SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật 13 Quanh Năm Năm A
Lời Chúa
Bài Ðọc I: 2 V 4, 8-11. 14-16a
"Người đến trọ nhà mình, là một vị thánh của Thiên Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Một ngày nọ, Êlisê đi ngang qua miền Sunam. Ở đó có một bà sang trọng mời ông ở lại dùng bữa. Và từ đấy, mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa. Bà nói với chồng bà rằng: "Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó".
Một ngày nọ Êlisê đến, ông lên căn phòng trên lầu và nghỉ tại đó. Ông nói (với Giêzê, tiểu đồng của ông): "Bà muốn chúng ta làm gì cho bà?" Giêzê nói rằng: "Thầy khỏi hỏi, bà ấy không có con, và chồng bà đã già". Êlisê bảo gọi bà ta. Nghe gọi, bà liền đến đứng trước cửa, ông nói với bà rằng: "Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng bế một bé trai".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 88, 2-3. 16-17. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).
Xướng: 1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín. - Ðáp.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. - Ðáp.
3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Ðấng Thánh của Israel. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 6, 3-4. 8-11
"Chúng ta chịu mai táng với Ngài nhờ phép rửa, chúng ta phải sống đời sống mới".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Người đã chết, tức là chết một lần dứt khoát đối với tội lỗi, mà khi Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Cả anh em cũng thế, anh em hãy tự kể như mình đã chết đối với tội lỗi, nhưng sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 6
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 37-42
"Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các tông đồ rằng: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
"Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy; và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri; và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu".
Ðó là lời Chúa.
Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy quả thực "Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri" nơi trường hợp của "một bà sang trọng", "không có con, và chồng bà đã già", đối xử rất tốt với tiên tri Elisa là người hay "đi ngang qua miền Sunam" của bà, và vì thế, "mỗi khi ông đi ngang qua đó, ông đều đến nhà bà dùng bữa".
Chính vì bà đã "đón tiếp
một vị tiên tri với danh nghĩa là tiên tri", như bà đã bày tỏ với
chồng của bà: "Tôi biết rằng người thường trọ nhà mình là một vị
thánh của Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy làm cho ông một căn phòng trên
lầu, và đặt trong căn phòng đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế,
và một cây đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó", mà bà "sẽ lãnh phần
thưởng của tiên tri", khi bà được chính vị tiên tri báo trước cho bà rằng:
"Năm tới cũng vào thời kỳ này, bà sẽ bồng
bế một bé trai",
một phần thưởng tuy về thể lý nhưng lại xuất phát từ thế giá của một vị
tiên tri mà bà tin tưởng và "đón tiếp".
Nếu mỗi một người Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô ý thức được như chính Thánh Phaolô xác tín và huấn dụ trong Bài Đọc II hôm nay: "tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi vì được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế", thì tất cả những ai "đón tiếp" họ, tức chấp nhận họ hay chấp nhận chứng từ "sống cho Thiên Chúa, trong Ðức Giêsu Kitô" của họ về một Chúa Kitô sống trong họ, tất cả những người đó "sẽ lãnh phần thưởng của người công chính" là đức tin cứu độ như chính Kitô hữu chứng nhân vậy.
Như thế, cuối cùng, tất cả được nên trọn theo Thánh Ý Chúa, theo Dự Án Cứu Độ thần linh của Thiên Chúa, một dự án cứu độ đã được hiện thực nơi Công Cuộc Cứu Độ của Chúa Kitô Nhập Thể và Vượt Qua, tột đỉnh của mạc khải thần linh nơi giòng lịch sử cứu độ của dân Do Thái, một công cuộc cứu độ vẫn còn được Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập để tiếp tục thông truyền Ơn Cứu Độ qua giòng lịch sử của nhân loại. Tất cả đều chỉ là những cách thế Vị Thiên Chúa là Tình Yêu vô cùng nhân hậu muốn sử dụng để tỏ lòng thương xót của Ngài cho loài người tội nhân vô cùng khốn nạn đáng thương, cần phải tin tưởng và chấp nhận vào Lòng Thương Xót của Ngài, như tâm tình của bài Đáp Ca hôm nay:
1) Con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời, qua mọi thế hệ miệng con loan truyền lòng trung thành Chúa. Vì Ngài đã phán: "Tình thương của Ta đứng vững muôn đời"; trên cõi trời cao, Ngài thiết lập lòng trung tín.
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.
3) Vì Chúa là vinh quang quyền năng của họ; nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Ðấng Thánh của Israel.
THỨ HAI
Ngày 3 tháng 7
THÁNH TÔ-MA, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !
Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, giáo hoàng, về các sách Tin Mừng.
Một người trong nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Chỉ có người môn đệ này vắng mặt. Khi trở về, ông nghe thuật lại sự việc đã xảy ra nhưng không chịu tin những điều đã nghe. Chúa đến lần nữa và đưa cạnh sườn cho người môn đệ không tin chạm tay vào. Người đưa tay ra và, khi cho ông thấy các thương tích của Người, Người chữa lành vết thương cứng tin của ông. Anh em thân mến, trong chuyện này, anh em chú ý đến điều gì ? Lúc đầu, người môn đệ được chọn này vắng mặt, sau đó ông về và nghe kể lại, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi đưa tay chạm, chạm rồi tin, chẳng lẽ anh em cho tất cả chuyện này là tình cờ hay sao ?
Không, không phải tình cờ đâu, nhưng Thiên Chúa an bài cho xảy ra như thế. Thật vậy, Đấng từ bi cao cả đã hành động cách lạ lùng là cho người môn đệ hoài nghi đó chữa lành vết thương cứng tin nơi chúng ta khi ông chạm tay vào thương tích trên thân thể của Thầy mình. Đàng khác, đối với đức tin của chúng ta, sự cứng tin của ông Tô-ma còn hữu ích hơn đức tin của những môn đệ khác là những người đã tin. Vì ông đã chạm tay vào Chúa và đã tin, nên tâm trí chúng ta không còn hoài nghi nữa và được một đức tin vững mạnh. Thật vậy, người môn đệ nghi ngờ và được chạm tay vào Chúa đã trở thành người làm chứng Chúa đã sống lại thật.
Ông đã được chạm tay vào Chúa và đã kêu lên : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con. Đức Giê-su bảo : Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Thánh tông đồ Phao-lô lại nói : Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy. Vì thế, chắc chắn đức tin là bằng chứng của những điều không thể thấy đó. Thật vậy, những gì đã thấy thì không cần phải tin, nhưng phải nhìn nhận. Thế tại sao khi ông Tô-ma thấy và được chạm tay vào Chúa, Chúa lại bảo ông rằng : Vì đã thấy Thầy, nên anh tin ? Nhưng điều ông thấy là một chuyện, điều ông tin lại là chuyện khác. Người phàm phải chết không thể nhìn thấy Thiên Chúa được. Thế mà ông thấy một con người và ông tuyên xưng Thiên Chúa : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con ! Nhờ đã thấy nên ông đã tin : khi nhìn xem một con người thật, ông đã gọi người ấy là Thiên Chúa, Đấng ông không thể thấy được.
Lời tiếp theo còn làm cho chúng ta vui hơn : Phúc thay những người không thấy mà tin. Chắc chắn lời này đặc biệt nhắm đến chúng ta, vì chúng ta không thấy Chúa bằng giác quan nhưng lại gắn bó với Người bằng tâm trí. Câu ấy nhắm đến chúng ta, nhưng với điều kiện là chúng ta phải thể hiện đức tin bằng hành động. Vì chưng ai thực hành điều mình tin mới là người tin thật sự. Còn những ai chỉ tin ngoài môi ngoài miệng, thì thánh Phao-lô nói về họ rằng : Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng trong hành động họ lại chối Người. Thánh Gia-cô-bê cũng nói : Đức tin không có hành động là đức tin chết.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ mừng lễ thánh Tô-ma tông đồ. Xin nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em được xây dựng trên nền tảng các tông đồ".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm Ðá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Hỡi muôn dân, hãy ngợi khen Chúa! Hỡi ngàn dân, hãy ca tụng Người. - Ðáp.
2) Vì lòng từ bi Người vững bền trên chúng ta, và lòng trung kiên Người tồn tại đến muôn đời. - Ðáp.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! - Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 24-29
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđy-mô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Ðó là lời Chúa.
