông bị quỉ ám hành hạ, trong khi đó không ai có thể trừ quỉ được, thậm chí cả thành phần môn đệ của Chúa Giêsu, như ông đã thành thật mô tả cho Chúa Giêsu biết: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực".

 

Chắc bấy giờ thành phần luật sĩ, cho dù vẫn ngờ vực quyền năng trừ quỉ của Chúa Giêsu, cũng vẫn tò mò theo dõi xem Người có thật trừ được quỉ hay chăng và trừ quỉ như thế nào. Và ngay trước mắt của họ bấy giờ, như Thánh ký Marco thuật lại, họ chứng kiến thấy rằng: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất". Nghĩa là cái oai phong và quyền năng của Chúa Giêsu ở ngay sự hiện diện của Người, chứ chưa nói đến việc Người ra tay hay đến lúc Người ra tay.

 

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không ra tay trừ quỉ ngay, cho dù thấy hiện tượng em trai nạn nhân bị quỉ ám hành hạ như thế. Không biết có phải Người muốn cho thành phần luật sĩ này tin vào Người hơn qua việc Người ra tay trừ quỉ ám, khi Người lên tiếng hỏi người bố một câu hỏi có vẻ dư thừa không cần thiết cho lắm, nhưng Người cố ý như vậy để người bố nói ra cho thành phần luật sĩ ngờ vực này biết tình trạng em trai nạn nhân bị quỉ ám này khốn khổ là chừng nào, bao lâu còn bị quỉ ám và ma quỉ dữ dội ác độc đến đâu, để một khi em trai nạn nhân được thoát quỉ ám thì họ biết được quyền năng của Người không phải là những gì bùa phép tà thuật.

 

Người bố đã thuật lại cho riêng Chúa Giêsu và mọi người chung quanh bấy giờ đều nghe thấy rằng: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó". Người bố còn thêm ngay sau đó rằng: "Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". "Chúng tôi" đây bao gồm gia đình của ông: cả đứa con nạn nhân và bố mẹ của cháu, vì cha mẹ cùng ông bà và anh chị em trong cùng một gia đình làm sao chịu được khi thấy một người thân yêu của mình bị quỉ ám khốn nạn kéo dài như vậy.

 

Nghe thấy thế Chúa Giêsu vẫn chưa chịu ra tay ngay. Người vẫn như chần chờ làm sao ấy. Bởi thế, trước khi ra tay, Người còn nhắc nhở người bố một điều kiện tối yếu bất khả thiếu để Người ra tay, nhờ đó thành phần luật sĩ duy luật chỉ cậy vào việc mình làm mới thấy rằng duy đức tin mới là yếu tố cứu độ chính yếu, và câu Người bảo ông bố như ngầm giục ông hãy tuyên xưng đức tin đi thì mọi sự sẽ được như ý: "'Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được'. Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: 'Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi'".

 

Làm gì thì làm, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng mọi sự để mưu ích chẳng những cho người nhận ơn mà còn cho những người khác nữa. Chẳng hạn, trong bài Phúc Âm hôm nay, Người chờ cho tới khi, như Thánh ký Marco ghi lại, "thấy đám đông tuôn đến", Người mới ra tay để "trợ giúp lòng tin yếu kém của (người bố)" cũng như làm cho chính đám đông nói chung và thành phần luật sĩ nói riêng tin vào Người. Quả thật, sau đó Người không còn chần chờ gì nữa và đã chính thức công khai ra tay như thế này:

 

"Người nạt thần ô uế rằng: 'Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa'. Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: 'Nó chết rồi'. Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên".

 

Sự kiện sở dĩ chỉ có Chúa Giêsu mới trừ được quí ám trong trường hợp này, trong khi môn đệ của Người thì không, chẳng những vì tự mình Người là Đấng quyền năng, mà còn vì hai lý do chính yếu sau đây:

 

Trước hết, trong khi về phía người bố thì yếu đức tin, đúng như sự thật được Chúa Giêsu vạch trần ra ngay từ đầu: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta", như thể để Người làm cho các người thấy mà tin, thì về phía người trừ là các môn đệ của Người lại không hội đủ điều kiện, như trong câu Người trả lời riêng cho vấn nạn bất khả trừ quỉ của các vị sau đó: "'Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?' Người đáp: 'Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay'".

 

Cảm Nghiệm:

 

Thật ra, khi chịu chết trên cây thập giá, như con rắn đồng được Moisen treo lên cột cao trong sa mạc để cứu những ai bị rắn cắn nhìn lên đó (xem Gioan 3:14-15), Chúa Kitô cũng đã trừ quỉ cho nhân loại rồi: "Chính để phá hủy công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra" (1Gioan 3:8).

 

Thành phần lãnh nhận Phép Rửa, tức là được thông phần vào cái chết của Người (xem Roma 6:3), thật sự đã được trừ quỉ ám, nghĩa là được Người giải phóng khỏi ách nô lệ của ma quỉ, khỏi quyền thống trị của chúng, gây ra bởi nguyên tội mà họ dù không phạm cũng bị vướng mắc.

 

Tuy nhiên, cho dù nhờ Phép Rửa, Kitô hữu được thanh tẩy, được trừ khỏi bị quỉ ám, nhưng thực tế cho thấy mầm mống nguyên tội vẫn còn nguyên nơi bản thân họ, bởi thế, đam mê nhục dục và tính mê nết xấu vẫn là nội công của ma quỉ nơi họ, khiến họ vẫn bị ma quỉ tiếp tục ám một cách nào đó.

 

Thế nhưng, mỗi lần Kitô hữu bị quỉ ám hành hạ, đến độ lúc nào cũng chỉ muốn giết chết họ bằng tội trọng, như chúng đã đầy đứa bé trong bài Phúc Âm hôm nay "xô vào lửa, vào nước để giết nó", thì Kitô hữu lại cần phải trừ quỉ một lần nữa, và thường xuyên nhiều lần như vậy, bằng Bí Tích Hòa Giải!

 

Còn ai mong muốn sát hại tận diệt linh hồn con người bằng ma quỉ được gọi là tử thần này, và vì là tử thần nên hắn luôn "xô" đẩy linh hồn con người vào chỗ chết như vào "lửa" hận thù ghen ghét ("lửa" đây ám chỉ "hồ lửa" cũng là "cái chết lần hai" trong Khải Huyền 20:14-15), cũng như vào "nước" đam mê nhục dục ("nước" đây ám chỉ trận lụt hồng thủy thời Noe đã nhận chìm hết con người bấy giờ toàn là xác thịt dâm loạn - xem Khởi Nguyên 6:1-6).

 

Thật vậy, nơi Bí Tích Hòa Giải chất chứa quyền năng trừ quỉ của Chúa Kitô, Đấng giải thoát những ai tin vào Người, những ai thành tâm thống hối chạy đến với lòng thương xót bao la bất tận của Người mỗi khi thấy mình sa ngã phạm tội mất lòng Người.

 

Thành phần môn đệ của Chúa Kitô không thể nào trừ được quỉ ám nơi "các linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn" nếu chính họ cũng bị quỉ ám như ai, tức là họ sống không sạch tội, một tình trạng thiêng thiêng cho thấy, họ thực sự "không cầu nguyện và chay tịnh": "không cầu nguyện" ở chỗ không sống nội tâm với Chúa, và "không chay tịnh" ở chỗ không chịu cẩn thận khổ chế giác quan và bản tính tự nhiên, nên khó tránh dịp tội và phạm tội.

 

Những cử chỉ, lời nói và hành động của Chúa Giêsu trong việc trừ quỉ ở bài Phúc Âm hôm nay, bao gồm cả mục đích cứu độ của Người, đều cho thấy tất cả những gì là khôn ngoan được Bài Đọc 1 xác tín và tuyên bố: "Mọi sự khôn ngoan đều bởi Thiên Chúa, và luôn luôn đã ở với Người và có từ trước muôn thuở.... Người đã đặt nó trên mọi công trình của Người, trên mọi sinh linh tuỳ lòng rộng rãi của Người, Người đã phân phát nó cho những ai yêu mến Người".

 

Đúng thế, những ai tin tưởng khi thấy được sự khôn ngoan của Chúa nơi các việc Người làm, cho chính bản thân mình hay cho người khác, Đấng "đã phân phát nó cho (hãy tỏ mình ta cho) những ai yêu mến Ngài" thì không thể nào không tuyên xưng như tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay như sau:

 

1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, từ đời đời vẫn có Chúa.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở.

 

 

 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 2, 1-13

"Hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu cám dỗ".

Trích sách Huấn Ca.

Hỡi con, khi con đến phụng sự Thiên Chúa, con hãy sống công chính và kính sợ, và hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách. Con hãy gìn giữ tâm hồn và chịu đựng. Hãy lắng tai nghe và nhận lấy lời dạy của lương tri; và đừng vội vã trong lúc cùng quẫn.

Con hãy nương tựa vào sự nâng đỡ của Thiên Chúa và hãy liên kết với Người, và kiên nhẫn để con được thăng tiến trong ngày cuối cùng. Con hãy chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho con và hãy kiên trì trong đau khổ, hãy nhẫn nại trong hoàn cảnh thấp hèn: vì vàng bạc được thử trong lửa, còn những người được Chúa chọn, thì được thử trong khổ nhục. Con hãy tin vào Thiên Chúa, và Người sẽ nâng đỡ con; hãy cứ thẳng đường và hy vọng vào Người. Con hãy kính sợ Người và bền vững mãi như thế.

Hỡi những kẻ kính sợ Chúa, hãy trông đợi lòng từ bi của Người, Các ngươi đừng rời xa Người kẻo phải sa ngã. Các ngươi là kẻ kính sợ Chúa, hãy tin vào Người và phần thưởng của các ngươi sẽ không mất đâu. Các ngươi là những kẻ kính sợ Chúa, hãy trông cậy vào Người, thì người sẽ lấy lòng từ bi ban thưởng cho các ngươi được hân hoan. Các ngươi là những kẻ kính sợ Chúa, hãy yêu mến Người, và lòng các ngươi sẽ được chiếu sáng.

Hỡi các con, hãy ngắm nhìn các dân thiên hạ, và hãy biết rằng không ai trông cậy vào Chúa mà phải hổ thẹn. Vì có ai sống trong giới răn của Người mà bị ruồng bỏ đâu? Hoặc có ai kêu cầu Người mà Người chê chối đâu? Vì Thiên Chúa khoan hậu và nhân từ, và trong ngày nguy khốn, Người tha thứ tội lỗi; Người là Ðấng bênh vực tất cả những kẻ tìm kiếm Người trong chân lý.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40.

Ðáp: Bạn hãy phó thác đường lối mình cho Chúa, và để chính Người hành động (c. 5).

Xướng: 1) Hãy trông cậy vào Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. - Ðáp.

2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. - Ðáp.

3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu: bởi vì Thiên Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành. - Ðáp.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 29-36

"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người.

Các ngài tới Capharnaum. Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.

Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Không bé nhỏ không thể chấp nhận và theo được Chúa Kitô

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay tiếp ngay sau bài Phúc Âm hôm qua. Tuy nhiên cả 2 bài Phúc Âm đều được Giáo Hội, chứ không phải chính Thánh ký Marco, sử dụng cùng một câu Phúc Âm 9:9 "Khi ấy Chúa Giêu từ trên núi xuống", để mở đầu từng bài Phúc Âm, một bài được bắt đầu ở câu 13 (hôm qua) và một bài được bắt đầu ở câu 29. Như thể Giáo Hội muốn ghép biến cố đã xẩy ra trên núi trước đó với 2 biến cố liền ngay sau đó ở bài Phúc Âm hôm qua: trừ quỉ câm, và hôm nay: báo trước cuộc vượt qua lần 2.

 

Thật vậy, sau khi biến hình trên núi trước mặt 3 môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan, một sự kiện biến hình cho các vị thấy trước cuộc phục sinh vinh hiển của Người, Chúa Giêsu đã trừ quỉ câm, như ám chỉ rằng Người sẽ trừ quỉ cho nhân loại bằng cuộc phục sinh của Người, hoàn toàn tiêu diệt tội lỗi và sự chết do ma quỉ gây ra cho con người, và tội lỗi cùng sự chết chỉ bị tiêu diệt nơi nhân tính của Người trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người mà thôi, như Người báo trước cho các môn đệ lần thứ hai trong bài Phúc Âm hôm nay: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại".

 

Tuy nhiên, các vị môn đệ thân cận của Người và với Người, cho dù đã sống bên Người từ đầu, thấy được các việc quyền năng đầy lạ lùng Người làm, và nghe được những lời khôn ngoan đầy khắc phục Người nói, vẫn như Thánh ký Marco thuật lại: "các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người", cho dù về ngôn từ những gì Người nói chẳng có gì là cao siêu huyền diệu hay có tính cách triết lý thần học khó hiểu.

 

Một trong những lý do các vị không hiểu hay không thể hiểu hoặc chưa thể hiểu, chẳng những vì những gì Chúa Kitô tiết lộ về bản thân của Người, về thân phận vô cùng khốn nạn của Người, cho dù bằng ngôn từ minh bạch nhất và bình dân nhất, vẫn là một mầu nhiệm siêu việt, hoàn toàn vượt trên tầm mức kiến thức tự nhiên của con người, nhất là ngược hẳn với lòng trông đợi của các môn đệ về Người, mà còn, bởi thế, vì chính bản chất trần tục thấp hèn của các môn đệ nữa. Mầu nhiệm về Thày đã cao siêu trong khi bản chất của môn đệ lại thấp hèn thì làm sao có thể hòa hợp được.

 

Đó là lý do, trong bài Phúc Âm hôm nay, khi thấy các môn đệ của mình "dọc đàng tranh luận" với nhau "xem ai là người lớn nhất", chứng tỏ các vị chẳng hiểu Người gì hết, và cũng chẳng biết các vị là ai, đang đi theo một Đấng như thế nào, trái lại, cứ tưởng Người là một Moisen "tái xuất giang hồ" để đóng vai trò Cứu Tinh dân tộc Do Thái đang bị đế quốc Roma bấy giờ, như ông đã từng đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập mà về Đất Hứa ngày xưa vậy, Chúa Giêsu mới dạy cho các vị tinh thần ngược đời của Người là: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".

 

Nếu các vị có tinh thần ngược đời này như Người dạy thì hẳn các ông đã cảm thấu được những gì Người nói trước về thân phận cứu thế của Người như một Vị Thiên Sai thực sự xuất phát từ dân Do Thái, một vị Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến để cứu chẳng những dân Do Thái mà còn cả nhân loại nữa cho khỏi tội lỗi và sự chết hơn là cho khỏi quyền lực chính trị, một quyền lực chính trị đang thống trị họ chỉ là tiêu biểu cho quyền lực của thần dữ đang làm chủ thế gian ngay từ đầu lịch sử của nhân loại mà thôi.

 

Đúng thế, với tinh thần phàm tục của mình, chỉ thích tính toán như người lớn, chỉ muốn tranh giành như người lớn, hoàn toàn ngược lại với tinh thần của Chúa Kitô như thế, mà các vị, tuy thực tế vẫn theo Người đấy, nhưng tinh thần và ý thức của các vị vẫn còn quá non nớt và mềm yếu trong việc chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người như Người tiết lộ cho các vị đến 2 lần, Người đã phải thực hiện một hành động hơi lạ được Thánh ký Marco ghi lại ở cuối bài Phúc Âm hôm nay như sau:

 

"Và Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy'".

 

"Em bé" nào đó diễm phúc được Người "đem đặt giữa các ông", chắc chắn không phải từ người ta sau đó mang đến với Người (xem Marco 10:13) mà do chính Người chọn lựa, một là ở ngay trong nhà Thày trò đang ở bấy giờ, hay ở đâu đó gần nhà này. Vấn đề ở đây là tại sao Người phải làm thế, chẳng những tìm chọn cho bằng được một em nhỏ, mà còn tỏ ra rất thương mến em ấy nữa: "rồi ôm nó". Chưa hết, Người còn tự đồng hóa với em nữa: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy".

 

Phải chăng ở đây, qua cử chỉ kèm theo lời nói của mình liên quan đến em bé bấy giờ, lúc mà Chúa Giêsu muốn dạy cho các môn đệ của Người còn đầy tinh thần phàm tục một đường lối ngược đời là "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người", Người đã muốn kín đáo nhắn nhủ các vị rằng nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), vì Cha của Người chỉ tỏ những điều cao siêu mầu nhiệm mà kẻ khôn ngoan thông thái lớn lao trên trần gian này không hề biết và chẳng thể biết, cho thành phần bé nhỏ mà thôi (xem Luca 10:21).

 

Việc Chúa Kitô tiết lộ cho các môn đệ tông đồ của Người lần thứ hai về cuộc vượt qua của Người là để chẳng những cho các vị sửa soạn sẵn sàng chịu đựng cho đến cùng khi lời Người nên ứng nghiệm trước mắt các vị, mà còn bao gồm cả thân phận của các vị là thành phần theo Người, thành phần "môn đệ không hơn Thày, tôi tớ không hơn chủ" (Mathêu 10:24), với vai trò làm nhân chứng cho Người sau này, cũng sẽ phải nên giống Người "Họ đã bắt hại Thày thế nào họ cũng bách hại các con như vậy" (Gioan 15:20). Đó là lý do Sách Huấn Ca trong Bài Đọc 1 hôm nay mới có huấn dụ như sau:

 

"Hỡi con, khi con đến phụng sự Thiên Chúa, con hãy sống công chính và kính sợ, và hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách. Con hãy gìn giữ tâm hồn và chịu đựng...  Con hãy chấp nhận tất cả những gì xảy đến cho con và hãy kiên trì trong đau khổ, hãy nhẫn nại trong hoàn cảnh thấp hèn: vì vàng bạc được thử trong lửa, còn những người được Chúa chọn, thì được thử trong khổ nhục".

