Thứ Hai sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
32, 15-24. 30-34
"Dân này đã phạm tội nặng
nề, và họ đúc bò vàng".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê từ
trên núi trở xuống, Tay cầm bia đá có khắc chữ cả hai mặt; và đó là
công trình của Thiên Chúa tác tạo, vì chính Chúa đã khắc chữ vào hai
bia đá đó. Bấy giờ Giosuê nghe tiếng dân chúng la lối om sòm, nên
thưa cùng Môsê rằng: "Có tiếng la giao chiến trong trại". Môsê đáp:
"Ðó không phải là tiếng kêu la giao chiến, cũng không phải tiếng kêu
la thất trận, nhưng tôi nghe tiếng người ta ca hát". Khi đến gần
trại, người thấy con bê đực và những người múa. Người quá tức giận,
liền ném hai bia đá xuống chân núi và nó bể nát ra. Người đem đốt
con bê chúng đã đúc, rồi tán ra thành tro, bỏ vào nước, bắt con cái
Israel phải uống.
Người nói cùng Aaron rằng:
"Dân này đã nói gì với ông mà ông để nó phạm tội nặng nề như thế?"
Aaron thưa: "Xin ngài chớ tức giận, nào ngài không biết dân này hay
hướng chiều về đàng tội đó sao? Chúng đã nói với tôi rằng: "Xin ông
hãy đúc cho chúng tôi những vị thần để dẫn dắt chúng tôi đi, vì ông
Môsê, người dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi không biết
chuyện gì đã xảy đến cho ông". Tôi liền nói với họ: "Ai trong các
ngươi có vàng, hãy mang đến cho tôi. Họ mang đến, tôi quăng vàng vào
lửa và đúc nên con bê này".
Hôm sau Môsê nói với dân: "Các
ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta sắp lên với Giavê:
có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các ngươi!" Môsê trở lại với
Giavê và nói: "Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn, chúng đã làm
cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước gì Người miễn chấp
tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con đi khỏi sách Người đã
viết".
Giavê phán với Môsê: "Ai phạm
tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn bây giờ, ngươi
hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi! Này thần sứ của Ta
sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của Ta, Ta sẽ trừng phạt
chúng vì tội của chúng".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Hãy
ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu (c. 1a).
Xướng: 1) Dân chúng đúc hình
bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh
quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng
đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh
ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt
họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn
với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.
Alleluia:
Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, lời của Chúa là chân lý, xin hãy thánh hoá chúng con trong sự
thật. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
13, 31-35
"Hạt cải trở thành cây đến
nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ
ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người
kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống,
nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến
nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó".
Người lại nói với họ một dụ
ngôn khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia
lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men".
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà
phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà
không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ
mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc
dựng nên thế gian".
Ðó là lời Chúa.
sự sống nhỏ mọn nhưng mãnh liệt
Bài Phúc Âm
của Thánh ký Mathêu hôm nay, Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên tiếp tục
loạt bài Phúc Âm về các dụ ngôn Nước Trời của Chúa Giêsu ở đoạn 13.
Dụ ngôn đầu
tiên (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Tư tuần trước) trong loạt dụ ngôn này là dụ ngôn người gieo giống
ra đi gieo giống liên quan đến 4 loại môi trường tiếp nhận hạt
giống, và dụ ngôn thứ hai (trong
bài
Phúc Âm Thứ
Bảy tuần trước) cũng về người gieo giống nhưng là giống tốt trong
ruộng của mình liên quan đến cỏ lùng. Dụ ngôn hôm nay, dụ ngôn thứ
ba cũng liên quan đến hạt giống, nhưng là loại hạt cải, được Chúa
Giêsu sử dụng để ám chỉ về Nước Trời như
sau:
"Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt
ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi
thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành
nó".
Ngoài
ra, song song với dụ ngôn này, như là một cặp dụ ngôn bất
khả phân ly về
Nước Trời, một dụ ngôn được Chúa Giêsu đề cập đến ngay sau đó, đó là
dụ ngôn: "Nước
trời giống như men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho
đến khi bột dậy men".
Cặp dụ
ngôn hôm nay đây và
cặp
dụ ngôn vào Thứ Tư tuần này về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải
thích ý nghĩa ám chỉ của những gì trong dụ ngôn, như Người đã dẫn
giải dụ
ngôn thứ 1 (trong bài
Phúc Âm Thứ
Sáu tuần trước) và như
Người đã dẫn giải dụ
ngôn thứ 2 (trong bài
Phúc Âm ngày
mai).