TIỂU SỬ VÀ SỨ VỤ TÔNG ĐỒ
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
http://conggiao.info/thanh-toma-tong-do-d-41872
Thứ Tư 27/9/2006 - Bài 19: Tông Đồ Tôma (ĐTC Biển Đức XVI)
Thứ Hai
(nếu không bị Lễ Kính Thánh Tôma Tông đồ át đi)
Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 16-33
"Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao?"
Trích sách Sáng Thế.
Khi những vị ấy chỗi dậy, ra khỏi thung lũng Mambrê, liền trông về phía thành Sôđôma. Abraham cùng đi để tiễn chân các đấng. Chúa phán: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không? Vì Abraham sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng cường, và muôn dân thiên hạ chẳng nhờ đó mà được chúc phúc sao? Ta biết Abraham sẽ truyền dạy cho con cháu và gia tộc mai sau phải tuân theo đường lối của Chúa, ăn ở ngay lành công chính, để Thiên Chúa ban cho Abraham những gì Người đã hứa cùng ông". Vậy Chúa phán: "Tiếng kêu la của dân Sôđôma và Gômôra đã gia tăng, và tội lỗi chúng quá nặng nề! Ta sẽ xuống coi việc chúng làm có như tiếng kêu thấu đến tai Ta hay không, để Ta sẽ biết rõ".
Các vị ấy bỏ nơi đó, đi về hướng thành Sôđôma. Nhưng Abraham vẫn còn đứng trước mặt Chúa. Ông tiến lại gần Người và thưa: "Chớ thì Chúa sắp tiêu diệt người công chính cùng với kẻ tội lỗi sao? Nếu có năm mươi người công chính trong thành, họ cũng chết chung hay sao? Chúa không tha thứ cho cả thành vì năm chục người công chính đang ở trong đó sao? Xin Chúa đừng làm như vậy, đừng sát hại người công chính cùng với kẻ dữ, đừng đối xử với người công chính như với kẻ dữ! Xin đừng làm thế! Chúa phán xét thế giới, Chúa không xét đoán như thế đâu". Chúa phán cùng Abraham rằng: "Nếu Ta tìm thấy trong thành Sôđôma năm mươi người công chính, Ta sẽ vì họ mà tha thứ cho cả thành". Abraham thưa lại: "Dù con chỉ là tro bụi, con đã bắt đầu nói, nên con xin thưa cùng Chúa con: Nếu trong số năm mươi người công chính đó còn thiếu năm người thì sao? Vì thiếu năm người Chúa có tàn phá cả thành không?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm thấy bốn mươi lăm người công chính, Ta sẽ không phá huỷ cả thành". Abraham lại thưa cùng Chúa rằng: "Nhưng nếu có bốn mươi người thì Chúa sẽ làm gì?" Chúa phán: "Ta sẽ vì bốn mươi người đó mà không trừng phạt cả thành". Abraham thưa: "Lạy Chúa, nếu con lên tiếng, xin Chúa đừng nổi giận. Nếu ở đây tìm được ba mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không phạt". Abraham nói: "Vì con đã trót nói thì con sẽ thưa cùng Chúa: Nếu trong thành tìm được hai mươi người công chính thì sao?" Chúa phán: "Vì hai mươi người đó Ta sẽ không tàn sát". Abraham thưa: "Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?" Chúa phán: "Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá".
Khi đã nói với Abraham xong, Chúa ra đi, và Abraham trở về nhà mình.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 102, 1-2. 3-4. 8-9. 10-11
Ðáp: Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. - Ðáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng. - Ðáp.
3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.
4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 18-22
"Con hãy theo Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đám đông dân chúng vây quanh Người, thì Người ra lệnh sang qua bờ bên kia. Một luật sĩ đến thưa Người rằng: "Lạy Thầy, bất cứ Thầy đi đâu, con cũng xin theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu". Một môn đệ khác thưa Người rằng: "Thưa Thầy, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã". Chúa Giêsu trả lời: "Con hãy theo Ta, và hãy để kẻ chết chôn kẻ chết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm
"kẻ chết chôn kẻ chết"
Bài Phúc Âm cho ngày trong tuần XIII Thường niên hôm nay rất ngắn gọn, chỉ bao gồm 2 câu trả lời của Chúa Giêsu cho 2 trường hợp khác nhau. Trường hợp thứ 1 về "Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo'" , và trường hợp thứ 2 về "Một người khác là người môn đệ thưa với Người: 'Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.'"
Chúa Giêsu đã trả lời cho vị kinh sư rằng "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu", và trả lời cho người môn đệ rằng: "Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ".
Trước
hết, chúng ta thấy nơi 2 câu Chúa
Giêsu trả lời như
thế này: câu thứ nhất cho vị kinh sư hoàn toàn có
tính chất khách quan, thách đố và
mời gọi, để
vị kinh sư này suy
nghĩ xem có
thể theo Người là một tôn sư homeless vô gia cư để rồi tự quyết định
lấy.
Trái lại, câu trả lời thứ hai của Người (hình như) cho một trong thành phần môn đệ đã theo Người ngỏ lời xin Người cho phép về nhà lo phần an táng thân phụ của mình, có tính cách chủ quan, cương quyết và nghiêm ngặt, như thể đã theo Người thì không được coi ai hơn Người, dù là thân nhân ruột thịt của mình, và vì thế đừng lo chuyện thế gian, hãy để cho thế gian lo chuyện thế gian, "phần con, hãy theo Thày" (Gioan 21:22).
Cả 2 câu trả lời này đều phản ảnh Bài Giảng Trên Núi về các Phúc Đức Trọn Lành mà Người đã huấn dụ các môn đệ của Người. Câu trả lời thứ nhất liên quan đến mối phúc đức trọn lành "ai có lòng khó khăn ấy là phúc thật, vì chưng Nước Chúa Trời là của họ" (Mathêu 5:3), và câu trả lời thứ hai liên quan đến lời huấn dụ của Người: "Trước hết hãy tìm Nước Chúa và sự cống chính của Ngài, còn tất cả mọi sự khác sẽ được ban cho sau" (Mathêu 6:33).
Tóm lại, qua hai câu trả lời này, Chúa Giêsu kêu gọi ai muốn theo Người thì phải sống trọn lành hơn, một sự sống như Người (câu trả lời 1) và với Người (câu trả lời 2), một sự sống nhờ đó mới có thể "nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48).
Câu
Chúa Giêsu huấn dụ người môn đệ nào đó
"xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã"
rằng "Anh
hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ"
không phải là một thứ huấn dụ dạy con cái bất hiếu với cha mẹ của mình, trái
lại, Người muốn thăng hóa và thánh hóa tình nghĩa xác thịt, như Người đã đối
xử với chính Mẹ của người sau khi Mẹ Người tìm thấy Người trong đền thờ sau
3 ngày lạc mất Người (xem Luca 2:49), hay khi Mẹ Người và anh chị em họ của
Người ở bên ngoài muốn gặp Người (xem Luca 8:20).
Bởi thế, phải hiểu cái "chết" trong câu Chúa Giêsu muốn nói đến ở đây không phải chỉ hoàn toàn về phần xác mà còn nhất là về phần hồn. Và vì thế lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây có thể hiểu là ai muốn theo Người và muốn làm môn đệ đích thực của người thì phải làm sao sống vượt lên trên thế gian, đừng chiều theo khuynh hướng chết chóc của thế gian, khuynh hướng "chuộng tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), khuynh hướng thích đi vào con đường rộng dẫn đến diệt vong (xem Mathêu 7:13). Nhờ đó, họ chẳng những thoát khỏi cái chết của thế gian mà còn có thể cứu được thế gian nữa bằng thế giá thánh đức của họ trước nhan Chúa.
Tổ phụ Abraham trong Bài Đọc 1 hôm nay quả thật là cha của kẻ tin nên mới có thế giá trước mặt Thiên Chúa như vậy, mới thân tình với Thiên Chúa như thế, đến độ Ngài không thể giấu ông những gì Ngài đang có ý định thực hiện: "Nào Ta có thể giấu Abraham điều Ta sắp làm không?" Đó là ý định hủy diệt Thành Sodoma và Gomora vì "tội lỗi chúng quá nặng nề!"
Khi biết được ý định của Thiên Chúa, nhờ thân tình với Ngài, và vì mối thân tình thần linh không thể nào lại là một mối thân tình vị kỷ, chỉ biết hoan hưởng mối hiệp thông thần linh giữa mình với Chúa, bất chấp mọi sự khác liên quan đến phần rỗi đời đời của tha nhân. Thiên Chúa sở dĩ tỏ cho Abraham biết ý định của Ngài không phải để cho Abraham biết vậy thôi, mà có ý muốn Abrahm can thiệp với Ngài cho 2 thành tội lỗi quá mức đáng bị hủy diệt này, nghĩa là bao giờ Thiên Chúa cũng vẫn tỏ lòng thương xót trước khi Ngài bất đắc dĩ phải thi hành công lý của Ngài.