 

Và vì thế, các vị tông đồ môn đệ hãy tin tưởng vào Đấng quan phòng thần linh, như chính Chúa Kitô đối với Cha là Đấng đã sai Người, hoàn toàn tuân phục Cha của Người như một trẻ nhỏ, nhờ đó, nhờ sống tinh thần nhỏ bé tin tưởng như Thày của mình như thế, các vị mới có thể tồn tại và vượt qua như Thày của các vị. Sau đây là tâm tình của bài Đáp Ca liên quan đến thành phần theo Chúa như các vị:

1) Hãy trông cậy vào Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.

2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no.

3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu: bởi vì Thiên Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành.

4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ, trong cơn khốn khó, Người là chỗ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

 

 

 

Thánh Phêrô Đamianô – Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh  
(1007-1072)

 

21-02

PeterDamian.jpg

 

ĐTC Biển Đức XVI: 9/9/2009 bài 88 - Thánh Phêrô Đamianô

 

Ngài sinh năm 1007 ở Ravenna, mồ côi cha mẹ khi còn nhỏ và sống với người anh ruột nhưng bị đối xử như người đầy tớ. Khi mới lớn một chút, ngài đã bị sai đi chăn heo. Một người anh khác, là giáo trưởng ở Ravena, thấy thương hại chú em bơ vơ nên đem ngài về nuôi nấng cho ăn học tử tế. Có lẽ vì nhớ ơn dưỡng dục của người anh này mà Phêrô đã lấy tên người anh, là Damian, thành tên của mình.


Phêrô là một học sinh có năng khiếu và sau đó trở thành một giáo sư nổi tiếng. Trong thời gian này, Phêrô cố làm quen với sự chay tịnh, sự cầu nguyện và ngài mặc áo nhặm bên trong áo thường để chống với các cám dỗ của lạc thú và mưu chước ma quỷ.


Sau một thời gian, ngài quyết tâm từ bỏ thế gian để sống đời ẩn tu với các tu sĩ Biển Ðức thuộc nhánh cải cách của Thánh Romuald ở Fonte Avellana. Các vị ẩn tu thường sống từng đôi trong một cái am cách xa nhau, để cầu nguyện và đọc sách thiêng liêng, với cuộc sống rất khắc khổ. Vì quá hăng say trong sự cầu nguyện và ngủ quá ít nên không bao lâu Phêrô bị bệnh mất ngủ trầm trọng. Ngài phải thận trọng kềm chế và săn sóc chính mình. Vì lý do đó, ngài dành nhiều thời giờ để nghiên cứu Kinh Thánh, và trở nên một thi sĩ sáng tác thơ đạo cũng nổi tiếng như trong văn chương đời trước đây.


Do một quyết định của toàn thể các vị ẩn tu, ngài phải chịu trách nhiệm lãnh đạo Cộng Ðoàn khi vị bề trên qua đời. Do đó, sau khi vị tu viện trưởng từ trần khoảng năm 1043, Phêrô đã dẫn dắt gia đình thánh thiện này với sự khôn ngoan và đạo đức. Ngài cũng thành lập thêm năm tu viện ẩn cư khác. Ngài duy trì tinh thần ẩn dật, bác ái và khiêm nhường. Nhiều vị ẩn tu dưới sự dẫn dắt của ngài là các ngôi sao sáng của Giáo Hội, kể cả Thánh Ðaminh Loricatus, Thánh Gioan ở Lodi là người kế vị ngài trong chức vụ tu viện trưởng ở Holy Cross.


Có lẽ vì là trẻ mồ côi và bị đối xử thật tệ hại khi còn nhỏ nên Phêrô Damian thật tốt với người nghèo. Trong các bữa ăn, lúc nào cũng có một hay hai người nghèo ăn chung với ngài, và đích thân ngài lo lắng cho nhu cầu của họ.


Trong nhiều năm, Phêrô Damian thường giúp các Giáo Hoàng trong công việc hòa giải giữa các tu hội kình chống nhau, hoặc giữa giáo sĩ, viên chức chính phủ và Tòa Thánh. Năm 1057, Ðức Giáo Hoàng Stephanô IX thuyết phục ngài từ bỏ đời ẩn dật và đặt ngài làm Giám Mục-Hồng Y của Ostia.


Ngài tích cực tẩy trừ nạn buôn bán chức vụ trong Giáo Hội, khuyến khích các linh mục sống độc thân, và thúc giục các linh mục triều sống thành cộng đoàn, giữ chương trình cầu nguyện. Ngài ao ước phục hồi sự kỷ luật nguyên thủy của các tu sĩ và linh mục, cảnh cáo họ về việc di chuyển không cần thiết, vi phạm đức khó nghèo và sống quá thoải mái. Ngài viết thư khiển trách Ðức Giám Mục Florence về việc chơi cờ, và Ðức Giám Mục Besancon về việc để giáo sĩ ngồi khi đọc thánh vịnh trong Kinh Nhật Tụng.


Ngài viết rất nhiều thư. Khoảng 170 lá hiện vẫn còn. Chúng ta cũng còn 53 bài giảng của ngài và bảy tiểu sử ngài viết. Ngài thích viết về gương mẫu và chuyện thật hơn là lý thuyết. Các bản văn phụng vụ của ngài cho thấy ngài có phong cách của một nhà văn.


Ngài thường xin Ðức Giáo Hoàng cho ngài từ chức Giám Mục-Hồng Y của Osia, và sau cùng Ðức Alexander II đồng ý với điều kiện là bất cứ khi nào cần ngài sẽ sẵn sàng làm việc trở lại.


Khi trở lại công việc ở Ravenna, ngài bị sốt nặng. Ngài từ trần ngày 22 tháng 2 năm 1072 với các tu sĩ đang vây quanh và đọc kinh Nhật Tụng. Ngài được chôn cất trong nguyện đường của tu viện. Thánh tích của ngài được chuyển dời vài lần. Lần di chuyển sau cùng vào năm 1898 ngài được an nghỉ trong nguyện đường kính Thánh Peter Damian của nhà thờ chính tòa Faenza, nước Ý Đại Lợi.

 

Ngài không được chính thức phong thánh nhưng Đức Giáo Hoàng Leo XII cho phép tôn kính ngài năm 1823 và tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 27 tháng 9 năm 1828.

https://dongten.net/2020/02/20/hanh-cac-thanh-20-02-thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-hoi-thanh-%E2%80%A81007-1072/

 

Vị tu sĩ và Hồng Y sẽ nắm giữ một vai trò hàng đầu trong Ktô giáo này chào đời năm 1007 tại Ravenne, trong một gia đình nghèo túng, đến nỗi một trong số các anh Ngài đã phải thốt lên khi Ngài sanh ra: - "Chỉ còn thiếu nỗi bất hạnh này nữa thôi. Sao lại phải có nhiều người thừa hưởng cái di sản nhỏ nhoi này vậy". Và người mẹ kiệt sức đã không muốn cho đứa trẻ sơ sinh bú sữa mà thất vọng bỏ mặc nó. Một bà hàng xóm giảng giải cho bà rằng: - "Những con báo con hùm không bỏ con chúng, trong khi chúng ta là những người Kitô hữu lại bỏ rơi con cái mình sao ? Đứa trẻ mà người ta xua đuổi này, một ngày kia biết đâu lại chẳng là niềm hân hạnh của gia đình ?"

 

Người đàn bà can đảm này không tin lời mình nói lắm, nhưng đã cung ứng những săn sóc đầu tiên cho đứa bé nghèo khổ. Người mẹ mắc cỡ nên âu yếm ẵm lấy đứa trẻ. Bà đặt tên là Phêrô.

 

Năm năm sau, Phêrô mồ côi cha mẹ, người được trao cho người anh đã giận dữ đón nhận cuộc sinh hạ của Ngài. Bị đối xử như người làm thuê Ngài phải chăn heo, ngủ chuồng của súc vật, mặc rách rưới và ăn bánh đen. Một ngày kia nhặt được đồng tiền, của trời ơi ngạc nhiên đối với đứa trẻ không hề ăn hàng, Ngài mang tiền đi xin lễ cho cha mẹ. Chính vì vậy mà dường như cha mẹ đã chúc lành cho cả đời đứa trẻ, con mình.

 

Đamianô, người anh cả của Ngài đã làm linh mục đưa Ngài về Ravenna ở với mình. Anh cho Ngài ăn học và Phêrô đã tỏ ra thông minh, đến nỗi Ngài đã sớm trở thành giáo sư. Đứa trẻ bị khinh miệt ngày trước, bây giờ dạy học tại Parma rồi tại Ravenna. Để bày tỏ lòng biết ơn với người anh cả, Ngài nhận tên mình là Phêrô Đamiano. Ngài được may mắn về mọi mặt. Nhiều gia đình quí, phải gọi Ngài tới ở. Song những thành công không làm cho Ngài thôi cầu nguyện ăn chay. Dưới bộ áo ngoài, Ngài mặc một chiếc áo nhặm.

 

Trước danh tiếng ngày càng gia tăng, Ngài tự nhủ: - Ích lợi gì nếu tôi dính bén vào được của cải chóng qua này? Bởi vì một ngày kia, tôi sẽ phải giã từ tất cả, tại sao ngay từ bây giờ tôi không hiến dâng chúng cho Thiên Chúa ?

 

Thế là Ngài từ bỏ cuộc sống dễ dãi và gia nhập dòng Camaldules, Ngài chọn cái gì nặng nhọc nhất và lui vào vô tịch ở nhà dòng Phonte Avellna. Đời khổ hạnh và cầu nguyện sắp biến Ngài thành một vị thánh lớn. Ngài chỉ muốn khiêm tốn vâng phục và thống hối, nhưng trong khi ẩn mình đi, thì năm 1043, vì vâng lời, Ngài đã được đặt làm tu viện trưởng. Khi đó, Ngài tăng số các tu sĩ, lập nhiều tu viện, giúp đỡ các dòng khác. Ý kiến của Ngài luôn hướng thượng, đến nỗi người ta nói rằng: Ngài được Thánh Thần soi sáng.

 

Giáo hội đang trải qua một thời u buồn và người tu sĩ nghèo khổ hôm qua sắp giữ một vai trò lớn lao làm giảm bớt đau đớn của Roma. Những nết xấu bỉ ổi đè nặng trên triều đại Giáo hoàng. Lời nói của Thánh Thần lẫn sự hiện diện của Ngài chưa đủ, Ngài viết một tác phẩm, "cuốn sách về thành Gomorrha", để lột trần những lạm dụng đang làm cho Giáo hội phải tủi hổ. Còn chính Ngài, để làm cân bằng cho sự yếu đuối của những giám mục bất xứng, đã tự mình đền tội đánh đòn hàng ngày đến độ chảy máu, dành giờ để hát mười thánh vịnh như Ngài đã khuyên nhủ các tu sĩ. Ngài ăn chay ba ngày mỗi tuần.

 

Phêrô Đamianô đã muốn là một tu sĩ rốt cùng suốt đời. Nhưng năm 1057, Đức Stephanô IX đã đặt Ngài làm Hồng Y giám mục Ostia. Ngài phản đối, nhưng Đức Thánh Cha khi giảng giải cho Ngài đã cầm tay xỏ nhẫn và đeo thánh giá cho Ngài. Trách vụ giao phó cho Ngài thật lớn lao. Phêrô Damianô hiến trọn tâm hồn cho gia đình mới rộng lớn này. Ngài đón nhận mọi khó khăn, chiến đấu chống các lạc giáo, chấm dứt các xáo trộn của Giáo hội Milanô dẹp tan những bất đồng với xã hội giáo hoàng. Những lo lắng mệt nhọc không cản trở Ngài sẵn sàng hiến dâng đời mình, dù chỉ cho một linh hồn thôi.

 

Dù kiệt sức, Ngài vẫn dậy sớm để giải tội, không nản lòng, Ngài săn sóc những người bất hạnh, phân phát áo mặc bánh ăn cho họ, thăm viếng các bệnh nhân. Mỗi ngày để nhắc lại tình yêu của Chúa Kitô, Ngài rửa chân cho 12 người nghèo. Đối với những người về quê lập nghiệp, Ngài gửi đồ trợ giúp họ, Ngài nhân hậu đồng đều đối với những người giàu có, những người cũng gặp khó khăn và cố gắng làm cho họ sống bác ái vị tha hơn. Thư từ còn làm cho ảnh hưởng của Ngài lan rộng hơn.

 

Sau bao nhiêu nhọc mệt và phục vụ, Phêrô trở nên già nua, Đức Thánh cha cho phép Ngài trở lại với nếp sống nhà dòng, Ngài đã muốn căn phòng xấu nhất, ăn thứ bành dành cho heo, hành hạ mình bằng dây lưng sắt, tìm đền bù cho các tội nhân và thánh hóa mình hơn nữa. Ngài nói:

 

- Một chiến sĩ của Chúa Kitô phải biết mình có thể tiến đến đâu trên đường nhân đức.

 

Phêrô Đamianô đã định ngày thứ sáu phải được thánh hiến bằng chay tịnh và thống hối, để kính nhớ Chúa Giêsu đã chịu chết trên thánh giá, và ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, Đấng mà Ngài đã soạn một bản kinh Nhật tụng để chúc khen.

 

Tuy đã cao niên, nhưng khi Đức Thánh Cha xin Ngài làm đại diện cho mình tại Pháp. Thánh nhân lên đường ngay. Ngài viếng thăm nhiều địa phận, dẹp tan nhiều cuộc cãi vã, đi tới tận Nước Đức, hoà giải nhà vua với vợ mình là hoàng hậu Berthe, mẹ vua xin được Ngài hướng dẫn. Rồi Ngài tiêu diệt các bè rối tại Florence và mang an bình lại cho Ravenna. Phêrô Đamianô lên cơn sốt ở Faenza. Tu viện Nữ Vương các thánh thiên thần tiếp đón Ngài, Ngài đã qua đời năm 1072 đang khi xin các tu sĩ vây quanh mình đọc kinh nhật tụng. Chính Ngài đã trước tác mộ bia của mình như sau : - "Mọi cái hôm nay đều phải qua đi để cho điều tồn tại mãi mãi tới gần. Hãy mộ mến những sự trên trời hơn những sự dưới đất, mộ mến điều tồn tại hơn cái rữa tàn. Ước gì tinh thần bạn đạt tới những đỉnh cao, tới được những nơi phát ra sự sống bạn".

http://conggiao.info/thanh-phero-damiano-giam-muc-tien-si-1007-1072-d-13910

II. BÀI HỌC

Bài học quí giá nhất khi đọc lại cuộc đời thánh thiện của các vị thánh đối với chúng ta là bàn tay của Thiên Chúa qua việc gìn giữ Giáo Hội của Người.

Thánh Phêrô Đamianô sống vào lúc Giáo Hội gặp nhiều phong ba bão tố. Hai vết thương đã đục khoét và làm bạc nhược sức sống của Giáo hội hơn cả là: “Tội buôn bán đồ thánh và đời sống phóng túng của hàng giáo sĩ. Tội xấu xa đó còn len lỏi vào cả ngai tòa thánh Phêrô do con người phóng túng của Biển đức X “.

Chúng ta có thể tưởng tượng Giáo hội thời kỳ ấy lâm vào một tình trạng rối ren, suy đồi đến mức nào không ?

Trong khoảng từ năm 1045- 1049, nghĩa là chưa đầy năm năm mà ngôi tòa thánh Phêrô đã có tới sáu lần thay ngôi đổi chủ.

Ấy là chưa kể đến những chuyện giáo chủ giả danh, những tội “buôn thần bán thánh”, những thói ăn chơi đàng điếm của hàng giáo sĩ và giáo dân… Hoàn cảnh đồi bại đó đã là nguyên cớ thúc đẩy bao người ly khai với Giáo hội để lập thành những bè đảng và giáo phái. Nhắc lại trang sử đen tối đó chính là thức tỉnh mối đau lòng của những tâm hồn đạo đức và có tâm huyết như Đamianô, nhưng đồng thời cũng khơi thêm ngọn lửa mến yêu và tin tưởng của chúng ta đối với Giáo hội, vì biết rằng “nếu Giáo hội chỉ là một tổ chức hoàn toàn nhân loại khác, thì chính những đớn hèn và đồi bại của hàng giáo sĩ đã giết chết Giáo hội từ lâu không để Giáo hội tồn tại đến ngày nay “. Nhưng sở dĩ trải qua bao cuộc thăng trầm cũng như qua bao cơn bách hại mà Giáo hội còn sống và trẻ trung là vì Giáo hội còn có Chúa ở với để nâng đỡ phù trì; vì Giáo hội còn là một tổ chức của Chúa, như lời Chúa Giêsu đã phán trước khi về trời: “Ta sẽ ở với các con cho đến tận cùng nhân thế”.

Chính vì thế mà chúng ta hãy hết lòng yêu mến Giáo Hội và tin vào Tình thương của Chúa và luôn góp phần nhỏ bé của chúng ta vào việc làm cho Giáo Hội của Chúa mỗi ngày mỗi thánh thiện và tốt đẹp hơn.

Lễ cung hiến Đền thờ vừa mới xây xong, Đức Giám mục chủ sự nêu đích danh từng người đã cộng tác cách này hay cách khác vào công việc chung. Khi ngài vừa dứt lời và sắp ban phép lành thì một em bé đứng gần bên nói lớn:

Bình tĩnh, Đức Giám mục hướng về em hỏi:

Được khuyến khích bởi sự chú ý của Đức Giám mục, em bé mạnh dạn trả lời:

- Thưa Đức cha, mỗi buổi trưa con đều đem cơm cho ba con xây đền thờ này.

Đức Giám mục và toàn thể cộng đoàn vỗ tay hoan hô sự đơn sơ và ý nghĩ ngộ nghĩnh của em. Rồi cộng đoàn đồng ý là em cũng góp phần vào việc chung dù không phải là công việc quan trọng và cực nhọc, nhưng với hạn tuổi cho phép, em đã góp phần của mình và đáng được ghi danh cám ơn như những người khác.

Mỗi người chúng ta, trong mọi hoàn cảnh đều có thể góp phần của mình vào công việc chung của Thiên Chúa, để xây dựng Giáo hội và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa mà mỗi người Kitô là một viên gạch đủ loại lớn nhỏ. Đền thờ này đã bị rạn nứt bởi những chia rẽ, những thiếu sót, những tội lỗi của các thành phần Dân Chúa, của mỗi người chúng ta. Vậy mỗi người đều có bổn phận góp phần mình để tái thiết sự hiệp nhất của Giáo hội.