Thế
nhưng, không phải vì thế mà 2 cặp dụ ngôn này tự chúng là những gì
dễ hiểu, trái lại, như các dụ ngôn được Người dẫn giải, chúng vẫn là
những điều bí ẩn, sâu nhiệm, như
câu kết của bài Phúc Âm hôm nay cho thấy về chung các dụ ngôn:
"Chúa
Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không
phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên
tri đã chép rằng: 'Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những
điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian'".
Dầu
sao tính tò mò của con người vẫn muốn biết được ý nghĩa ám chỉ của
các cặp dụ ngôn về Nước Trời không được Chúa Giêsu giải thích ấy,
không phải chỉ thỏa tính tò mò mà nhất là để nắm bắt được thực tại
của Nước Trời hầu có thể hưởng ứng
và đáp ứng
một
cách xứng đáng.
Trước
hết, "Nước
trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình" - Phải
chăng "hạt cải" ở đây Chúa Giêsu ám chỉ đến mầu nhiệm
nhập thể của Người: "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa
chúng ta" (Gioan 1:14)? "Hạt
ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống" - Phải
chăng, Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm khổ giá, ở chỗ Người chẳng
những đã "tự hạ ra như không" (Philiphê 2:6) mà còn "vâng
lời cho đến chết và chết trên thập giá" (xem Philiphê 2:8)? "Nhưng
khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi
chim trời đến nương náu nơi ngành nó"
- Phải
chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến mầu nhiệm phục sinh và thăng
thiên của Người, ở chỗ "Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho
Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philiphê 2:9).
Sau nữa, "Nước
trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu
bột, cho đến khi bột dậy men". Phải
chăng "nắm
men" Chúa
Giêsu muốn ám
chỉ đến sự sống thần linh nói chung và mầu nhiệm Thánh Thể cùng
với các bí tích chất chứa sự sống nói riêng? Phải chăng "người đàn
bà" trong dụ ngôn Người
muốn ám
chỉ đến
Giáo Hội đóng vai trò làm mẹ có nhiệm vụ ban phát sự sống thần
linh này bằng việc ban các bí tích nhất là việc cử hành Thánh
Thể? Phải chăng "ba đấu bột" cần phải "dậy men" ở đây,
tức cần phải "được sống và sống dồi dào hơn" (Gioan
10:10), Chúa
Giêsu muốn ám chỉ đến đấu
bột thứ nhất là từng
Kitô
hữu,
chi thể
của Chúa Kitô, đấu
bột thứ
hai là chung Giáo
Hội, Nhiệm
Thể Chúa Kitô, và đấu
bột thứ
ba là toàn thể xã
hội loài người?
Nếu
Moisen là nhận vật được Thiên Chúa tuyển chọn để giải phóng dân
của Ngài khỏi làm nô lệ ở Ai Cập, nhờ đó Moisen là hình bóng báo
trước một Đấng Thiên Sai sẽ đến để giải phóng nhân loại nói
chung, trong đó có cả dân Do Thái, khỏi tội lỗi và sự chết, thì
trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy Moisen
có
thể được coi là một "hạt cảI" trong thửa ruộng
cộng đồng dân Do Thái, một con người chẳng là gì trước nhan
Thiên Chúa, nhưng lại vươn lên thành cây vĩ đại cho chim trời
làm tổ, ở chỗ đã trở
thành một con người có thế lực trước Thiên Chúa, với vai trò đại
diện cho dân tộc của mình mà chuyển
cầu để họ khỏi
bị Ngài tiêu diệt bởi tội thờ bò vàng của họ:
"Hôm
sau Moisen nói
với dân: 'Các ngươi đã phạm một tội rất lớn, nhưng bây giờ ta
sắp lên với Giavê: có lẽ ta sẽ xin được Người xá tội cho các
ngươi!' Moisen trở
lại với Giavê và nói: 'Phải! dân này đã phạm một tội rất lớn,
chúng đã làm cho mình những thần bằng vàng! Nhưng bây giờ, ước
gì Người miễn chấp tội chúng. Bằng không, xin Người hãy xoá con
đi khỏi sách Người đã viết'. Giavê
phán với Moisen:
'Ai phạm tội chống lại Ta, Ta sẽ xoá nó khỏi sách của Ta! Còn
bây giờ, ngươi hãy đi, hãy dẫn dân đến nơi Ta đã phán với ngươi!
Này thần sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, và đến ngày truy phạt của
Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội của chúng'".