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, trích từ Sách Khởi Nguyên, cho dù tổ phụ Abraham đã vì thân tình với Thiên Chúa mà mặc cả cùng Ngài về số người công chính có thể cứu cả thành, không dám xuống thấp hơn 10 người, nhưng Thiên Chúa vô cùng nhân hậu thật ra cũng chẳng cần đến 10 người công chính, mà chỉ cần một người công chính cũng được, như chính một mình bản thân của Abraham là cha của kẻ tin, như Ngài sau này chỉ vì một mình Mose van xin mà Thiên Chúa đang bừng cơn thịnh nộ sẽ tha chết cho cả một dân tộc ương ngạnh, cứng đầu và nổi loạn (xem Xuất Hành 32:11-14).
Đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay mới có câu đáp chính yếu là "Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót" một câu đáp sau mỗi một tâm tình tri ân cảm tạ và chúc tụng ngợi khen Lòng Thương Xót của Ngài:
1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi ân sủng.
3) Chúa là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn.
4) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên trái đất, lòng nhân hậu Người siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người.
Bài Ðọc I: (Năm I) St 19, 15-29
"Chúa cho mưa sinh diêm và lửa xuống trên thành Sôđôma và Gômôra".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, các thiên thần hối thúc ông Lót rằng: "Hãy chỗi dậy đem vợ và hai con gái của ngươi đi, kẻo chính ngươi cũng phải chết lây vì tội của thành Sôđôma!" Khi ông Lót còn đang do dự, các thiên thần nắm tay ông cùng vợ ông và hai con gái ông, vì Chúa muốn cứu thoát ông. Các thiên thần kéo ông ra ngoài thành và nói: "Ngươi muốn sống thì hãy chạy đi, đừng nhìn lại phía sau; cũng đừng dừng lại nơi nào cả trong miền quanh đây, nhưng hãy trốn lên núi, để khỏi chết lây!" Ông Lót thưa: "Lạy Chúa tôi, tôi van xin Ngài: Tôi tớ Chúa đã được Chúa thương yêu, và Chúa đã tỏ lòng khoan dung đại độ gìn giữ mạng sống tôi. Tôi không thể trốn lên núi kẻo gặp sự dữ mà chết mất. Gần đây có một thành phố nhỏ, tôi có thể chạy tới đó và thoát nạn. Thành đó chẳng nhỏ bé sao, xin cho tôi ẩn tránh tại đó để được sống". Thiên thần nói: "Thôi được, ta cũng chiều ý ngươi xin mà không tàn phá thành ngươi đã nói tới. Ngươi hãy mau mau trốn thoát tới đó, vì ta chẳng làm được gì trước khi ngươi đi tới đó". Bởi đó đã gọi tên thành ấy là Sêgor.
Mặt trời vừa mọc lên thì ông Lót vào đến thành Sêgor. Vậy Thiên Chúa cho mưa sinh diêm và lửa từ trời xuống trên thành Sôđôma và Gômôra. Người huỷ diệt các thành này, cả miền chung quanh, toàn thể dân cư trong thành cùng các giống xanh tươi trên đất. Bà vợ ông Lót nhìn lại phía sau, nên đã biến thành tượng muối.
Sáng sớm (hôm sau) ông Abraham thức dậy, đi đến nơi ông đã đứng hầu Chúa trước đây, ông nhìn về phía thành Sôđôma, và Gômôra và cả miền ấy, ông thấy khói từ đất bốc lên cao như khói một lò lửa hồng.
Khi Chúa phá huỷ các thành trong miền ấy, Người đã nhớ đến Abraham mà cứu ông Lót thoát cảnh tàn phá tại các thành mà ông đã cư ngụ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 25, 2-3. 9-10. 11-12
Ðáp: Lạy Chúa, con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài. - Ðáp.
2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật. - Ðáp.
3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8, 23-27
"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
Ðó là lời Chúa.
1) Lạy Chúa, xin hãy thăm dò và thử thách con, xin Ngài luyện lọc thận tạng và tâm can. Vì con nhìn xem tình thương Ngài trước mắt, và con sống theo chân lý của Ngài.
2) Xin đừng cất linh hồn con cùng linh hồn người tội lỗi, đừng cất mạng sống con cùng mạng sống kẻ sát nhân; bọn người này nắm chặt tội ác trong tay, và tay hữu chúng ôm đầy lễ vật.
3) Phần con, con vẫn sống tinh toàn, xin Ngài giải thoát và xót thương con. Chân con đứng vững trong đường bằng phẳng, trong các buổi hội họp, con sẽ chúc tụng Chúa.
Bài Ðọc I: (Năm I) St 21, 5.8-20
"Con của người nữ tỳ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi".
Trích sách Sáng Thế.
Khi Abraham được một trăm tuổi, thì Isaac sinh ra.
Ðứa trẻ lớn lên và thôi bú.
Ngày Isaac thôi bú, Abraham thết tiệc linh đình.
Bà Sara thấy con của Agar, người đàn bà Ai Cập, chơi với Isaac, con của bà, liền nói với Abraham rằng: "Hãy đuổi mẹ con người tì nữ này đi, vì con của người đầy tớ không được thừa hưởng gia tài cùng với con tôi là Isaac".
Abraham lấy sự ấy làm đau lòng cho con mình.
Chúa phán cùng Abraham rằng: "Người đừng buồn vì con trẻ, và con của nữ tì ngươi. Bất cứ Sara nói gì, ngươi hãy nghe theo vì nhờ Isaac, sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. Nhưng Ta cũng sẽ cho con trai của nữ tì trở thành một dân tộc lớn, vì nó thuộc dòng dõi của ngươi".
Sáng sớm, Abraham chỗi dậy,lấy bánh mì và bầu nước, đặt lên vai người nữ tì, trao con trẻ cho nàng rồi bảo nàng đi.
Sau khi ra đi, nàng đến rừng Bersabê.
Và khi đã uống hết bầu nước, nàng bỏ con trẻ dưới gốc cây trong rừng.
Nàng ra ngồi cách xa đó khoảng tầm một tên bắn.
Vì nàng nói: "Tôi chẵng nỡ thấy con tôi chết", và nàng ngồi đó, thì bên trong đứa bé cất tiếng khóc.
Chúa đã nghe tiếng khóc của đứa trẻ, và thiên thần Chúa từ trời gọi Agar mà rằng: "Agar, ngươi làm gì thế? Ngươi đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe tiếng đứa trẻ khóc từ chỗ nó đang nằm kia.
Ngươi hãy chỗi dậy, ẵm con đi, và giữ chặt tay nó, vì Ta sẽ cho nó trở thành một dân tộc vĩ đại".
Và Thiên Chúa mở mắt cho Agar, nàng thấy một giếng nước và đến múc đầy bầu nước cho đứa trẻ uống.
Chúa phù trợ đứa trẻ; nó lớn lên, cư ngụ trong rừng vắng, và trở thành người có tài bắn cung tên.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33,7-8.10-11,12-13
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe. (7a)
Xướng 1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ. - Ðáp.
2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia. - Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 8,28-34
"Ông đến lúc này để hành hạ các quỷ".
Bài trích Phúc Âm theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên thuyền sang bờ bên kia, đến miền Giêrasa, thì gặp hai người bị quỷ ám từ các mồ mả đi ra, chúng hung dữ đến nỗi không ai dám qua đường ấy.
Và chúng kêu lên rằng: "Lạy Ông Giêsu, Con Thiên Chúa, chúng tôi có can chi đến ông? Ông đến đây để hành hạ chúng tôi trước hạn định sao?"
Cách đó không xa có một đàn heo lớn đang ăn.
Các quỷ nài xin Người rằng: "Nếu ông đuổi chúng tôi ra khỏi đây, thì xin cho chúng tôi nhập vào đàn heo".
Người bảo chúng rằng: "Cứ đi".
Chúng liền ra khỏi đi nhập vào đàn heo.
Tức thì cả đàn heo, từ bờ dốc thẳng, nhào xuống biển và chết chìm dưới nước.
Các người chăn heo chạy trốn về thành, báo tin ấy và nói về các người bị quỷ ám. Thế là cả thành kéo ra đón Chúa Giêsu. Khi gặp Người, Họ xin Người rời khỏi vùng của họ.