Không một đóng góp chân thành nào dù nhỏ mọn đến đâu mà không được Thiên Chúa ghi công, và ân sủng của Thiên Chúa sẽ làm cho những đóng góp đó trổ sinh những hoa trái tốt đẹp.

Mỗi người môn đệ Chúa Kitô chúng ta là thành phần của xã hội và do đó được mời gọi đóng góp tích cực xây dựng xã hội ngày thêm tốt đẹp hơn. Chúng ta không thể tiêu cực chỉ trích những tệ đoan xã hội, nhưng hãy tích cực đóng góp vào những công việc tốt để xây dựng. Những đóng góp đó có được nhìn nhận và ghi công hay không, điều này không quan trọng, nhưng sẽ là điều đáng buồn nếu người môn đệ của Chúa không trở thành “Ánh sáng”, thành “Muối đất”, thành “Men” trong bột. Để xây dựng một xã hội mà trong đó con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình hơn.

Không trổ sinh hoa trái tốt lành người Kitô có thể không còn là người Kitô đích thực nữa, chỉ “hữu danh vô thực” mà thôi. Lời Chúa quở trách những người Pharisêu sống đạo giả hình đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23,27).

Lạy Chúa, xin giúp con canh tân đời sống, và dấn thân hết khả năng để làm ích cho Giáo hội, và phục vụ xã hội con đang sống vì tình yêu Chúa.

Xin đừng để ai sút tài kém đức vì chịu ảnh hưởng của con; đừng để ai vì đồng hành với con mà không còn trong trắng, chân chất, dịu dàng và cao quý như trước.

Xin cho con luôn nhớ rằng: điều vĩ đại nhất con có thể làm cho Chúa là con đối xử tốt với anh chị em con. Amen.

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-21-02-thanh-phero-damiano-53738

 

 

XIN XEM NHỮNG NGÀY ĐẦU MÙA CHAY TỪ THỨ TƯ LỄ TRO ĐẾN HẾT THỨ BẢY Ở CUỐI TUẦN 7 QUANH NĂM

 

 

 

Thứ Tư sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 4, 12-22

"Ai yêu mến sự khôn ngoan, sẽ được Thiên Chúa yêu mến".

Trích sách Huấn Ca.

Sự khôn ngoan truyền sinh khí cho con cái mình, đón nhận những ai tìm mình và dẫn đường công chính. Ai yêu mến sự khôn ngoan thì yêu mến sự sống. Ai tỉnh thức đón chờ nó, thì sẽ được vui thoả. Ai chiếm được nó, sẽ được hưởng sự sống. Nó vào nơi nào, thì Thiên Chúa chúc phúc nơi đó. Ai phụng sự nó, là phụng sự Ðấng Thánh. Ai yêu mến nó, sẽ được Thiên Chúa mến yêu. Ai nghe nó, sẽ xét xử các dân tộc. Ai chăm chú nhìn nó, sẽ luôn luôn vững tâm. Ai tin tưởng nó, sẽ được nó làm gia nghiệp, và dòng dõi kẻ ấy sẽ được vững bền.

Bởi chưng sự khôn ngoan sống với kẻ ấy trong cơn thử thách và tuyển chọn kẻ ấy trước hết mọi người. Nó sẽ đổ xuống trên kẻ ấy sự kính sợ và thử thách, sẽ dùng giáo lý mà sửa dậy và rèn tập kẻ ấy trong sự gian nan, cho đến khi nắm chắc được tư tưởng của kẻ ấy, và tín nhiệm kẻ ấy. Sự khôn ngoan sẽ cho kẻ ấy được bền vững, dọn đường ngay thẳng cho kẻ ấy và làm cho kẻ ấy được vui mừng. Sự khôn ngoan sẽ mạc khải cho kẻ ấy biết những bí mật của mình, sẽ ban cho kẻ ấy kho tàng sự hiểu biết công chính. Nếu kẻ ấy cố chấp lầm đường, sự khôn ngoan sẽ bỏ rơi và trao phó kẻ ấy trong tay quân thù.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 165. 168. 171. 172. 174. 175.

Ðáp: Lạy Chúa, đại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa (c. 165a).

Xướng: 1) Ðại bình an cho những ai yêu luật pháp Chúa, không có gì làm cớ cho họ sẩy chân. - Ðáp.

2) Con tuân giữ huấn lệnh và những lời truyền của Chúa, vì bao đường lối của con hiện ở trước nhan Ngài. - Ðáp.

3) Môi con sẽ xướng lên những bài ca ngợi, vì Chúa đã dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

4) Lưỡi con sẽ ca ngợi lời sấm của Chúa, vì bao chỉ thị của Chúa đều công minh. - Ðáp.

5) Lạy Chúa, con mong ơn Ngài cứu độ, và luật pháp Ngài là sự hoan lạc của con. - Ðáp.

6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con! - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 37-39

"Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y". Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con" 

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, có thể nói, vừa tiếp tục bài Phúc Âm hôm qua về văn tự (trong cùng một đoạn và tiếp tục các câu ngay sau các câu của bài Phúc Âm trước) vừa tiếp tục về tinh thần phàm tục của các tông đồ nữa.

 

Thật vậy, nếu trong bài Phúc Âm hôm qua các vị đã bày tỏ tinh thần phàm tục của mình qua việc tranh giành nhau về ngôi thứ trong nội bộ của các vị thì trong bài Phúc Âm hôm nay các vị tiếp tục tinh thần tranh giành nhau về quyền lực cùng uy thế với bất cứ ai không thuộc về nhóm của các vị, như chúng ta thấy nơi câu trình của vị tông đồ vốn tự nhận mình là "người môn đệ được Chúa Kitô yêu" (Gioan 19:26, 20:2, 21:7,20):  "Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y'".

 

Ở đây, trong trường hợp này, qua lời của tông đồ Gioan, chúng ta không biết 2 điều cần: thứ nhất đó là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" đây là ai? thuộc loại người nào?? - Có phải là một người biệt phái hay luật sĩ là những người vốn cảm thấy mình đầy uy lực và thế giá trước mặt dân chúng nhưng lại là thành phần hầu như đa số có khuynh hướng thù địch với chung nhóm tông đồ nhất là với riêng bản thân Chúa Giêsu là Thày của các vị hay chăng?

 

Điều thứ hai chúng ta không biết được nơi câu trình của tông đồ Gioan đó là nhân vật "nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy có thành công hay chăng? Nghĩa là có thực sự trừ được quỉ hay chăng?? Như Thày của các vị??? Và nếu quả thực "kẻ" ấy trừ được quỉ như Thày của các vị, trong khi chính các vị, trong khi Thày của các vị ở trên núi biến hình thì ở dưới núi các vị đã không trừ được quỉ, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này cho thấy, thì chẳng có gì là khó hiểu khi Chúa Giêsu biết được và chúng ta đọc thấy thái độ dường như chất chứa lòng ghen tị của các tông đồ qua câu tông đồ Gioan nói.

 

Hai chi tiết được suy diễn trên đây có thể đúng: "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" là một người biệt phái hay luật sĩ và họ có thể đã thực sự trừ được quỉ. Bởi vì, có thể nói thế nhờ căn cứ vào lời Chúa Giêsu nói với chung các tông đồ chứ không phải chỉ nói riêng với tông đồ Gioan, vì Người biết được tinh thần phàm tục nơi chung thành phần môn đệ của Người chứ không phải chỉ có một môn đệ nào thôi, và cũng có thể là Người đã biết rằng các môn đệ đã xì xèo với nhau về sự kiện lạ thường xẩy ra ngoài nhóm của các vị nên các vị đã cử tông đồ Gioan dễ thương đại diện trình cho Người biết.

 

Lời của Chúa Giêsu nói ở đây được Thánh ký Marco ghi lại nguyên văn như sau: "Nhưng Chúa Giêsu phán: 'Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con'".

 

Trong câu nói này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy đối tượng được Chúa Giêsu nói tới "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" có thể là một nhân vật thuộc phe biệt phái hay luật sĩ, thành phần hầu như đa số thường ác cảm với Người, chống đối Người, bắt bẻ Người từng li từng tí, tím cách gài bẫy Người, thậm chí chụp mũ xuyên tạc Người nữa, cho Người lấy quỉ tướng trừ quỉ con v.v., vì Người nói đến chi tiết liên quan đến khuynh hướng và thái độ của thành phần này như sau: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy".

 

Cũng căn cứ vào câu nói này của Chúa Giêsu thì có thể là "kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ" ấy, cho dù là ai chăng nữa, như một nhân vật biệt phái hay luật sĩ nào đó, vẫn có thể thực sự trừ được quỉ, vẫn có thể "làm phép lạ". Bởi vì, theo nguyên tắc, họ chỉ là phương tiện chứ không phải nguyên lý của chính việc (trừ quỉ hay phép lạ) họ làm.

 

Đúng thế, nguyên lý chính yếu trong việc trừ quỉ hay làm phép lạ, những tác động hoàn toàn vượt khỏi tầm tay hữu hạn bất lực của con người, những việc làm thuộc về thế giới thần linh, chỉ xuất phát từ thần linh, từ quyền lực bởi trời, từ uy quyền của duy "danh Thày" mà thôi. Ma quỉ là loài vốn có quyền năng hơn loài người, nó không thể bị loài người khu trừ, ngoại trừ loài người được ban cho một quyền lực cao tay hơn nó, như từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tên quỉ câm đã từng ám bé trai từ lâu, như bài Phúc Âm Thứ Hai đầu tuần này thuật lại: "Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất".

 

Chính vì Thiên Chúa mới là chính, còn tất cả mọi sự khác chỉ là những gì phụ thuộc, bao gồm tất cả mọi tác nhân, dù thuộc thành phần nào, dù là biệt phái hay luật sĩ hoặc tông đồ, thậm chí dù xấu đến đâu chăng nữa, (như trường hợp vị linh mục thừa tác viên thánh vừa phạm tội trọng xong, cho dù có ban các bí tích thánh ngay sau đó thì bí tích ngài ban ấy vẫn thành), cũng đều là phương tiện được Chúa sử dụng để thực hiện ý định vô cùng khôn ngoan, toàn năng và yêu thương của Ngài trong việc tỏ mình Ngài ra qua họ và cho chính họ, mà tất cả đều bình đẳng trước mặt Chúa, đều không được nghi kỵ chống đối hay tranh giành nhau, như chính Chúa Giêsu đã minh định và xác quyết với các môn đệ của Người trong câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con". Nghĩa là ai cũng phải làm sao để có thể sống vì Chúa và cho Chúa dù ý thức hay vô thức.

 

Cảm Nghiệm

 

Trong đời sống đạo của chúng ta cũng thế, nhất là trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ, chúng ta, thành phần mang danh là môn đệ của Chúa Kitô, thành phần đạo đức tốt lành, thậm chí còn hăng say phục vụ cộng đồng dân Chúa để xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô trong tầm tay và hoàn cảnh của mình, thường vẫn còn mang nặng tâm thức bè phái và cạnh tranh.

 

Bởi thế, chúng ta hay có ý nghĩ hay lời nói khinh thường những ai ngoại đạo, hay đồng đạo mà sống bê tha tội lỗi. Hội đoàn hay đoàn thể của chúng ta phải nổi hơn các tổ chức khác, hay chỉ có phong trào của chúng ta mới làm được việc này việc kia. Nhất là không có cá nhân của chúng ta trong hội đoàn hay phong trào hoặc giáo xứ hay cộng đoàn thì tổ chức của chúng ta không phát triển được. Không ai có thể làm thay chúng ta hay hơn chúng ta trong tổ chức của chúng ta. Bởi thế khi có người nổi hơn chúng ta hay được dân Chúa mộ mến hơn chúng ta, chúng ta tỏ ra những lời nói và thái độ khinh thường, chỉ trích, chê bai, chụp mũ, xuyên tạc v.v. làm sao cho họ bị hạ bệ... không bằng chúng ta, không như chúng ta!

 

Vì chúng ta coi mình không phải chỉ là những gì phụ thuộc, trái lại lấy mình là chính yếu trong hết mọi sự như thế, chứ không phải là Thiên Chúa và thay cho Thiên Chúa, chiếm chỗ của Thiên Chúa, mà chúng ta, như kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chúng ta hay có nhiều kẻ thù, và gặp nhiều trục trặc rắc rối trong hoạt động tông đồ hoặc mục vụ của mình. Thậm chí đến độ bỏ cuộc hay phá ngang vì bất mãn và hận thù ghen ghét!

 

Tinh thần yêu thương đoàn kết trong Chúa là Chủ Tể mọi sự và là cùng đích của mọi sự là những gì khôn ngoan rất đúng với dự án thần linh và ý định cứu rỗi của Thiên Chúa bao gồm từng cá nhân cũng như chung tập thể loài người, và loài người có được Ngài sử dụng hay được ban cho hơn ai khác thì họ cũng chỉ là phương tiện của Ngài và cần phải chia sẻ những gì Ngài ký thác cho họ như những nén bạc ân sủng cần phải sinh lợi theo ý chủ là Ngài.

 

 

Ngày 22 tháng 2

LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊ-RÔ, TÔNG ĐỒ

lễ kính

 

Image result for Mt 16, 13-19

 

Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục. Lễ kính Tông toà thánh Phê-rô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Ki-tô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phê-rô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ Đoàn. Lòng tin của thánh Phê-rô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người.

Phụng Vụ Giờ Kinh

Mừng chư vị công hầu vương bá,
Chốn triều đình Vua Cả Giê-su,
Chính Người đã huấn luyện xưa,
Sai làm nghĩa vụ Tông Đồ khắp nơi.

Thành Sa-lem trên trời oai vọng,
Quý ngài là nền móng cao sang,
Thánh đô nhận ngọc dát vàng,
Con Chiên toả ánh hào quang bốn bề.

Này Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa,
Đang thiết tha cảm tạ quý ngài,
Lời vàng quy tụ về đây,
Máu đào thánh hiến từ ngày khởi công.

Thời gian lúc tới vòng viên mãn,
Khi Vua Trời xử án muôn dân,
Quý ngài vinh hiển vô ngần,
Được ngồi xét xử gian trần với Vua.

Nay cả dám cậy nhờ thế lực,
Xin cầu thay nguyện giúp sớm chiều,
Để bao nhiêu hạt giống gieo,
Kho trời thu lượm bấy nhiêu lúa vàng.

Dâng Thánh Tử, Đấng từng chọn lựa,
Quý ngài làm sứ giả Vua Cha,
Ban đầy thánh sủng Ngôi Ba,
Này câu chúc tụng ngợi ca muôn đời.

Chúa Cha đã cho chúng ta được thừa hưởng gia tài cao quý do các Tông Đồ để lại, vì thế, ta hãy cảm tạ Người và tung hô :

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã xây dựng Hội Thánh trên nền tảng các Tông Đồ, - đó là nhiệm thể chúng con đang xây dựng.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban Lời hằng sống do các Tông Đồ rao giảng, - đó là ánh sáng và niềm vui của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy và Hoà Giải do các Tông Đồ loan báo, - đó là kho tàng ơn tha thứ của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Thể do các Tông Đồ truyền lại, - đó là sức mạnh và nguồn sống của chúng con.

Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phê-rô, xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan. Chúng con cầu xin

 

Ngày 22 tháng 2

Lễ Lập Tông Tòa Thánh Phêrô

Lễ Kính

 

Bài Ðọc I: 1 Pr 5, 1-4

"Là kỳ lão và nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, tôi xin gởi lời khuyên bảo đến bậc Kỳ Lão trong anh em. Tôi là một Kỳ Lão như các ngài, là một nhân chứng cuộc khổ hình của Chúa Kitô, một kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được tỏ bày. Hãy chăn dắt đoàn chiên Chúa nơi anh em, hãy trông nom nó, không phải bằng cách miễn cưỡng, mà là sẵn sàng theo thánh ý Chúa; không phải để trục lợi, mà là do tình nguyện; không phải như người chuyên chế lộng hành, nhưng phải nên gương sáng cho đoàn chiên. Và khi thủ lãnh các đấng chăn chiên xuất hiện, anh em sẽ nhận lãnh triều thiên vinh quang bất diệt.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3. 4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.

2) Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 16, 18

Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy, và cửa hoả ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 16, 13-19

"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!" Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".

Ðó là lời Chúa.

 

Kính Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ

 

Phụng vụ muốn dùng ngày lễ hôm nay để tôn kính tòa thánh Phêrô đồng thời cũng tôn kính cá nhân Ðức Giáo Hoàng, vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian, là đấng kế vị liên tục của vị thủ lĩnh đầu tiên mà Chúa Giêsu đã trao cho trọng trách chăn dắt các chiên con và chiên Mẹ của Ngài. Bởi đó, Ðức Giáo Hoàng đã trở thành vị mục tử tối cao hướng dẫn toàn thể Giáo Hội. Chính vì thế thánh lễ này là một lời tuyên xưng trọng thể quyền tối thượng của Ðức Giáo Hoàng ở Rôma.

Trong nhiều thế kỷ trước, có hai lễ riêng biệt: một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiôkia, một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Nhưng vì cả hai lễ đều mang một ý nghĩa như nhau nên ngày nay phụng vụ đặt chung vào một lễ: "Lễ kính tòa thánh Phêrô".

Ðây là một dịp Giáo Hội kêu mời giáo dân hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Thánh Cha trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.

 

 

 

Đức Thánh Cha Phanxicô Giảng Lễ Ngai Tòa Phêrô Thứ Hai 22/2/2016

 

Dẫn nhập. Vào lúc 10 giờ 30 sáng Thứ Hai 22/2/2016, Thánh Lễ trọng kính Ngai Tòa Thánh Phêrô - The Chair of Peter, được Giáo Triều Rôma, bao gồm cả ngành quản trị, cử hành như là Ngày Mừng Năm Thánh Tình Thương của mình. Đức Thánh Cha chủ tế Thánh Lễ và giảng lễ. Nghi thức bước qua Ngưỡng Cửa Thánh ở Đền Thờ Thánh Phêrô được bắt đầu tuần hành từ Sảnh Đường Phaolô VI từ 8 giờ 30 bao gồm cả một bài suy niệm của Cha Marko Ivan Rupnik, SJ. Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô.

