"Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một
vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, con cái Israel đi
đến hoang địa Sinai, và đóng trại ở đó. Israel cũng dựng nhà xếp trên triền
núi. Còn Môsê thì lên cùng Thiên Chúa. Từ trên núi, Chúa gọi ông và bảo:
"Ngươi hãy nói với nhà Giacóp và thông báo cho con cái Israel thế này: Chính
các ngươi đã thấy những gì Ta làm cho người Ai-cập. Ta đã mang các ngươi
trên cánh phượng hoàng và đem các ngươi đến với Ta. Từ nay, nếu các ngươi
nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách
biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của Ta. Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một
vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 99, 2.
3. 5
Ðáp:Ta là dân
tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Xướng: 1) Hãy phụng sự Chúa với niềm
vui vẻ, hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. - Ðáp.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa,
chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là
dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. - Ðáp.
3) Vì chưng Chúa thiện hảo, lòng từ bi
Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín còn tới muôn muôn thế hệ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 5,
6-11
"Nếu chúng ta được giao hoà cùng
Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự
sống của Ngài".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín
hữu Rôma.
Anh em thân mến, Chúa Kitô theo kỳ hẹn
đã chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay người công chính,
hoạ chăng có những người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình
yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân,
thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Vậy phương chi bây giờ,
chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ
được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng, nếu khi chúng ta còn là thù nghịch,
mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì
huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của
chính Chúa Kitô, và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên
Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được
lãnh ơn giao hoà.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 64b
và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời
của Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 36 -
10, 8
"Sau khi triệu tập mười hai môn đệ,
Người sai các ông đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ dân
chúng, liền động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con
chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng,
mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người liền triệu tập mười hai môn
đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa
lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Ðây là tên của mười hai tông đồ: trước hết là
Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê em ông; Giacôbê con của Giêbêđê và
Gioan em ông; Philipphê và Bartôlômêô; Tôma và Matthêu người thu thế;
Giacôbê con của Alphê và Tađêô; Simon người Cananêô và Giuđa Iscariốt, kẻ
nộp Người. Chúa Giêsu sai mười hai ông này đi và truyền lệnh cho các ông
rằng:
"Các con đừng đi về phía dân ngoại, và
đừng vào thành các người Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng
chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: "Nước Trời đã đến
gần". Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và
xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Căn cứ vào Bài Phúc Âm của Thánh Mathêu hôm nay, chúng ta thấy mấy điểm có
thể được suy diễn sau đây: 1- Thánh Mathêu có lẽ là người môn đệ cuối cùng
trong số các vị tông đồ, bởi biến cố ngài được chọn ở gần đầu đoạn 9, còn
Phúc Âm hôm nay về việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 tông đồ và sai các vị ra đi
lại bắt đầu ở cuối đoạn 9 của bài Phúc Âm hôm nay; 2- Vậy khi Chúa Giêsu bắt
đầu công bố và loan báo Hiến Chương Nước Trời là Bài Giảng Phúc Đức Trọn
Lành Trên Núi, bao gồm 3 đoạn 5-6-7, bấy giờ chưa có tông đồ Mathêu, trong
khi đó Hiến Chương Nước Trời được Chúa Giêsu loan truyền cho riêng các môn
đệ của Người, như để sửa soạn hành trang truyền giáo của các vị tông đồ sẽ
được Người chọn làm tông đồ, để trở thành chứng nhân tiên khởi của Người, và
nhờ đó trở thành nền tảng cho Giáo Hội của Người.
Đọc bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có cảm tưởng là lý do chính yếu các tông
đồ được Chúa Giêsu chọn làm 12 vị tông đồ của Người xuất phát từ cảm xúc của
Người đã "động lòng thương" dân chúng"vì họ tất
tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn",nghĩa
là phải đáp ứng nhu cầu cần có người chăn của họ và cho họ, là chính thành phần "thợ
gặt", nên sau đó Người đã khuyên các môn đệ nói chung rằng: "Các
con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa". Chẳng những thế, chẳng những
các môn đệ phải cầu xin mà còn phải đích thân dấn thân làm "thợ gặt" nữa,
khi được chọn và sai đi.
Đúng thế, các tông đồ được chọn, trước hết và trên hết, là để được sai đi
đến với nhân loại, đúng như ý nghĩa của danh xưng "tông đồ", về ngôn ngữ
theo tiếng Hy Lạp, là được sai đi. Không phải hay sao, sau khi chọn 12 trong
số các môn đệ của mình, trong đó có tông đồ Giuđa, vị sau này được người môn
đệ tên là Mathias thay thế, Chúa Giêsu đã sai các vị lên đường
liền. Thành phần 12 tông đồ này, so với vai trò của chung các môn đệ, có thể
nói, là thành phần môn đệ full time, lúc nào cũng theo Thày, cũng ở với
Người, nhờ đó mới tận mắt chứng kiến các việc Người làm, và tai các vị mới
nghe thấy hết các giáo huấn của Người, Đấng huấn luyện riêng các vị, để nhờ
thấm nhuần Người, các vị mới có thể làm chứng về Người. Bằng không, các vị
không đủ kiến thức và cảm nghiệm về Người để mà làm chứng như Người mong
muốn.
Trong việc tuyển chọn các tông đồ này để sai các vị đi ở Phúc Âm Thánh
Mathêu hôm nay, so với 72 môn đệ cũng được Chúa Kitô sai đi trong Phúc Âm
Thánh Luca (10:1-23), chúng ta thấy các môn đệ không được chọn đặc biệt như
các tông đồ, và vì thế các vị không được kể tên như từng vì tông đồ. Phải
chăng vì thế mà trong Thánh Lễ, vị chủ tế phải đọc tên vị chủ chiên trong
Giáo phận của mình, vì các ngài là thành phần thừa kế các tông đồ có tên
đàng hoàng?
Tông Đồ đoàn 12 vị được Chúa Giêsu cố ý tuyển chọn chỉ bằng ấy thôi, không
hơn không kém ấy, là để các vị lãnh đạo một dân mới, dân Tân Ước, một dân
bao trùm toàn thể nhân loại, trong đó có cả dân Do Thái Cựu Ước, xuất phát
từ 12 tổ phụ làm nên dân tộc Do Thái, dân được Thiên Chúa chọn để tỏ mình ra
trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ, cho đến tột đỉnh của mạc khải thần
linh là khi Con Ngài nhập thể làm người và vượt qua, một Ơn Cứu Độ vô cùng
cao quí cần phải được ký thác cho Giáo Hội của Chúa Kitô, và qua Giáo Hội,
ban cho nhân loại cho đến tận thế, bởi các thành phần tư tế thừa tác, từ 12
vị tông đồ đến các vị thừa kế, những vị có thẩm quyền phục vụ Giáo Hội, ở
chỗ quản trị, giảng dạy và thánh hóa.
Tuy nhiên, vai trò thừa tác của các vị có thẩm quyền này, trước hết và trên
hết, có liên quan mật thiết bất khả phân ly với bản thân của các vị, trong
sứ vụ làm chứng của các vị, như trong chính lệnh truyền phục sinh của Chúa
Kitô: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy các con hãy đi tuyển
mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân nước, và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần, rối giảng dạy cho họ những gì Thày đã truyền cho các con"
(Mathêu 28:18-20). Nơi lệnh truyền phục sinh này, chúng ta thấy bao gồm sứ
vụ chứng nhân trước vai trò thừa tác: chứng nhân cần phải tỏ hiện trước, để
nhờ đó, họ mới có thể làm cho thế gian nhận biết Chúa Kitô, sau đó mới tới
vai trò thừa tác, trong việc họ thánh hóa và giảng dạy cho những ai "tin
và chịu phép rửa" (Marco 16:16).
Như thế, sứ vụ truyền giáo đích thực của 12 vị tông đồ chỉ được chính thức
hóa theo Lệnh Truyền Phục Sinh của Chúa Kitô, nhưng chỉ được bắt đầu sau
biến cố Thánh Thần Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Giáo Đô Giêrusalem của
Do Thái giáo, nơi Chúa Kitô Vượt Qua và Thăng Thiên, như thể Kitô giáo xuất
thân từ Do Thái giáo, nhưng để kiện toàn Do Thái giáo, và như mạc khải Cựu
Ước được nên trọn nơi mạc khải Tân Ước, nơi Chúa Kitô là tất cả mạc khải
thần linh của Thiên Chúa và về Thiên Chúa, "Đấng Trung Gian duy nhất
giữa Thiên Chúa và nhân loại" (1Timotheu 2:5),và
chính vì thế mà:"Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu
độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân
loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ."(Tông
Vụ 4:12).
Nếu sứ vụ làm chứng của 12 vị tông đồ được Chúa Kitô tuyển chọn trong bài
Phúc Âm hôm nay chỉ xẩy ra sau Lệnh Truyền Phục Sinh và Thánh Thần Hiện
Xuống, thì việc Chúa Kitô sai các vị đây, ngay sau khi tuyển chọn các vị,
không phải là để các vị làm chứng, mà là để các vị "đi gặt lúa"
thôi, một ruộng lúa đã chín và đã tới mùa gặt, rất cần đến thợ gặt như các
vị, đó là chính dân Do Thái là thành phần như lúa đã chín, nghĩa là đã tin
vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, vị "Thiên Chúa của Abraham, của
Issac và của Giacóp" (Xuất Hành 3:15), Đấng đã tỏ mình ra cho họ dọc
suốt giòng lịch sử của họ, giờ đây, họ chỉ cần tiếp tục tin vào Ngài nơi Con
của Ngài là nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét đã được Thánh Kinh Cựu Ước tiên
báo "sinh bởi một trinh nữ" (Isaia 7:14 - Mathêu 1:20-23), sinh từ
giòng dõi Đavít (2Samuel 7:12-16 - Luca 1:31-33), và sinh "tại Belem Xứ
Giuđa" (Mica 5:1 - Luca 2:4-7).
Ngoài ra, "lúa chín" đây còn ám chỉ là dân Do Thái chẳng những tin
vào Thiên Chúa, và cũng chính vì tin vào Ngài, Đấng luôn sai một vị cứu tinh
đến với họ trong những lúc họ bị làm tôi cho quyền lực ngoại bang, như họ
đang bị đế quốc Roma đô hộ, rất cần đến một Đấng Thiên Sai, một Messiah để
giải phóng họ. Tuy nhiên, họ vừa là "lúa chín đầy đồng" đồng thời
cũng lại là "những con chiên lạc nhà Israel", bởi khi Đấng Thiên
Sai thực sự đến với họ, thì họ chẳng những không tiếp nhận Người, trái lại,
còn ra tay sát hại Người nữa.
Đó là lý do các vị tông đồ, trước khi lên đường, được Chúa Giêsu dặn dò
rằng: "Các con đừng đi về phía dân ngoại, và đừng vào thành các người
Samaritanô. Nhưng tốt hơn, các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel
trước đã, và rao giảng rằng: 'Nước Trời đã đến gần'".Có
nghĩa là đối tượng và mục tiêu quí vị nhắm tới trong lần ra đi đầu tiên này,
lúc Chúa Kitô vẫn còn ở với các vị, đó là chính dân Do Thái, chứ không phải
dân ngoại, như sau này. Và các vị "gặt"lúa đây, bằng
cách dọn đường cho Chúa Kitô đến. Như thế, lần được sai đi đầu tiên này là
các vị đi trước Chúa Kitô, và lần sau khi Chúa Kitô Phục Sinh và Thăng Thiên
là các vị đi sau Chúa Kitô, các vị cùng với Thánh Linh tiếp tục sứ vụ của
Chúa Kitô và hoàn tất sứ vụ của Người "cho đến tận cùng trái đất"
(Tông Vụ 1:8).
Nếu sau khi"lãnh nhận được quyền lực từ trên cao khi Thánh
Thần hiện xuống" (Tông Vụ 1:8), các tông đồ rao giảng tin mừng là Nước
Trờiđãđến, có nghĩa là Ơn Cứu Độ nơi
Chúa Kitô Vượt Qua đã được hoàn tất thế nào, thì lần được sai đi trước Chúa
Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay để đến với "con chiên lạc nhà Israel"
này, các vị mới cần phải loan báo sứ điệp tin mừng "Nước Trời đã đến gần"
hay "Nước Trời đã gần đến",
tức "Nước Trời" chưa đến, đúng hơn "đã đến" nơi việc Nhập Thể của
Con Thiên Chúa làm người, và vì thế đã "gần đến hay đến gần" khi
tới giờ của Người sắp sửa tới, một "Nước Trời" là tất cả mạc khải
thần linh của Thiên Chúa được hoàn toàn tỏ hiện nơi Chúa Kitô Vượt Qua,
nhưng họ cần phải tin vào Người mới được thừa hưởng "Nước Trời"
này, một "Nước Trời" mà mảnh "Đất Hứa" Thiên Chúa ban cho
họ, nơi "chảy sữa và mật" (Xuất Hành 3:8,3:17,13:5,33:3...), ám chỉ
"sự sống và sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), Thiên Chúa muốn ban
cho chung loài người, qua Giáo Hội Chúa Kitô.