Bài Đáp
Ca hôm nay tóm tắt ý nghĩa của Bài Đọc 1 về tinh thần bất trung
và thái độ thiên về ngẫu tượng tà thần của họ, cho dù họ đã được
liên tục chứng
kiến thấy các điềm
thiêng dấu lạ Ngài tỏ ra cho họ, nhưng nhờ có Moisen mà
họ đã được Ngài thương tha:
1) Dân chúng đúc hình bò con tại Horéb, và lễ bái thần tượng đã
đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình
tượng con bò ăn cỏ.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình, Đấng đã làm những
điều trọng đại bên Ai-cập, Đấng đã làm những điều kỳ diệu trên
lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Đỏ.
3) Chúa đã nghĩ tới tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là
người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi
giận và đừng tiêu diệt họ.
Ngày 31 tháng 7
Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Sinh năm 1491 tại Lôi-ô-la miền
Can-ta-bơ-ri-a. Lúc còn thanh niên, I-nha-xi-ô theo binh nghiệp,
phục vụ trong triều đình. Khi đã trở lại, người học thần học ở
Pa-ri. Tại đây, cùng với mấy người bạn, người đã sáng lập dòng
Chúa Giê-su, thường gọi tắt là dòng Tên (năm 1534). Nhưng chính
tại Rô-ma, người nỗ lực làm cho dòng lan rộng khắp châu Âu và
hăng hái truyền giáo, nêu gương phục vụ Hội Thánh, hết lòng tuân
phục đức giáo hoàng. Phương pháp linh thao của người vạch ra một
con đường cho ai muốn hiến thân để làm cho vinh quang Thiên Chúa
ngày một sáng ngời hơn. Người qua đời ở Rô-ma năm 1556.
Bài đọc 2
Lúc bấy giờ, I-nha-xi-ô rất say mê đọc những sách vô bổ
và dối trá ; những sách này thuật lại những việc phi
thường của các danh nhân. Khi cảm thấy khoẻ, I-nha-xi-ô
xin người ta đem lại cho mình vài quyển để đọc giết thời
giờ. Nhưng ở trong nhà ấy, người ta không tìm được quyển
nào như vậy. Vì thế người ta đưa cho anh cuốn sách nhan
đề “Cuộc đời Đức Ki-tô”, và một cuốn khác nhan đề “Bông
hoa các thánh”, cả hai đều được viết bằng tiếng mẹ đẻ.
Nhờ năng đọc các sách này, anh bắt đầu có cảm tình với
những điều viết trong đó. Đôi lần anh ngưng đọc để suy
nghĩ những điều mình mới đọc ; hoặc đôi khi anh nghĩ đến
những điều vô bổ anh đã quen suy nghĩ trước đây, và
nhiều điều tương tự khác xuất hiện trong trí anh.
Thiên Chúa đã rủ lòng thương giúp anh loại trừ khỏi tâm
trí anh những gì anh vừa đọc. Quả vậy, khi anh đọc cuộc
đời Đức Ki-tô, Chúa chúng ta và cuộc đời các thánh, thì
anh đã suy nghĩ nhiều và tự hỏi : “Vậy giả như tôi làm
điều mà thánh Phan-xi-cô đã làm, thì sao ? Giả như tôi
làm điều mà thánh Đa-minh đã làm, thì sao ?” Và như thế
anh để tâm suy nghĩ rất nhiều điều. Nhưng các tư tưởng
ấy chỉ tồn tại một thời gian. Và rồi vì anh bận rộn với
các công việc khác, nên những chuyện vô bổ và trần tục
ấy lại xen vào ; những chuyện này kéo dài một thời gian
khá lâu. Hết tư tưởng này đến tư tưởng kia tiếp nối nhau
cầm giữ anh rất lâu.