 

"Các mục tử, trước hết và trên hết,

cần phải theo gương mẫu chính Thiên Chúa là Đấng chăm sóc đàn chiên của Ngài...

Sự trung thành mà chúng ta cần có đó là trung thành tác hành theo cõi lòng của Chúa Kitô".

 

Phụng Vụ Thánh Lễ Ngai Tòa Phêrô thấy chúng ta qui tụ lại để cử hành Năm Thánh Thương Xót như là một cộng đồng phục vụ của Giáo Triều Rôma, của Ngành Quản Trị và của các cơ cấu liên hệ với Tòa Thánh Rôma. Chúng ta đã bước qua Cửa Thánh và tiến đến mộ của Tông Đồ Phêrô để tuyên xưng đức tin của chúng ta, và Lời Chúa hôm nay đặc biệt làm sáng tỏ các cử chỉ của chúng ta.

"Vào lúc này đây Chúa Giêsu đặt vấn đề với hết từng người chúng ta rằng: 'Thế nhưng các con bảo Thày là ai?' Một câu hỏi rõ ràng và trực tiếp không thể nào tránh né và trung lập, cũng không thể nào trì hoãn trả lời hoặc đẩy nó cho ai khác. Đây không phải là vấn đề tra hỏi mà là vấn đề đầy những yêu thương! Tình yêu của Vị Sư Phụ duy nhất của chúng ta, Đấng hôm nay đây kêu gọi chúng ta hãy lập lại niềm tin tưởng của chúng ta nơi Người, nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa và là Chúa của đời sống chúng ta. Và người đầu tiên được kêu gọi để lập lại việc tuyên xưng đức tin của mình là vị Thừa kế Thánh Phêrô, vị mang trách nhiệm củng cố anh em mình".

"Chúng ta hãy để cho ân sủng lại khuôn đúc chúng ta để chúng ta tin tưởng, và mở miệng chúng ta ra để chúng ta có thể trọn vẹn tuyên xứng đức tin mà chiếm lấy ơn cứu độ. Vậy chúng ta hãy lập lại lời của Thánh Phêrô như là của chúng ta: 'Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống' Chớ gì tâm tưởng của chúng ta và ánh mắt của chúng ta gắn chặt vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của hết mọi hoạt động Giáo Hội. Người là nền tảng, chứ không phải một ai khác. Người là 'đá' chúng ta cần phải xây dựng trên đó. Thánh Âu Quốc Tinh nhắc lại điều này một cách rõ ràng khi ngài viết rằng Giáo Hội, cho dù có bị chao đảo bởi những biến động lịch sử cũng không sụp đổ, vì Giáo Hội được xây dựng trên đá là những gì làm nên danh xưng của Thánh Phêrô. Không phải đá xuất phát từ tên của Thánh Phêrô mà tên của ngài xuất phát từ đá, như tên Đức Kitô không xuất phát từ Kitô hữu mà Kitô hữu từ Đức Kitô. Đá là Đức Kitô, một nền tảng mà cả Thánh Phêrô cũng được xây trên đó".

"Từ việc tuyên xưng đức tin, đối với mỗi người chúng ta, xuất phát công việc đáp ứng tiếng gọi của Thiên Chúa. Các mục tử, trước hết và trên hết, cần phải theo gương mẫu chính Thiên Chúa là Đấng chăm sóc đàn chiên của Ngài... Chúng ta, được kêu gọi làm Mục Tử trong Giáo Hội, cũng cần phải để cho dung nhan của Thiên Chúa là Vị Mục Tử Nhân Lành chiếu tỏa chúng ta, thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta và phục hồi chúng ta, hoàn toàn được đổi mới nơi sứ vụ của chúng ta. Ở cả những chỗ làm việc của mình nữa chớ gì chúng ta cảm thấy, vun trồng và thực hành một cảm quan mục vụ mạnh mẽ, nhất là đối với những ai chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Chớ gì không một ai cảm thấy bị bỏ rơi và bị xử tệ mà ai cũng cảm thấy, đặc biệt là ở nơi đây, việc yêu thương chăm sóc của Vị Mục Tử Nhân Lành".

"Chúng ta được kêu gọi trở thành các cộng tác viên của Thiên Chúa vào một công việc chính yếu và đặc thù đó là làm chứng bằng đời sống của chúng ta cho quyền lực của thứ ân sủng biến đổi và cho quyền lực của Vị Thần Linh canh tân. Chúng ta hãy để Chúa giải phóng chúng ta cho khỏi mọi khuynh hướng tách chúng ta khỏi yếu tính của sứ vụ chúng ta, và chúng ta hãy tái nhận thức vẻ đẹp của việc chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu. Đức tin cho thừa tác vụ này rất ăn khớp với lòng thương xót chúng ta muốn cảm nghiệm. Thật vậy, trong Thánh Kinh, việc trung thành và lòng thương xót là những gì bất khả phân ly. Ở đâu có điều này thì ở đó cũng có điều kia, và chính ở bản chất hỗ tương và bổ khuyết này của cả hai mà chúng ta có thể thấy chính sự hiện diện của Vị Mục Tử Nhân Lành. Sự trung thành mà chúng ta cần có đó là trung thành tác hành theo cõi lòng của Chúa Kitô. Như chúng ta đã nghe nơi những lời của tông đồ Phêrô,chúng ta cần phải chăn dắt đàn chiên của chúng ta bằng một tấm lòng quảng đại và trở thành gương mẫu cho tất cả đàn chiên. Nhờ đó, 'khi Vị Mục Tử Chính xuất hiện', chúng ta mới có thể lãnh nhận 'triều thiên vinh quang không bao giờ tàn phai'".

https://zenit.org/articles/popes-homily-for-jubilee-of-the-curia-feast-of-chair-of-st-peter/
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)

 

View of the Vatican basilica from a roof near saint Peter square in Rome

Nhân ngày Lễ Ngai Tòa Thánh Phêrô là lễ liên quan trực tiếp đến vai trò của Vị Giáo Hoàng, vị thừa kế Thánh Phêrô đồng thời cũng là vị đại diện của Chúa Kitô trên trần gian,

chúng ta nên ôn lại một chút về lịch sử của các vị giáo hoàng đặc biệt, ở những điểm sau đây:.

Trước hết là số vị kế vị Thánh Phêrô (successor of Peter), cho đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô là vị thứ 265, và như thế là có 266 vị giáo Hoàng, đại diện Chúa Kitô trên trần gian (vicar of Christ) bao gồm cả Thánh Phêrô;

Sau nữa là 3 giáo triều lâu nhất lịch sử của Giáo Hội là giáo triều Thánh Phêrô 34 năm, từ năm 33 khi Chúa Giêsu Thăng Thiên cho đến năm 67 khi ngài tử đạo ở Roma, rồi đến giáo triều chân phước Piô IX 32 năm (1846-1878), và thứ ba là giáo triều Đức GH Gioan Phaolô II 26 năm rưỡi, từ ngày 16/10/1978 đến mùng 2/4/2005. Già tuổi nhất là Đức GH Lêo XIII - 93 tuổi.

Sau hết là quốc tịch của các ĐGH: 196 vị Ý quốc, trong đó có 88 vị ở Roma, chỉ có 70 vị ngoài Ý quốc, trong đó có ĐGH GP II, từ Balan duy nhất, sau 455 năm toàn Ý quốc.

Nếu kể đến các vị giáo hoàng giả thì có tất cả 42 vị, từ năm 199 cuối thế kỷ thứ 2 cho tới năm 1449 giữa thế kỷ thứ 15.

Nếu kể đến các vị giáo hoàng được phong hiển thánh có 84 vị, và vào ngày 27/4/2014 2 vị được phong 1 lúc là GPII và Gioan XXIII, chân phước 9 vị, như Đức Pio IX, đáng kính 2 vị (Pio XII và GP I), đầy tớ Chúa 2 vị

 

 

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 5, 1-10

"Ngươi hãy mau mau quay về với Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Ngươi đừng cậy vào gia sản bất chính và đừng nói: "Ðời sống của tôi thật là đầy đủ". Vì chưng trong thời báo oán trả ân, cái đó có ích gì? Khi còn mạnh khoẻ, chớ chạy theo đam mê của lòng ngươi và đừng nói: "Ai làm gì được tôi?", hoặc "Trong các việc tôi làm, ai có thể bắt tôi suy phục được?" Bởi vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ báo oán ngươi. Ngươi đừng nói rằng: "Tôi đã phạm tội, nào có sao đâu?" Ðấng Tối Cao là Ðấng xét xử nhẫn nại. Ngươi chớ yên tâm về tội đã được tha, để rồi chồng chất tội này trên tội nọ. Và ngươi cũng đừng nói: "Lòng nhân từ của Chúa thật lớn lao, Người thứ tha muôn vàn tội lỗi của tôi", vì lòng nhân từ và cơn thịnh nộ rất gần nhau, và cơn thịnh nộ của Người đè nặng trên những kẻ tội lỗi. Ngươi hãy mau mau quay về với Chúa và đừng lần lựa rày mai; vì cơn thịnh nộ của Người sẽ đến bất ưng và huỷ diệt ngươi trong thời báo oán. Ngươi đừng ỷ lại vào những của bất chính, vì chưng trong thời báo oán trả ân, nó sẽ chẳng ích gì cho ngươi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối của tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy; họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 9, 40-49 (Hl 41-50)

"Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.

"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Thiên đàng toàn là thành phần bị tàn tật

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay, như bài Phúc Âm hôm qua, cũng tiếp tục bài Phúc Âm của ngày hôm trước. Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay đáng lẽ phải được đọc cùng với bài Phúc Âm hôm qua mới đúng. Bởi Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ của Người chưa xong thì bị Giáo Hội cắt ngang, không cho đọc nữa, để những lời Chúa Giêsu đang muốn nói ấy sang bài Phúc Âm cho ngày hôm nay.

 

Thật vậy, lời Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm qua là "Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con", và Người chưa nói hết những gì Người đang muốn nói bấy giờ là "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu...", thì câu này, cùng với các câu sau đó, được chuyển sang câu đầu của bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, không phải là vô lý mà Giáo Hội dám cắt ngang Lời Chúa của mình như thế. Bởi có lẽ Giáo Hội thấy rằng những gì Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay là một vấn đề khác, hoàn toàn khác, nhưng được chuyển tiếp bằng câu đầu tiên vừa được trích dẫn trên đây. Thế nhưng, nếu lưu ý, chúng ta sẽ thấy vấn đề trong bài Phúc Âm hôm qua và vấn đề trong bài Phúc Âm hôm nay vẫn có tính cách liên tục và liên hệ với nhau làm sao ấy, một cách nào đó.

 

Đúng thế, trong khi vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua liên quan đến lời minh định của Chúa Giêsu về thành phần làm việc lành thay Người cho anh chị em mình: "Chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy", thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến một loại người hoàn toàn ngược lại, đó là loại người tác hại đến phần rỗi của anh chị em mình, bằng gương mù gương xấu họ gây ra, những hành động đáng bị trừng phạt xứng đáng: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn".

 

Vẫn biết ai phạm tội thì phải chịu hình phạt tương xứng với tội phạm của mình, chứ không phải mình phạm rồi người khác chịu phạt thay mình, như chúng ta có khuynh hướng đổ tội cho nhau, như thể chúng ta vấp phạm là do người khác, nên mình vẫn đáng thông cảm tha thứ, còn người làm cớ cho mình sa ngã mới đáng bị phạt hơn là mình và thay vì mình.

 

Tuy nhiên lời Chúa Giêsu vừa quả quyết trên đây về thành phần gây dịp vấp ngã cho người khác, tuy họ phải gánh chịu trách nhiệm về việc làm xấu gây tác hại thiêng liêng của họ như vậy, nhưng ai phạm tội theo gương mù gương xấu của họ vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm của mình, chứ không phải họ cần phải hay buộc phải chịu tội thay cho mình.

 

Dầu sao thành phần gây ra gương mù gương xấu trên thế gian này, trong xã hội loài người, trong đời sống chung, một hiện tượng gương mù gương xấu không thể nào không có, không thể nào không xẩy ra (xem Mathêu 18:7), vì con người trần gian chúng ta ai cũng mang một bản chất bất toàn, luôn sống với một bản tính đã bị hư đi bởi nguyên tội, đầy những đam mê nhục dục, luôn xu hướng về tội và có thể liên lỉ phạm tội nếu không có ơn Chúa.

 

Thành phần gây ra gương mù gương xấu chẳng những phải chịu trách nhiệm nặng nề về những gì mình gây ra, như thể bị "buộc thớt cối xay vào cổ", mà còn phải bị "xô xuống biển" nữa, tức bị thế gian là nơi đầy những biến động như biển khơi vùi lấp đi, như Tiên Tri Giona bị đám thủy thủ trên con tầu ông đang muốn lợi dụng để tẩu thoát lệnh truyền của Thiên Chúa sai ông, con tầu đang bị bão tố biển khơi tấn công như thể sắp sửa bị lật nhào mất tích, bất đắc dĩ ném ông xuống biển để cứu bao nhiêu là sinh mạng vô tội bị chết bởi tội ông gây ra (xem Giona 1:13-15).

 

Nếu Tiên Tri Giona nhờ tai nạn "bị xô xuống biển" này để cứu bao nhiêu sinh mạng khác đáng lẽ bị chết đi bởi tội lỗi của ông được Thiên Chúa cứu sau đó nhờ một con cá nuốt vào bụng nó thế nào, và nhờ đó ông đã được vào bờ an toàn, thì thành phần gây ra gương mù gương xấu cũng có thể được cứu độ như thế, một khi biết ăn năn thống hối nhận ra lầm lỗi của mình. Đó là phần của những ai gây ra dịp tội cho người khác, phải gánh chịu hậu quả những gì mình gây ra làm thiệt hại đến phần rỗi của người khác, nhưng người khác bị hư đi thì lại do chính đương sự nạn nhân chứ không phải chính tác nhân gương mù.

 

Bởi vậy mà Chúa Giêsu còn cảnh giác cả thành phần đương sự nạn nhân trong bài Phúc Âm hôm nay nữa. Không phải hay sao, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi nói về thành phần tác nhân gương mù Người đã nói ngay đến thành phần đương sự chủ thể. Theo giáo huấn của Người trong bài Phúc Âm hôm nay thì dịp tội ở ngay bản thân của đương sự chủ thể, chứ không phải ở tác nhân gương mù. Một đàng ở bên ngoài đương sự chủ thể - đó là gương mù, có tính cách khách quan, một đàng ở tại bản thân đương sự chủ thể - đó là dịp tội, có tính cách chủ quan.

 

Nghĩa là, cho dù thế gian có đầy những gương mù gương xấu không thể nào không xẩy ra, nhưng đương sự chủ thể vẫn không vì thế mà sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, người con gái ăn mặc thời trang có vẻ sexi thời đại một cách ngây thơ vô tội, không thể nào hay khó lòng mà trở thành dịp tội cho bất cứ nam nhân nào biết cẩn thẩn khổ chế ngũ quan hay sống đức tin chân chính.

 

"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".

 

Ở đây, qua câu Phúc Âm này, chúng ta thấy Chúa Giêsu nói đến chẳng những dịp tội ở nơi chính chủ thể, nhất là ở 3 cơ quan đặc biệt là tay, chân và mắt trên thân thể của con người, mà còn sâu xa nói đến tiến trình phạm tội của con người nữa, một tiến trình từ ngoài vào trong, liên quan đến 3 cơ quan được Người nhắc đến. Tại sao Người không nhắc đến miệng hay tai cũng là các cơ quan dễ phạm tội nhất như mắt, mà chỉ nói đến tay, chân và mắt. Theo người viết thì "tay" là tiêu biểu cho việc làm sai trái của con người, nhưng việc làm sai trái bề ngoài đó là do quyết định bên trong của con người, một tác động nhất định làm theo ý mình có thể nói được tiêu biểu nơi "chân" bước đi của con người, và con người thường chỉ quyết định sai trái lầm lạc theo phán đoán mù tối hay theo lòng tham vọng của con người, những tác động phán đoán hay tham vọng tâm linh có thể nói được tiêu biểu nơi con "mắt" của họ. 

 

Như thế, có thể nói một cách loại suy và tếu táo rằng nếu "thà con mất một tay mà được vào cõi sống... (và) thà con mất một chân mà được vào cõi sống" thì ở trên Thiên Đàng toàn là những người bị tàn tật, mù lòa và què cụt, bởi khi còn ở trên thế gian này họ đã hy sinh tất cả những phần thể ấy của họ để được rỗi, "còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục... còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục", bởi vậy khi chết đi ai mà còn lành mạnh cả thân thể thì số phận đời đời của họ chẳng còn ở đâu khác ngoài hỏa ngục.... Thật ra thì hoàn toàn ngược lại, một khi thân xác của người lành được phục sinh trong ngày sau hết thì nên giống thân thể vinh quang của Chúa Kitô (xem Philiphe 3:21), trong khi thân xác của thành phần bị "chết lần thứ hai" (Khải Huyền 20:14) cũng sống lại nhưng "bị quăng vào hồ lửa" (Khải Huyền 20:14), phản ảnh tất cả những gì là khốn cực, hư hoại và chết chóc.

 

Bởi chính dịp tội ở ngay bản thân con người chứ không phải ở ngoài con người như gương mù gương xấu thế gian mà con người cần phải giữ mình nói chung, cần phải khổ chế giác quan và tình cảm nói riêng, để khỏi bị sa ngã phạm tội, để khỏi bị ảnh hưởng tai hại hay chiều theo gương mù gương xấu thế gian, mà ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vừa cảnh giác vừa kín đáo dạy cho các môn đệ của Người cách thức khôn khéo như sau:

 

"Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa":  bởi "mọi người" không trừ ai ở trên đời này tự mình mà không sa ngã phạm tội làm những gì trái với lương tâm nên bị lương tâm nung nấu cắn rứt như bị "ướp bằng lửa", thứ lửa trần gian còn được thanh tẩy, hơn là thứ lửa hỏa ngục trừng phạt muôn kiếp đời sau.