Và chính vì các tông đồ được sai đến với thành phần "chiên lạc nhà Israel"
để loan báo "Nước Trời đã đến gần / gần đến", mà "Nước Trời" đây là Ơn Cứu
Độ, xuất phát từ cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, để chiến thắng tội lỗi và sự
chết cùng thông ban sự sống cho nhân loại, nên các tông đồ mới được Chúa
Kitô ban cho các vị "quyền năng trên các thần
ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền",
nghĩa là quyền năng cứu độ con người cả hồn ("khỏi các thần ô uế và xua
đuổi chúng") lẫn xác ("chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền").
Sở dĩ Chúa Kitô gọi dân Do Thái là "con chiên lạc nhà Israel" là vì họ có
một quá khứ liên lỉ bất trung với Thiên Chúa của họ, vẫn cứ bỏ Chúa mà đi
thờ tà thần như dân ngoại, và ngoại tình với đủ mọi thứ ngẫu tượng bò vàng
của họ, là những gì Thiên Chúa đã cứ phải liên tục sai các ngôn sứ của Ngài
đến nhắc nhở họ và kêu gọi họ quay về với Ngài. Thậm chí cho tới ngày nay,
họ vẫn còn là những "con chiên lạc nhà Israel" khi họ vẫn chưa công nhận
Chúa Kitô của Dân Tân Ước là Giáo Hội được Người thiết lập trên trần gian
này như chứng nhân phục sinh và thừa tác ban phát sự sống thần linh của
Người.
Bài Đọc 2 hôm nay cũng cho
chúng ta thấy điều này, khi Moisen, trong Sách Xuất Hành, đã cảnh báo họ như
sau:"Nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các
ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân, vì cả trái đất là của
Ta. Ðối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến
thánh".Nhưng
họ cứ tỏ ra họ là những "chiên lạc nhà Israel", ở chỗ họ đã không "nghe
lời" Chúa và đã không "giữ giao ước" của Chúa, nên họ khó có
thể nhận biết Đấng Thiên Sai được Thiên Chúa sai đến với họ, và vì thế họ
cần phải được các vị tông đồ, cũng là đồng hương của họ, nhận biết Người,
nói về Người cho họ biết, để nhờ đó họ dễ dàng nhận biết Người hơn, và đón
nhận Người hơn, như Đấng Thiên Sai họ hằng chờ mong.
Đối với Dân Tân Ước thì quả thực "Nước Trời" đã đến rồi, nhờ đó, họ
mới được hưởng Ơn Cứu Độ, một Ơn Cứu Độ do bởi, như Thánh Phaolô viết cho
Kitô hữu Roma ở Bài Đọc 2 hôm nay:"Thiên Chúa chứng tỏ
tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội
nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta".
Ơn Cứu Độ Kitô hữu chúng ta được thừa hưởng một cách nhưng không đây, chính
là Ơn Giao Hòa, mà Thiên Chúa đóng vai chính, đóng vai chủ động, một vị
Thiên Chúa bị chính loài người tạo vật xúc phạm đến Ngài, nhưng chính Ngài
lại đến, qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô Vượt Qua, để làm hòa với
phạm nhân loài người chúng ta, như Thánh Phaolô nhắc nhở Kitô hữu Roma trong
cùng Bài Đọc 2 hôm nay:"Nếu khi chúng ta còn là thù
nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con
Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong
sự sống của chính Chúa Kitô, và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển
trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ
chúng ta được lãnh ơn giao hoà.
Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, được trích từ Thánh Vịnh 99, đã được Giáo
Hội chọn đọc cho ngày Chúa Nhật XI Năm A này, bởi vì trong đó chất chứa tất
cả những gì về thành phần dân được Thiên Chúa hết sức thương yêu chăm sóc:
1) Hãy phụng sự Chúa với niềm vui vẻ, hãy vào trước thiên nhan với lòng
hân hoan khoái trá.
2) Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và
ta thuộc quyền sở hữu của Người; ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn
nuôi.
3) Vì chưng Chúa thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng
trung tín còn tới muôn muôn thế hệ.
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)2
Cr 6, 1-10
"Chúng tôi chứng tỏ mình là những
người phục vụ Thiên Chúa".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, với tư cách là những
người cộng sự với Chúa Giêsu, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của
Thiên Chúa một cách vô ích. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến, Ta đã
nhậm lời ngươi, vào ngày cứu thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội
thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát. Chúng tôi không hề làm cớ cho ai phải
vấp phạm, để công việc phục vụ của chúng tôi khỏi bị đàm tiếu. Nhưng trong
mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết
lòng kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày,
biến loạn, khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại
lượng, dịu dàng, bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả
dối, bằng lời chân thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công
chính bên tả bên hữu; trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng
như tiếng tốt, bị coi là phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô
danh, nhưng hằng được biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng
tôi vẫn sống; bị coi như bị gia hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu
sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng
tôi lại làm cho nhiều người được giàu có; bị coi như không có gì, nhưng
chúng tôi làm chủ tất cả.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1.
2-3ab. 3cd-4
Ðáp:Chúa đã công
bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca
mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho
Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của
Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng
nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn
thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa,
hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời
đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
38-42
"Thầy bảo các con: đừng chống cự
lại với kẻ hung ác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy
bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên
phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt
áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một
dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay
mượn, thì con đừng khước từ".
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Đức ái trọn hảo mới có thể thắng vượt kẻ hung ác và ngăn chặn sự ác
Chủ đề sự sống thần linh của Mùa Phục Sinh tiếp
tục vói bài Phúc Âm
của Thánh ký Mathêu về một sự sốngPhúc Đức
Trọn Lành cho Thứ Hai Tuần XI Thường Niên
hôm nay.
Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô về
Phúc Đức Trọn Lành được Phúc Âm Thánh ký
Mathêu thuật lại đây, tiếp theo Tuần X Thường Niên, không còn liên quan đến
các điều răn nữa, như điều răn thứ 5 "chớ giết người" (Thứ Năm tuần trước), điều
răn thứ 6 và 9 "chớ làm sự dâm dục" (Thứ Sáu tuần trước), và điều răn thứ 8 "chớ
làm chứng dối" (Thứ Bảy tuần trước).
Hôm
nay (và cả ngày mai nữa), Bài Giảng Trên Núi bắt đầu sang đến
chính đức bác ái trọn lành, cốt lõi của
Bài Giảng về Phúc Đức
Trọn Lành. Tuy nhiên, không phải vì không
còn liên quan đến những điều răn trong Thập Giới nữa, như tuần trước cho thấy,
mà Chúa Kitô không còn so sánh giữa những gì là cũ,
liên quan đến ý
hệ hay văn hóa hoặc tâm thức tự nhiên của
Dân Do Thái trong Cựu Ước,
những gì bất toàn (tuy đúng lý, hoàn
toàn hợp lý theo phép công bằng), hay đúng hơn những gì chưa thực sự trọn lành
như những gì mới được Người chỉ dạy cho thành phần môn đệ ở Bài Giảng Trên Núi
về Phúc Đức Trọn Lành để nhờ đó sau này các vị mới có thể trở thành "muối đất...
(và) ánh sáng thế
gian" (Mathêu 5:13-14) theo đúng bản chất
và ơn gọi là môn đệ Chúa Kitô của
các vị.
Một
trong hai điều liên quan đến đức bác ái trọn lành được Chúa Kitô nhắc đến ở bài
Phúc Âm (Mathêu 5:38-42) riêng cho ngày hôm
nay đó là:
"Các
con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng
chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy
đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy
trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó
hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Trong những lời khuyên dạy trọn
lành này của Chúa Kitô, có một số chi tiết cần phải lưu ý như sau:
Trước hết, về mặt tiêu cực, Chúa
Kitô bảo chúng ta "đừng
chống cự lại với kẻ hung ác",nghĩa
là cho dù chúng ta có là nạn nhân của họ, chúng ta vẫn phải tôn trọng con người
phạm nhân, không được hận thù ghen ghét chính con người của họ,
tìm
cách trả thù họ theo luật công bình, hơn là chống lại việc làm gian ác của họ mà
không phải vì hận thù họ v.v.
Sau nữa, về mặt tích cực, Chúa
Kitô dạy chúng ta lấy lành thắng dữ, phản ứng
của
chúng ta cần phải làm
sao để sự
dữ bị tiêu tan như bóng tối gian ác tan
biến trước ánh sáng chân
thật. Ở chỗ, như Người dạy: "ai
muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
Ý nghĩa của vấn đề "vay mượn" trong lời Chúa Giêsu dạy đây đó là những gì tha
nhân phạm đến chúng ta, như chúng ta đã phạm đến Chúa nên chúng ta xin Ngài "tha
nợ" cho chúng ta. Một khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xúc phạm, thì chúng ta
không có quyền lên án và trừng phạt họ, cho bằng có quyền tha cho họ, hơn là
chấp nhất. Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bị tha nhân phạm đến - "đừng
từ khước"
cho tha nhân "vay mượn" là như thế.
Đúng thế, nếu so sánh nguyên tắc
công bằng ăn thua đủ - nợ máu phải trả bằng máu: 'Mắt
đền mắt, răng đền răng',như
tình hình giữa nước Do Thái và dân tộc Palestine ở Trung Đông gần 3/4 thế kỷ cho
tới nay, bên khủng bố (Palestine) bên tấn công (Do Thái), liên tục hầu như bất
tận và bất khả giải quyết.
Thế nhưng, để có thể giải quyết một
cách tốt đẹp, họ không còn cách nào khác ngoài những gì được
Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở
chỗ thắng vượt nguyên tắc công bình bằng tinh thần bác ái vị tha, lấy lành thắng
dữ, một tinh thần chắc chắn họ sẽ không thể nào làm được nếu không có Vị Thánh Linh
của Đấng
Phục Sinh đã thông ban cho các tông đồ để các vị có thể tha tội cho tha nhân
(xem Gioan 20:22-23).
Bởi
vậy, huấn dụ bác ái trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi không phải chỉ
là đích điểm hay tầm vóc viên trọn cho
cuộc sống và ơn
gọi làm
người nói chung và làm môn đệ của Người nói riêng, mà còn là chính đường
lối để
còn người có thể sống
an vui hạnh phúc cho chính
bản thân mình cũng như cho xã hội loài người, một đường lối phản ảnh nơi giáo
huấn tổng hợp như một học thuyết nhân bản đích thực về xã hội của Giáo Hội Chúa
Kitô từ cuối thể kỷ 19 cho tới nay.
Tinh thần
Phúc Âm Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô liên quan đến đức ái trọn hảo thật
sự đã thấm nhuần nơi thành phần môn đệ của Người trong suốt giòng lịch sử của
Giáo Hội, nhất là qua các thánh nhân được Thiên Chúa sai đến vào từng thời điểm
của các vị, kể từ các vị
tông đồ, điển
hình nhất là vị Tông đồ Dân Ngoại Phaolô, như chính thánh nhân đã vừa bày tỏ vừa
huấn dụ Kitô hữu Giáo Đoàn Côrintô (2Corinto 6:1-10) trong bài đọc 1 Năm Lẻ hôm
nay như sau:
"Trong
mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết lòng
kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày, biến loạn,
khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại lượng, dịu dàng,
bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả dối, bằng lời chân
thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công chính bên tả bên hữu;
trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng như tiếng tốt, bị coi là
phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô danh, nhưng hằng được biết
đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng tôi vẫn sống; bị coi như bị gia
hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an
vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng tôi lại làm cho nhiều người được giàu
có; bị coi như không có gì, nhưng chúng tôi làm chủ tất cả".
Đời sống chứng nhân của Giáo Hội
qua các phần thể sống đức ái trọn hảo như Thánh Phaolô ở bài đọc 1 hôm nay quả
thực là tác động thần linh kỳ diệu của
Thiên Chúa biến đổi
con người để một số con người nào đó "được tiền định nên giống hình ảnh Con của
Ngài" (Roma 8:28), họ trở thành "phương tiện" (Tông Vụ 9:15) cho
phần rỗi của chung nhân loại, đúng
như những gì được bài Đáp
Ca (Thánh
Vịnh 97:1,2-3ab,3cd-4) cảm
nhận:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu.
Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện
của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức
công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà
Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.
Ngày 19/06: Thánh Rômualđô (951-1027)
Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại
Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ
ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh
Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay
chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người
cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì
ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình.
Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều
đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt
lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố
gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân
phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông
bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận
thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện
– bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận sống ở đó. Và đó là mọi điều
Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người
con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.
Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh
nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu,
thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt
một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp
theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy
sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.
Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi
Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm
thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này:
“Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là
niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của
mọi sự con ước ao!”
Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu
nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh
nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên
lỉ. Thánh nhân biết khó khăn thách đố là làm sao mà!
Thánh Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý.