Ðó là Lời Chúa.
Có mấy chi
tiết hay hay trong câu chuyện trừ quỉ lần này có một không hai của Chúa
Giêsu: trước hết là chi tiết không phải thân nhân của hai nạn nhân xin Chúa
Giêsu trừ quỉ cho họ; sau nữa là chi tiết "hai
người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả ra đón Người", trong
khi đó có lẽ 2 người này chưa bao giờ đã từng gặp Chúa Giêsu mà lại
nhận ra Người, chắc là nhờ đám quỉ tinh quái ám họ; sau hết là chi tiết
chính Chúa Giêsu không trực tiếp ra tay trừ bọn quỉ ấy, mà chính bọn quỉ
muốn xuất khỏi hai người bị chúng ám này, để tránh khỏi bị Người khu trừ: "Bọn
quỷ nài xin Người rằng: 'Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập
vào bầy heo kia'".
Qua câu
chuyện này chúng ta thấy ma quỉ nhận biết Chúa Kitô là ai và đến thế gian để
làm gì: "Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện
chúng tôi can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi
sao?" Đúng như lời Thánh Gioan viết trong Thư Thứ Nhất của ngài:
"Chính là để phá hủy các công việc của ma quỉ mà Con Thiên Chúa đã tỏ
mình ra" (3:8).
Công việc của
ma quỉ là gì, nếu không phải là những gì liên quan đến chết chóc, nên hai
người bị quỉ ám đã sống ở nơi "mồ mả" chết chóc, và chết chóc lại liên
quan đến xác thịt (cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - "khuynh hướng của xác
thịt thiên về sự chết" - Roma 7:6), nên bọn quỉ đã xin nhập vào đàn heo là
loài vật vốn được tiêu biểu cho xác thịt, khiến cho "tất
cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối hết".
Quả vậy, sau
nguyên tội, con người như bị quỉ ám, bởi bản tính của loài người đã bị
nọc độc tội lỗi và chết chóc của ma quỉ tiêm nhiễm vào, khiến họ bắt đầu xu
hướng về tội lỗi và rất dễ sa ngã phạm tội. Bởi nơi bản thân họ đã chất chứa
sẵn mầm mống tội lội là đam mê nhục dục cùng tính mê nết xấu, những thứ mầm
mống tội lỗi đóng vai trò làm nội công cho ma quỉ, như thể con người bị ma
quỉ cài đặt sẵn (build-in) tần số tội lỗi nơi họ, đến độ nó chẳng cần cám dỗ
con người mà chỉ cần sử dụng bộ phận viễn khiến - remote control từ hỏa ngục
là con người cũng đủ quay cuồng mù quáng làm theo ý muốn gian ác của chúng.
Cho dù con
người có lãnh nhận Phép Rửa chăng nữa, họ chỉ được khỏi nguyên tội (nếu mới
sơ sinh) và tư tội (nếu đã khôn lớn) cùng với các hình phạt kèm theo tội
lỗi, nhưng bản tính của họ vẫn còn nguyên mầm mống nguyên
tội là đam mê nhục dục cùng với các tính mê nết xấu, và vẫn phải chịu hậu quả nguyên
tội - tâm linh bị tối tăm về trí khôn và bị yếu nhược về ý chí, thể lý thì đau khổ và
chết chóc. Tuy nhiên, bởi Phép Rửa họ đã có được sự sống thần linh, một sự sống
của Đấng Vượt Qua "nắm toàn quyền trên trời dưới đất" (Mathêu
28:18), đã chiến thắng tội lỗi và sự chết của chung loài người, nhờ đó họ có
thể cùng với Chúa Kitô Phục Sinh chiến thắng tội lỗi và sự chết nơi bản thân
của họ.
Trong bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (21:5,8-20), chúng ta thấy xuất hiện đứa con sinh bởi xác thịt của tổ phụ Abraham với người tỳ nữ Ai Cập Agar. Đứa con mang tên Ismael này cho dù không phải là đứa con sinh bởi lời hứa như Isaac, và vì thế không được thừa hưởng gia nghiệp của vị tổ phụ này theo lời hứa của Thiên Chúa, nhưng "vì nó là dòng dõi ngươi" mà nó cũng được Thiên Chúa quan tâm chăm sóc theo thân phận và sứ mệnh thiên định của nó.
"Thiên Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Hagar và nói: 'Sao thế, Hagar? Đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ nó nằm. Đứng lên! Đỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn'. Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành người bắn cung".
1) Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. Thiên thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa, và bênh chữa họ.
2) Các thánh nhân của Chúa hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
Thánh Antôn Zacaria Linh Mục (5/7)
Thánh Antôn
Zaccaria, Linh mục, (1502-1539)
Thánh Antôn Maria
Giacaria sinh năm 1502 tại Grêmôna, cha Ngài mất sớm, mẹ Ngài, người góa phụ
trẻ 18 tuổi không còn biết tới hạnh phúc nào hơn trên trần gian là đào tạo
tâm hồn người con nhỏ của mình. Thấy con thích làm việc hơn là chơi giỡn và
biết kiên trì hy sinh hãm mình, bà rất mừng rỡ, chính bà cũng phát huy tình
bác ái đối với người nghèo khổ, làm gương cho con.
Thành Grêmôna nơi Antôn sinh trưởng vừa mới hết chiến tranh. Sau cuộc chiếm
đóng của người Pháp, dân thành lại phải chiến đấu với Ludorse Sforza. Tình
cảnh thật khốn khổ. Ngày kia trên đường về học, cậu bé Antôn đã cởi tấm áo
thêu của mình cho người nghèo mặc. Thấy vậy, người mẹ đã âu yếm ôm con vào
lòng. Từ đó Antôn xin cho con được ăn mặc bình thường, có khi còn nhịn phần
ăn cho người nghèo nữa.
Thân mẫu Antôn đã chọn cho Ngài những bậc thầy nổi danh về văn chương Hy lạp
và Latinh. Vào tuổi 15, Antôn đã theo môn triết học ở Pavie, rồi lại theo
đuổi y học ở Padua. Ở đại học người ta chế nhạo nếp sống nghèo khó của Ngài.
Tốt nghiệp phải cấp bằng tiến sĩ ưu hạng, Ngài được rất nhiều khách hàng tín
nhiệm. Nhưng đây lại là thời Luthênô nổi dậy. Antôn bỏ nghề thuốc để theo
môn thần học.
Antôn Giacaria bắt đầu tụ tập trẻ em lại, Ngài nói cho chúng nghe về các
chân lý cao trọng. Cha mẹ chúng cũng thường tới nghe dạy. Họ nói : - Nào
chúng mình đến nghe thiên thần của Chúa.
Tay cầm thánh giá, thánh nhân rảo qua khắp các đường phố nói về ơn cứu chuộc
và việc thống hối. Nơi nào bị chế nhạo, bị xỉ nhục, Ngài càng năng lui tới
hơn.
Năm 1528, lúc được 26 tuổi, Antôn được thụ phong linh mục. Ngài đến ở Milan,
thăm viếng các người đau khổ trong các nhà thương, nhà tù, nơi các xóm
nghèo. Các nghĩa cử Ngài làm đã mang lại cho Ngài danh hiệu "người cha dân
tộc". Ngài ngồi tòa hàng giờ để phục sinh các linh hồn. Ngài chống lại phái
thệ phản và đối đầu với bất cứ ai muốn tấn công đức tin tinh tuyền. Cha
Antôn có hai người bạn tông đồ là Mariggia và Ferrari. Đức giáo hoàng truyền
cho các Ngài lập một hội dòng mới, các tu sĩ dòng thánh Phaolô. Các Ngài
được trao cho việc coi sóc thánh đường thánh Barnabê, nên người ta gọi các
Ngài là các cha Barnabê.
Thánh Antôn Maria Giacaria thường nói với các môn sinh: - "Đặc tính của
những tâm hồn đại lượng là phục vụ không mong phần thưởng, chiến đấu không
chờ lương bổng. Hãy tiến tới không ngừng và hướng tới sự hoàn thiện cao cả
hơn. Hãy nói với Chúa Giêsu bị đóng đinh về tất cả những gì bạn thấy và lãnh
ý Người, cho mình và cho người khác".