 

 "Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được?": "muối" đây trước hết ám chỉ tính chất khổ chế cần phải có nơi đời sống thiêng liêng để ướp cho bản thân con người vốn yếu đuối đầy những mầm mống tội lỗi chết chóc khỏi sa ngã phạm tội mà bị hư đi như những thứ cá ươn thối.

 

"Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau": "muối" ở đây, sau nữa, còn ám chỉ tính chất nhẫn nhịn nhau trong đời sống bác ái yêu thương tha nhân, nhờ đó con người ướp cho nhau khỏi bị ươn thối gây ra bởi những thái độ và phản ứng gương mù gương xấu của mình.

 

Cảm Nghiệm

 

Chúng ta dù có xưng tội thường xuyên, nhưng nếu không biết mình, không nhận lỗi, thì việc xưng tội của chúng ta nên xét lại, bởi chúng ta chẳng những không thật lòng ăn năn thống hối mà còn chẳng biết mình xưng tội ra sao nữa. Có những tội thật chúng ta lại cho rằng không phải là tội. Chúng ta còn cho rằng chúng ta vấp phạm là do ngoại cảnh chứ chúng ta không tự mình phạm tội, không cố ý phạm tội, nếu không có dịp tội, nếu không thấy người con gái duyên dáng hấp dẫn ấy v.v.

 

Mà nếu không biết mình, không nhận lỗi thì làm sao có thể sửa lỗi và cải thiện được. Nhất là làm sao có thể ăn năn thống hối về tội mình phạm trước khi xưng tội. Bởi thế, chúng ta vẫn tiếp tục sống trong dịp tội và chiều theo dịp tội, mà cứ tưởng mình có tội gì đâu mà xưng v.v. Và nếu có thói quen xưng tội hằng tháng chăng nữa, cũng cứ tưởng mình công chính hơn người khác. Những con người không tránh dịp tội ở ngay nơi bản thân của mình, thì mọi sự, dù tự bản chất nó tốt, nó vẫn có thể trở thành cớ ("gương mù") gây ra hành động phạm tội của họ.

 

 

Thánh Polycarpo

 23/2

 

Ngày 23/02: Thánh Pôlycarpô, giám mục, tử đạo

 

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Theo “lá thư của các Kitô hữu thành Smyrna” về cuộc tử đạo của thánh Polycarpe, vị thánh giám mục này bị thiêu trên giàn củi ở hý trường Smyrna, vào ngày Sabbat, vào giờ thứ 8, ngày 23.02.155/156, trước mặt toàn dân. Lúc đó ngài khoảng độ 86 tuổi. Kỷ niệm này được ghi trong Hạnh các thánh tử đạo của thành Nicomédie (361). Những người Syrie, Byzantin và Copte đều mừng lễ này. Phương Tây, lễ nhớ thánh Polycarpe xuất hiện vào thế kỷ thứ VI, cho đến lần canh tân Phụng Vụ cuối cùng, Thánh lễ mừng vào ngày 26.01.

Theo truyền thống, thánh Polycarpe (có nhiều hoa trái) sinh khoảng năm 70, là môn đệ của thánh Gioan Tông Đồ và là thầy của thánh Irênê thành Lyon. Như thế, ngài đã tạo một dây liên kết giữa Giáo Hội nguyên thuỷ của các Tông Đồ với các thế hệ Kitô hữu sau này của Giáo Hội Tiểu Á và - nhờ vào môn đệ của mình là Irênê thành Lyon – nối kết với xứ Gaule.

Là giám mục thành Smyrna, ngài đón nhận Ignatiô thành Antiochia, người bị dẫn độ đến Rôma để chịu cực hình tử đạo. Theo thánh Irênê, thánh Polycarpe thích nhắc lại liên hệ của mình với thánh Tông Đồ Gioan và “những người đã thấy Chúa”. Ngài nhắc lại các lời nói của họ về đề tài Đức Giêsu và “sau khi nhận tất cả từ các chứng nhân của Ngôi Lời Hằng Sống, ngài đã nhắc lại đúng như Sách Thánh”.

Thánh Ignatio thành Antiochia, trong Lá thư gởi cho Polycarpe, đã động viên người bạn thân yêu này: “Hãy vững vàng như đe dưới búa. Một lực sĩ vĩ đại không thể thất bại dưới những cú đập như thế, nhưng phải thắng”. Thánh Polycarpe cũng đã chiến đấu cho đến khi bị thiêu sống để làm chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Khi Tổng trấn đề nghị: “Ta thề, ta sẽ thả ông ra, nếu như ông nguyền rủa ông Kitô!” Vị thánh giám mục đã trả lời: “Đã 86 năm tôi phục vụ Người và không bao giờ Người làm một điều gì xấu cho tôi. Làm thế nào tôi có thể xúc phạm Vua của tôi, Đấng cứu tôi ?”

Sau khi Polycarpe bị thiêu, các Kitô hữu đến lượm xương còn lại, đặt vào một nơi đáng kính, nơi mà họ thường tụ tập “trong hân hoan và niềm vui để cử hành ngày lễ giỗ cho ngài”.

2. Thông điệp và tính thời sự

Sứ điệp của thánh Polycarpe chính là cuộc tử đạo của ngài, như “Lá thư Hội thánh Chúa ở Smyrna” đã nói.

Trong lời Tổng hợp, chúng ta cầu xin Thiên Chúa, nhờ lời cầu bầu của thánh nhân “được như ngài chia sẻ vào chén của Chúa Kitô để được sống lại vào đời sống vĩnh cửu”. Lời cầu nguyện này nhắc nhớ lại lời cầu nguyện của thánh Polycarpe, lúc bị trói vào cột, sẵn sàng hiến tế: “Lạy Chúa, Thiên Chúa của vũ trụ, Cha của Đức Giêsu Kitô, con chúc tụng Chúa vì xét thấy con xứng đáng được chia sẻ vào chén của Chúa Kitô, để được sống lại cả hồn lẫn xác vào cuộc sống vĩnh cửu, trong sự bất tử do Chúa Thánh Thần ban tặng”. (Phụng Vụ Giờ Kinh). Trong lời tuyên xưng đức tin của thánh Polycarpe, chúng ta thấy rõ bản chất của mầu nhiệm Kitô giáo được nói lên rõ ràng: Thiên Chúa là Cha và là Đấng Sáng Tạo; Đức Giêsu là Tôi Tớ của Thiên Chúa, đồng thời cũng là Con duy nhất, rất được Cha yêu quí, Tư tế vĩnh cửu và thiên linh; Chúa Thánh Thần là nguồn sống và sự bất tử.

Các Kitô hữu đã thấy và đã chứng kiến cuộc tử đạo của thánh Polycarpe như đang tham dự một buổi Phụng Vụ. Trong lời nguyện của thánh nhân, chúng ta gặp được các yếu tố của Kinh Nguyện Thánh Thể: “Con ca tụng Ngài ...con chúc tụng Ngài nhờ vị Thượng Tế vĩnh cửu và thiên linh là Đức Giêsu Kitô”. Vị tử đạo, bị trói, được nhìn như con dê được chọn, giữa bầy để hiến tế, một lễ vật xứng đáng dâng lên Thiên Chúa”. Cuối cùng ngài xuất hiện giữa vùng lửa “như tấm bánh đang được nung lên, như vàng hay bạc rực lên giữa lò lửa, xông lên mùi như hương, như trầm”. Thánh nhân được vẽ như một “vị tử đạo đúng Phúc Âm” có nghĩa là giống Đức Giêsu Kitô, một hiến tế của người mục tử thành Smyrna trước mắt dân chúng như một mẫu gương đức tin và kiên nhẫn. Khi bắt chước cuộc khổ nạn của Đức Kitô, người ta sẽ được đồng hình đồng dạng với Người. Vì thế thánh Polycarpe đã viết cho dân thành Philliphê: “Hãy trở thành những người bắt chước sự kiên nhẫn của Chúa Kitô và nếu như chúng ta đau khổ vì danh Người, hãy chúc tụng Người” (7,2).

https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-23-02-thanh-polycarpogiam-muctu-dao-49086

3- Tiểu Sử

Là môn đệ của thánh Gioan Tông đồ và là bạn của thánh Ignatiô ở Antioch, thánh Pôlycarpô, Giám mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai.

Các vị lãnh đạo Giáo hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có?

Khi các Tông đồ không còn ở trần gian nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ mà Ðức Giêsu không bao giờ nói đến.

Pôlycarpô, một người thánh thiện và là Giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – Trung thành với đời sống Ðức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với thánh Pôlycarpô “linh đạo của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.”

Khi đối diện với lạc giáo, thánh Pôlycarpô có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi thánh Ignatiô phải thán phục, vì ngài đã bắt chước cách Ðức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên, chủ trương có hai Chúa. Một Chúa trong Cựu ước thì khác với Chúa của Tân ước, và Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa trong Tân ước. Khi Marcion đối chất với Ðức Giám mục Pôlycarpô, ông ta đã yêu cầu ngài: “Pôlycarpô, hãy thừa nhận chúng tôi.” Ðức Pôlycarpô trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.”

Trái lại khi đối diện với các bất đồng giữa các người Kitô hữu, ngài lại rất khoan dung và tôn trọng. Một trong những tương tranh thời ấy là việc cử hành lễ Phục sinh. Ðông phương, là xuất xứ của thánh Pôlycarpô, cử hành mầu nhiệm Vượt Qua như sự Thương khó của Ðức Kitô và tiếp theo sau bằng một Thánh lễ vào ngày kế tiếp. Tây phương cử hành lễ Phục sinh vào ngày chúa nhật sau tuần lễ Vượt Qua. Khi thánh Pôlycarpô đến Rôma để thảo luận về vấn đề này với Ðức Giáo Hoàng Anicetus, họ bất đồng ý kiến. Nhưng các ngài cũng không thấy sự khác biệt trong đức tin Kitô giáo. Và Ðức Thánh Cha Anicetus đã yêu cầu thánh Pôlycarpô cử hành Thánh lễ ngay trong nhà nguyện của Ðức Giáo Hoàng, để tỏ ý tôn trọng ngài.

Thánh Pôlycarpô đối diện với sự bách hại cũng như Ðức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Ðức Giê-su Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.”

Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo Kitô hữu trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi hỏi phải tìm bắt thánh Pôlycarpô, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Thánh Pôlycarpô thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong một nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thiết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường.

Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của thánh Pôlycarpô, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa.

Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ thánh Pôlycarpô mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của thánh Pôlycarpô là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người tín hữu Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 156.

Trong nhiều lá thư của thánh Pôlycarpô, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.

Lời bàn

Thánh Pôlycarpô được công nhận là vị lãnh đạo Kitô giáo bởi tất cả các Kitô hữu thuộc Giáo hội Tiểu Á – Một thành trì đức tin

vững mạnh và trung thành với Ðức Giêsu Kitô. Sức mạnh của ngài là bởi tín thác vào Thiên Chúa, ngay cả khi các biến động của đời sống mâu thuẫn với sự tin tưởng này. Sống giữa những người ngoại giáo và dưới chế độ đàn áp một tôn giáo mới, ngài đã chăn dẫn đàn chiên của ngài. Cũng như vị Mục tử tốt lành, ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên và gìn giữ họ khỏi bị bách hại thêm nữa. Sự tín thác vào Thiên Chúa của ngài được tóm lược trong câu nói trước khi chết: “Lạy Chúa Cha… Con ca tụng Ngài, vì đã giúp con xứng đáng cho đến ngày giờ này…” (Sổ Tử đạo, chương 14).


Lời trích

“Hãy vững vàng trong cách ăn ở và noi gương Chúa, ‘trung kiên trong đức tin, yêu thương anh chị em, đoàn kết trong chân lý,’ giúp đỡ lẫn nhau với sự dịu dàng của Chúa, đừng khinh miệt một ai” (Thánh Pôlycarpô, Thư gửi tín hữu Philippi).

Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB


 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 6, 5-17

"Không gì sánh được với người bạn trung thành".

Trích sách Huấn Ca.

Lời nói ngọt ngào gia tăng số bạn hữu và thoa dịu những kẻ thù; lưỡi êm dịu nơi người hiền tăng thêm hoà khí.

Ngươi nên có nhiều bạn hữu, nhưng chỉ nên chọn một trong ngàn người làm cố vấn.

Nếu ngươi có được người bạn hữu, hãy thử thách rồi hãy nhận, và đừng dễ dàng tin tưởng người đó. Vì có thứ bạn hữu chỉ thân trong lúc vận hên và không trung thành trong cơn khốn khó. Có thứ bạn hữu sau trở thành thù địch. Có thứ bạn hữu tiết lộ những chuyện oán thù, tranh chấp và ghen tương của ngươi. Có thứ bạn hữu chỉ thân lúc ở bàn ăn, gặp lúc gian truân không nhìn thấy bóng. Có thứ bạn hữu khi được thâu nhận sẽ trở thành bình đẳng với ngươi, vì tự do hành động trong những điều thuộc nội bộ nhà ngươi. Nếu ngươi bị người ta hạ nhục, hắn sẽ phản lại ngươi, và hắn sẽ xa tránh mặt ngươi. Ngươi hãy xa lánh kẻ thù và hãy đề phòng với bạn hữu.

Người bạn trung thành là chỗ dung thân vững chắc. Ai gặp được người bạn hữu như thế, là gặp được kho báu. Không có gì sánh được với người bạn trung thành, không số lượng vàng bạc nào có thể cân nặng hơn lòng trung tín tốt lành của người bạn đó. Người bạn hữu trung thành là liều thuốc trường sinh bất tử. Những ai kính sợ Chúa, sẽ gặp được người bạn đó. Ai kính sợ Chúa, người đó cũng có tình bạn tốt, vì người bạn hữu của người đó sẽ giống như người đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 12. 16. 18. 27. 34. 35.

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài (c. 35a).

Xướng: 1) Thân lạy Chúa, Ngài muôn phúc đức, xin dạy con các thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

2) Con lấy thánh chỉ Ngài làm hoan lạc, và lời Ngài dạy, con chẳng dám quên. - Ðáp.

3) Xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Ðáp.

4) Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.

5) Xin dạy con, để con vâng theo luật pháp Ngài, và để con hết lòng tuân giữ luật đó. - Ðáp.

6) Xin hướng dẫn con vào đường lối chỉ thị Ngài, vì chính trong đường lối này con sung sướng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 1-12

"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ. Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị". Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

"Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?"

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế?

 

Suy Niệm

 

Vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay hoàn toàn khác với các vấn đề của các bài Phúc Âm trước đây trong tuần. Tuy nhiên, ở một nghĩa nào đó, có thể nói vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay một phần nào liên hệ với vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua. Nếu vấn đề của bài Phúc Âm hôm qua về vấn đề gương mù gương xấu trong thế gian và dịp tội nơi chủ thể phạm nhân thì vấn đề của bài Phúc Âm hôm nay về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội) và về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân).

 

Trước hết, về vấn đề tục lệ ly dị (liên quan đến gương mù gương xấu trong xã hội): "Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: 'Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?'". Sở dĩ vấn đề ly dị ở đây, dù có được phép chăng nữa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị", nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần bộ mặt bất chính của nó như sau: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó".

 

Sau nữa, về thành phần ly dị (liên quan đến dịp tội ở chính bản thân đương sự phạm nhân): "Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".

 

Ở đây chính Chúa Giêsu đã trả lại cho ý nghĩa đích thực và giá trị cao cả của hôn nhân theo dự án thần linh từ nguyên thủy của Thiên Chúa Hóa Công. Chưa hết, để bổ túc thêm cho phần tích cực của hôn nhân liên quan đến ý nghĩa và giá trị của nó theo dự án thần linh, trong câu trả lời cho riêng các môn đệ của mình sau đó, Chúa Giêsu còn bồi thêm phần tiêu cực liên quan đền thành phần ly dị nữa, như sau: "Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: 'Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình'".

 

Vấn đề "ly dị", nếu hiểu rộng, thì bao gồm cả "ngoại tình". Tại sao thế? Tại vì "ngoại tình", dù là "ngoại tình" kín đáo trong tâm tưởng (xem Mathêu 5:28), tự nó bao giờ cũng là hành động "ly dị" lén lút, "ly dị" tạm thời, bởi lòng của người vợ hay người chồng "ngoại tình" ấy đã thật sự bất trung với lời thề hứa thủy chung của mình cho tới cùng với con người được chính Thiên Chúa đã Đấng đã xe duyên kết nghĩa vợ chồng cho mình. Và chính vì hành động ngoại tình, cho dù chưa thật sự có liên hệ xác thịt với một người không phải là vơ hay chồng chính thức của mình, cũng là một trọng tội, chứ không phải là một tội nhẹ, bởi hành động "ngoại tình" này hoàn toàn phản lại với bản chất của hôn nhân theo ý Chúa. 

 

Nếu "sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ" thì người phối ngẫu của mình chính là người được Thiên Chúa chọn cho mình, được Ngài mang đến cho mình, một cách nào đó và vào một lúc nào đó, và lòng mình cảm nhận được con người thiên duyên ấy, và tự nhiên yêu thương quyến luyến với con người như thuộc về mình từ bao giờ ấy, đến độ sống không thể thiếu được người ấy, và đến độ con người ấy trở thành như thể chính bản thân mình, chính lẽ sống của mình, không thể nào không trở nên một xác thịt trong đời sống hôn nhân gia đình.

 

Thật vậy, "từ lúc khởi đầu sáng tạo", con người duy nhất bấy giờ (là Adong) được Thiên Chúa mang nàng Evà đến cho chàng, chứ không phải chàng tự đi tìm kiếm, hay nói đúng hơn, chàng hằng thiết tha khao khát một người nội trợ xứng hợp với mình, một niềm khát vọng ở tận thâm tâm của chàng được biểu hiệu qua một giấc ngủ say (xem Khởi Nguyên 2:21), để rồi khi thức dậy sau một giấc ngủ thật say, như thể nội tâm của chàng đã cảm nghiệm được chính bản thân của chàng, thì phản ứng đầu tiên ngay tức khắc và duy nhất của chàng bấy giờ là nhận biết và chấp nhận những gì từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa: "Cuối cùng nàng đây mới là xương bởi xương của tôi, thịt bởi thịt của tôi" (Khởi Nguyên 2:21-24), rồi đáp ứng bằng cách "lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể" (Khởi Nguyên 2:24).