Tuy nhiên có sự khác biệt giữa những tư tưởng ấy : khi
nghĩ đến những tư tưởng phàm tục, anh cảm thấy rất thích
thú ; nhưng khi mỏi mệt không suy nghĩ, anh cảm thấy
buồn bã và khô khan. Còn khi nghĩ đến việc theo đuổi
những chuyện khắc khổ mà anh biết các vị thánh đã quen
sống, thì không những lúc đang nghĩ đến những chuyện ấy,
anh cảm thấy tâm hồn vui thú, và ngay cả lúc thôi nghĩ
đến, anh vẫn thấy mình sung sướng. Nhưng chính anh không
nhận ra, cũng không nghĩ đến sự khác biệt này, cho đến
một ngày kia, khi mắt tâm trí anh được mở ra, anh ngạc
nhiên nhận ra sự khác biệt này ; nhờ kinh nghiệm, anh
hiểu rằng có loại tư tưởng để lại buồn rầu, có loại tư
tưởng để lại niềm vui. Và đó là suy luận đầu tiên anh
thu lượm được về những điều thuộc về Thiên Chúa. Sau
này, khi làm linh thao, anh bắt đầu được soi sáng để
hiểu biết về sự cân nhắc các thần khí và dạy các môn đệ
của mình.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Giáo Hội một chiến sĩ can
trường là thánh I-nha-xi-ô, để làm cho danh Chúa thêm
vinh quang rạng rỡ. Nhờ gương sáng và ơn phù trợ của
thánh nhân, xin cho chúng con ở đời này biết hăng say
chiến đấu, để đời sau được cùng người lãnh phần thưởng
vinh quang Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin
Ngày 31/7
Don Inigo
Lopez de Recalde sinh khoảng năm 1491 tại miền đồi
núi Basque gần làng Azpeytia. Ngài là con út trong
số 11 người con của một gia đình quí tộc. Được rửa
tội với tên Inigo, một vị thánh Tây Ban Nha dòng
thánh Bênêdictô, nhưng sau này Ngài thường dùng tên
Ignatiô thành Antiokia. Hồi còn niên thiếu, người
giúp việc cho một người bạn quí tộc của một gia đình
là Giuan Velasquez. Sau khi Velasquez từ trần, Ngài
lại phục vụ bá tước Najera, phó vương miền Navarre.
Ngài được giáo dục một cách hời hợt. Thời đó, Ngài
chỉ ham chơi, thích những chuyện hào hùng, nhất là
những ngày lễ duyệt binh.
Trong cuộc
chiến Pháp, Tây Ban Nha tháng năm 1521 quân đội pháp
đã vượt núi Pyrênê và tới phong tỏa Pampeluna. Nhiều
người đã tính chuyện đầu hàng, nhưng Ignatiô quyết
cầm cự. Trong cơn bão tố tại pháo đài Ignatiô bị
trúng đạn pháo ở đùi, Ngài được chuyển về lâu đài ở
Loyola. Nơi dây người ta khám phá ra rằng xương đùi
đã bị xếp trật, phải mổ ra và sắp xếp lại. Ngài đã
can đảm chịu đựng cơn đau.
Thời gian
dưỡng bệnh lâu dài tiếp theo sau đó, không có sách
vở gì khác, Ignatiô dùng thời gian để đọc hạnh các
thánh. Gương mẫu đời sống các thánh làm mủi lòng
Ignatiô. Ngài nói: - Tôi có phải thực hiện điều mà
thánh Phaxicô và Dominico đã làm chăng ?
Năm 1522,
sau khi bình phục, Ngài đi hành hương kính Đức bà
Montserrat. Nơi đây Ngài đã thực hiện cuộc xưng tội
trong ba ngày, trao tặng đồ hiệp sĩ cho một kẻ ăn
xin, đặt gươm trên bàn thờ Đức Mẹ và tới thành
Manresa kế cận để phục vụ trong một nhà thương. Đã
một thời Ngài bị nguy hiểm rơi vào một cuộc khổ hạnh
quá độ. Ngài Ngài đã thoát hiểm nhờ sự vâng phục
hoàn tòan đối với cha giải tội. Chính tại Manresa,
Ngài được Thiên Chúa soi sáng, sự soi sáng hứơng dẫn
trọn những ngày còn lại của cuộc đời Ngài. Ngài viết
cuốn linh thao, trong đó vạch ra những nguyên tắc mà
một người công giáo phải theo để "điều khiển đời
sống mình" một đời sống nhằm ca tụng Chúa, tôn kính
và phụng sự Ngài, để được cứu rỗi. Ngài phác họa một
giáo thuyết của mình về sự chọn lựa và đòi hỏi để
làm mọi sự để "vinh danh Chúa" (Ad Majorem dei
gloriam)
Thánh nhân ở
lại Manresa khoảng một năm và từ đó hành hương đi
Palestina, trên đường đi có dừng lại ở Roma. Sau khi
đã kính viếng các nơi thánh ở Palestina, Ngài trở về
Barcelona. Nơi đây, dầu đã 30 tuổi, Ngài vẫn đến
trường, ngồi chung ghế với các em nhỏ, để sữa chữa
lại kẽ hở trong việc học hành, cho tới khi Ngài có
thể dự lớp tại đại học Alcala và Salamanca. Tại cả
hai nơi này, đã Ngài bị truy tố ra tòa án tôn giáo
và bị tống giam ít ngày. Nhưng cuối cùng giáo thuyết
của Ngài đã thắng.