Bá tước Sergiô, cha ngài đã phụng dưỡng ngài trong một nếp sống xa hoa.
Rômualdô đã chỉ tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh.
Dầu vậy, đôi lần đi săn thú, ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải
suy nghĩ... Ngài đặt mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu.
Ngài cũng thấy rằng các ẩn sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm
mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn. Những giấc mơ như vậy
thanh luyện hồn ngài và cảm kích bởi ơn thánh, ngài tự hứa với mình là sẽ
cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường ngài lại
lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.
Một biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên
Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi những ràng buộc với thế gian. Sergiô cha ngài
gây lộn với một người bà con về việc sở hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm,
ông còn bắt con mình dự vào cuộc đấu. Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là
đồng loã với tội phạm này và thấy phải đền trả. Rômuadô đã vào tu viện để
thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh động bởi thực tế trái ngược hẳn với lối sống
phân tán của thế gian, ngài chỉ còn nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ
mà ngài được chứng kiến.
Bá tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình
đã vào dòng. Khi bị cám dỗ trở về đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời
can thiệp và tiếp tục trung thành với đời sống đền bồi cầu nguyện.
Sau 7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào
sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà ngài
đã chọn, Marinô thường lấy roi đánh trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự
chia trí lo ra hay để phạt một lầm lỗi khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để
giúp họ quen chịu khổ. Ông lại hay đánh có một phía. Rômuado không hề phàn
nàn kêu trách.
Một ngày kia Ngài nói với thầy: Thưa thầy, từ nay
xin thầy đánh về phía mặt vì tai trái con hầu như điếc rồi. Rômuado thầm cảm
phục và kính trọng môn đệ mình.
Rômuado nuôi chí hứơng canh tân dòng Biển Đức
đang thời sa sút, ngài thiết lập một tu viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt
tình nên hoàn hảo trong việc hãm mình, khi phải chống lại sự dữ và phạt tội
lỗi, thánh nhân đã tỏ ra cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện
để đền bù tội lường gạt và sát hại một thủ lãnh loạn luân, ông được truyền
dạy phải đi chân không tới Nhà thờ Thánh Micae và suốt Mùa Chay, phải ở
trong đồng mà ăn chay, ngủ trên rơm cỏ.
Rômuado chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và
Đức. Ngài xây nhiều nhà thờ, thiết lập nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu
trong sa mạc. Ngày kia, ngài tìm được một nơi thanh vắng trong dãy Apennins.
Ngài mơ thấy một cái thang bắc lên trời, có các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh
chúa miền này cho ngài cánh đồng Malđôli. Thánh nhân lập dòng Camaldules
sống đời liên lỉ.
Vào tuổi 120, Thánh Rômuado từ trần, ngày
19-06-1076.
Sau 439 năm, xác ngài còn nguyên vẹn và được đặt
trong nhà thờ của dòng ở Fabrianô.
Chúa nói:” Thầy bảo thật anh em: Anh em là những người đã bỏ mọi sự mà theo
Thầy, anh em sẽ được gấp bội và được hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp”(
Mt 19, 27-29 ). Thánh Romualđô đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí, đã bỏ mọi sự
mà theo Chúa Giêsu, Ngài đáng được hưởng phần thưởng nước trời.
CÁI THƯỜNG TÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CÁI ÍCH LỢI CHO
THÁNH NHÂN:
Thánh
Romualđô được sinh ra trong một gia đình quyền uy thế giá. Cha mẹ Ngài
là dòng dõi quí tộc bên nước Ý. Từ tuổi trưởng thành, Romualđô đã thích
săn bắn thú rừng, đã thích gần gũi thiên nhiên,núi đồi, cây cỏ. Chính
những cuộc săn đuổi thú rừng hết núi này qua đồi nọ, hết suối này qua bờ
khe khác, đã giúp thánh nhân gần gũi thiên nhiên và cho Ngài cảm nghiệm
sự thinh lặng, im lìm, tịch liêu của tâm hồn. Thiên Chúa có đường lối
của Ngài: ý Ngài không ai dò thấu, dự định của Ngài chẳng ai thấy trước,
không ai hiểu được. Đường của Chúa hoàn toàn kỳ diệu vì thế nhân buồn
cảnh gia đình, thánh nhân đã trốn vào tu viện Bênêđitô ở Classa. Với
thời gian tu tập tốt đẹp, các Bề Trên cho Ngài được mặc áo dòng. Thánh
Romualđô mau chóng trở thành tu sĩ rất nhân đức và tiến triển trên đường
thánh thiện. Ngài nên gương mẫu cho anh em trong tu viện noi theo, bắt
chước. Thánh nhân càng lúc càng muốn sống giống Chúa Giêsu khónghèo, nên
sau ba năm sống trong tu viện Bênêđitô, thánh nhân muốn tìm kiếm con
đường nhiệm nhặt, khổ hạnh hơn nữa bên cạnh bậc thầy khả kính là Marinô.
Thánh nhân và thầy Marinô mỗi tuần chỉ ăn có ba ngày:lương thực là một
miếng bánh mì và một nắm đậu. Mỗi ngày hai thầy trò sánh bước dưới các
lùm cây, tán lá, hát thánh vịnh và ca ngợi Chúa. Nhưng ý Chúa lại thúc
đẩy Ngài trở về để cải tổ các tu viện Bênêđitô đang sa sút trầm trọng
sau ba năm Ngài sống xa các tu viện với Thầy khả kính Marinô. Thánh nhân
đã sửa đổi các tu viện và xây cất thêm cả trăm tu viện khác nữa. Nhiều
người bỏ tu ra đời, nay lại theo Ngài sống đời khổ tu, chiêm niệm. Ma
quỉ vì thấy Ngài sống thánh thiện, nhiệm nhặt với lề luật, nên tìm cách
phá ngài, nhưng thánh nhân đã luôn chiến thắng chúng bằng lời cầu nguyện
của mình. Một số anh em trong Dòng cũng khó chịu với Ngài vì Ngài yêu
thương và sống bác ái đối với các người nghèo khó, neo đơn, cô
quả...Theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Othon III và của các Thầy trong
Dòng, Ngài đã nhận làm Bề Trên tu viện Classa. Nhiều bậc vị vọng, nhiều
ông hoàng đã xin đi tu vì cảm mến, khâm phục cách sống và các nhân đức
của thánh nhân.
Ý CHÚA NHIỆM MẦU:
Thánh
nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa
nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh
vắng trong hoang địa để sống những ngày còn lại hết mình cho Thiên Chúa.
Tại nơi thanh vắng mới này, thánh nhân hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu
nguyện, ăn chay và đánh tội. Biết được ý Chúa, thánh nhân đã xin một bá
tước mảnh đất ở Apennin để thiết lập một tu viện. Apennin, nơi tu viện
mới của thánh nhân bỗng trở nên trung tâm những tu viện của thánh
Romualđô. Các Đức Thánh Cha kính nể, dành cho Ngài, các tu viện của Ngài
nhiều đặc ân và bảo vệ, tán thành bộ luật Dòng của Ngài.
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN và GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:
Với nhiều công đức, với sự thánh thiện, khôn ngoan của thánh nhân. Chúa
đã ban cho thánh Romualđô sống tới 120 tuổi. Tuổi đời cao là một hồng ân
của Chúa như thánh vịnh 15, 5-6 đã viết:” Lạy Chúa, Chúa là phần sản
nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính
Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con. Vâng, gia nghiệp ấy làm
con thỏa mãn”. Thánh Romualđô đã ra đi về với Chúa trong an bình vào mùa
hè năm 1027. Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Giáo Hội đã mừng lễ
Ngài vào ngày 19 tháng 6 mỗi năm.
Lạy
Chúa, Chúa đã dùng thánh Romualđô để canh tân đời sống ẩn tu trong Hội
Thánh. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình mà theo chân Đức Kitô,
hầu đạt tới hạnh phúc nước trời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Romualđô,
viện phụ ).
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, chúng tôi tỏ cho anh
em biết về ân huệ Thiên Chúa đã ban cho giáo đoàn xứ Macêđônia. Trong nhiều
nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh cùng cực thẳm
sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ đã tự động
nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tuỳ sức họ
và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến
mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của
Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi cũng đã xin Titô hoàn thành việc nghĩa đó cả
nơi anh em nữa, như Titô đã khởi sự trước kia. Nhưng cũng như anh em vượt
trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình
thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải
vượt trổi trong việc phúc đức này.
Tôi nói thế, không phải có ý truyền
lệnh đâu, nhưng để nhờ lòng sốt mến của kẻ khác, thử lòng chân thành bác ái
của anh em. Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó
của Người, anh em nên giàu có.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 2.
5-6. 7. 8-9a
Ðáp:Linh hồn tôi
ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi
khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa trong cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi,
tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.
2) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà
Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Ngài là
Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng, Ngài
là Ðấng giữ lòng trung tín muôn đời. - Ðáp.
3) Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị
ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù
tội. - Ðáp.
4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù.
Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí
các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c
và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin
dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5,
43-48
"Các ngươi hãy yêu thương thù
địch".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ
rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch
thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ
ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để
như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt
trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và
kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các
con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ
chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người
ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con
trên trời là Ðấng hoàn hảo".
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Đức ái trọn hảo như Cha trên trời
Bài
Phúc Âm hôm nay (Mathêu 5:43-48) đúng là tột đỉnh của Bài Giảng Trên Núi của
Chúa Kitô, ở ngay câu kết: "Vậy
các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo".
Qua câu
chính yếu nhất của Bài Giảng Trên Núi này và là câu làm nên tất cả Bài Giảng
Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô ấy, chúng ta có thể kết luận một cách suy diễn
như thế này: Vì các
con là môn đệ của Thày nên
các con phải nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành, theo
như những gì Thày truyền dạy các con trong việc sống tinh thần của lề
luật là
chính đức ái trọn hảo vậy.
Ở chỗ, nếu theo tâm lý và lý lẽ tự
nhiên "Ngươi
hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù", thì
sống bác ái trọn lành theo Chúa Kitô để có thể nên trọn lành như Cha trên trời,
thành phần môn đệ của Chúa Kitô cần phải: "yêu
thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai
bắt bớ và nguyền rủa các con", chứ
không thể sống ở
tầm mức tự nhiên như
hai thành phần vốn bị dân Do Thái khinh bỉ, đó là thành
phần "thu thuế" vốn bị họ coi
là hạng người tội lỗi, hay như thành phần "ngoại giáo" vốn bị họ coi
là thành phần ô uế nhơ nhớp, đáng
xa tránh.
Thật ra, căn cứ vào nội dung mạc khải thần linh trong Cựu Ước nói chung và
qua lịch sử cứu độ của dân Do Thái, thì Thiên Chúa là vị Thiên Chúa chân
thật duy nhất, bởi thế, việc bỏ Ngài mà thờ tà thần là những gì xúc phạm đến
Ngài nhất, là ngoại tình, phản bội lòng yêu thương của Ngài đối với họ. Do
đó, họ phải tránh cho xa bất cứ một dân ngoại nào, thành phần không được
Thiên Chúa chọn để tỏ mình ra như họ, nên toàn là thờ tà thần, theo chiều
hướng đa thần, nghĩa là tôn thờ những thứ ngẫu tượng do chính thành phần dân
ngoại nghĩ tưởng. Thậm chí phải coi dân ngoại là thù địch chứ không được
thân thiện với bất cứ dân ngoại nào kẻo bị lây nhiễm máu tà thần của dân
ngoại. Ngay cả việc cưới hỏi của dân Do Thái cũng chỉ trong nội bộ thân
thuộc mà thôi, chứ không được hôn nhân lai căng. Điển hình nhất là trường
hợp của vị vua thứ ba khôn ngoan nhất của dân Do Thái là Vua Salomon, với
700 thê và 300 thiếp, hầu hết là từ dân ngoại, đã làm cho vua bỏ vị Thiên
Chúa chân thật duy nhất của mình mà đi thờ tà thần của những người vợ dân
ngoại này.
Tuy nhiên, Chúa Kitô đã đến không phải để hủy bỏ lệ luật mà là để làm cho lề
luật nên trọn, nghĩa là làm cho mạc khải thần linh của Thiên Chúa trong Cựu
Ước là Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất ấy được nên trọn, ở chỗ Vị Thiên
Chúa Chân Thật Duy Nhất của dân Do Thái và đã tỏ mình ra cho dân Do Thái
trong suốt giòng lịch sử cứu độ của họ là Vị Thiên Chúa có 3 Ngôi là Cha và
Con và Thánh Thần, nhưng Ba Ngôi Vị vẫn là một Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất
trong mối hiệp thông thần linh yêu thương. Và đó là lý do tình yêu thần linh
phải là tình yêu trọn hảo, tình yêu có tính cách đại đồng, hòa đồng, bao
dung, tha thứ... để "tất cả được hiệp nhất nên một" (Gioan 17:21). Đức ái
trọn hảo như Cha trên trời là cốt lõi và là tột đỉnh của Bài Giảng Phúc Đức
Trọn Lành Trên Núi của Chúa Giêsu.