Ngài dạy họ phải quen với những phỉ báng khinh miệt nhưng không làm như vậy
được nếu không hướng trọn ý tưởng về với Chúa, và nếu kinh nguyện chưa nên
của ăn nuôi sống linh hồn. Các linh mục và cả hàng giáo sĩ đã bắt đầu. Chiều
về anh em họp nhau lại để thú tội. Thánh nhân còn dẫn anh em rảo qua đường
phố bằng cách vác Thánh giá mà rao giảng. Họ còn tự động cột giây vào cổ,
làm những việc nặng nhọc trong khi một số khác đi ăn xin cho người nghèo.
Thấy vậy, nhiều người thống hối và cải thiện đời sống. Thánh Antôn còn cổ
động lòng sùng kính Thánh Thể khuyên năng rước lễ hơn. Thời đó người ta chỉ
rước lễ một hai lần trong năm. Trước sự đổi mới này, nhiều người coi sự
nhiệt thành của Ngài là cuồng tín dị đoan. Thánh nhân vẫn an lòng và cảm
nghiệm điều Ngài thường nói : - Bạn sẽ được thấp nhập vào Chúa đến độ không
còn lo tưởng đến những sự trên thế gian này nữa.
Năm 1530, Ngài giúp nữ công tước Torelli thành lập một hội dòng nữ. Đức giáo
hoàng Phaolô III đã chuẩn y hội dòng này và đặt tên là "Dòng chị em các
thiên thần".
Năm 1536, cha Antôn Giacaria từ chức bề trên nhà dòng mà Ngài đã giữ từ đầu
để đi truyền giáo. Ngài rao giảng Phúc âm và giải hòa các cuộc tranh chấp.
Công việc thật bề bộn, không thể lường trước được, dầu vậy thánh nhân vẫn
trung thành với tác vụ, các cuộc tĩnh tâm và thư tín.
Tuy nhiên lần này, tại Guastalla, thánh nhân đã kiệt sức. Xa các môn sinh,
Ngài lui về với thân mẫu. Bà khóc lóc khi thấy con. Nhưng Antôn nói :- Mẹ ơi
! Mẹ đừng khóc nữa. Chẳng bao lâu rồi mẹ cũng được vui mừng với con trong
vinh quang bất tận mà bây giờ con đang tiến vào.
Ba giờ chiều ngày 5 tháng 7 năm 1539, linh mục trẻ 36 tuổi Antôn Maria
Giacaria thở hơi cuối cùng trong tay mẹ hiền.
*
Ngày 05-07: Thánh ANTÔN MARIA GIACARIA Linh mục (1502 - 1539)
Khi Martin Luther tấn công những lạm dụng trong Giáo Hội, lúc ấy một phong
trào canh tân đang manh nha thành hình. Trong số những người của phong trào
có Thánh Antôn Zaccaria
Thuộc dòng dõi quý tộc, cha của Antôn Zaccaria mất sớm khi ngài mới hai
tuổi, và mẹ ngài, người goá phụ 18 tuổi, ở vậy nuôi con. Bà tận tụy dạy dỗ
đạo lý cho con ngay từ nhỏ. Khi 22 tuổi, Antôn lấy bằng tiến sĩ y khoa và
làm việc ở Cremona, giúp đỡ người nghèo và siêng năng hoạt động tông đồ.
Ngoài phần xác của con bệnh, ngài còn lo lắng đến phần hồn của họ, ngài là
một giáo lý viên và được thụ phong linh mục lúc 26 tuổi.
Ðược sai đến Milan trong một vài năm, Cha Antôn Zaccaria thành lập hai tu
hội, một cho nam giới và một cho nữ giới. Mục đích của tu hội là canh tân xã
hội đang sa sút vào thời ấy, bắt đầu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ.
Vì rất cảm kích Thánh Phaolô, Cha Antôn Zaccaria đặt tên cho tu hội là
Bácnabê -- tên bạn đồng hành của Thánh Phaolô -- và ngài hăng say rao giảng
ở trong nhà thờ cũng như ngoài đường phố, tổ chức các nhóm truyền giáo và
không xấu hổ khi công khai ăn năn sám hối. Ngài còn khuyến khích những hình
thức sinh hoạt mới mẻ, như giáo dân cộng tác trong công việc tông đồ, siêng
năng rước lễ, chầu Thánh Thể và rung chuông nhà thờ vào 3 giờ chiều thứ Sáu
hàng tuần.
Sự thánh thiện của Cha Antôn đã khích lệ nhiều người thay đổi đời sống, và
như tất cả các vị thánh khác, ngài cũng bị nhiều người chống đối. Hai lần,
tu hội của ngài phải chịu sự điều tra của các giới chức trong Giáo Hội, và
cả hai lần đều được miễn trừ.
Ðang khi trên đường công tác hòa giải, ngài bị bệnh nặng và được đưa về thăm
người mẹ. Ngài từ trần ở Cremona khi mới 36 tuổi.
Lời Bàn
Sự hăng say canh tân của Thánh Antôn Zaccaria có lẽ khiến nhiều người ngày
nay "thất vọng". Vào thời điểm mà nhiều người trong Giáo Hội lẫn lộn giữa
thế quyền và thần quyền, thì lời rao giảng, lối sống của Thánh Antôn không
khác gì một cản trở cần diệt trừ. Nhưng lối sống ấy đích thực là linh đạo
của Ðức Kitô, một Ðấng bị đau khổ, bị đóng đinh. Chúng ta cũng không thể
"cao trọng hơn Thầy", và con đường thập giá luôn luôn là con đường dẫn đến
vinh quang.
Trích từ NguoiTinHuu.com
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=50627
1. Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Là Đấng sáng lập dòng Banabê (theo tên nơi trụ sở dòng mẹ là tu viện Thánh Banabê ở Milan), Thánh Antôn Giacaria được kính nhớ theo ngày qua đời năm 1539 ở Crémone lúc 37 tuổi. Được phong thánh năm 1897.
Sinh năm 1502, tại Crémone nước Ý. Antôn được mẹ giáo dục theo tinh thần đạo hạnh. Chồng chết lúc bà mới mười tám tuổi, bà từ chối tái hôn để được toàn tâm toàn ý lo cho đứa con duy nhất là Antôn. Tuy còn nhỏ tuổi, Antôn đã khấn giữ khiết trinh trọn đời; sau khi tuyên thệ và từ chối không nhận tài sản cha để lại, Antôn theo học triết lý ở Pavie và ngành y tại Padone. Năm 1524, Antôn trở lại Crémone, dấn thân phục vụ các bệnh nhân. Cảm thấy được Ơn Gọi làm linh mục, Antôn chuẩn bị bước lên đời tư tế, dưới sự hướng dẫn của hai tu sĩ dòng Đaminh. Hai mươi sáu tuổi, năm 1528, Antôn thụ phong linh mục. Năm 1530, ngài tới định cư ở Milan. Tại đây, cùng với hai thành viên Hội Đấng Khôn Ngoan Vĩnh Cửu, ngài thành lập Hội dòng các Giáo sĩ Thánh Phaolô. Hội dòng có mục đích cải tạo hàng giáo sĩ cũng như giáo dân và đã được Đức Giáo Hoàng Clementê VII chuẩn thuận năm 1533.
Thánh Antôn Giacaria có thể được xem là người đi trước Thánh Carôlô trong cuộc phục hưng công giáo: khi Thánh Carôlô tới Milan, năm 1569, đã thấy các tu sĩ Banabê hoạt động ở đó từ nhiều năm trước.
2. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện của ngày phác thảo diện mạo Thánh Antôn, người sống đồng thời với thời kỳ Luther nổi lên chống đối Roma (1520 – 1524). Lời nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được sự hiểu biết khôn vời của Đức Kitô như đã ban cho Thánh Phaolô xưa và đã giúp Thánh Antôn Giacaria loan báo Lời Cứu Rỗi cho Hội Thánh.
Thánh Antôn đã thụ huấn tại trường học của Thánh Phaolô để “sống tình yêu Đức Kitô vượt mọi sự hiểu biết” (Ep 3, 19). Bởi thế, Người đã muốn là thầy thuốc chữa bệnh tâm hồn hơn thầy thuốc chữa bệnh phần xác. Nhiệt tình bác ái của thánh nhân biểu lộ qua việc chuyên cần giảng dạy giáo lý và công tác giáo dục; Ngài loan báo Lời Cứu Rỗi ngoài đường phố, trên các quảng trường, lôi kéo nhiều người trở lại, chấn chỉnh các tu viện, như ở Vicence và đem nhiều thành phố làm hòa lại với nhau.