Năm 1528,
Ngài bỏ Salamanca đi Paris và Sorbonne. Ngài ở Paris
7 năm, nơi đây Ngài tụ họp được sáu môn sinh đầu
tiên. Vào ngày lễ Mông Triệu năm 1534 bảy anh em đã
long trọng hiến thân phụng sự Thiên Chúa, khấn giữ
đức nghèo khó và trong sạch, tại đền thờ thánh Denis
tại Montmartre. Lúc đó, họ dự định đi Giêrusalem và
hiến thân cho việc cứu rỗi các linh hồn trong các
miền còn ngoại giáo.
gnatiô trở
về Tây Ban Nha. Năm 1535, tu hội đã lên tới 10
người. Họ gặp nhau ở Venitia, định cùng đáp tàu đi
hành hương thánh địa. Nhưng tình hình miền Đông Địa
Trug Hải không cho phép. Bù lại một số đi Roma, để
Ignatiô tại Venitia. Đức giáo hoàng Phaolô III ưu ái
tiếp họ. Trở lại Ventia, họ mang theo phép của Đức
Giáo hoàng cho Ignatiô và 6 anh em được thụ phong
linh mục.
Một năm sau,
thấy rằng: không thể tới thánh địa được, Ignatiô kết
luận rằng ý Chúa không muốn cuộc hành hương này.
Thay vào đó, Ngài đặt tu hội dưới danh hiệu "dòng
Chúa Giêsu" dưới quyền sử dụng của toà thánh. Họ đi
Roma và Ignatiô dâng thánh lễ đầu tiên ở đầu vào dịp
lễ Giáng sinh năm 1538 tại đền thờ Đức Bà cả, Ngài
soạn thảo hiến pháp của dòng mới và đến trình diện
Đức giáo hoàng Phaolô III. Đức giáo hoàng đã phát
biểu khi gặp họ: - Đây là bàn tay Thiên Chúa.
Và trong sắc
lệnh Regimini Militantis Ecclesioe, ban hành tháng 9
năm 1540 Ngài đã chính thức công nhận hội dòng. Hội
dòng thêm vào đó 3 lời khấn: nghèo khó, vâng lời,
trong sạch, lời khấn đặc biệt vâng phục Đức giáo
hoàng.
Trong hiến pháp đầu
tiên, hội dòng giới hạn con số có 60 tu sĩ. Ignatiô
được đồng thanh bầu làm bề trên ngày 7 tháng 4 năm
1541. Luật hạn định tu sĩ vào số 60 được rút lại bởi
sắc lệnh của Đức giáo hoàng ngày 15 tháng 3 năm
1543.
Ignatiô khó
rời bỏ Roma cho đến cuối đời. Nhưng hội dòng đã lan
rộng tới mọi miền trên thế giới, dưới quyền hướng
dẫn của Ngài như một phép lạ, khi Ngài từ trần vào
ngày 3 tháng 7 năm 1556, hội dòng đã có 12 tỉnh dòng
với 101 nhà và gần 1000 phần tử.
Thánh
Ignatiô được suy tôn hiển thánh ngày 12 tháng 3 năm
1622.
http://conggiao.info/thanh-ignatio-loyola-linh-muc-1491-1556-d-17496
Ngày 31 tháng 7
Thánh Ignatio Loyola, Linh mục
(1491-1556)
Ignatio nhà Loyola là một tu sĩ, nhà thần học
lớn của Giáo hội Công giáo Rôma. Ngài sáng lập
nên Dòng Tên và là bề trên tổng quyền đầu tiên
của hội dòng này. Ignatio xuất thân trong một
gia đình quý tộc xứ Basque của Tây Ban Nha, được
thụ phong linh mục năm 1537. Ông nổi lên như là
một nhà lãnh đạo kỳ cựu bảo vệ Giáo Hội Công
giáo trong thời kỳ có Phong trào Chống cải cách,
Ngài được Giáo hội Công giáo phong thánh, với
ngày lễ mừng kính là 31 tháng 7 hằng năm.