Đúng thế, ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, ở câu cuối cùng, Chúa Kitô lần đầu
tiên đã mạc khải cho các môn đệ biết Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất đã
từng tỏ mình ra trong suốt giòng lịch sử của họ là "Cha của chúng con ở
trên trời", và như thế gián tiếp Người cũng tỏ cho các môn đệ biết
Người là Con của Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai được Cha sai đến để tỏ mình ra
cho họ biết về Cha ở trên trời đã yêu thương chẳng những riêng dân Do Thái
mà còn yêu thương chung nhân loại nữa, như họ sẽ từ từ thấy Người tỏ ra bằng
hành động của Người, qua việc Người chữa lành bệnh tật cho dân chúng, nhất
là thái độ nhân từ của Người đối với thành phần tội nhân, đến độ Người đã
tha thứ cho cả những kẻ sát hại Người, bao gồm cả thành phần Do Thái lẫn dân
ngoại Roma (xem Luca 23:34), nghĩa là toàn thể nhân loại được Người cứu độ
bằng chính cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó họ chẳng những được cứu khỏi
tội lỗi và sự chết mà còn được sự sống thần linh Người thông ban cho họ qua
Giáo Hội của Người.
Như thế, Bài Giảng Trên Núi, Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành được Chúa Giêsu
giảng dạy trực tiếp cho thành phần môn đệ tông đồ của Người, nền tảng Giáo Hội, là
tất cả giáo huấn về đức ái trọn hảo cho thành phần con cái của Cha Trên Trời, theo gương mẫu của chính Người là Con Thiên Chúa Nhập Thể Vượt Qua, một đức
ái trọn hảo theo gương mẫu của Chúa Giêsu Kitô ấy cần phải được các môn đệ
của Người thực hiện trên hết và trước hết, như chính Người đã yêu thương họ,
để nhờ đó "cứ dấu ấy mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thày"
(Gioan 13:35)..
Trong lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ
của Người sống bác ái trọn hảo: "các con hãyyêu
thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai
bắt bớ và nguyền rủa các con",
chúng
ta thấy, trước hết, về đối tượng, tinh thần bác ái trọn lành ở chỗ "yêu thương
(cả) thù địch" nữa chứ không phải chỉ những ai yêu thương chúng ta hay những ai
chúng ta thích hoặc thành thần thân nhân ruột thịt của chúng ta mà thôi.
Sau nữa, về hành động, tinh
thần bác ái trọn lành là ở
chỗ "làm
ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa
các con".
Tức
là "làm ơn" và "cầu nguyện" cho những đối tượng
"thù địch" của mình, vì
họ là những người "thù ghét"
mình, "bắt bớ" mình và "nguyền rủa" mình, chứ
không phải là thành phần thương yêu mình hay được mình thương yêu.
Riêng về vấn đề "làm ơn", Thánh
Phaolô, trong bài đọc 1 hôm nay (2Corinto 8:1-9) đã đề cập đến mẫu gương của "giáo
đoàn xứ Macêđônia", một
giáo đoàn cho dù trải qua "gian nan thử
thách" nhưng
vẫn "trở thành kho tàng phúc hậu" một cách lạ lùng cho tha nhân, như ngài đã
viết
về họ như sau:
"Trong nhiều nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh
cùng cực thẳm sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ
đã tự động nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tùy sức
họ và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến
mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của Thiên
Chúa".
Như
thế, giáo đoàn này đã thực sự phản ảnh, như Thánh Phaolô nói trong cùng bài đọc
1 cho Năm lẻ hôm nay: "lòng
quảng đại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc dù giàu sang, Người đã nên thân
phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có".
Vì đức ái
trọn hảo xuất phát từ Thiên Chúa và là chính bản tính của Thiên Chúa mà Ngài yêu
thương hết mọi người, nhất là những ai hèn yếu đáng thương, như Bài Đáp Ca (nhất
là câu 3 và 4) được trích từ Thánh
Vịnh 145 (2,5-6,7,8-9a) đã
cảm nhận vàcho
thấy:
3) Đấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm
ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm
lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những
khách kiều cư.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)2
Cr 9, 6-11
"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách
vui lòng".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, ai gieo ít, thì gặt
ít. Ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định,
không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách
vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em
vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc
đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công
chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ
gieo, và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư
đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em. Như thế, anh em
được giàu có mọi bề, để thi hành mọi việc bác ái; qua tay chúng tôi, phúc
đức đó sẽ làm phát sinh lời cảm tạ Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111,
1-2. 3-4. 9
Ðáp:Phúc đức thay
người tôn sợ Chúa (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ
Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu ngươi sẽ hùng cường
trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý,
và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như
ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.
3) Người ban phát và bố thí cho những
kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng
lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94,
8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 1-6.
16-18
"Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí
ẩn, sẽ trả công cho ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta
để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là
Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như
bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả
thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm
sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ
kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng
chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các
ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được
thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà
cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí
ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như
bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt
người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi
ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn
chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt
mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Sống nội tâm là sống trước nhan Chúa
Bài Phúc Âm hôm nay, vẫn
là bài Phúc Âm thuộc loạt bài về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi được Chúa
Giêsu huấn dụ
riêng cho các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền
tảng cho Giáo Hội tương lai của Người, nhưng không còn theo công thức so sánh
giữa lề luật cũ hay tâm thức tự nhiên với giáo huấn trọn lành của Người liên
quan đến đức ái trọn hảo.
Bài Phúc Âm hôm nay
bắt đầu sang đoạn 6 (Mathêu
6:1-6,16-18) và
liên quan đến các việc thiện, như "bố thí", "cầu nguyện" và "chay tịnh", một bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay hằng năm.
Căn cứ vào thứ tự 3 việc lành này thì ưu tiên nhất là bố thí liên quan đến đức
bác ái, sau đó mới đến việc cầu nguyện liên quan đến Thiên Chúa, và sau cùng mới
đến việc chay tịnh liên quan đến bản thân.
Nếu Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu thuật lại ở 3
đoạn 5, 6 và 7, thì ở đoạn 5 liên quan đến Chúa Giêsu, đoạn 6 liên quan đến
Chúa Cha và đoạn 7 liên quan đến chính bản thân các môn đệ. Đúng thế, ở đoạn
5 liên quan đến Chúa Giêsu ở chỗ "Thày đến không phải hủy bỏ lệ luật mà
là để làm cho nó nên trọn", do đó Người đã vạch ra cho các môn đệ thấy
đâu là luật cũ và đâu là giáo huấn trọn lành hơn của Người căn cứ vào luật
cũ. Ở đoạn 6 liên quan đến Chúa Cha "là Đấng ở nơi kín ẩn thấu suốt mọi
sự" nên con người làm gì thì làm, nhất là những việc đạo đức như cầu
nguyện, chay tịnh và bố thí v.v., cũng chỉ làm vì Ngài và cho Ngài mà thôi,
nhất là hãy tin tưởng cậy trông tất cả mọi sự nơi Ngài là Đấng Quan Phòng
thần linh quan tâm đến tất cả mọi tạo vật của Ngài. Ở đoạn 7 liên quan đến
bản thân của các môn đệ trong việc thực hành đức bác ái yêu thương, trong
việc bỏ mình vào đường hẹp, nhất là trong việc tuân giữ những lời giảng dạy
của Chúa Giêsu là vị sư phụ các vị theo đuổi vào lúc ấy.
Có thể nói bố thí là
hoa trái của cầu nguyện, thậm chí có thể bỏ cầu nguyện để làm việc bác ái
khi khẩn cấp, và muốn cầu nguyện sốt sắng lẫn tác hiệu cần phải chay tịnh
(làm chủ mình, khổ chế), nhưng khổ chế chay tịnh mà thiếu đức bác ái cũng
không tốt. Kể cả các việc lành này nữa, các tông đồ cũng cần phải thực hiện một cách trọn
lành, khác với thái độ giả hình của thành phần đạo đức phô trương làm vì danh
tiếng hơn là vinh hiển của Thiên Chúa.
Qua việc thực hành các
việc thiện bề ngoài này, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phải sống nội tâm, sống
như là
một thứ "muối đất",
theo nguyên tắc
chung như Người truyền dạy, đó là: "Các
con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông
thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời".
Căn cứ vào
nguyên tắc "đừng
phô trương công đức" này, Người dạy các môn đệ trước hết về cách thức thực hành việc
bố thí như thế
này: "Vậy
khi các con bố thí, thìđừng thổi
loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người
ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có
bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con
bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Nguyên tắc "đừng phô trương
công đức" như Chúa dạy được áp dụng, sau nữa, vào
việc cầu nguyện ở
cách thức cũng như việc bố thí ở chỗ tránh
hành
vitiêu
cực mà
thể hiện các cử
chỉ tích cực như sau: "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ
giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ
trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi
cầu nguyện, thì hãyvào phòng đóng
cửa lạimà cầu xin với Cha con,
Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Sau hết,
về cách
thức chay tịnh, theo nguyên tắc "đừng phô trương công đức", Chúa
dạy các tông đồ thực hiện vừa tránh tiêu cực vừa làm tích cực như sau: "Khi
các con ăn chay, thìđừng làm như
bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt
người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn
chay,hãy xức dầu thơm trên đầu và
rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con
Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
Muốn
tránh khỏi khuynh hướng tự nhiên thích "phô trương công đức" về các việc lành
mình làm, con người phải hoàn toàn tin vào Chúa, phải có một đức tin mãnh liệt,
luôn sống trước nhan Chúa, "Đấng
thấu suốt mọi bí ẩn" và
là "Đấng
ngự nơi bí ẩn", như
gương sáng của bà góa bỏ tiền vào đền thờ vậy (xem Luca 21:2-3). Nghĩa là hãy
làm việc lành với tất cả tấm lòng chân thành của mình, ở chỗ hoàn
toàn vì Chúa và
cho Chúa mà thôi.
Đó là lý do, theo nguyên tắc vì
Chúa và cho Chúa, Thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô trong Thư Thứ 2 của
ngài trong bài đọc 1 năm lẻ hôm nay rằng: "Mỗi
người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng:Thiên
Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư
tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật
để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: 'Người đã rộng tay bố thí cho kẻ
nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời'".
Một
con người làm mọi sự vì Chúa và cho Chúa quả thực là một con người sống đức tin,
biết kính
sợ Chúa, nhờ đó
họ có thể sống quảng đại
như Ngài, đúng như cảm nhận của Thánh Vịnh 111 (1-2,3-4,9) ở trong bài Đáp
Ca hôm
nay:
1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài.
Con cháu ngươi sẽ hùng cường trong Đất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi
hiền nhân.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời.
Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi
và công chính.
3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn
đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.
Ngày 21 tháng 6
Thánh Lu-y Gon-da-ga, tu sĩ
lễ nhớ bắt buộc
Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình
Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu, Lu-y
sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần
đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng
Chúa Giê-su. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị
lây và qua đời lúc mới hai mươi ba tuổi (năm 1591).
Bài đọc 2
Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng
Trích thư thánh Lu-y Gon-da-ga gửi cho thân mẫu.
Thưa mẹ khả kính, con cầu xin Chúa Thánh Thần luôn ban xuống cho
mẹ ân sủng và niềm an ủi của Người. Khi nhận được thư của mẹ thì
con vẫn còn ở trênchốn
tử vong này. Nhưng đã đến lúc phải hướng về trời, nơi chúng
ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa hằng hữutrong
cõi đất dành cho kẻ sống. Con cứ tưởng mình đã hoàn tất được
cuộc hành trình này trước đây rồi. Nếu bác ái làvui
với người vui, khóc với người khócnhư thánh
Phao-lô nói, thì thưa mẹ khả kính, hẳn là mẹ phải hết sức vui
mừng vì Chúa đã tỏ cho con thấy niềm hoan lạc đích thực và sự
bảo đảm không bao giờ sợ mất Người nữa ; sở dĩ con được ơn này
cũng là vì tình thương và ân sủng Chúa dành cho mẹ.
Thưa mẹ khả kính, con thú thật với mẹ là khi suy nghĩ về lòng
nhân hậu của Thiên Chúa, bao la như biển cả không đáy không bờ,
thì tâm trí con bàng hoàng, hầu như lạc lõng, không sao hiểu
nổi. Quả thật, dù con chẳng vất vả bao nhiêu trong một thời gian
vắn vỏi, thế mà Chúa cũng mời con đến nghỉ yên muôn đời. Từ trời
cao, Người gọi con đến hưởng hạnh phúc vô biên, hạnh phúc mà con
đã không mấy thiết tha tìm kiếm, và Người hứa ban thưởng cho con
vì những giọt nước mắt ít ỏi con đã đổ ra.