Bài giảng cho các tu sĩ Banabê (Phụng vụ bài đọc) là một trong những bản văn quý hiếm của ngài còn giữ được (mười hai bức thư, sáu bài diễn văn và bản Hiến Pháp). Thánh Antôn Maria mô tả những công hiệu của cái khoa học làm ta “trở nên điên dại vì Đức Kitô” theo như giáo huấn của Thánh Tông Đồ mà thánh nhân gọi là “Đấng hướng dẫn và bảo vệ chúng ta”. Nhà cải cách không muốn thành lập một dòng tu gồm các tu sĩ hoặc tu huynh, nhưng muốn gồm những tông đồ được gọi vào sứ vụ phục vụ Lời và các bí tích, bởi ý đồ của người là muốn chống lại lạc giáo của Luther. Thánh nhân đã can đảm chịu đựng những hiểu lầm và bách hại gây nên cho mình trước khi được phục hồi sau hai phiên tòa mở ra để chống đối Ngài (1534 – 1537), do những người từng đồng hành trong các buổi đầu của viện do người thành lập. Thành viên của viện thời đầu được gọi là tu huynh Phaolô, về sau gọi là các tu sĩ Banabê; hội dòng đã được thành lập, dưới sự bảo trợ của Thánh Phaolô Tông Đồ, xem Người như Đấng hướng dẫn. Thánh Antôn Maria viết: “Dưới sự lãnh đạo của một thủ lãnh như thế, chúng ta không có quyền nhát đảm hay chạy trốn, cũng không được là những đứa con thoái hóa của một người cha như thế”. Từ hội dòng này có hai vị thánh: Thánh Phanxicô Xavie Bianchi và Thánh Alexandre Sauli, một trong những giám mục nổi tiếng nhất của cuộc cải cách do Công Đồng Tridentê khởi xướng.
Enzo Lodi
https://www.tonggiaophanhanoi.org/ngay-5-7-thanh-anton-maria-zacaria-linh-muc-1502-1539/
Bài Ðọc I: (Năm I) St 22, 1-19
"Lễ hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi". Vì vậy ban đêm Abraham chỗi dậy, thắng lừa, dẫn theo hai đầy tớ và Isaac, con của ông; khi đã chặt củi dành để đốt của lễ toàn thiêu, ông đi đến nơi Chúa đã truyền dạy. Ðến ngày thứ ba, ngước mắt lên, ông thấy nơi còn xa xa; ông bảo các đầy tớ rằng: "Các ngươi và con lừa hãy đợi tại đây. Ta và con trẻ đi đến nơi kia, sau khi cử hành việc thờ phượng xong, chúng tôi sẽ trở lại đây với các ngươi". Ông lấy củi dành để đốt của lễ toàn thiêu mà đặt trên vai Isaac, con ông, còn ông thì cầm lửa và gươm. Khi cha con cùng đi trên đường, Isaac hỏi cha mình rằng: "Thưa cha". Ông Abraham trả lời: "Hỡi con, con muốn gì?" Isaac nói: "Củi và lửa có đây rồi, còn của lễ toàn thiêu ở đâu?" Ông Abraham đáp: "Hỡi con, Thiên Chúa sẽ dự liệu của lễ toàn thiêu". Vậy hai cha con tiếp tục cùng đi.
Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham! Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây, Ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Ông gọi tên nơi này là "Chúa trông thấy". Bởi vậy, mãi cho đến ngày nay, người ta quen nói rằng "Trên núi Chúa sẽ trông thấy".
Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Ông Abraham trở về cùng các đầy tớ, và họ cùng nhau đi về Bersabê, và lập cư tại đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 114, 1-2. 3-4. 5-6. 8-9
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước Thiên nhan Chúa, trong miền đất của nhân sinh (c. 9).
Xướng: 1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa. - Ðáp.
2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con". - Ðáp.
3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi. - Ðáp.
3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 1-8
"Họ tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, vượt biển mà về thành của Người. Bấy giờ người ta đem đến cho Người một kẻ bất toại nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, con hãy vững tin, tội con được tha rồi". Bấy giờ mấy luật sĩ nghĩ thầm rằng: "Ông này nói phạm thượng". Chúa Giêsu biết ý nghĩ của họ liền nói: "Tại sao các ngươi suy tưởng những sự xấu trong lòng? Bảo rằng "Tội con được tha rồi", hay nói "Hãy chỗi dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ngươi biết rằng trên đời này Con Người có quyền tha tội". Bấy giờ Người nói với người bất toại: "Con hãy chỗi dậy, vác giường mà về nhà con". Người ấy chỗi dậy và đi về nhà. Thấy vậy dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho loài người quyền năng như thế.
Ðó là lời Chúa.
"Đức Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. Người
ta liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có
lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: 'Này con, cứ yên tâm,
con đã được tha tội rồi!'"
Thật vậy, chính vì nguyên tội mà con người đã bị chết về phần hồn (xem
Khởi Nguyên 2:17), kèm theo cả cái chết về phần xác là hậu quả tất yếu
của tội lỗi nữa (xem Khởi Nguyên 3:19). Tất cả những khổ đau con người
phải chịu trên trần gian này đều là biểu hiệu của sự chết cả về tâm linh
lẫn thể xác. Chứng bại liệt nơi thân xác của con người, như nạn nhân
trong bài Phúc Âm hôm nay, chẳng những là hậu quả của nguyên tội mà còn
là biểu hiệu cho tình trạng bất lực của con người mang bản tính nhiễm
lây nguyên tội nữa.
Đó là lý do,
một khi con người được tha tội là con người được giải phóng về phần hồn,
và vì bệnh nạn tật nguyền về phần xác gây ra bởi tội lỗi mà họ cũng có
thể thoát được những chứng bệnh họ đang mắc phải, như trường hợp của
người bất toại ở bài Phúc Âm hôm nay. Cho dù được khỏi tội mà không khỏi
bệnh con người có tâm hồn trong sạch theo lòng tin tưởng vẫn có thể sống
với bệnh tật một cách an bình, thậm chí còn lợi dụng được cả bệnh tật để
làm vinh danh Chúa nữa (xem Gioan 9:3).
Có ích gì cho
con người nếu thân xác được lành mạnh mà lại lạm dụng nó để sống đời tội
lỗi chứ. Nếu thà mất đi một phần thân thể mà được vào Nước Trời còn hơn
lành cả thân xác mà bị quẳng vào hỏa ngục (xem Mathêu 5:29), thì đúng
như Chúa Giêsu nói với thành phần "kinh
sư nghĩ bụng rằng: 'Ông này nói phạm thượng'",
"trong hai điều: một là bảo: 'Con đã được tha tội rồi', hai là bảo:
'Đứng dậy mà đi', điều nào dễ hơn?"
Đối với Thiên
Chúa thì "con đã được tha tội rồi" thì "dễ hơn", còn đối
với loài người thiển cận và dính bén với trần thế thì "đứng dậy mà đi"
thì "dễ hơn", "dễ hơn" ở chỗ họ (nếu là nạn
nhân) được "dễ" chịu hơn, vì được khỏi bệnh, và ở chỗ họ (thành
phần khán giả hay chứng dự) "dễ" nhận hơn vì thấy được tỏ tường quyền
năng thần linh.
Bởi thế, Chúa Giêsu đã phải chiều theo khuynh hướng của loài người,
hay nói đúng hơn, đã lợi dụng yếu điểm tò mò của loài người để tỏ mình
ra cho họ, nhờ đó họ có thể thấy được vị thế thần linh siêu việt của
Người, một vị thế vượt trên tất cả mọi vị tiên tri trong lịch sử của họ,
hơn cả Moisen là vị cứu tinh dân tộc của họ cũng đã thực hiện
không ít dấu lạ, một vị thế thần linh ở nơi quyền tha tội của Người, một
con người như họ và ở giữa họ:
Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người qua Con của Ngài một cách "dễ" dàng như thế, Ngài vẫn không "dễ" dãi với Con của Ngài, trái lại, Thiên Chúa "đã không dung tha cho Con của Ngài, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32), nghĩa là Ngài muốn, hay đúng hơn, Ngài "bắt" Người Con duy nhất vô cùng dấu yêu của Ngài phải khổ nạn và tử giá vô cùng hèn hạ và ô nhục như một đệ nhất đại tội nhân trên trần gian này, như một hy tế đền bù tội lỗi của nhân loại và cho nhân loại, thành phần tội nhân phạm đến Ngài là Đấng vô cùng thì cũng phải có một Đấng vô cùng là Con Ngài đền thay mới cân xứng.