Ignatio sinh tại lâu đài nhà Loyola, xứ Basque
(ngày nay là Gipuzkoa, Tây Ban Nha). Tên của
ngài khi chịu phép Rửa tội Inigo (đặt theo Thánh
Innicus, viện phụ đan viện Oña), một cái tên
theo tiếng Basque có nghĩa là “chú bé”. Không rõ
từ khi nào mà ngài bắt đầu sử dụng tên Ignatio
(Ignatius) thay cho tên Inigo. Năm 13 tuổi,
Inigo López được bà María de Garin - vợ của một
người thợ rèn địa phương bảo dưỡng sau khi mẹ
ruột của mình qua đời. Vì vậy, Inigo đã được
thêm phụ họ “de Loyola” nhằm chỉ đến nguyên quán
Loyola, nơi ngài được sinh ra.
Năm 1509, Inigo tòng quân cho Công tước thành
Najera và Tổng trấn thành Navarre nhằm muốn sau
này được thăng tiến thành một công tước. Dưới sự
lãnh đạo của Công tước này, Ignatio đã tham gia
nhiều trận đánh mà không bị thương tích gì.
Nhưng vào ngày 20 tháng 5 năm 1521, quân đội
Pháp tấn công pháo đài Pamplona, Ignatio bị một
viên đạn bắn vào chân. Thấy Ignatio ngã gục, lập
tức cả đơn vị trong thành đều đầu hàng. Sau khi
chiếm được thành, binh lính Pháp vẫn đối xử tử
tế với Ignatio và để ngài ở tại lâu đài Pamplona
khoảng mười lăm ngày. Sau đó, họ đặt ông lên
cáng và khiêng về đến tận nhà ở Loyola. Thời đó,
y học chưa có thuốc gây mê để phẫu thuật vết
thương, nhưng qua hai lần phẫu thuật xương chân
mà ông vẫn không hề thốt ra một tiếng nào, chỉ
thấy ông nắm chặt hai bàn tay vì đau đớn. Tình
trạng sức khỏe của ông ngày càng trầm trọng,
Ignatio không thể ăn uống được gì và có những
biểu hiện sắp chết. Vài ngày trước lễ thánh
Gioan Baotixita (24 tháng 6), người nhà đề nghị
ông xưng tội. Đến trước ngày lễ Thánh Phêrô và
Phaolô (29 tháng 6), các y sĩ nói rằng nếu trước
nửa đêm mà Ignatio không khá hơn thì coi như
chắc chắn sẽ chết. Nửa đêm hôm ấy, ông cảm thấy
bớt đau, và ngày hôm sau thì vượt qua được tình
trạng nguy kịch.
Trong những ngày dưỡng bệnh, vì quá buồn chán,
Ignatio nói người thân đem đến mấy cuốn tiểu
thuyết kiếm hiệp để đọc cho đỡ buồn vì ông vốn
là một chiến binh nên rất mê thể loại này. Nhưng
vì trong nhà không có cuốn tiểu thuyết nào nên
người ta mang cho ông một cuốn sách tựa đề Cuộc
đời Chúa Kitô và cuốn Hạnh các thánh viết bằng
tiếng Tây Ban Nha. Dần dần, những quyển sách này
đã thu hút ông. Và khi đọc về cuộc đời của thánh
Phanxicô thành Assisi, Thánh Đa Minh và nhiều tu
sĩ nổi tiếng khác, Ignatio quyết tâm noi gương
họ hiến mình để đi chinh phục Đất Thánh cho Kitô
giáo. Sau khi phục hồi, Ignatio đến thăm tu viện
Santa Maria de Montserrat của dòng Biển Đức. Tại
đây, ông treo bộ quân phục của mình trước một
bức hình Đức Mẹ Maria. Sau đó, ông đến thị trấn
Manresa, Catalonia và đã dành nhiều tháng sống
trong một hang động để thực hành khổ hạnh khắt
khe. Tại Manresa, Ignatio bắt đầu thay đổi lối
sống và cảm nghiệm sự thay đổi trong tâm hồn xen
lẫn niềm vui và nỗi khổ đau.
Năm 1523, ông làm một cuộc hành hương đến Đất
Thánh (tức Jerusalem). Ông có ý định ở lại đây
để viếng thăm các nơi thánh thiêng và đồng thời
giúp đỡ các linh hồn. Nhưng ý Chúa không muốn
như thế.
Trở về Tây Ban Nha, vào năm 1524, Ignatio bắt
đầu học tiếng Latinh vì muốn trở thành linh mục.
Sau đó, ông tiếp tục sang Paris - là trung tâm
văn hóa nổi danh nhất châu Âu thời ấy để nghiên
cứu thần học.