 

Chữ "cuối cùng" trong câu nói công khai đầu tiên của con người về bản thân mình cho thấy lòng khát vọng tìm được "một người nội trợ xứng hợp với mình" (Khởi Nguyên 2:20), một con người vượt trên mọi loài muông thú đã được chàng nhận biết rõ ràng và đặt tên cho từng con (xem Khởi Nguyên 2:19) nhưng chúng vẫn không hợp với chàng, nên chàng đành phải tiếp tục sống lẻ loi cô độc là một tình trạng không hợp với chàng và "không tốt" (Khởi Nguyên 2:18), nghĩa là không trọn vẹn đối với chàng là một con người chẳng những được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ duy nhất, mà còn được dựng nên tương tự như Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26), ở chỗ hiệp thông, cho đến khi "cuối cùng" chàng đã được toại nguyện, ở chỗ có đôi: "Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ" (Khởi Nguyên 1:27).

 

Sau này, cho dù có nghe theo vợ mình là Evà mà anh chồng Adong đã trở thành đồng phạm ăn trái cấm với nàng và vì thế đã trắng trợn phạm đến Thiên Chúa tối cao là Đấng đã tạo dựng nên mình, nhưng trong câu đáp lời Thiên Chúa hạch hỏi: "Ai đã bảo ngươi rằng ngươi trần truồng...?", chàng vẫn công nhận nàng chứ không bao giờ chối bỏ nàng hay ruồng bỏ vợ của chàng: "Người nữ mà Ngài đã cho ở với con đây..." (Khởi Nguyên 3:12), câu thứ hai con người thân thưa cùng Vị Thiên Chúa Hóa Công của mình.

 

Nghĩa là Adong vẫn công nhận Evà thuộc về chàng và nàng được chính Thiên Chúa cho ở với chàng, bằng không, nếu chàng bỏ nàng là chàng, trước hết và trên hết, bỏ Chúa, là chàng "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết ràng buộc" chàng với nàng. Ngay từ ban đầu không có như vậy, không có vấn đề hay tình trạng ly dị, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay.

 

Tuy nhiên, ngày nay, theo chủ nghĩa tương đối duy nhân bản, con người tôn thờ nhân quyền theo cá nhân chủ nghĩa, họ chủ trương tôi có quyền lấy người này thì tôi cũng có quyền bỏ họ mà lấy người khác tùy tôi; người phối ngẫu của tôi là do chính tôi chọn lựa theo ý thích, ý nghĩ và ý muốn chủ quan và tự do của tôi, chứ không phải Thiên Chúa chọn cho tôi nên tôi phải chấp nhận họ, và không bao giờ được bỏ họ khi tôi không còn thích họ nữa.

 

Cảm Nghiệm

 

Hôn nhân, theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay và mạc khải Thánh Kinh, là do Thiên Chúa thiết lập và xe duyên kết nghĩa cho từng cặp, vì con người được Ngài dựng nên "có nam có nữ", nhờ đó họ có khả năng hiệp thông như Ngài bằng yêu thương, một yếu tố bất khả thiếu khiến họ nhận biết nhau và hiệp nhất nên một với nhau như vợ chồng.

 

Chính mối hiệp nhất nên một xác thịt này giữa con người nam nữ phối ngẫu với nhau là thực tại đòi tình yêu phối ngẫu phải là một tình yêu vĩnh viễn, tình yêu trọn đời, bất chấp tất cả những gì khác biệt nơi nhau (như sở thích hay văn hóa hoặc tôn giáo), tất cả những gì nghịch lại với nhau (như tính nết hay chủ trương hoặc chọn lựa), thậm chí bất chấp tất cả những gì xúc phạm đến nhau (như khinh bỉ nhau hay nguyền rủa nhau hoặc phản bội nhau).

 

Thế nhưng, sống với bản tính đã bị hư đi theo nguyên tội, ơn gọi và đời sống hôn nhân không dễ dàng bền vững cho đến cùng, nhất là trong thế giới đang tôn thờ cái tôi, chỉ biết quyền làm người hơn tình làm người, thì động một tí là họ có thể bỏ nhau, có thể "phân ly những gì Thiên Chúa đã liên kết".

 

Kinh nghiệm phũ phàng cho thấy, chính lúc con người sống đời vợ chồng có thể chứng tỏ tình yêu thương nhau một cách chân thực nhất và hoàn hảo nhất thì họ lại ly dị nhau, đó là khi họ xúc phạm đến nhau, khi họ chịu đau khổ bởi nhau. Và sở dĩ họ bỏ nhau là vì họ yêu nhau theo sắc dục và lợi lộc hơn là trong Chúa là Đấng đã xe duyên kết nghĩa cho họ. Cho dù ngay từ đầu tình yêu của họ là một tình yêu đầy ý thức và có tính cách siêu nhiên, nhưng khi va chạm với những gian nan khốn khó và thử thách tình yêu chân thành ấy để nó trở thành tình yêu trọn hảo như tình yêu của Thiên Chúa thì họ lại không thể tiếp tục chấp nhận nhau được nữa, không thể sống với nhau được nữa, bất chấp lợi ích của con cái v.v.

 

 

 

 

Thứ Bảy sau Chúa Nhật 7 Quanh Năm

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Hc 17, 1-13

"Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa".

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa dùng đất mà dựng nên con người và tạo tác con người theo hình ảnh của Chúa. Người lại làm cho nó trở nên hình ảnh Chúa và ban cho nó được quyền hành như Người đã có. Người cũng ban cho nó số ngày và thời gian, ban cho quyền hành trên trần gian. Người bắt mọi loài phải kính sợ nó, và cho nó thống trị các thú dữ chim trời. Rồi từ đó, Người tạo dựng một nội trợ giống như nó, Người cũng ban cho cả hai có trí, lưỡi, mắt, mũi và tâm hồn để suy tưởng, cho họ đầy sự hiểu biết và trí năng. Người tạo cho họ trí thông minh và cho lòng họ biết cảm giác, chỉ cho họ biết phân biệt lành dữ. Người đặt mắt Người vào lòng họ, chỉ cho họ thấy sự huy hoàng các công trình của Người, để họ ca tụng thánh danh Người, và họ được vinh hiển trong những việc lạ lùng của Người, hầu họ cao rao sự vĩ đại của những kỳ công Người. Người ban thêm cho họ sự thông minh và cho họ thừa hưởng luật trường sinh. Người thiết lập với họ một giao ước vĩnh cửu, chỉ cho họ biết công minh thẩm phán. Và mắt họ đã nhìn thấy sự huy hoàng vinh hiển của Người, tai họ đã nghe tiếng Người. Rồi Chúa phán với họ: "Các ngươi hãy lánh xa mọi gian ác". Và Người truyền cho mỗi người trong họ biết những giới răn liên quan đến tha nhân. Ðường lối của họ luôn luôn ở trước mặt Chúa và không hề ẩn náu khỏi mắt Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 102, 13-14. 15-16. 17-18a.

Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người (x. c. 17).

Xướng: 1) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. Người hiểu biết chỗ gây hình của chúng ta, Người nhớ rằng tro bụi là chính chúng ta! - Ðáp.

2) Thân con người, cuộc đời như nắm cỏ, như bông hoa ngoài đồng nội, nó nở ra. Một cơn gió vừa lướt trên hoa, hoa không còn nữa, không ai còn nhận thấy chỗ ở của hoa! - Ðáp.

3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại, tự thuở này tới thuở kia cho những ai kính sợ Người, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Người. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 10, 13-16

"Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ. Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Linh đạo Kitô giáo không phải ở chỗ trưởng thành lớn lên mà là trở nên ngây thơ nhỏ bé

 

Suy Niệm

 

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy, đó là cảnh tượng "người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu". Sở dĩ nói rằng đây là một cảnh tượng hiếm hoi chưa từng thấy là vì thường dân chúng chỉ mang các bệnh nhân đến với Chúa Giêsu để được Người chữa lành thôi, hay dân chúng kéo đến với Người để nghe Người giảng dạy.

 

Hôm nay, trong bài Phúc Âm này, cho dù các em nhỏ chẳng có bệnh tật gì và chẳng hiểu Người nói gì, cũng được người lớn mang đến với Người, với mục đích được Thánh ký Marco tiết lộ là "để Người đặt tay trên chúng", thế thôi. Ở sự kiện này chúng ta thấy một sự lạ khác là trong khi những người mang các em nhỏ đến với Chúa Giêsu thì họ lại gặp phải một phản ứng bất lợi, đó là: "các môn đệ khiển trách họ".

 

Qua cuộc đụng độ bất ngờ này, một cuộc đụng độ ngoài dự tưởng của những người mang trẻ nhỏ tới với Chúa Giêsu, vì họ chỉ nhắm tới Chúa Giêsu thôi, chứ không để ý gì tới các môn đệ của Người. Không biết có ai trong họ cự lại các tông đồ hay chăng: "Ủa, chúng tôi mang con trẻ nhỏ ngây thơ vô tội đến với Thày của các ông là Đấng đầy yêu thương từng người mà tại sao các ông lại ngăn cản chúng tôi chứ?"

 

Chắc không có chuyện giả tưởng này, nhưng dầu sao cũng cho thấy hai tâm thức khác nhau, giữa dân chúng không sống gần Chúa Giêsu bằng các môn đệ của Người, song lại hiểu Người hơn các vị, thành phần như người con lớn trong dụ ngôn người cha nhân hậu dù liên lỉ ở với cha mà chẳng hiểu cha bằng người em hoang đàng của hắn.

 

Câu Chúa Giêsu can thiệp vào vụ đụng độ bất ngờ trước mặt Người bấy giờ đã cho thấy rõ ai hơn ai đối với Người liên quan tới tinh thần của Người:  "Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng".

 

Đúng thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô là thành phần người lớn, với đầy những hướng chiều và tham muốn phàm tục trong việc tranh chấp ngôi vị, như Bài Phúc Âm Thứ Ba tuần này cho thấy. Các vị coi Thầy của các vị là một Đấng uy nghi cao cả, chỉ có các vị hay thành phần giáo quyền hoặc thành phần biệt phái cùng luật sĩ hay các tư tế mới có tư cách gặp Người, hoặc những ai chính Người muốn gặp gỡ họ thôi, chứ không phải ai cũng được phép gặp Người, chẳng hạn như đám trẻ em được thành phần phụ nữ quê mùa tầm thường dẫn tới như vậy.

 

Các vị vẫn chưa hiểu được giáo huấn của Thày mình. Mới cách đó không lâu, chính Chúa Giêsu đã đích thân tìm một em bé, rồi "đem một em bé lại đặt giữa các ông, rồi ôm nó mà nói với các ông rằng: 'Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy'", thế mà các vị vẫn chưa lĩnh hội hết ý muốn của Người, nên hôm nay, trong bài Phúc Âm này, Người lại phải lợi dụng dịp này để nhắc nhở các vị.

 

Trong câu Người nói với các môn đệ trong bài Phúc Âm hôm Thứ Ba tuần này: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy" nghĩa là, như đã chia sẻ hôm Thứ Ba, "nếu các vị muốn chấp nhận Người, nhất là chấp nhận Người ở nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người, các vị phải 'hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ' (Mathêu 18:3)", thì "Nước Thiên Chúa" được Người nói trong bài Phúc Âm hôm nay chính là bản thân Người.

 

Thật vậy, hình ảnh và tác động "Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng" trong bài Phúc Âm hôm nay, không phải hay sao, đã chứng thực Người chính là "Nước Thiên Chúa" , một thực tại thần linh "là của những người giống như chúng", tức của những ai để cho Người "ôm", hoàn toàn tin tưởng vào Người, chấp nhận tất cả những gì Người tỏ ra cho họ, bằng không, một khi coi mình là người lớn, xấu hổ không để cho Người "ôm" thì họ sẽ không thể nào có thể ở trong Người và Người ở trong họ: "Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó"

 

Cảm Nghiệm

 

Linh đạo của Kitô giáo không phải là một tiến trình tiến đức lớn lên mà là nhỏ lại. Ở chỗ, Thiên Chúa càng làm chủ linh hồn thì linh hồn càng tràn đầy Chúa, khi Chúa tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian, nhờ đó thế gian nhận biết Ngài qua họ và nhờ họ.

 

Kinh nghiệm tu đức cho thấy, trong đời sống thiêng liêng của Kiô hữu, Thiên Chúa bao giờ cũng muốn làm cho linh hồn nhận biết Người, nghĩa là Ngài luôn tỏ mình ra cho họ, cho đến khi họ có thể đạt tới tầm vóc vẹn toàn của Chúa Kitô là đầu (xem Epheso 4:13,15).

 

Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng chủ động; con người chỉ làm sao đón nhận và đáp ứng. Kitô hữu trưởng thành (hay "lớn lên") trong đời sống thiêng liêng nhờ Thiên Chúa càng ngày càng sống trong họ, nơi ý nghĩ lòng muốn của họ, qua lời nói phát ngôn của họ và ở hành vi cử chỉ cùng phản ứng có tính cách thần linh của họ.

 

Thế nhưng, bởi nguyên tội, con người vốn xu hướng về "trái cấm", nghĩa là luôn xu hướng về tất cả những gì trái với ý muốn của Thiên Chúa, bởi thế, để được thừa hưởng Nước Trời, con người cần phải "hoán cải và trở nên như những trẻ nhỏ" (Mathêu 18:3), và để cứu độ con người mù quáng, chính Thiên Chúa cũng phải "ra tay uy quyền đánh tan người kiêu ngạo", cũng phải "hạ người quyền hạnh xuống khỏi vị cao" và cũng phải "để người giầu có trở về tay không" (Luca 1:51-53), nghĩa là Ngài làm cho họ phải nhỏ bé lại và làm sao biết kính sợ Ngài, như lòng thương xót Ngài đối với họ.

 

 

 

Thứ Tư Lễ Tro


Lời Chúa


 

Bài Ðọc I: Ge 2, 12-18

"Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo các ngươi".

Trích sách Tiên tri Giôel.

Bấy giờ Chúa phán: Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ. Biết đâu Người sẽ trở lại, sẽ hối tiếc và sẽ ban lại phần phúc để có của lễ hiến tế dâng lên Chúa là Thiên Chúa các ngươi?

Hãy thổi kèn lên khắp Sion, hãy ra lệnh ăn chay, triệu tập một đại lễ, quy tụ dân chúng, ra lệnh mở đại hội, tập họp các bô lão, quy tụ các thiếu nhi và các trẻ còn măng sữa. Tân lang hãy ra khỏi nhà, và tân nương hãy ra khỏi phòng. Các tư tế là những kẻ phụng sự Chúa, hãy đứng giữa cửa chính và bàn thờ mà than khóc và kêu lên rằng: Lạy Chúa, xin thương xót dân Chúa, xin đừng để cho cơ nghiệp Chúa phải hổ thẹn, đừng để các dân tộc thống trị nó. Tại sao thiên hạ dám nói rằng: "Chúa của chúng ở đâu?" Chúa đã nhiệt thành với xứ sở Người và đã tha thứ cho dân Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa (x. c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. - Ðáp.

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Cr 5, 20 - 6, 2

"Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.

Anh em thân mến, chúng tôi đây là sứ giả của Ðức Kitô, chính Thiên Chúa nhờ chúng tôi mà khích lệ anh em. Nhân danh Ðức Kitô, chúng tôi năn nỉ anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa. Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã làm Người thành thân tội vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa.

Với tư cách là những cộng sự viên của Người, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô hiệu. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến rồi, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày giải thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Tv 50, 12a và 14

Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm

 


   Sự Sống nhận biết    



Vì Mùa Chay kéo dài 40 ngày, tiêu biểu cho 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, cũng như cho 40 năm dân Do Thái băng qua sa mạc, một biểu hiệu cho hành trình đức tin của họ, "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24), từ vùng đất nô lệ Ai Cập biểu hiệu cho vùng đất của sự chết tiến về miền Đất Hứa tự do biểu hiệu cho vùng đất của sự sống, hay cũng tiêu biểu cho 40 ngày Moisen ở trên Núi Sinai để lãnh nhận Lề Luật của Chúa (xem Xuất Hành 34:38), hoặc cho 40 ngày hành trình của Tiên Tri Isaia tiến lên Núi Horeb để gặp gỡ Thiên Chúa (xem 1Kings 19:8), nên Mùa phụng vụ này cần phải bắt đầu từ Thứ Tư trước Chúa Nhật I Mùa Chay và mở đầu cho thời khoảng 5 tuần lễ Mùa Chay, và thời điểm Thứ Tư mở màn cho Mùa Chay này lại bao gồm cả nghi thức xức tro, nên được gọi là Thứ Tư Lễ Tro, một nghi thức dọn lòng cho tín hữu hiệp thông với Chúa Kitô là Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi".

Thật vậy, là Kitô hữu, qua Phép Rửa, họ đã được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô và với Chúa Kitô (xem Roma 6:3-5), Đấng đã "tự ý bỏ sự sống mình đi và có quyền lấy nó lại", vì thế và nhớ thế, "con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, tức là con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa" (Roma 6:6), trái lại, "chúng ta được sống một đời sống mới" (Roma 6:4).

Chính vì Mùa Chay là thời điểm phụng vụ cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, mầu nhiệm "vượt qua sự chết mà vào sự sống" của Người (Gioan 5:24 và xem Gioan 12:24), một mầu nhiệm theo nguyên tắc liên quan đến chính Phép Rửa Kitô giáo như vậy, và trên thực tế liên quan đến đời sống của những ai lãnh nhận Phép Rửa như thế, mà thành phần dự tòng mới được lãnh nhận Phép Rửa vào chính Đêm Vọng Phục Sinh để được tháp nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhờ đó, nhờ được hiệp thông với Cuộc Vượt Qua của Người, thành phần tân tòng Kitô hữu này mới có thể cùng với toàn thể Giáo Hội trở thành chứng nhân của Người và cho Người, cho đến khi Người lại đến.