Thưa mẹ khả kính, xin mẹ hết sức cẩn thận, đừng khóc thương con
như khóc thương người chết, kẻo xúc phạm đến lòng nhân từ vô
biên của Chúa. Thật ra, con vẫn sống trước nhan Thiên Chúa và
những khi cần thiết, con có thể dùng lời cầu nguyện mà giúp đỡ
mẹ hữu hiệu hơn cả lúc con còn sống ở trần gian. Cuộc chia ly
này sẽ không lâu, vì trên trời chúng ta sẽ gặp lại nhau, và một
khi cùng kết hợp với Đấng cứu độ chúng ta, chúng ta sẽ được
hưởng niềm vui bất diệt mà hết lòng ngợi khen Chúa và ca tụng
tình thương Chúa đến muôn đời. Chúa lấy lại cái Người đã ký thác
nơi chúng ta không ngoài ý định là đặt nó vào nơi an toàn chắc
chắn hơn và dùng chính những thứ mà chúng ta ước mong có được để
làm cho chúng ta nên phong phú.
Thưa mẹ khả kính, sở dĩ con nói những điều đó là vì lòng những
ước mong mẹ và toàn thể gia đình coi cuộc ra đi của con như một
ân huệ đáng mừng. Xin mẹ lấy tình mẫu tử mà chúc lành cho cuộc
hành trình này của con cho đến khi đạt tới bến bờ con vẫn hằng
hy vọng. Con đã tự ý viết thư này vì không còn cách nào khác để
bày tỏ lòng kính yêu mà một người con phải có đối với mẹ mình.
Lời nguyện
Lạy Chúa là Đấng ban phát mọi ơn thiêng, Chúa đã cho thánh Lu-y
Gon-da-ga vừa sống một cuộc đời trong trắng, lại vừa biết hy sinh hãm
mình. Vì công đức và lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa rủ lòng
thương nâng đỡ, để chúng con, dầu không được trong trắng như người, thì
cũng biết noi gương người mà hãm mình đền tội. Chúng con cầu xin
Thánh Luy Gonzaga
(1568-1591)
Thánh Lu-y là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia
đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện.
Lu-y là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới
triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà
lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Lu-y đã được tự do tung
tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống
tâm linh Lu-y thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh
và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Lu-y theo
cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái
tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao
nhiêu, Lu-y càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các
thánh.
Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các
cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Lu-y đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như
tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Lu-y phải
trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ
của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Lu-y đã chinh phục được tất cả
và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.
Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Lu-y, các cha giám đốc đã buộc Lu-y phải
chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác
và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Lu-y được gửi lên Milan đi
học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.
Vào năm 1587, Lu-y tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công
Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên
cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém,
Lu-y cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn,
Lu-y đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.
Ðời sống thánh thiện của Lu-y được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này
là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh
năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.
Lời Bàn
Thánh Lu-y dường như không thích hợp là quan thầy của các người trẻ trong
một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy trong các đội thể thao hay võ thuật.
Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và đầy tiện nghi lại tự ý khép mình vào
kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu nó tìm thấy một lý do, cũng như Thánh
Lu-y trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa thanh luyện chúng ta là phải cảm
nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.
Lời Trích
“Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta phải tỉnh thức và tha thiết với
tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt bỏ tất cả những ý tưởng trần
tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng về bất cứ điều gì ngoại trừ
đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa” (Về Kinh Lạy Cha, Thánh Cyprian).
Lu-y Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước
đều được đặt cả vào Lu-y. Lên bốn tuổi, Lu-y đã bắt đầu cùng bố sống trong
quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao.
Ông
hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng
cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Lu-y và cậu em
Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze
để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Lu-y nhìn ra
mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những
âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc.
Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng
dẫn Lu-y theo con đường yêu thương của Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên
ngoài của Lu-y mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều
thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Lu-y khám
phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh
phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Lu-y được gởi tới Mantua sống với những
người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm
lược Giáo lý của
Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Lu-y liền dùng tập sách này
làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay
3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành
ngày.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Lu-y gặp một cha giải tội
dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8
năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm,
Lu-y cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập
dòng Tên. Ý đã quyết, Lu-y nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Lu-y nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng
tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Lu-y một
mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi
kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để
Lu-y ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con,
ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Lu-y là “kho tàng quý báu nhất trên cõi
đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Lu-y
nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê
ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình,
viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện
nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc
công tử Rudolpho vui lắm”, Lu-y
trả lời:“Tôi
còn vui hơn”.
Khi vào nhà Tập, Lu-y
tâm niệm rằng: “Tôi
là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong
thực tế, Lu-y nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì
cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha
giám tập, Lu-y không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng
không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Lu-y
từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu
hữu. Lu-y bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau
nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết
thời gian nhà Tập, Lu-y tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và
chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các
anh em khác, Lu-y đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Lu-y
đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và
cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần
sau khi trở về từ bệnh viện, Lu-y nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino
rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình
một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con
nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về
với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu
cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến
giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một
hôm, Lu-y đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh
ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.
Những ngày sau đó, Lu-y đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn
phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với
Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến,
ngày 21 tháng 6 năm 1591, Lu-y xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào
khoảng 11 giờ, Lu-y, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa
Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần
cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.
Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được
Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng
Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn
làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh
nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.
Thánh Lu-y Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự
quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu
sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.
Cầu nguyện:Lạy
Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của
chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền
lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục,
nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin
nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.**R
(có thể tài liệu trên đây được lấy từ tài liệu dưới đây, chỉ thêm
vào 3 đoạn cuối cùng mà thôi, vì tài liệt dưới đây mang tên tác giả, còn tài
liệu trên không thấy tên ai viết!)
THÁNH LUY GONZAGA TUỔI TRẺ DÂNG HIẾN
Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ
Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước
đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong
quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước
ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm
rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được
gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi
những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái
của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và
sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng
ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn
Luy theo con đường yêu thương của Ngài.
Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu
vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh.
Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và
bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua
sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn tóm lược
giáo lý với phần suy niệm của Cha Phêrô Canisiô. Luy liền dùng tập sách này
làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao.
Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội
dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8
năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm,
Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập
dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.
Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển
trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng
tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một
mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi
kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để
Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con,
ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi
đời này”.
Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng
về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha
tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên
đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói
với anh: "Chắc công tử Rudolpho vui lắm", Luy trả lời:"Tôi còn vui hơn".
Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà
Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống
nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà.
Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc
đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã
thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ
tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ
nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước
đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu
ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương
trình thần học.
Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các
anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy
đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và
cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần
sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino
rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình
một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con
nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về
với Ngài.”
Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu
cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến
giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một
hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh
ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.
Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn
phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với
Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến,
ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng
11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu
chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối
cùng. Anh ra đi trong bình an khi mới 23 tuổi.
Thánh Luy Gonzaga
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh : 09.03.1568 – tại Castiglione, Bắc Ý.
Qua đời : 21.06.1591
Lễ mừng ngày 21.6
ĐẶNG THẾ NHÂN
"Tôi đã rao giảng không công cho
anh em Tin Mừng của Thiên Chúa".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, phải chi anh em chịu
đựng một phần nào sự ngu dại của tôi, chắc là anh em đành chịu đựng: vì tôi
yêu mến anh em như Chúa có lòng yêu mến. Tôi đã đính hôn anh em cho một
người, như dâng một trinh nữ trong trắng cho Ðức Kitô. Nhưng tôi lại sợ rằng
như con rắn đã dùng mưu chước mà cám dỗ bà Evà thế nào thì lòng anh em cũng
ra hư đốn, không còn chân thành đối với Ðức Kitô như vậy. Vì nếu có ai đến
rao giảng một Ðấng Kitô nào khác mà chúng tôi không hề rao giảng, hay anh em
nhận lãnh một Thánh Thần nào khác hoặc một Phúc Âm nào khác không phải như
anh em đã nghe, thì chắc là anh em chịu theo ngay. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi
đã làm việc không thua kém gì các vị tông đồ cả kia đâu. Bởi vì dầu tôi có
ăn nói không thanh lịch, nhưng về sự thông biết thì không phải thế đâu, vì
trong mọi mặt, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy rõ rồi.
Hay là tôi đã phạm tội gì khi hạ mình
không để anh em được nhắc lên? Hoặc vì đã rao giảng không công cho anh em
Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các giáo đoàn khác, khi lãnh trợ cấp
nơi họ, để phục vụ anh em. Khi tôi ở giữa anh em, mà phải lâm cảnh túng
thiếu, tôi đã không làm phiền lòng ai: vì tôi có thiếu thốn điều gì, thì các
anh em ở Macêđônia đến giúp đỡ cho. Trong mọi sự, tôi đã giữ mình không làm
phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ mình như thế. Ðã có sự thật của Ðức Kitô
trong tôi, nên tôi không để ai giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong
khắp miền Akaia. Vì sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Ðã
có Thiên Chúa biết.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110,
1-2. 3-4. 7-8
Ðáp:Lạy Chúa,
công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết
lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa
tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ
oai nghiêm, và đức công minh của Ngài muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những
điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân
thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn
đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và
đoan chánh. - Ðáp.
Alleluia: Tv 144,
13bc
Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành
trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6, 7-15
"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như
thế này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là
phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ
điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện
như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng
con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng
như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ
chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con
sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người
ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ
cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng
chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
cốt
lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này,
tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần
sau).
Bài Phúc Âm (Mathêu 6:7-15) cho
Thứ Năm Tuần XI Thường Niên hôm nay liên
quan đặc biệt đến việc cầu nguyện nói chung và Kinh Lạy Cha nói riêng,
hay nói cách khác, liên quan đến cách thức cầu nguyện và mẫu thức cầu
nguyện.
Trước hết, về cách thức cầu nguyện, Chúa
Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện một cách đơn sơ nhưng đầy lòng tin
tưởng vào Đấng thấu suốt mọi sự như thế này: "Khi
cầu nguyện, các conđừng nhiều lờinhư
dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như
họ, vìCha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả
trước khi các con xin".
Sau nữa,
về mẫu thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tóm gọn những gì cần thiết nhất
và đáng cầu nhất vào một lời nguyện vẫn được chúng ta gọi là Kinh
Lạy Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như
chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám
dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen".
Kinh Lạy Cha là mẫu thức cầu nguyện này bao
gồm tất cả đời sống vì Chúa và cho Chúa của
chung loài người và của riêng Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa
làm người. Kinh Lạy Cha được cấu tạo nên bởi 2 phần rõ ràng: phần nguyện
và phần xin. Phần nguyện trực tiếp đến Chúa là đối tượng chính của kinh
nguyện này,
và phần
xin trực tiếp đến chủ
thể đọc lên kinh nguyện này, nhưng vẫn nhắm đến đối tượng chính yếu là
Chúa.
Thật vậy, phần nguyện bao gồm 3 ước
nguyện thứ tự là:1- ướcnguyện
cho danh Cha cả sáng, 2- ước
nguyện cho nước
Cha được trị
đến,và3- ước
nguyện cho ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.Tâm
hồn nào quả thực chỉ ước nguyện và thật lòng ước nguyện như thế thì đúng
là người con ngoan của Thiên Chúa là "Cha
trên trời".
Thế
nhưng
muốn có một tấm lòng chỉ ước nguyện 3 điều chính yếu trên liên quan đến
Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha (Danh Cha - Sự Sống Hằng Hữu), và
Con (Nước Cha
- Sự
Sống Thần Linh)
và Thánh Thần (Ý
Cha - Sự Sống Thông Ban),
con người
cần phải cầu xin cho được
3 điều tương
xứng với 3 ước nguyện ở phần đầu, thứ tự như sau:
"Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày": đó
là xin Cha tỏ cho chúng con biết được
những
gì Cha
muốn, để
nhờ đó chúng con có thể chu
toàn tất cả những gì Cha muốn nơi chúng con cho "Danh Cha cả
sáng",
như
Chúa Giêsu đã sử dụng
lương thực của Người như thế: "Lương
thực của Thày là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của
Ngài" (Gioan
4:34);
"Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con": đó
làxin Cha cho chúng con biết sống bác ái yêu thương cho "Nước
Cha trị đến", như chúng con đã được chính Cha
"đã
chứng tỏ lòng yêu
thương đối với chúng con khi chúng con đang còn là tội nhân"
(Rôma 5:8), nơi
Con Một của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "đến không phải để được
hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều
người"
(Mathêu 20:28), trong đó
có chúng con.
"Xin Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi
sự dữ": đó
là xin Cha cho chúng con luôn luôn biết
tuyệt đối trung
thành với Ý Muốn vô cùng khôn ngoan và nhân hậu của Cha ở
mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, bất chấp mọi chước cám dỗ và thắng
vượt tất cả mọi xu hướng bất trung và phản
bội, nhờ
"Đấng Phù Trợ" được sai đến để "chứng tỏ cho thế gian biết họ sai
lầm về tội lỗi, về sự công chính và về án
phạt" (Gioan 16:8).
Có thể nói cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này, tức
ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau).
Thật vậy, "danh Cha" không thể "cả sáng" (ước nguyện 1) và "Nước Cha"
không thể "trị đến" (ước nguyện 2), nơi chúng ta nếu chúng ta không "ước
nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (ước nguyện 3).