Năm 1534, ông đã tập hợp một số sinh viên Đại
học: Phanxicô Xaviê là Alfonso Salmeron, Laynez
Diego, Nicholas Bobadilla (đều là người Tây Ban
Nha); Peter Faber (người Pháp) và Simao
Rodrigues (người Bồ Đào Nha). Sáu người họ đã
gặp mặt và đã tuyên thệ làm việc gắn bó cùng
nhau trong suốt đời của họ. Ignatio thiết lập
nhóm này làm nền tảng của Dòng Tên ngày nay. Năm
1535, ông tốt nghiệp hai bằng: cử nhân triết học
và cao học thần học. Một năm sau, ông được thụ
phong linh mục và cử hành thánh lễ mở tay năm
1536.
Ignatio được chọn làm bề trên tổng quyền đầu
tiên và là tổ phụ sáng lập Dòng Tên. Ông đã gửi
nhiều tu sĩ anh em trong dòng đi truyền giáo
khắp châu Âu, thiết lập ra các trường học, cao
đẳng, và các chủng viện. Năm 1548, bản Linh Thao
đã được in, mặc dù trước đó bị đưa ra Toà án dị
giáo Rôma, nhưng đã được phát hành. Ignatio viết
bản Hiến pháp Dòng Tên và được thông qua vào năm
1540 tạo thành một hội dòng mới, nhấn mạnh sự hy
sinh và vâng lời giáo hoàng và bề trên. Nguyên
tắc chính của ông đã trở thành phương châm chung
của Dòng Tên: Ad majorem Dei gloriam (Để Thiên
Chúa được vinh hiển hơn). Các tu sĩ Dòng Tên là
nhân tố chính trong việc cải cách Công giáo.
Trong thời gian 1553-1555, thông qua thư ký của
mình là linh mục Goncalves da Camara, Ignatio
cho ra đời cuốn tự truyện cuộc đời mình, đây là
một nguồn có giá trị cho phương thức Linh Thao
ngày nay. Ông qua đời tại Roma vào ngày 31 tháng
7 năm 1556 vì trận dịch sốt rét.
Ignatio được Giáo hoàng Phaolô V phong chân
phước ngày 27 tháng 7 năm 1609 và được Giáo
hoàng Grêgôriô XV phong thánh ngày 13 tháng 3
năm 1622. Ngày lễ kính Thánh Ignatio là ngày 31
tháng 7 hằng năm, ngày ông qua đời. Thánh
Ignatio được tôn kính như vị thánh quan thầy của
các binh sĩ Công Giáo.
Chúng ta mừng lễ kính thánh Ignatio hôm nay và
xin Chúa cho mỗi người chúng ta được bắt noi
gương bắt chước ngài luôn sống và làm việc “Để
Thiên Chúa được vinh hiển hơn”.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Giáo Hội một chiến sĩ
can trường là thánh Ignatio, để làm cho danh
Chúa thêm vinh quang rạng rỡ. Nhờ gương sáng và
ơn phù trợ của thánh nhân, xin cho chúng con ở
đời này biết hăng say chiến đấu, để đời sau được
cùng người lãnh phần thưởng vinh quang Chúa hứa
ban.” (Tài liệu từ Internet)
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-31-07-thanh-ignatio-loyolalinh-muc-48149
THÁNH IGNATIO LOYOLA, Linh Mục Lập Dòng Tên.
Tâybanha-Roma (1491-1556)
Ignatio sinh năm 1491, là út của gia đình quí
phái gồm 11 con, người nước Tây ban Nha.
Lúc nhỏ, cậu rất tinh nghịch và ham chơi, được
cha mẹ gửi học trong triều đình với những con
nhà sang trọng để sau trở thành người danh vọng,
có vợ đẹp con khôn... Lớn lên, cậu nhập quân ngũ
hoàng gia và trở thành một chiến sĩ anh dũng.
1. Cái rủi thành cái
may: Lúc
30 tuổi, Ignatio, vì mảnh đạn súng cối, bị
thương nặng, phải nằm dài trong lâu đài Loyola
để chữa chân bị gẫy. Trong thời gian này,
Ignatio muốn đọc sánh những hiệp sĩ hào hùng,
nhưng không có sẵn, người ta trao cho ông cuốn
"Cuộc đời Chúa Cứu Thế" và cuốn "Hạnh Các
Thánh". Vì không có sách nào khác nên ông phải
đọc đi đọc lại, và cảm kích, suy tư về cuộc đời
đã qua. Ông tự hỏi: "Những người này cũng giống
như tôi, tại sao thánh Phanxicô, thánh Đaminh
làm được mà tôi không làm được những việc họ đã
làm?" Ông bắt đầu suy nghĩ về danh giá cuộc đời,
và những việc làm của các thánh.