1) Tôi mến yêu Chúa, vì Chúa đã nghe, đã nghe tiếng tôi cầu khẩn; vì Chúa đã lắng tai nghe lời tôi trong ngày tôi kêu cầu Chúa.
2) Thừng chão tử thần đã quấn lấy tôi, và màng lưới âm phủ đã chụp trên người tôi; tôi đã rơi vào cảnh lo âu khốn khó. Và tôi đã kêu cầu danh Chúa: "Ôi lạy Chúa, xin cứu vớt mạng sống con".
3) Chúa nhân từ và công minh, và Thiên Chúa của chúng tôi rất từ bi. Chúa gìn giữ những người chất phác, tôi đau khổ và Người đã cứu thoát tôi.
3) Bởi Người đã cứu tôi khỏi tử thần, cho mắt tôi khỏi rơi lệ và chân tôi không quỵ ngã. Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh.
Thánh Maria Goretti đồng trinh tử đạo
ngày 6/7
Thánh Maria Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ ngài là những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng, năm 1899, gia đình người dời về sống trong một nông trại ở làng Auziô, gần Neturô. Đây là một gia đình nghèo khó nhưng giầu lòng tin đến độ chuyển núi dời non. Cha ngài vào một hợp tác và sống chung trong một nhà với một gia đình khác, ông cần cù vỡ đất trồng trọt để nuôi sáu người con. Còn mẹ thánh nữ, bà rất mệt nhọc trong việc săn sóc đoàn con bé bỏng.
Nhưng gia đình can đảm và thân mật này đã bị dao động khi người cha bất ngờ qua đời. Bà góa phụ Assunta không biết nương tựa vào đâu và quyết định tiếp nối công việc nặng nhọc vừa khởi sự. Bà giao các con nhỏ cho trưởng nữ mới 10 tuổi săn sóc. Maria, người con gái ấy là một đứa trẻ hiền lành can đảm biết vâng phục. Thánh nữ thật là một nguồn an ủi cho người mẹ hiền lành nhưng cương quyết với các con. Dù còn trẻ thánh nữ đã sớm trở thành một người nội trợ mới.
Hàng xóm của bà Assunta, là gia đình Serenrlli, họ là những người có tinh thần phục vụ. Nhưng Alessandrô lại chơi với các bạn bè xấu và ham đọc sách nguy hiểm. Nhiều lần anh ta giúp đỡ Maria trong những việc nặng nhọc. Người ta có thể nghĩ là Alessandrô đã cải tính sửa nết. Maria thì biết ơn và còn quá trong trắng để mà nghi ngờ. Nhưng Alessandrô đã không ngần ngại đưa ra những đề nghị bỉ ổi, lại còn đe dọa cô không được nói với ai, không hiểu biết gì, Maria Goretti cảm thấy nguy hiểm phạm tội, và đã thú thực hết với mẹ. Run sợ cho tâm hồn còn tinh trong của con bị hoen ố, bà Assunta đã dạy cho Maria cách thắng vượt sự dữ, đề phòng cho cô khỏi mắc cơn nguy hiểm mà cô chưa biết đến. Maria Goretti hứa sẽ không bao giờ nhượng bộ.
Maria mới 12 tuổi, nhưng đã nẩy nở xinh đẹp. Alessandrô thúc bách, nhưng người thiếu nữ đã biết giữ gìn và chống cự lại. Thảm cảnh diễn ra ngày 5 tháng 7 năm 1902. Sáng hôm đó, đợi cho mọi người đi khỏi, Alessandrô tới gần ve vãn cô gái. Cầm dùi trong tay, anh còn đe dọa :
- Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.
Cô gái la lớn:
- Không, đó là việc tội Chúa cấm ! Anh sẽ phải vào hỏa ngục.
Không còn kềm được bản năng , Alessandrô lao vào con mồi, đâm cô hơn 14 nhát.
Tiếng kêu la của kẻ hung bạo và của nạn nhân vang tới mọi người lân cận. Bà Assunta vội đưa người con hấp hối của mình tới nhà thương ở Nettunô. Dọc đường Maria nói với mẹ:
- Mẹ ơi ! Anh đã muốn con phạm tội với anh con đã cự tuyệt.
Linh mục tới đầu giường cô và nhắc lại cái chết của Chúa Giêsu trên thánh giá với lưỡi đòng, sự hối cải của người trộm lành... rồi Ngài hỏi:
- Marietta, con có tha thứ không?
- Dạ tha, vì tình yêu Chúa Giêsu, chớ gì anh được lên thiên đàng với con .
Alessandrô bị kết án 30 năm khổ sai. Tính hung hăng của anh càng tăng làm các bạn tù khiếp sợ. Tám năm sau, một đêm đã làm biến đổi tất cả. Tội nhân mơ thấy Maria sáng chói giữa vườn huệ và hái trao chàng một bông. Hôm sau anh viết lời thú tội, tự thú tất cả cho Đức Giám mục và kể lại cả giấc mơ cho ngài. Anh đã hối hận. Từ ngày đó, thái độ của anh rất gương mẫu. Năm 1929 anh được phóng thích. Năm 1937, quì dưới chân bà Assunta, anh hỏi:
- Bà có tha thứ cho con không?
Và người mẹ thánh nữ trả lời:
- Nó đã tha cho con rồi, tôi làm khác sao được?
Lễ Giáng sinh năm ấy, hai người cùng tiến lên bàn thờ rước lễ.
Maria Goretti được phong chân phước ngày 27 tháng 4 năm 1927. Đến ngày 24 tháng sáu năm 1930, trước mặt người mẹ đã 87 tuổi, Maria Goretti được Đức Giáo Hoàng Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh.
Bài Ðọc I: (Năm I) St 23, 1-4. 19; 24, 1-8. 62-67
"Isaac yêu thương Rêbecca, cho nên ông tìm được niềm an ủi, vì thương nhớ mẹ đã qua đời".
Trích sách Sáng Thế.
Bà Sara được một trăm hai mươi bảy tuổi thì qua đời tại thành Cariatharbê, tức là Hêbron, trong đất Canaan. Ông Abra-ham đến khóc lóc thương tiếc bạn mình. Khi lo việc chôn cất, Abraham chỗi dậy nói với các con ông Hét rằng: "Tôi là ngoại bang, là khách lạ giữa quý ông, xin quý ông nhượng cho tôi một phần mộ để chôn xác người nhà tôi qua đời". Rồi Abraham chôn cất bà Sara vợ ông trong Hang Ðôi ngoài đồng ruộng, đối diện với Mambrê, tức Hêbron, trong đất Canaan.
Khi ấy, Abraham đã già nua, và Chúa đã chúc lành cho ông trong mọi sự. Abraham nói với người đầy tớ lớn tuổi nhất trong nhà, cũng là người quản lý mọi của cải của ông rằng: "Ngươi hãy đặt tay vào dưới bắp vế ta mà thề trước mặt Chúa là Thiên Chúa trời đất, sẽ không cưới cho con ta một người vợ thuộc dân Canaan mà ta đang ở chung với họ đây. Ngươi hãy đi về quê họ hàng ta, mà cưới vợ cho con ta là Isaac". Người đầy tớ thưa lại: "Nếu người phụ nữ không muốn theo tôi về xứ này, thì tôi có phải đem con trai ông về quê quán của ông chăng?" Abraham trả lời rằng: "Ngươi hãy cẩn thận chớ bao giờ dẫn con ta về đó: Chúa là Thiên Chúa, đã đưa ta ra khỏi nhà cha ta và quê quán ta, đã phán và thề hứa cùng ta rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Thiên Chúa sẽ sai thiên thần đi trước mặt ngươi, và ngươi cưới cho con trai ta một người vợ trong xứ đó. Nếu người phụ nữ không chịu theo ngươi về, thì ngươi không còn mắc lời đoan thề mà ta bảo người đây. Chỉ có một điều là đừng dẫn con trai ta về nơi đó".
Khi ấy, Isaac đi bách bộ trên đường dẫn đến cái giếng gọi là "Ðấng Hằng Sống và Trông Thấy", vì ông cư ngụ tại mạn nam. Lúc gần tối, Isaac đi ra ngoài cánh đồng để suy ngắm. Khi ngước mắt lên nhìn, thấy những con lạc đà đang trở về từ đàng xa. Rêbecca cũng ngước mắt nhìn thấy Isaac, nàng liền nhảy xuống khỏi lạc đà, và hỏi người đầy tớ rằng: "Người đang đi trong cánh đồng để ra đón chúng ta là ai vậy?" Người đầy tớ đáp: "Người đó là chủ tôi đấy". Nàng vội vàng lấy khăn che mặt. Người đầy tớ lại kể lại cho Isaac hay mọi việc mình đã làm. Isaac đưa Rêbecca vào nhà xếp của Sara mẹ ông, ông lấy nàng làm vợ và yêu thương nàng lắm, cho nên ông tìm được niềm an ủi bớt thương nhớ mẹ đã qua đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5
Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.