Và cũng chính vì "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên
trời" mới "xin Cha tha nợ chúng con" (lời cầu 2), tức tha cho những gì
chúng ta đã không làm theo ý của Cha, hay làm trái ý Cha, làm phật ý của
Cha, và mới "xin Cha đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ" (lời cầu 3), nghĩa là xin Cha đừng để cho chúng con
bao giờ làm mất lòng cha là sự dữ trên hết mà chúng con cần phải tránh.
Một
mẫu gương sống vì Chúa và cho Chúa, sống Kinh Lạy Cha đó là Thánh
Tông Đồ Phaolô, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy (2Corintô 11:1-11),
như chính ngài đã
bày tỏ: "Trong
mọi sự, tôi đã giữ mình không làm phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ
mình như thế. Đã có sự thật của Đức Kitô trong tôi, nên tôi không để ai
giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong khắp miền Akaia. Vì sao
thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Đã có Thiên Chúa biết".
Một
con người sống Kinh Lạy Cha, sống chỉ vì và hoàn toàn cho Vị Thiên Chúa
chân thật duy nhất là Cha của mình, như Mẹ Maria, như Thánh Tông Đồ
Phaolô và như các Thánh Tông Đồ, cũng như các Thánh Nhân trong giòng
lịch sử Giáo Hội, quả là những kỳ công do
Chúa thực hiện chứ
không ai có thể tự mình sống được
như vậy. Thánh Vịnh 110 (1-2,3-4,7-8) hôm
nay đã ám chỉ ý nghĩa này qua câu Đáp
Ca chính
"Lạy
Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính",
cũng
như ở 3 câu xướng Đáp
Ca như sau:
1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ
đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm
học hỏi!
2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Ngài
muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là
Đấng nhân hậu từ bi.
3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của
Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời,
được ban hành một cách chân thành và đoan chánh.
22/6
Thánh Phaolino Nolano Giám Mục,
Thánh Gioan Fisher Giám Mục và
Thánh Toma More Tử Đạo
Lịch Rôma hiện hành ghi danh sách ba vị thánh mừng kính ngày 22
tháng Sáu. Chúng tôi xin trình bày ngắn gọn tích truyện các ngài ở
đây, lần lượt từng vị một.
Thánh Paulinô Nôla
Thánh Paulinô Nôla được sinh vào khoảng năm 353 tại Boócđô, nước
Pháp. Thân phụ ngài là một quan chức nhà nước và là một địa chủ giàu
có. Paulinô học hành đỗ đạt. Ngài trở thành luật sư và thi sĩ. Ngài
đi du lịch khắp các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý và ở bất kỳ nơi nào mà
công việc hoặc thú vui khoái lạc đòi hỏi. Năm 381, lúc hai mươi tám
tuổi, Paulinô Nôla trở thành quan chức miền Campania, nước Ý.
Năm ba mươi sáu tuổi, thánh Paulinô Nôla trở thành tín hữu Công
giáo. Thánh nhân và người vợ Têrêsia của ngài sinh được một cậu con
trai. Sau khi đứa con qua đời, đôi vợ chồng bố thí tài sản mình cho
những người nghèo đói. Họ chỉ giữ lại những gì cần thiết để nuôi
sống bản thân. Paulinô và Têrêsia, cả hai đều bằng lòng muốn sống
một đời đơn sơ bình dị. Hai người cùng cầu nguyện, hy sinh và làm
những công việc hữu ích. Các ngài cũng quyết định tuân giữ lời khấn
trong sạch để minh chứng tình yêu của các ngài dành cho Thiên Chúa.
Cộng đoàn Kitô hữu hết sức nể trọng Paulinô và người vợ của ngài. Họ
rất hài lòng khi Paulinô trở thành linh mục vào năm 394. Sau đó,
thánh Paulinô và Têrêsia thiết lập một cộng đoàn nhỏ dành cho các
đan sĩ ở Nôla, nước Ý. Các ngài cũng mở một nhà tế bần cho những
người nghèo và các lữ khách.
Paulinô và Têrêsia quyết định ở lại Nôla. Paulinô muốn ở gần đền
thánh Phêlích Nôla, một trong các đấng thánh mà ngài yêu mến. Thánh
Phêlích, mất năm 260, đã làm linh mục và giám mục. Thánh nhân đã can
đảm bảo vệ bổn đạo của mình trong suốt cuộc khủng bố bách hại của
hoàng đế Đêsiô. Thánh giám mục Phêlích Nôla nổi tiếng về đời sống
cầu nguyện, về tình yêu đối với đàn chiên và về lối sống đơn sơ
nghèo khó. Qua một thế kỷ sau, Paulinô Nôla cầu nguyện với thánh
nhân và viết sách về ngài. Paulinô Nôla cảm thấy hết sức tin tưởng
vào quyền năng của thánh Phêlích. Vậy điều gì đã có thể làm cho cựu
quan chức Rôma này trở nên giống như thánh Phêlích? Ngoài thánh
Paulinô ra, hẳn là chẳng ai trong chúng ta có thể phỏng đoán được.
Năm 409, Paulinô Nôla được chọn làm giám mục thành Nôla. Dân chúng
rất sung sướng vui mừng. Paulinô Nôla là vị giám mục khôn ngoan, dịu
dàng, hiền lành giống như thánh Phêlích trước đây. Nhiều vị thánh
sống vào thời ấy đã ca ngợi Paulinô Nôla như thánh Ambrôsiô, thánh
Augustinô, thánh Giêrônimô, thánh Martinô thành Tua và nhiều vị
khác. Dù một số tác phẩm hay của Paulinô Nôla đã bị thất lạc nhưng
hiện vẫn còn lại 32 bài thơ và 51 lá thơ.
Thánh Paulinô làm giám mục thành Nôla cho tới khi qua đời năm 431.
Thánh Paulinô Nôla đã trở nên một tín hữu Công giáo tuyệt vời như
vậy bởi vì ngài rất quý trọng ơn đức tin. Chúng ta hãy khẩn cầu cùng
thánh Paulinô Nôla và xin ngài giúp chúng ta tăng triển lòng biết ơn
đối với đức tin đã lãnh nhận.
Thánh Gioan Phítsơ
Thánh Gioan Phítsơ sinh tại Gioócsi, nước Anh vào năm 1469. Gioan
học tại trường đại học Cambrít và được làm linh mục. Cha Phítsơ cũng
dạy học tại Cambrít. Ngài là một nhà giáo ưu tú chuyên giúp các sinh
viên tăng triển và đào sâu thêm tri thức về đức tin của họ. Cha
Phítsơ cũng là một thần học gia. Cha đặc biệt giúp ích trong việc
chỉ ra những nhầm lẫn tôn giáo của thời đại mà những nhầm lẫn này đã
làm cho một số người bối rối.
Năm 1504, cha Gioan Phítsơ trở thành giám mục thành Rôchétxtơ, nước
Anh. Đó là một giáo phận nghèo và giám mục Phítsơ đã lưu lại với đàn
chiên của ngài suốt ba mươi năm. Vì thế, giám mục Phítsơ kiêm một
lúc hai nhiệm vụ quan trọng. Ngài vừa là giám mục của giáo phận vừa
là hiệu trưởng của trường đại học Cambrít. Năm 1514, Phítsơ được chỉ
định làm hiệu trưởng trường đại học vì sự sống còn của nó. Giám mục
Phítsơ cũng là cha giải tội của thân mẫu vua Henri VIII. Tên của bà
là Êlizabeth Gioóc.
Giám mục Gioan Phítsơ có nhiều bạn bè, gồm cả học giả danh tiếng
Êrasmô và thánh cả Tôma Môrê. Ít người biết được thánh giám mục
Gioan Phítsơ và thánh Tôma Môrê cùng được mừng kính chung một ngày
lễ trong niên lịch kính nhớ các thánh.
Chắc chắn chưa có cuộc mừng khi đức giám mục Phítsơ bị giam tù năm
1533. Ngài bị bắt giam tù vì đã nhất định minh chứng cuộc hôn nhân
giữa nhà vua và hoàng hậu Catarina là đúng đắn. Sau đó, vua Henri
VIII ly dị Catarina và kết hôn với Annê Bôlây trong một nghi thức
dân sự. Ông yêu cầu thần dân ký tên vào văn bản thề hứa trung thành
với ông. Ông tự phong cho mình là thủ lãnh Giáo hội Anh quốc. Giám
mục Phítsơ không ký tên. Và liền sau đó, ngài bị đem tới tháp đài
Luânđôn, một chiếc tháp thật ẩm ướt và cách đối xử ở đó rất ư khắc
nghiệt. Thánh giám mục Gioan Phítsơ tuy phải chịu đựng rất nhiều đau
khổ nhưng ngài đã không phản bội niềm tin của mình. Thậm chí dù chưa
có tivi và máy thu thanh nhưng người ta vẫn nhận biết được những
việc mà giám mục Phítsơ, ngài Tôma Môrê và những người khác, đã thực
hiện. Họ xúc động và đau buồn. Ngày 12 tháng Sáu năm 1535, đức thánh
cha Phaolô III đã đặt giám mục Gioan Phítsơ làm hồng y. Đức thánh
cha hy vọng rằng việc này sẽ làm cho Henri VIII trả lại tự do cho
Phítsơ. Nhưng vua càng thêm tức giận và độc ác. Ông yêu cầu hồng y
Phítsơ phải chết. Gioan Phítsơ bị giết chết ngày 22 tháng Sáu năm
1535.
Cùng với người bạn Tôma Môrê, hồng y Gioan Phítsơ được đức thánh cha
Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1935.
Đôi lúc bạn dễ đồng tình với đám đông hơn là đứng ra bênh vực chân
lý. Khi thấy mình lâm vào tình trạng như vậy, bạn hãy cầu nguyện xin
thánh Gioan Phítsơ ban cho một chút lòng can đảm của ngài.
Thánh Tôma Môrê
Thánh Tôma Môrê là một luật sư và là một văn gia danh tiếng. Ngài
sinh tại Luânđôn vào năm 1477. Thân phụ của Tôma Môrê cũng từng là
một luật gia và là một quan tòa. Tôma hằng biết ơn cha mình vì đã
hết sức yêu thương và đã không làm ngài hư hỏng.
Người vợ thứ nhất của Tôma, bà Giên Côn, đã qua đời khi còn rất trẻ.
Bà để lại cho Tôma bốn người con nhỏ. Tôma Môrê kết hôn lần nữa với
một quả phụ, một quả phụ đơn sơ chất phác chẳng biết viết cũng chẳng
biết đọc gì cả. Người chồng đã gắng công dạy dỗ vợ mình. Tôma làm
cho bầu khí gia đình trở nên vui tươi dễ chịu bởi vì ngài có tính
vui vẻ hòa nhã đối với mọi người. Có một trẻ đọc trích đoạn Kinh
Thánh suốt bữa ăn. Sau đó, cả nhà vui đùa và nói chuyện khôi hài với
nhau. Thánh Tôma Môrê cũng hay mời những người láng giềng nghèo khó
xấu số hơn tới nhà ngài dùng bữa tối. Ngài luôn luôn giúp đỡ người
nghèo theo khả năng có thể. Thánh nhân thích tạo sự ngạc nhiên bất
ngờ cho các vị khách của ngài. Thậm chí Tôma Môrê cũng nuôi vài chú
khỉ làm những con vật cưng trong nhà. Nhưng ít người có thể hình
dung ra thánh Tôma Môrê thật đã sống nội tâm sâu xa đến độ nào. Ban
đêm, ngài đã cầu nguyện hàng giờ và thực hành nhiều việc khổ chế.
Thánh nhân ý thức rõ rằng để trở nên một Kitô hữu đích thực thì cần
phải có ơn Thiên Chúa giúp đỡ.
Thánh Tôma Môrê nắm giữ những chức vụ chính trị quan trọng. Suốt ba
năm, thánh nhân làm đại chưởng ấn (ngày nay gọi là thủ tướng). Vua
Henri VIII thường khoác tay mình trên vai của Tôma Môrê cách yêu
thương trìu mến. Tuy nhiên, dù Tôma Môrê là một thần dân rất trung
thành, thì đối với Thiên Chúa, thánh nhân vẫn trung thành hơn. Thật
sự là khi nhà vua cố làm cho Tôma Môrê vi phạm lề luật của Thiên
Chúa, Tôma Môrê đã không chịu nhượng bộ. Henri VIII muốn được ly dị
người vợ của ông để cưới một người đàn bà khác. Tuy nhiên, đức thánh
cha không thể ban phép vì đi ngược lại luật Thiên Chúa dạy. Henri
VIII thật bướng bỉnh và ngoan cố; và sau cùng, ông đã rời bỏ Giáo
hội. Ông muốn mọi người tôn nhận ông là thủ lãnh của Giáo hội Anh
quốc. Tôma không đồng ý chuyện đó. Ngài kiên quyết luôn trung thành
với đức tin Công giáo và với Thiên Chúa. Và Tôma Môrê bị kết án tử
vì lý do đó. Tuy vậy, Tôma Môrê đã tha thứ cho các kẻ xét xử ngài.