Trong Mùa Chay, một thời điểm có thể nói như Thánh Phaolô trong Bài Đọc 2 hôm nay, "là cơ hội thuận tiện... là ngày cứu thoát", Kitô hữu sống lại cái cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô, bằng những việc làm cụ thể, bao gồm cả con người của họ, cả linh hồn và thân xác của họ, bởi họ được Chúa Kitô cứu độ trọn vẹn bản tính của họ, bao gồm cả thân xác sẽ phục sinh của họ khi Người lại đến trong vinh quang, một việc làm cụ thể chứng tỏ họ thực sự cảm nghiệm khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô và với Chúa Kitô. 

Việc làm cụ thể nhất Kitô hữu cần làm trong Mùa Chay liên quan đến cuộc khổ nạn và tử giá của Đấng "tự ý bỏ sự sống mình đi" cho phần rỗi của chung nhân loại và của từng Kitô hữu môn đệ của Người, không phải chỉ là những việc làm bề ngoài liên quan đến bộ ba tu đức Mùa Chay là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, như được liệt kê trong Bài Phúc Âm hôm nay, mà nhất là nhận biết tình yêu thương vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, và có thực hành bộ ba tu đức này Kitô hữu cũng phải thi hành làm sao với tất cả tinh thần nhận biết của mình.

Đó là lý do qua miệng Tiên Tri Joel ở Bài Đọc 1 hôm nay, Thiên Chúa đã nhắc nhở dân Ngài bao gồm cả thành phần Kitô hữu chúng ta rằng: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van. Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi. Hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa các ngươi, vì Người nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Trong câu vừa nhắc nhở vừa kêu gọi này, Thiên Chúa chẳng những đề cập đến những gì là hình thức bề ngoài như "chay tịnh, nước mắt và than van", nhưng các việc này phải bắt nguồn từ bên trong với thái độ "thật lòng trở về với Ta", một thái độ chứng thực con người nhận biết "Chúa là Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ".

Bài Đọc 2 hôm nay cũng thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã "nhân danh Đức Kitô" kêu gọi Kitô hữu Corintô trong Thư 2 của ngài "hãy làm hòa cùng Thiên Chúa". Tại sao vậy? Lý do duy nhất và chính yếu cũng xuất phát từ việc Kitô hữu nhận biết Vị "Thiên Chúa ... nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu đến độ, như Thánh Phaolô cảm nhận và khẳng định trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã biến Người thành tội lỗi vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa".

Nếu Kitô hữu quả thực nhận biết Thiên Chúa, nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta", họ mới có được một tâm tình ăn năn thống hối tuyệt vời về những gì họ đã chẳng những phạm đến Ngài mà còn bất xứng với tình yêu đầy lòng xót thương của Ngài nữa, một tâm tình của Thánh Vương Đavít trong Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn; con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con. 

4) Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, để miệng con sẽ loan truyền lời ca khen. 

Việc Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là Đấng "nhân lành và từ bi, nhẫn nại, giầu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai hoạ", Đấng "đã biến (Đức Kitô vô tội) thành tội lỗi vì chúng ta" không phải chỉ ở chỗ ăn năn thống hối về mặt tiêu cực mà thôi, còn cần phải được tỏ hiện bằng những việc tích cực thích hợp chứng thực việc nhận biết thần linh của họ nữa, những việc được chính Chúa Kitô nói đến trong Bài Phúc Âm hôm nay, cũng là những việc được Giáo Hội cho rằng rất thích hợp với Mùa Chay mà Kitô hữu không thể nào không thi hành, những việc chúng ta có thể gọi là bộ ba tu đức Mùa Chay, thứ tự là bố thí, cầu nguyện và chay tịnh, cả 3 đều phải thực hiện hoàn toàn chỉ vì "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" mà thôi.

"Bố thí" là việc làm đầu tiên trong bộ ba tu đức Mùa Chay, một hành động mà Kitô hữu cần làm trước hết và trên hết, bởi vì "bố thí" liên quan hết sức mật thiết với Lòng Thương Xót Chúa, một Lòng Thương Xót Chúa mà Kitô hữu đã được hoan hưởng một cách hoàn toàn nhưng không, nên họ cũng phải cho đi nhưng không, cũng phải san sẻ chính những gì họ cảm nghiệm thấy về Lòng Thương Xót Chúa này, như thể họ được Lòng Thương Xót Chúa đoái nhìn đến thân phận thấp hèn tội lỗi của họ thế nào thì họ cũng phải thương xót tha nhân như vậy. 

"Cầu nguyện" là việc thứ hai, sau "bố thí" và trước "chay tịnh", mà Kitô hữu cần phải làm. Bởi vì, nhờ cầu nguyện mà họ mới cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa đã được tỏ ra cho họ trong đời sống của họ, để nhờ đó và từ đó họ mới có thể "bố thí", mới có thể yêu thương như họ được thương yêu, và cũng chỉ nhờ cầu nguyện là giao tiếp với Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lý họ mới có thể sẵn sàng hiến mình cho Lòng Thương Xót Chúa như giá trả cho phần rỗi vô giá của các linh hồn tội nhân đáng thương bằng việc "chay tịnh".

"Chay tịnh" là việc thứ ba trong bộ ba tu đức Mùa Chay mà Kitô hữu cần phải thực hiện để chứng tỏ mình nhận biết tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa đối với họ, một việc "chay tịnhnhư là thành quả của việc "cầu nguyện" và là chứng thực cho việc "bố thí", một việc "bố thí" cao cả nhất và quí giá nhất và khẩn thiết nhất, đó là "bố thí" chính bản thân mình, đến độ có thể sẵn sàng "hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:28) như Chúa Kitô, nghĩa là họ đạt tới tầm mức hiệp nhất nên một với chính Lòng Thương Xót Chúa!

Căn cứ vào ý nghĩa sâu xa của bộ ba tu đức Mùa Chay và mối liên hệ bất khả phân ly của bộ ba này, có thể nói bộ ba tu đức Mùa Chay này cũng chính là linh đạo Kitô giáo. Linh đạo Kitô giáo nhắm đến đức ái trọn hảo và thể hiện đức ái trọn hảo (bố thí), ở chỗ "yêu nhau như Thày đã yêu thương các con", "thí mạng sống mình vì người mình yêu(xem Gioan 13:34;15:12,13), một đức ái trọn hảo xuất phát từ mối hiệp thông thần linh (cầu nguyện), ở chỗ "hiệp nhất nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Gioan 17:21), đến độ, "không phải tôi sống nữa (chay tịnh) mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), nhờ đó tôi mới có thể sống đức ái trọn hảo yêu nhau như Chúa yêu đến thí mạng sống mình cho nhau (bố thí). 

Thánh thi (giờ Kinh Phụng Vụ Chiều Thứ Tư Lễ Tro - trích từ Giờ Kinh Phụng Vụ)

 

Lạy Ðức Kitô, Ngài thánh hiến

Thời gian trai tịnh bốn mươi ngày,

Và cho người thế mau siêu độ

Ngài đã kêu mời phải ăn chay.

 

Giờ đây Giáo Hội đang sám hối

Xin lượng từ bi ghé mắt nhìn,

Ðấm ngực cúi đầu, than khóc tội

Ngài thương giải cứu, đỡ nâng lên.

 

Bao lỗi lầm xưa, Ngài tha thứ

Chính vì nghĩa nặng với ân sâu,

Từ đây xin Chúa thương gìn giữ

Kẻo lỡ một mai vướng tội nào.

 

Hằng năm khi đến mùa trai tịnh

Vẳng tiếng ăn năn thấm lệ nhòa

Ta hãy rửa hồn cho thanh khiết

Ðể mừng long trọng lễ Vượt Qua.

 

Vũ trụ càn khôn cùng khép nép

Tôn thờ ca ngợi Chúa Ba Ngôi

Ðoàn con nhận lãnh ơn xá tội,

Dâng khúc tân ca cảm tạ Ngài.

 

 


Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Ðnl 30, 15-20

"Hôm nay tôi đề nghị với anh em về sự chúc lành và sự chúc dữ".

Trích sách Ðệ Nhị Luật.

Môsê nói với dân rằng: Này hôm nay tôi giãi bày cho anh em về sự sống và hạnh phúc, về sự chết và bất hạnh. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy đi trong đường lối Người và tuân giữ các giới răn, những lề luật và các huấn lệnh của Người, hầu anh em được sống và tăng số, và Chúa chúc lành cho anh em trên phần đất mà anh em sẽ chiếm hữu. Nhưng nếu lòng anh em không quay về, không muốn nghe, và chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác, thì hôm nay tôi tuyên bố với anh em rằng anh em sẽ chết, không được sống trên phần đất bên kia sông Giođan mà anh em sẽ chiếm hữu. Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6

Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (Tv 39, 5a).

Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: 2 Cr 6,2b

Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ.

 

Phúc Âm: Lc 9, 22-25

"Ai bỏ mạng sống mình vì Ta, sẽ được sống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Chúa nói với mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm



  Sự Sống mất còn   


Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh, như đã đề cập từ Thứ Tư Lễ Tro hôm qua, đó là "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), rất khít khao với bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm ngay sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ hai mở đầu Mùa Chay

Thật vậy, chủ đề "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđược phản ảnh rất chính xác ngay câu Chúa Giêsu tiên báo về cuộc Vượt Qua của Người trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại".

Thế nhưng, Giáo Hội cố ý chọn Bài Phúc Âm hôm nay không phải để nhấn mạnh đến Chúa Kitô cho bằng đến Kitô hữu, thành phần đã nhờ Phép Rửa mà được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thì cũng phải sống như Chúa Kitô và với Chúa Kitô, ở chỗ, đáp ứng đúng như lời Người kêu gọi trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?"

Đúng thế, nếu "môn đệ không hơn Thày và tôi tớ không hơn chủ" (Mathêu 10:24), mà Thày và chủ đây "phải đau khổ nhiều, bị khai trừ và giết chết" thì bất cứ người môn đệ và đầy tớ nào "muốn theo Thày" của Người cũng không thế nào không "bỏ mình" và "vác thập giá mình hằng ngày mà theo" Người.

Chính Chúa Kitô cũng đã "bỏ mình" và "vác thập giá mình" ở chỗ "tuy là Con, Người cũng đã biết tuân phục ("bỏ mình"nơi những gì Người phải chịu ("vác thập giá mình")..." (Do Thái 5:8), đến độ "Người đã vâng lời cho đến chết ("bỏ mình") và chết trên thập giá ("vác thập giá mình")... " (Philiphe 2:8).

Là môn đệ của Chúa Kitô, nghĩa là thành phần được hiệp thông với cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô từ khi lãnh nhận Phép Rửa, từ khi đã chết cho con người cũ và mặc lấy Người là con người mới của họ (xem Epheso 4:22-14), Kitô hữu nào không sống với Chúa Kitô và như Chúa Kitô đã sống thì chẳng khác nào như một tên phản kitô, trong khi Người "tự bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" họ lại "muốn giữ mạng sống mình thì sẽ mất", mất Người là chính sự sống của họ và nơi họ.

Trái lại, chỉ có Kitô hữu môn đệ nào dám "mất sự sống mình" vì Người và cho Người, thì mới "được sống" vì bấy giờ "sự sống tôi đang sống không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi" (Galata 2:20), một "sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), một sự sống cao quí hơn tất cả mọi sự, hơn được "lời lãi cả thế gian" này. 

Dám "mất sự sống mình" đây, như chính gương của Người, nghĩa là Kitô hữu phải làm sao sống giống như một hạt lúa miến mục nát đi để sinh nhiều hoa trái (xem Gioan 12:24). Chính Chúa Kitô là hạt lúa miến được gieo xuống đất bằng việc nhập thể và đã mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nên đã sinh nhiều hoa trái là ơn cứu độ cho trần gian bằng cuộc phục sinh của Người.

Nếu Chúa Kitô, trước cuộc Vượt Qua của mình, đã sánh Người giống như một hạt lúa miến được gieo xuống đất cần phải bị mục nát đi để sinh nhiều hoa trái, đúng như Người đã tiên báo: "Tôi bỏ sự sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17), thì nhân của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là thần tính của Người và vỏ của của Hạt Lúa Miến Thần Linh Kitô này đây là nhân tính của Người, một nhân tính vỏ bọc bao gồm cả hồn lẫn xác của Người đã thực sự bị mục nát đi nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, nhờ đó thần tính nhân trung của Người đã được rạng ngời tỏ hiện nơi cuộc phục sinh vinh hiển của Người.

Cũng thế, hạt lúa miến Kitô hữu cũng cần phải bị mục nát đi trong lòng đất thế gian, trong cuộc đời của họ, không phải mục nát ở nhân mà là ở vỏ bọc. Nhân của hạt lúa miến không thể nào nẩy mầm và mọc lên nếu vỏ của nó không bị mục nát đi, nghĩa là không mở ra thế nào, thì nhân trung Chúa Kitô nơi hạt lúa miến Kitô hữu cũng chỉ hoàn toàn nẩy nở và phát triển cho khi đạt đến tầm vóc thành toàn của Người là Đầu nơi họ (xem Epheso 4:13-15), ở chỗ cái vỏ nhân tính nơi hạt lúa miến Kitô hữu mục nát đi, bằng việc h hoàn toàn tín thác vào tình yêu vô cùng nhân hậu của Chúa Kitô là Đấng đang sống trong họ và muốn tỏ mình ra cho họ và qua họ cho thế gian.

Chiều hướng "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", như vừa cảm nghiệm ngay ở đoạn trên đây, một từ bỏ không phải là tự diệt mà chính là việc sự sống tự bản tính là những gì bất diệt sẽ vĩnh viễn tồn tại và phát triển nơi bản thân Kitô hữu và trong cuộc đời của họ, cũng đã được sáng tỏ ở nội dung của Bài Đọc 1 hôm nay, qua lời của Moisen nhắn nhủ và kêu gọi dân Do Thái được Sách Đệ Nhị Luật ghi lại như sau:

"Hôm nay, tôi xin trời đất làm chứng rằng: tôi đã đề nghị với anh em về sự sống và sự chết, sự chúc lành và sự chúc dữ. Vậy hãy chọn lựa sự sống để anh em và dòng dõi anh em được sống. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa anh em, hãy tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em, để anh em được ở trong đất nước mà Chúa đã hứa ban cho tổ phụ anh em là Abraham, Isaac và Giacóp".

Đúng thế, "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống", theo Bài Đọc 1 hôm nay, là ở chỗ không sống bản tính tự nhiên đã bị băng hoại theo nguyên tội, một bản tính đã chất chứa đầy những mầm mống chết chóc và liên lỉ xu hướng về chết chóc, như Bài Đọc 1 diễn tả: "chạy theo lầm lạc, thờ lạy và phụng sự các thần khác", trái lại, sống đúng như những gì Thiên Chúa muốn, ở chỗ "tuân phục lệnh Người và liên kết với Người, vì Người là sự sống và là sự sống lâu dài của anh em".

Bài Đáp Ca hôm nay phản ảnh nội dung của Bài Đọc 1 về cả thành phần "công chính" liên quan đến "sự sống" và "chúc lành" lẫn thành phần "gian ác" liên quan đến "sự chết" và "chúc dữ", hai thành phần tiêu biểu này hoàn toàn hợp với những lời Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: "ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống": 

1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. 

2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. 

3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. 



Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 1-9a

"Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn không?"

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ngươi hãy hô to, và đừng ngừng tiếng; hãy làm cho tiếng ngươi vang dội như tiếng kèn, và loan báo cho dân Ta biết sự bất trung của họ, cho nhà Giacóp biết tội lỗi của nó. Vì hằng ngày họ tìm kiếm Ta, và ước mong biết đường lối Ta, như một dân tộc thực hiện công lý và không bỏ lề luật Chúa. Họ hỏi Ta về quy tắc công lý và ước mong đến gần Thiên Chúa: "Tại sao chúng con ăn chay mà Chúa không thấy? Tại sao chúng con hãm mình mà Chúa không hay biết?" Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không? Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là huỷ bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: "Này Ta đây".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 5-6a. 18-19

Ðáp: Lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung (c. 19b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. - Ðáp.

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33,11

Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống".

 

Phúc Âm: Mt 9, 14-15

"Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Ðó là lời Chúa. 



Suy niệm

 

  

   Sự Sống chay tịnh   


Hôm nay, Thứ Sáu, sau Thứ Tư Lễ Tro, ngày thứ ba của Mùa Chay, Chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) vẫn tiếp tục phản ảnh nơi bài Phúc Âm hôm nay, một bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu chỉ có vỏn vẹn 2 câu, một bài Phúc Âm ngắn nhất trong các bài Phúc Âm trong phụng niên, giống như Bài Phúc Âm Thứ Bảy Tuần 2 Thường Niên theo Thánh Marco cũng chỉ có 2 câu (3:20-21)

Hai câu của Bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu hôm nay nguyên văn đó là: "Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: 'Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?' Chúa Giêsu nói với họ: 'Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay'".

Qua câu trả lời này của mình, Chúa Giêsu chẳng những tự nhận Người như là một "tân lang" và Người so sánh các môn đệ của Người như là "các khách dự tiệc cưới", mà Người còn sâu xa ám chỉ đến lời tiên báo khẳng định về ý định liên quan tới số phận đóng vai trò cứu độ của Người nữa: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại", ở chỗ "rồi sẽ có ngày tân lang ra đi".

Như Bài Phúc Âm cho ngày thứ hai ở ngay đầu Mùa Chay hôm qua là Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro, lời tiên báo về cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô bao gồm cả việc bỏ mình và vác thập giá mà theo Người nơi các môn đệ của Người, bài Phúc Âm cho ngày thứ ba ở đầu Mùa Chay hôm nay là Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro cũng thế, chẳng những liên quan đến số phận khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô mà còn đến cả ơn gọi hiệp thông cứu độ với Người của các môn đệ theo Người nữa: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay".