2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 9-13
"Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải là hy lễ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người. Và xảy ra là khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế?" Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: "Ta muốn lòng nhân từ, chứ không phải là hy lễ". Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
Ðó là lời Chúa.
"'Chú hãy đặt tay dưới đùi tôi, và tôi xin chú nhân danh Thiên Chúa là Chúa trời đất, mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Canaan, nơi tôi đang sống. Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là Isaac'. Người lão bộc thưa với ông: 'Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?' Ông Abraham bảo người ấy: 'Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! Thiên Chúa là Chúa Trời, Đấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi, Đấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: 'Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất này', chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó chú cưới vợ về cho con tôi. Nếu người đàn bà không chịu đi theo chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng đừng đưa con tôi về đó".
Quả thực, qua đoạn Sách Khởi Nguyên không được trích dẫn (vì quá dài), giữa đoạn trên đây và đoạn dưới đây, chúng ta thấy được Thiên Chúa chính là Đấng xe duyên kết nghĩa cho con người được Ngài hứa cho xuất phát một dân tộc đông như sao trời cát biển, nhưng dân tộc đông như sao trời cát biển bao gồm tất cả những ai được cứu độ ấy lại cần phải được chung hưởng gia nghiệp với một giòng dõi được tuyển chọn là dân Do Thái, bắt đầu từ cặp vợ chồng Isaac và Rebeca:
"Khi ấy cậu Isaac đã bỏ vùng giếng Beer-lahai-roi, và đang ở trong miền Negeb. Cậu Isaac ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. Ngước mắt lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rebeca thấy cậu Isaac, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống và hỏi người lão bộc: 'Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?' Người lão bộc trả lời: 'Chủ tôi đấy!' Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt. Người lão bộc thưa lại với cậu Isaac tất cả những gì ông đã làm. Cậu Isaac đưa cô Rebeca vào lều của bà Sara mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ".
1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói cho hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người?
2) Phúc cho ai tuân giữ những điều huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.
Bài Ðọc I: (Năm I) St 27, 1-5. 15-29
"Giacóp chiếm vị và trộm lấy chúc lành của anh".
Trích sách Sáng Thế.
Isaac đã già, mắt loà không còn trông thấy được nữa. Ông gọi con trai cả là Êsau mà bảo rằng: "Hỡi con". Êsau thưa: "Dạ, con đây". Ông nói tiếp: "Con thấy cha đã già rồi, cha không biết ngày nào cha chết. Con hãy lấy khí giới: cung, tên, rồi đi ra ngoài; khi săn được gì, con hãy lấy mà dọn món ăn mà con biết cha ưa thích, rồi đem cho cha ăn, và cha sẽ chúc lành cho con trước khi cha chết".
Bà Rêbecca nghe lời ấy (...) và khi Êsau ra đồng để thi hành lệnh của cha (...) thì bà lấy áo tốt của Êsau mà bà vẫn giữ trong nhà, đem mặc cho Giacóp. Bà lấy da dê mà bọc tay và quấn cổ Giacóp. Ðoạn bà lấy cháo và bánh đã nấu trao cho Giacóp...
Giacóp bưng lên cho cha mà nói rằng: "Thưa cha". Isaac nói: "Cha nghe rồi. Hỡi con, con là ai?" Giacóp thưa: "Con là Êsau trưởng nam của Cha. Con đã làm như cha dạy, xin cha chỗi dậy, ngồi ăn thịt con đã săn được để cha chúc lành cho con". Isaac lại nói với con: "Hỡi con, lẽ nào con săn được mau như thế?" Giacóp thưa: "Thánh ý Thiên Chúa đã định, nên con chóng được như ý muốn". Isaac bảo rằng: "Hỡi con, con hãy lại đây để cha rờ thử xem con có phải là Êsau con của cha hay không". Giacóp tiến lại gần cha. Isaac rờ con mà nói: "Tiếng nói là tiếng Giacóp, còn tay lại là tay Êsau". Ông không nhận ra được, vì tay (cậu) có lông như tay anh cả. Vậy ông chúc lành cho con mà nói: "Con có phải là Êsau con cha thật không?" Giacóp đáp: "Thưa phải". Ông nói tiếp: "Hỡi con, hãy đem cho cha ăn thịt săn của con, để cha chúc lành cho con". Khi ông ăn đồ con đem đến xong, con ông lại đem rượu cho ông uống. Uống xong, ông bảo con rằng: "Hỡi con, hãy lại đây hôn cha". Giacóp lại gần hôn cha; ông ngửi thấy mùi thơm của bộ áo con, thì chúc lành cho con mà rằng: "Mùi thơm của con ta như mùi hương cánh đồng phì nhiêu mà Chúa đã chúc phúc. Xin Thiên Chúa ban cho con những giọt sương trời, giải đất mầu mở, lúa miến và rượu nho dư đầy. Các dân tộc sẽ suy phục con, các chi họ sẽ sấp mình trước con. Con hãy làm chủ các anh em con, các con cái của mẹ con sẽ phủ phục trước mặt con. Ai nguyền rủa con, thì sẽ bị nguyền rủa; và ai chúc lành cho con, thì sẽ được đầy phúc lành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 134, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu (c. 3a).
Xướng: 1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta. - Ðáp.
2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu. - Ðáp.
3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm. - Ðáp.
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 9, 14-17
"Làm sao các phù rể có thể buồn rầu khi tân lang còn đang ở với họ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, [Chúa Giêsu sang miền Giêsarênô,] các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: "Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?" Chúa Giêsu nói với họ rằng: "Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay. Không ai lấy vải mới mà vá vào áo cũ, vì miếng vải mới làm áo dúm lại, và chỗ rách lại càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, chẳng vậy, bầu da vỡ, rượu đổ ra, và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu da mới, và cả hai được nguyên vẹn".
Ðó là lời Chúa.
Bà Rebeca lấy áo của Esau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Giacóp, con trai nhỏ của bà. Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ nhẵn nhụi của cậu. Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay Giacóp, con bà".
"Gia-cóp thưa với cha: 'Con là Esau, con trưởng của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Ông Isaac hỏi con: 'Con ơi ! sao con tìm được mau thế?' Cậu thưa: 'Chúa, Thiên Chúa của cha, đã cho con gặp được may mắn'. Ông Isaac bảo Giacóp: 'Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Esau, con cha, hay không'. Gia-cóp lại gần ông Isaac, cha ông; ông rờ cậu và nói: 'Tiếng thì tiếng Giacóp, mà tay là tay Esau'. Ông không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Esau, anh cậu; thế là ông chúc lành cho cậu. Ông hỏi: 'Con có đúng là Esau, con cha không?' Cậu thưa: 'Vâng, chính con'. Ông nói: 'Con ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho con'. Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống. Ông Isaac, cha cậu, bảo: 'Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!' Cậu lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu".
Trong Bài Đáp Ca hôm nay, Thánh Vịnh gia, trích từ Thánh Vịnh 134 đã kêu gọi "
hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta" - Họ là ai, nếu không phải là thành phần "khách dự tiệc" trong Bài Phúc Âm hôm nay, và là Giacóp nhờ mẹ đã được cha mình chúc phúc cho thay Esau anh của mình. Họ "hãy ngợi khen Chúa" bởi vì họ được mọi phúc lành không phải tự họ xứng đáng mà là "vì Người nhân hậu" trong "mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm" cho họ và qua họ cho chung cộng đồng nhân loại.
1) Các ngươi hãy ngợi khen danh Chúa, hãy ngợi khen Chúa, hỡi các tôi tớ của Người là những kẻ đứng trong nhà Chúa, trong tiền đường nhà Chúa chúng ta.
2) Các ngươi hãy ngợi khen Chúa, vì Người nhân hậu; hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người rất ngọt ngào. Vì Chúa đã chọn Giacóp cho mình, đã chọn Israel làm sở hữu.
3) Tôi đã nhận biết Chúa cao cả, Thiên Chúa chúng tôi vượt lên trên hết thảy các thần. Mọi sự Chúa muốn Chúa đã làm, trên trời dưới đất, trong biển và nơi các vực thẳm.