Thậm chí thánh nhân còn nói rằng ngài sẽ gặp lại họ trên nước thiên
đàng. Tôma Môrê thật sự có ý như vậy.
Trên đoạn đầu đài nơi ngài sắp sửa phải lìa đời, thánh Tôma Môrê đã
hôn lên mặt của người đao phủ. Sau đó, thánh nhân nói đùa rằng không
nên chém đứt bộ râu của ngài bởi vì nó chẳng làm điều gì nên tội.
Thánh nhân được phúc tử vì đạo vào hôm thứ Ba ngày mùng 6 tháng Bảy
năm 1533, thọ năm mươi bảy tuổi. Cùng với hồng y Gioan Phítsơ, Tôma
Môrê được đức thánh cha Piô XI tôn phong lên bậc hiển thánh năm
1935.
Vị thánh này được mọi người ngưỡng mộ vì ngài đã hết lòng tin tưởng
vào chân lý đức tin; và ngài đã sẵn lòng hy sinh mạng sống vì chân
lý ấy. Thánh Tôma Môrê đã liều mất hết mọi thứ: tài sản, địa vị, sự
an toàn của bản thân và của những người ngài thương yêu nhất. Thánh
Tôma Môrê đã giữ vững đức tin dù phải hy sinh cả mạng sống của mình.
Thánh nhân thách đố chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta sẽ làm gì
nếu ở trong hoàn cảnh giống như ngài
Thánh Gioan Fisher, Thánh Tôma More và Thánh Paulinô Nôlanô
Ngày đăng:
Thánh GIOAN FISHER
Giám Mục (1469 – 1535)
Thánh
Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia
giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ
gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm
1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501,
và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của
Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ
chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được
chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục
tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc
sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết
sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng
giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy
lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân
của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật
này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến
những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng
người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã
viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của
thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết
cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước
đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon.
Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng
thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành
hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để
nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của
Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha
Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là
phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này
mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với
Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền
kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này.
Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo
luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas
More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535
đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà
vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6
năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân
xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn
cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị
treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông
Thames … nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More
Thánh
TOMA MORE
(1478 – 1535) Quan thầy
của các chính trị gia
Thánh
Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia
đình mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện”.
Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo
phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho
Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc
đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ
Ozford tới Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng
nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì
trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu
trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái
thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ
và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ
sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More
tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận,
nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục
rất cẩn thận. “Trong gia đình này không có ai làm biếng cả…”
Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước
mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn
là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả
tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia
đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết
thư cho vợ: “Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát
này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được”.
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- “Anh không muốn còn đầy muỗm nếu
một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta”.
Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy
tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối
thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi
kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều
đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và
năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với
hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua
và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị
nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: –
Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt
giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày
mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna
More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14
tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện.
Trước toà án Ngài nói : – Vương quốc Anh không thể bất phục tòa
thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: – Thánh Phaolô đồng loã với cái
chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh
cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết
án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng
cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời
khuyên tốt đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu
đài, Ngài còn khôi hài nói : – Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo : – Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn
quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói : – Nó
không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6
tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.
Thánh PAULINÔ NÔLANÔ
(355 – 431)
Thánh
Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan.
Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được
thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở
nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang
Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với
Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai
như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz
và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn
thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ:
lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính
Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là
cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho
Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho
người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395
chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban
Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn
một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính
thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: –
“Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu
những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự
trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ”.
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả
là một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con
người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà
người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem
Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế
nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình,
thánh Paulinô viết:
– “Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu
rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc
đổi đất lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – “Sự nghèo khó của anh em
bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó
túng thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ
bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại
dòng nước chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể.
Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở
thành một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến
tới một đời sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian,
chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được
mọc cánh như các thiên thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người
Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá
Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân,
nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ
còn biết cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền
bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả
cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng
có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục
của người Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ
giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32
bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp
quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được
thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên
danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban
Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu
nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng
năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới.
Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ
cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi
nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay
kham khổ.
Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái
chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên
Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo.
Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục
tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au,
Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây,
Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.
Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – "Có
nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những
thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành
mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ".
Thánh Paulinô thường nói : – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là
một cuộc chạm trán hồng phúc.
Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con
người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người
tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ
khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.
Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh
Paulinô viết:
–"Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi
đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất
lấy trời.
Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí : – "Sự nghèo khó của anh em bạn
là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng
thiếu.
Và Ngài giải thích thêm : – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên
kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước
chảy.
Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa : – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy
sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .
Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành
một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời
sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như
được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên
thần.
Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người
Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá
Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng
đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết
cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa
biết rõ của cải con hiện ở đâu.
Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm
là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ
Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người
Vandales.
Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ
giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài
thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.
"Không kể những việc bên ngoài, lại
còn những việc thúc bách hằng ngày và mối lo lắng đến các Giáo hội".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, vì có nhiều kẻ khoe
khoang về xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng sẽ tự khoe khoang. Tôi xin nói như
điên dại rằng: ai tự phụ về điều gì, thì tôi cũng tự phụ như vậy. Họ là
những người Do-thái, thì tôi cũng vậy; họ là những người Israel, thì tôi
cũng vậy; họ là dòng dõi Abraham, thì tôi cũng vậy; họ là tôi tớ Ðức Kitô,
tôi xin nói như mê sảng rằng: tôi còn hơn họ nữa, tôi đã chịu khó nhọc hơn,
năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức, liều mình chết nhiều lần, bị người
Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra
tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, và một ngày một đêm chơi vơi
ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp nhiều nguy hiểm vì sông ngòi,
nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì người
dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài
biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả; chịu lao đao vất vả, hay phải thức
khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu lạnh rét, mình trần. Không kể những
việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày, và mối lo lắng đến
các giáo hội. Nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Nào ai vấp phạm mà tôi
chẳng xót xa? Nếu phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối
của tôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3.
4-5. 6-7
Ðáp:Thiên Chúa
cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi lo âu (x. c. 18b).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi
lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh
diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa,
cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và
Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui
tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã
nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta
là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6,
19-23
"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con
cũng ở đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét
mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy
tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không
làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì
lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong
sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân
con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm,
sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Kho tàng
sự sống
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục với bài Giảng
Trên Núi của Thánh Ký Mathêu (6:19-23), một bài Phúc Âm
ngay sau Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm qua, như
thể ý nghĩa của hai bài Phúc Âm có liên hệ mật thiết với nhau, ở chỗ, nếu sống
Kinh Lạy Cha thì phải sống như lời Chúa Giêsu dạy trong
bài Phúc Âm hôm nay về
một tấm lòng không còn dính bén với bất cứ sự gì trên trần gian này nữa, trái
lại, chỉ tìm kiếm những gì siêu nhiên cao cả chân thật nhất thuộc về trời, vĩnh
viễn, bất diệt:
"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ
làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho
mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm
cướp không đào ngạch lấy mất".
Tuy nhiên, để được
như vậy, theo lời Chúa Giêsu phán dạy, con người môn đệ của Người cần phải có
một tấm "lòng thanh sạch" (Mathêu 5:8) mới thấy được "tất cả sự thật" (Gioan
16:13) mà chọn lựa, theo đuổi và chiếm hưởng, và phải chăng Chúa Giêsu muốn ám
chỉ tấm "lòng thanh sạch" đây chính là "con mắt" như "đèn
soi" cho bản
thân cùng cuộc đời
của con người:
"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân
con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy
nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng
nào?"
Thực
tế sống đạo cũng cho thấy tỏ tường là tất cả mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm và
phản ứng hay đáp ứng của con người đều lệ thuộc vào hay phát xuất từ tấm lòng
của con người. Nếu ai có tấm lòng tốt thì họ nhìn mọi sự đều tốt, và họ làm điều
tốt, ngược lại, ai có một tấm lòng không tốt thì họ xu hướng về những ý nghĩ
xấu, nói năng những điều không hay và tác hành những chuyện không lành v.v. "Lòng đầy
mới tràn ra ngoài miệng" (Mathêu 12:34) là thế, và đó cũng là lý do Chúa
Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "kho
tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
Theo tu đức
Kitô giáo cũng thế, để một số tâm hồn nào đó được siêu thoát khỏi trần thế,
sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, Thiên Chúa thường hay thanh tẩy lòng
họ cho khỏi tất cả mọi vương vấn, quyến luyến, dính bén với bất cứ một tạo vật
nào, dù thánh hảo và tốt lành mấy chăng nữa, ngoài chính Thiên Chúa.
"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ
làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho
mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm
cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con
mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được
sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng
trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
Trong Thứ 2 gửi Giáo đoàn Corinto ở Bài Đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy một
gương sống thật là trung thực với những gì Chúa Giêsu khuyên dạy các môn đệ
của Người ở trong Bài Phúc Âm: "tích
trữ cho mình kho tàng trên trời..., kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở
đó.... mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng".
Thật vậy, nếu vị tông đồ Dân Ngoại trong Bài Đọc 1 hôm nay không có "con
mắt sáng" là đức khôn ngoan thần linh bởi Thần Chân Lý ở trong ngài và
tác động nơi ngài, thì ngài không thể ôm ấp trong lòng mình "kho tàng
trên trời" là Chúa Kitô cùng với Phúc Âm của Người, là Tin Mừng ngài
rao giảng cho dân ngoại, với tất cả
"mối lo lắng đến các giáo hội", đến độ, ngài chẳng những không còn
thiết gì trên đời này, thậm chí còn coi mọi sự như phân bớn, mà còn sẵn sàng
bất chấp mọi sự và bằng mọi giá, cho dù có phải trải qua những tình trạng
thật là bất hạnh và khốn khổ nhất, dồn dập, liên tục, như ngài đã không ngần
ngại và không giấu diếm tiết lộ cho chúng ta biết trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:
"... tôi đã chịu khó nhọc hơn, năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức,
liều mình chết nhiều lần, bị người Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một
roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu,
và một ngày một đêm chơi vơi ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp
nhiều nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người
đồng chủng, nguy hiểm vì người dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy
hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả;
chịu lao đao vất vả, hay phải thức khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu
lạnh rét, mình trần".
Tất cả những gì Thánh Phaolô diễn tả trên đây về thân phận của một vị tông
đồ dân ngoại như ngài, cho chúng ta thấy đức tin tuân phục của ngài mãnh
liệt biết bao vào chính Đấng đã thương tuyển chọn ngài như là một đứa con
sinh non, đã tin tưởng vào một con người từng hung hăng bách hại Giáo Hội
Chúa ngay vào những thời điểm sơ khai, và đã sai ngài đi làm chứng về Người cho
đến tận cùng trái đất. Lòng tin tưởng của ngài vào Chúa phản ảnh tâm tình
của Thánh Vịnh 33 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi
khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy
mừng vui.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh
Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi
điều lo sợ.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ
mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi
điều tai nạn.
THỨ BẢY
Lễ Sinh Nhật Thánh
Gioan Tẩy Giả
Lễ Trọng
Bài Ðọc I: Gr 1,
4-10
"Trước khi tạo thành ngươi trong
lòng mẹ, Ta đã biết ngươi".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước
khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra
khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các
dân tộc". Và tôi đã thưa lại: "A, a, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có
biết ăn nói, vì con còn con nít".
Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi
đừng nói: "Con là con nít", vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi
đi, ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi đừng sợ họ, vì
Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi". Chúa phán như thế.
Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà nói
với tôi rằng: "Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban quyền
cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ và đập
phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 70, 1-2.
3-4a. 5-6ab. 15 và 17
Ðáp:Từ trong thai
mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con (c. 6b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương
nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu
nguy và giải thoát con; xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Ðáp.
2) Xin trở nên thạch động để con dung
thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến luỹ
của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác. - Ðáp.
3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân
lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con từ hồi thanh xuân. Ngay từ trong
bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu con, Chúa là Ðấng bảo
vệ con; con đã luôn luôn trông cậy vào Chúa. - Ðáp.
4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa
công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao mà kể cho
cùng. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể
những sự lạ của Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1,
8-12
"Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng
các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, anh em yêu mến Chúa
Giêsu Kitô, dù không thấy Người, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng
không thấy Người, bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn
tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.
Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng các
tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu, khi các ngài tiên báo về ân sủng dành
cho anh em: các ngài đã tìm xem coi trong thời gian nào, hoặc hoàn cảnh nào
Thần Trí của Ðức Kitô chỉ cho các ngài biết phải tiên báo những khổ nạn và
những vinh quang kế tiếp dành cho Ðức Kitô. Các ngài được mạc khải cho biết
rằng các ngài không phải phục vụ chính mình, mà là cho anh em, trong những
gì đã được loan truyền cho anh em hiện nay, do những kẻ rao giảng Tin Mừng
với sự trợ giúp của Thánh Thần từ trời được sai xuống, Ðấng mà các thiên
thần cũng ước ao nghiêng mình chiêm bái.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 1, 7;
Lc 1, 17
Alleluia, alleluia! - Ông đến để chứng
minh về sự sáng; để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc hoàn hảo. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 5-17
"Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một
con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Luca.
Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có
một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi
Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn
ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng
họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.
Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ
tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế,
ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương, đang lúc toàn
thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ
thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy
thì hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.
Nhưng thiên thần nói với ông rằng:
"Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ
ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là
Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì
việc con trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ không
uống rượu và thức có men; sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ
đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước
Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia, để đổi lòng dạ cha ông về với
con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn
cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị sẵn sàng".
Ðó là lời Chúa.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã khen
tặng Vị Tiền Hô được sai đến trước Người là Đấng cao trọng hơn ông để
dọn đường cho Người là Đấng đến
sau ông:
"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Ta bảo thật các ngươi,
trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn
Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông.
Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm
lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề
luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan
là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!'" (Mathêu 11:11-15).
Trước hết,
Chúa Giêsu đã minh định Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao cả nhất loài
người, không một ai cao trọng hơn ngài, thậm chí có thể nói bao gồm cả Mẹ
Maria. Phải chăng chính vì thế mà trong tất cả các thánh (ngoài trừ Mẹ
Maria), chỉ
có một mình
Thánh Gioan Tẩy Giả mới được Giáo Hội mừng lễ sinh nhật trần gian của ngài,
24/6, lễ sinh nhật nước trời tưởng nhớ cái chết mất đầu của ngài 29/8, (trước Lễ Giáng sinh 6 tháng), ở bậc
Lễ Trọng (solemnity), hơn
cả lễ sinh nhật Mẹ Maria ngày 8/9,
chỉ ở bậc lễ
kính (feast)?
Dầu sao nhân
vật Tiền Hô Gioan
Tẩy Giả này,
về cấp độ ân sủng, ngài không thể nào "Đầy Ơn
Phúc" (Luca 1:28) như Mẹ Maria, và phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã ám
chỉ về Mẹ Maria ngay sau khi khen tặng vị tiền hô của Người: "người
nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông"?
Đúng thế, nếu
càng khiêm hạ nhỏ bé thì càng lớn
lao cao trọng trên
nước trời thì
ai bé nhỏ bằng Mẹ Maria nên nhờ đó Mẹ
Maria mới càng lớn lao cao trọng
nhất trên
Nước Trời, nghĩa là vì
Mẹ càng nhỏ, càng trở thành hư không, thành zero, Mẹ mới càng đầy
Thiên Chúa là
sự hữu,
là tất cả,
mới càng
giống Chúa Kitô, đến độ phản ảnh Người là mặt trời công chính, như Mẹ được
Thánh ký Gioan thị kiến thấy và mô tả trong Sách Khải Huyền của ngài như "mặc mặt
trời" (12:1), hay như Diễm Tình Ca cho biết là "rực rỡ như mặt trời"
(6:10). Trong khi đó
Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ là cái đèn
soi mà thôi (xem Gioan 1:6-8;5:35).
Sở dĩ Vị Tiền Hô
Gioan Tẩy Giả này là một con người cao cả nhất loài người, tất nhiên không
phải về lãnh vực ân sủng, như trên đã cảm nhận và phân tích, cho dù ngài
có được cho rằng khỏi nguyên tội khi còn là thai nhi 6
tháng trong lòng
thai mẫu, vào chính lúc ngài nhẩy mừng khi nghe thấy lời Mẹ Maria chào mẹ
của ngài (xem Luca 1:44), mà là về vai trò của ngài, một vai trò không ai
trên trần gian này có thể hơn được ngài. Giống như
trường hợp các
vị linh mục, cho dù không đầy ân phúc như Mẹ Maria trong cấp trật ân sủng,
nhưng vẫn hơn Mẹ trong vai trò linh mục của các vị, bởi các vị được đồng hóa
với Chúa Kitô và là Chúa Kitô (Alter Christus) khi
các vị thi hành thừa tác vụ thánh.
Sứ vụ cao trọng vô
tiền khoáng hậu của Vị
Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả này là ở chỗ ngài là vị trung gian giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy,
nếu nền tảng của Nhà Thiên Chúa được xây trên "nền tảng các tông đồ và
tiên tri" (Êphêsô 2:20), thì Thánh Gioan Tẩy Giả chẳng những là
vị tiên tri của các vị tiên tri, "tiên
tri của Đấng Tối Cao" (Luca 1:46) được
tiên báo bởi chính
một vị tiên
tri trong Cựu Ước (xem Isaia 40:3), mà
còn là "chàng phù
rể" (Gioan 3:29) ở
sát ngay bên với Chàng Rể Kitô
hơn hết mọi
người, đã
nhận biết Chúa Kitô trước để rồi sau đó đã giới
thiệu Người cho các tông đồ tiên khởi của Chúa Kitô (xem Gioan 1:35-51).
Chưa hết, sứ
vụ cao trọng của ngài còn lên đến tột đỉnh ở chỗ ngài đã làm phép rửa cho
chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, như thể ngài đã trở thành người cha thiêng
liêng của Con Thiên Chúa làm người. Không một vị tiên tri nào trong
Cựu Ước đã được tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô và gặp Chúa Kitô, ngoài trừ
Thánh Gioan Tẩy Giả. Và cũng không một tông đồ nào đã nhận biết Chúa Kitô
như ngài, cho dù các vị đã sống với Chúa Kitô 3 năm, trong khi ngài chưa hề
gặp Người mà vẫn có thể nhận ra Người để giới thiệu Người cho các vị (xem
Gioan 1:33-34).
Nếu các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của
Chúa Kitô trên thế giới
nói chung thì Thánh Gioan Tẩy Giả là
chứng nhân tiên khởi cho Chúa Kitô trước dân Do Thái cũng như trước các
tông đồ của Chúa Kitô nói riêng.
Phải chăng Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được lời Chúa qua miệng Tiên Tri
Isaia (41:19) tiên báo và ám
chỉở
các câu sau đây: "Nơi
hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây dầu; nơi
sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết, lưu
tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của
Israel đã tạo nên cơ đồ này"? Phải
chăng Thánh Gioan Tẩy Giả, với sứ vụ cao trọng đệ nhất thiên hạ của ngài
chính là "cây
hương nam trong hoang địa",là"cây
tùng trong sa mạc"?
Việc"Lời đã
hóa thành nhục thể",một mầu
nhiệm vô cùngmầu nhiệm, rất khó có thể chấp nhận với tâm thức tự
nhiên của con người, trái lại, còn có thể "trở thành cớ vấp phạm cho
nhiều người trong Israel" (Luca 2:34),nên còn đượcThiên
Chúa vô cùng khôn ngoan đã cẩn thận sửa soạn cho việc Người xuất hiện trước
dân Do Thái của Ngài, ở chỗ sai "vị tiên tri của Đấng Tối Cao" là
Tiền Hô Gioan
Tẩy Giả này đến
trước để dọn đường cho "Người tỏ mình ra" (Gioan 1:31),
nhờ đó dân của Ngài mới có thể nhận biết Người mà được cứu độ.
Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần
thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải
được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản
thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng
(xem Luca 1:36), và là vị"còn
hơn một tiên tri nữa",như
Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngàicòn
là"sứ
thần"của
Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời
xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của
Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thầnđã
được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nênđã
được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích
lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình:"Này
đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con",vàlà
vị được Chúa Kitô đã hết lời khen tặng, khen tặng hết lời:"Ta
nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất
hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước
Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông" (Mathêu 11:11).
Thứ Bảy
(Nếu Thứ Bảy đây không bị át đi bởi Lễ Trọng Sinh Nhật Thánh Gioan
tẩy Giả như năm 2023 này)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I:(Năm
I)2
Cr 12, 1-10
"Tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối
của tôi".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu phải khoe mình, -
thật chẳng có ích gì, - thì tôi sẽ nói đến những thị kiến và những mạc khải
Chúa tỏ ra. Tôi biết có người kia trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc
bấy giờ có ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng
không biết, có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi
biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác,
tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Ðàng, và được nghe
những lời mầu nhiệm không được nói với loài người. Vì người ấy, tôi sẽ khoe
mình: nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự yếu
đuối của tôi. Vì nếu tôi muốn khoe mình, tôi sẽ không ngu dại, bởi tôi sẽ
nói sự thật, nhưng tôi xin miễn, kẻo có người đánh giá tôi cao hơn điều họ
thấy hoặc nghe về tôi. Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự
cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt
tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán
cùng tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự
yếu đuối".
Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu
hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả
trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì
Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 8-9.
10-11. 12-13
Ðáp:Các bạn hãy
nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: 1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn
binh, chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử
và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương
tựa ở nơi Người. - Ðáp.
2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ
Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ
nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe
ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời,
mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống
không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 6,
24-34
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày
mai".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn
đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và
yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không
thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy
náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy
gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không
gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi
chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy
náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con
lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào?
Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay
cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng
một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào
lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi
những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta
sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những
điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn
các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các
điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về
ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày
ấy".
Ðó là lời Chúa.
Chia Sẻ Lời Chúa
Ký
Thác Sự Sống
Bài
Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm
cho Thứ
Bảy Tuần XI hôm nay là đoạn
cuối cùng của
chương 6 (24-34), đoạn Chúa Kitô huấn dụ các tông đồ về lòng tin tưởng phó thác
vào sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa bằng việc ưu tiên hóa những
gì chính yếu liên quan đến phần rỗi và sự thánh hóa của con người.
"Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay
cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác
không hơn áo mặc sao?"
Để rồi, sau khi chứng minh cho các môn đệ biết các
vị còn quí hơn loài động vật (như "chim trời) và
thực vật (như
"hoa huệ ngoài đồng") là
những loài vô tri thua kém con người, "không gieo vãi, gặt hái, thu hoạch" hay
"không lam lũ, không canh cửi", mà còn được Thiên Chúa chăm sóc cho, đến độ
Salomon sang trọng cũng "không phục sức được bằng
một trong những đoá hoa đó", Người đã
khuyên các môn đệ rằng:
"Vậy
nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc
cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy
náy lo lắng mà nói rằng: 'Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì
chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần
đến những điều đó".
Sau
cùng
Người đã kết luận: "Tiên
vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các
điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày
mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
Cũng như hôm qua, chúng ta lại thấy những lời Chúa Giêsu khuyên dạy các tông
đồ về lòng tin tưởng vào Thiên Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay đều được ứng
nghiệm và nên trọn nơi vị tông đồ dân ngoại Phaolô ở Bài đọc 1 hôm nay, như
ngài thuật lại trong Thư 2 gửi Giáo đoàn Corinto của ngài. Hôm qua chúng ta
đã thấy được lòng tin của ngài, một lòng tin bất khuất và thắng vượt tất cả
mọi gian nan khốn khó gây ra bởi chính sứ vụ tông đồ của ngài, một lòng tin
nhờ đó đã khiến ngài thần hiệp với Thiên Chúa, đến độ xuất thần và ngất trí,
không còn biết gì trên trần gian này nữa, ngoài những sự siêu vời khôn tả
trên trời, như ngài diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm nay về ngài là
"... có người kia trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có
ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết,
có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc
bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết,
có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Ðàng, và được nghe những lời mầu
nhiệm không được nói với loài người".
Tuy nhiên, càng được đặc ân thần hiệp siêu việt như thế, ngài lại càng cảm
thấy mình bất xứng và thấy bản thân ngài yếu đuối hơn ai hết và hơn bao giờ
hết, tất cả những gì tốt lành ngài có là do Chúa thương ban, kể cả những
khốn khó và cám dỗ để, cái yếu hèn của ngài tiếp tục được Thiên Chúa sử dụng
để tỏ quyền năng của Người ra, qua những việc làm phi thường trổ sinh hoa
trái của ngài, đúng như những gì ngài đã thành thật chia sẻ với Giáo đoàn
Corinto ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"... nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự
yếu đuối của tôi. ... Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao
tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi.
Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán cùng
tôi rằng: 'Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu
đuối'. Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức
Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự
lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối,
chính là lúc tôi mạnh mẽ".
Chính vì vị tông đồ dân ngoại Phaolô hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, ở chỗ,
ngài chỉ
"tìm
kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người trước hết mọi sự",
như ngài đã diễn tả trong Bài Đọc 1 hôm qua, mà chính bản thân "kính sợ
Chúa" và "nương tựa" Chúa của ngài mới thấy được những gì
Thiên Chúa làm cho riêng ngài và qua ngài cho những ai ngài được sai đến, đó
là một vị "Chúa thiện hảo", hằng ở với ngài và "bênh chữa"
ngài, đúng như những gì được Bài Thánh Vịnh 33 diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm
nay:
1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ
Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa
thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người.
2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng
thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng
thiếu chi thiện hảo.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta
sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống
lâu để hưởng nhiều phúc lộc.