Thật vậy, nếu "ngày tân lang ra đi" đây là thời điểm Người cần phải lìa bỏ các môn đệ của Người để hoàn thánh ý muốn của Đấng đã sai Người bằng một cuộc khổ nạn và tử giá của Người, một cuộc khổ nạn và tử giá hoàn toàn trái với tất cả những gì thành phần môn đệ của Người nói riêng và dân Do Thái nói chung vốn trông đợi ở nơi một Đấng Thiên Sai đầy quyền năng và thế lực thần linh như Người.

Trong khi chung dân Do Thái và riêng các môn đệ của Chúa Kitô mong đợi một Đấng Thiên Sai, như thời các Quan Án sau khi vào Đất Hứa và trước thời Chư Vương xưa, đến để giải thoát dân tộc của họ khỏi tình trạng bị đô hộ bởi Đế quốc Roma bấy giờ thì Người, Đấng bị đóng đinh với tư cách trước chính quyền Roma là "Vua Dân Do Thái" lại không thể nào xuống khỏi thập giá và không thể nào tự cứu được bản thân mình (xem Mathêu 27:37-44).

Vấn đề và cốt lõi của việc chay tịnh nơi các môn đệ Chúa Kitô: "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, trước hết và trên hết là ở chỗ đó, là ở chỗ các vị, về mặt tiêu cực, cần phải chấp nhận tất cả những gì hoàn toàn trái với ý nghĩ và ý muốn của các vị về vị Đại Sư Phụ vô cùng kính mến của các vị. Chưa hết, "bấy giờ họ mới giữ chay" đây, về mặt tích cực, còn ở chỗ, các vị cần phải tuyệt đối tin tưởng vào Người, dù phải xa Người, không còn được gần gũi với Người về thể lý nữa, như thể các vị đã bị mất đi những gì chính yếu nhất của con người các vị và cho cuộc đời các vị.

Thế nhưng, chính việc "bấy giờ họ mới giữ chay" này lại một điều kiện tối cần bất khả thiếu để các vị có thể không bao giờ xa Người nữa, mất Người nữa, trái lại, còn gần Người hơn bao giờ hết, còn hiệp nhất nên một với Người hơn ai hết, như lời Người quả quyết trong Bài Phúc Âm hôm qua "ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống". 

Việc các môn đệ của Chúa Kitô "bấy giờ họ mới giữ chay" vào "ngày tân lang ra đi", một cuộc "ra đi" với một trong những mục đích "là để dọn chỗ cho các con để Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày" (Gioan 14:3)chính là việc các vị "mất mạng sống vì Ta", nghĩa là việc các vị tiếp tục tin tưởng vào Người, ở chỗ chờ đợi Người và sẵn sàng theo Người cho tới cùng: "Họ theo Con Chiên đi đến những nơi Con Chiên tới" (Khải Huyền 14:4), như vị đệ nhất môn đệ là Đức Maria Mẹ của Người ở dưới chân cây thập giá của Người (xem Gioan 19:25).

Ý nghĩa của việc chay tịnh có tính cách tích cực theo chiều hướng cứu độ như nơi trường hợp của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm nay cũng là những gì chính yếu đã được nhấn mạnh đến trong Bài Đọc 1 hôm nay, trong đó, qua miệng của Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa đã  khiển trách dân Do Thái về kiểu cách bất xứng trong việc họ chay tịnh khiến việc chay tịnh của họ chẳng những trở thành vô hiệu mà còn làm mất lòng Chúa nữa. 

"Phải, trong ngày ăn chay, các ngươi lo dàn xếp công việc làm ăn, các ngươi hối thúc mọi người làm công. Phải, các ngươi ăn chay trong sự cãi vã, ẩu đả và đánh nhau hung tợn. Các ngươi đừng ăn chay như xưa nay, là cố la lớn tiếng cho người ta nghe. Có phải đó là việc ăn chay mà Ta mong muốn, có phải như thế là ngày hãm mình không? Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không?" 

Thiên Chúa không phải chỉ khiển trách dân Do Thái về việc ăn chay bất xứng và vô dụng của họ, Ngài còn cho họ biết việc chay tịnh theo đúng như ý Ngài muốn như thế nào nữa, nhờ đó, họ mới có thể được sống và sống viên mãn hơn, như Ngài tiếp tục phán dạy họ qua Tiên Tri Isaia như sau:

"Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là hủy bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình. Như thế, sự sáng ngươi tỏ rạng như hừng đông, các vết thương ngươi sẽ lành nhanh chóng; công lý ngươi sẽ đi trước mặt ngươi, vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho ngươi. Như thế, khi ngươi kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; ngươi la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'".

Ý nghĩa và mục đích của việc chay tịnh không phải là tự diệt, là sự chết mà là phát triển, là sự sống, theo ý nghĩa gắn liền với những gì là vui tươi, như "xức dầu thơm trên đầu" được Chúa Giêsu dạy các môn đệ trong Bài Phúc Âm Thứ Tư Lễ Tro, có nghĩa là bảnh bao như hình ảnh của "tân lang", hình ảnh của "các khách dự tiệc cướiđược Chúa Giêsu sử dụng trong Bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho vấn đề chay tịnh được "các môn đệ của Gioan" đặt ra hỏi Người về lý do "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?"   

Bởi thế, bất cứ thứ chay tịnh nào không mang lại sự sống đều là tác hại và giả dối, cần phải loại bỏ. Đó là lý do thứ chay tịnh mang tính cách tích cực đúng như Thiên Chúa muốn, như Ngài phán dạy trong Bài Đọc 1 hôm nay, mới làm cho những ai thực hành thứ chay tịnh chính đáng này "tỏ rạng như hừng đông, các vết thương (của họ) sẽ lành nhanh chóng; công lý (của họ) sẽ đi trước mặt (họ), vinh quang Chúa sẽ hậu thuẫn cho (họ). Như thế, khi (họ) kêu cầu, Chúa sẽ trả lời; (họ) la lên, Chúa sẽ phán: 'Này Ta đây'". 

Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa tâm tình ăn năn thống hối tội lỗi của Vua Đavít trong Thánh Vịnh 50 của vua, trong đó, cũng cho thấy nếu việc chay tịnh hướng đến ơn cứu độ thì không thể không dính liền với lòng thống hối ăn năn, một tấm lòng thống hối ăn năn, tự bản chất của nó, cũng là việc chay tịnh căn bản nhất và cần nhất nơi những ai muốn được cứu độ, một việc chay tịnh đẹp lòng Chúa còn hơn cả chính "lễ toàn thiêu" nữa, vì việc chay tịnh này được thực hiện với tất cả "tâm hồn tan nát khiêm cung".

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. 

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. 

3) Bởi vì Chúa chẳng ưa gì sinh lễ, nếu con dâng lễ toàn thiêu, Chúa sẽ không ưng. Của lễ con dâng, lạy Chúa, là tâm hồn tan nát; lạy Chúa, xin đừng chê tấm lòng tan nát khiêm cung. 


 

Thứ Bảy sau Thứ Tư Lễ Tro


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 58, 9b-14

"Ngươi hãy ca tụng Chúa khi ngươi bỏ đường lối của ngươi".

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán: "Nếu ngươi loại bỏ ra khỏi tâm hồn sự đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc; khi ngươi hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái, thì sự sáng của ngươi xuất hiện trong tối tăm và tối tăm sẽ trở nên như giữa ban ngày. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươi, những điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi. Thiên hạ sẽ gọi ngươi là "kẻ tu bổ những chỗ sứt mẻ, kẻ tu bổ lại đường lối nơi cư ngụ".

"Nếu ngươi không tự tiện đi đường xa trong ngày Sabbat là ngày thánh, và ngươi coi ngày Sabbat là ngày hạnh phúc, ngày thánh, ngày hiển vinh của Thiên Chúa; nếu ngươi bỏ công ăn việc làm và những cuộc bàn tính mưu lợi mà ca tụng Chúa, thì ngươi sẽ được hoan lạc nơi Thiên Chúa, và Ta sẽ đưa ngươi lên làm chủ các núi đồi, Ta cho ngươi thừa hưởng gia nghiệp của Giacóp, tổ phụ ngươi, vì chính Chúa đã phán".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 85, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy con đường lối Chúa, để con sống theo chân lý của Ngài (c. 11a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. - Ðáp.

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài. - Ðáp.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4, 4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 

Phúc Âm: Lc 5, 27-32

"Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: "Hãy đi theo Ta". Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài. Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: "Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?" Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải".

Ðó là lời Chúa.



Suy niệm


    

Sự Sống cứu độ 

 

Thứ Bảy hôm nay, ngày thứ ba sau Thứ Tư Lễ Tro, cũng là ngày thứ tư khi mở đầu Mùa Chay, chủ đề của Mùa Chay bao gồm cả Tuần Thánh "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" (Gioan 10:17) được phản ảnh trong bài Phúc Âm hôm nay, liên quan đến thành phần tội nhân và lòng thống hối ăn năn.

Thật vậy, nếu "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lại" cho nhân loại thì, trước hết và trên hết, là cho những ai xứng đáng với giá cứu chuộc vô giá của Người và sự sống đời đời Người ban tặng. 

Tất nhiên người xứng đáng lãnh nhận mạng sống vô cùng quí báu của Chúa Kitô đã trở thành giá cứu chuộc vô giá cho nhân loại đó chính là và phải là thành phần tội nhân, thành phần bệnh nhân, chứ không phải thành phần công chính, thành phần lành mạnh, tức là thành phần tự cho mình là công chính, tự cho mình là lành mạnh, không cần đến thày thuốc, như chính Người khẳng định và tuyên bố ngay trước mặt "những người biệt phái và các luật sĩđang hiện diện trong "bữa tiệc linh đình thiết đãi Người tại nhà (Levi)" là viên thu thuế đã được Người kêu gọi "Hãy đi theo Tavà cũng đã "liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người": 

"Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải". Như chính việc Người kêu gọi viên thu thuế Levi, việc Người vào nhà của tên tội nhân này và nhất là việc Người đồng bàn với thành phần tội nhân trong số thân nhân bạn hữu của chàng Levi này là một bằng cớ hùng hồn chứng thực lời Người công khai tuyên bố ấy.

Vấn đề hay đề tài chính của phụng vụ Lời Chúa hôm nay, bao gồm cả Phúc Âm lẫn Bài Đọc 1, là lòng thống hối ăn năn, một vấn đề cũng là đề tài rất thích hợp với Mùa Chay, rất hợp với chủ đề của Mùa Chay: "Tôi bỏ mạng sống mình đi để lấy nó lạiđể cho những ai đáng thương (tội nhân) nhưng xứng đáng (thống hối).

Đúng thế, nếu vấn đề hay đề tài bỏ mình của ngày Thứ Năm sau Thứ Tư Lễ Tro và vấn đề hay đề tài chay tịnh của ngày Thứ Sáu sau Thứ Tư Lễ Tro áp dụng hầu như cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô, thì vấn đề hay đề tài thống hối ăn năn ở chung Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay cũng như ở riêng Bài Phúc Âm hôm nay là những gì áp dụng cho chung tất cả mọi người, bao gồm cả những con người chưa phải là môn đệ của Chúa Kitô. 

Tuy nhiên, thậm chí là cho thành phần môn đệ của Chúa Kitô trên danh nghĩa đi nữa, nhưng trong thực tế vẫn sống mâu thuẫn với danh phận làm môn đệ của mình, họ sống như thể họ không phải là người theo Chúa Kitô, vì họ tự cho mình là công chính, tức là họ đã tỏ ra không cần đến Chúa Kitô nữa

Bởi thế, không thể nào có vấn đề bỏ mình và chay tịnh để theo Chúa Kitô, để được hiệp thông cứu độ với Người, mà lại mang tâm trạng cho mình là công chính, không cần đến Chúa Kitô, không cần đến ơn cứu độ của Người, nếu trước hết và trên hết không có lòng thống hối ăn năn, không biết mình cho dù đã được cứu độ nhưng vẫn phải được tiếp tục cứu độ cho đến cùng, tức là bền đổ cho đến cùng mới được cứu độ (xem Mathêu 24:12)

Thật ra, khi lãnh nhận Phép Rửa, cho dù vô thức, như khi còn là một em bé sơ sinh, hay khi là người lớn song vẫn chưa ý thức trọn vẹn ý nghĩa của Phép Rửa, thì tự việc lãnh nhận Phép Rửa này của họ, đã là một lời tuyên xưng tôi là kẻ có tội vô cùng khốn nạn đáng thương, và tôi cần đến Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất ban ơn cứu độ cho tôi.

Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ, sau khi trở thành Kitô hữu rồi, sau khi đã được thanh tẩy cho khỏi nguyên tội và được thánh hóa bởi Thánh Linh rồi, trong cuộc sống đức tin, có một số tâm hồn lại tỏ ra hãnh diện về đời sống đạo đức tốt lành của mình, đến độ khinh bỉ người khác, nhất là đối với những người anh chị em sống khô khan nguội lạnh, sống tội lỗi bê tha, như thể họ cho rằng họ nên công chính là do công khó của họ chứ không phải là nhờ ơn Chúa.

Việc tự cho mình là công chính của thành phần Kitô hữu sau Phép Rửa này có thể nói là việc họ tự tử thiêng liêng, ở chỗ họ ngấm ngầm cho mình là cùng đích của họ, là master làm chủ họ, là thày của họ chứ không phải là Thày Kitô, không còn Thày Kitô nào khác ngoài chính bản thân tự công chính của họ, nghĩa là họ tự chặt mất đầu của họ là Chúa Kitô, họ tự thắt cổ của mình làm cho cả cơ thể của họ không còn hiệp thông với luồng khí Thần Linh trong cơ thể của họ nữa.  

Không phải việc bác bỏ cảm nhận tự cho mình là công chính, hay nói cách khác, không phải việc bác bỏ tính cách lập công trong việc mình làm, mà chúng ta trở thành những Kitô hữu duy tín, nghĩa là những Kitô hữu chỉ cần tin là được cứu rỗi, không cần phải làm gì nữa, kẻo những công việc Kitô hữu làm, hay những gì họ gọi là "công nghiệp" ấy sẽ làm mất đi hay giảm bớt đi giá trị vô cùng cao cả của công nghiệp Chúa Kitô. Trái lại, chính vì "đức tin thể hiện qua đức ái" (Galata 5:6) nên "đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Giacôbê 2:14). 

Thế nhưng việc làm của đức tin nơi Kitô hữu đây, không thể nào thiếu đây, tự nó không mang tính cách lập công để chiếm thưởng, cho bằng tính cách con người cần phải có những việc làm cụ thể và thích đáng trong việc đáp ứng tác động thần linh, đáp ứng Thánh Sủng, đáp ứng Đức Ái, đáp ứng Sự Sống Thần Linh, một Sự Sống Thần Linh đã được ban cho Kitô hữu khi họ lãnh nhận Phép Rửa, và như một mầm sống thần linh cần phải được nẩy mầm và triển nở nơi một con người thích đáng như là một mảnh đất tốt.  

Chính Thánh Sủng, chính Đức Ái, chính Thánh Linh ở nơi Kitô hữu mới là nguyên nhân chính, mới là nguyên động lực chính, mới là tác nhân chính làm cho Kitô hữu nên công chính, chứ không phải tự nguyên việc làm của họ, chứ không phải do công lao họ lập được, để rồi nhờ đó họ cũng mới thực sự được nên công chính, và càng ngày họ càng nên công chính hơn nữa khi họ biết hưởng ứng và có những đáp ứng thần linh một cách cân xứng, nhất là khi họ biết chia sẻ và truyền đạt những gì họ lãnh nhận cho tha nhân, cho đồng đạo, để xây dựng công ích, để phát triển Nhiệm Thể Chúa Kitô

Mảnh đất nhân tính của họ không thể nào trở thành một cây mọc lên xum xuê nếu nhân tính ấy không có hạt giống đức tin, hạt giống thần linh gieo vào. 

Bài Đọc 1 hôm nay cũng cho thấy chiều hướng đáp ứng thần linh tích cực đầy hiệu quả, ở chỗ sống chia sẻ bác ái yêu thương: "hết lòng quảng đại với người đói khát, làm cho tâm hồn đau khổ được thư thái", chứ không phải thái độ bất cần của một kẻ tự cho mình là công chính, một thái độ hoàn toàn phản chứng yêu thương: "tâm hồn đàn áp, cử chỉ đe dọa và những lời nói hiểm độc", có tính chất thui chột và tự diệt.  

Nhờ các đáp ứng thần linh mang tính cách bác ái yêu thương như thế nơi những tâm hồn sống trong sự thật, mà tâm hồn của họ càng trở nên công chính và cuộc đời của họ càng phát triển cho đến tầm mức hoàn hảo theo tác động thần linh của Thiên Chúa, như những gì được Tiên Tri Isaia ám chỉ bằng những hình ảnh tươi sáng trong Bài Đọc 1 hôm nay: 

"Thiên Chúa sẽ luôn luôn ban cho ngươi được thảnh thơi, cho tâm hồn ngươi tràn ngập ánh sáng huy hoàng, cho xương cốt ngươi được mạnh mẽ, và ngươi sẽ như cánh vườn xinh tươi, như nguồn suối nước không bao giờ khô cạn. Nhờ ngươinhững điêu tàn ngày xưa sẽ được tái thiết, ngươi sẽ gầy dựng lại nền tảng dòng dõi ngươi".

Tâm tình của thành phần cho mình là một tội nhân đáng thương nếu chân thành nhìn nhận mình như một kẻ khốn cùng cần được cứu độ và đáng được Vị Thiên Chúa từ bi thương xót cứu độ sẽ vang lên những lời nguyện đầy tin tưởng của Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa, xin ghé tai, xin nhậm lời con, vì con đau khổ và cơ bần. Xin bảo toàn mạng sống con vì con hiếu thảo với Ngài, xin cứu vớt người bầy tôi đang cậy trông vào Chúa. 

2) Ngài là Thiên Chúa của con, xin thương con, lạy Chúa, vì con ân cần kêu van Ngài. Nguyện cho bầy tôi Chúa được hân hoan, vì lạy Chúa, con vươn hồn lên tới Chúa. 

3) Lạy Chúa, vì Chúa nhân hậu và khoan dung, giàu lượng từ bi với những ai kêu cầu Chúa. Lạy Chúa, xin nghe lời con khẩn nguyện, và quan tâm đến tiếng con van nài.