"Ít lâu sau ông dành mấy ngày để cầu nguyện
trong một tu viện dòng Bênêdictô, nơi đó ông
treo gươm trước toà Đức Mẹ, và bắt đầu thời kỳ
tu luyện. Chính thời gian tu luyện này, đã giúp
cho ngài nhiều tư tưởng để sau này viết tác phẩm
"Linh Thao", nêu lên những nguyên tắc căn bản
cho đời sống thánh đức.
Dù đã 33 tuổi đời, ông vẫn ép mình trở lại
trường học tiếng Latinh với các trò nhỏ, mặc
chúng chế nhạo ông. Trong thời gian này, ông
hướng dẫn cho người ta cách cầu nguyện, vì
thế người ta nghi ngờ ông lập bè rối và bắt ông
vào tù, nhưng ông không sợ, ông nói: "Tôi sẵn
sàng bị xiềng xích vì Chúa Kitô".
- Năm 1534, khi được 43 tuổi, Ignatio tốt nghiệp
tại đại học Paris, nước Pháp.
2. Lập Dòng, phát triển mạnh:
Cũng năm 1534, Ignatio qui tụ được 6 cộng tác
viên, một người trong nhóm là Phanxicô Xavie,
sau tới truyền giáo tại India (Ấn độ). Cả 7
người đã tuyên khấn sống theo tinh thần Phúc Âm
: Khó nghèo, trong sạch, tuân phục tại đền thánh
Deni. Đây là khởi điểm của Dòng Tên. Cộng
đoàn này hứa đi những nơi, làm những việc Đức
thánh cha đại diện Chúa Kitô muốn, đó là lời
khấn thứ 4 của nhóm . Ignatiô gọi tổ chức này là
Hội Chúa Giêsu, tiếng Việt theo thói "kính bất
xưng danh", quen gọi là dòng Tên.
- 48 tuổi, Năm 1539, Ignatio và các bạn được
phong chức linh mục.
- Năm 1540 Đức Thánh Cha Phaolô 3 chuẩn nhận Tu
Hội của Ignatiô. Các linh mục dòng này không mặc
áo dòng riêng biệt. Họ có những giờ cầu nguyện
vắn. Họ được huấn luyện làm việc nơi nào người
ta muốn, nhưng việc chính của họ là dạy học. Họ
trở thành những nhà truyền giáo, đánh phá những
lạc thuyết khắp Âu châu. Châm ngôn của dòng
là:"Tất cả cho vinh danh Chúa hơn".
Ignatio thường cầu xin, "Xin ban cho con tình
yêu và ơn thánh Chúa, thế là con giầu rồi, con
không xin gì nữa".(Give me only your love and
your grace. With this I am rich enough, and I
have no more to ask."
Ignatiô qua đời tại Roma, ngày 31 tháng 7 năm
1556, thọ 63 tuổi.
106 năm sau, Đức Gregorio 15 đã phong thánh cho
Ignatio năm 1662.
-----
Khi Ignatiô qua đời, đã có hơn 1000 tu sĩ tại
Bắc Nam Mỹ, Âu châu, Tàu, Nhật, họ dạy học và
giảng đạo rất hay.
- 217 năm sau khi Ignatio qua đời, Ngày
21.7.1773, trước sức ép nặng nề của các chính
quyền ác cảm với Dòng Tên, ĐGH Clementê XIV ra
đoản sắc "Dominus ac Redemptor" giải tán Dòng
Tên trên toàn thế giới, làm cho 23.000 tu sĩ
Dòng Tên tan tác.
- Đại học Georgetown là đại học Công giáo lâu
đời nhất của nước Mỹ, được các linh mục dòng Tên
thành lập năm 1789.
- Sau 41 năm bị giải tán, Ngày 7 tháng 8 năm
1814, ĐGH Piô VII ra trọng sắc "Sollicitudo
omnium Ecclesiarum" tái lập Dòng Tên trong Giáo
hội.
http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=28490
Thứ Ba sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
33, 7-11; 34, 5b-9. 28
"Chúa đối diện nói chuyện
với Môsê".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê hạ
nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là "nhà xếp
giao ước". Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp ở ngoài
trại.
Khi ông Môsê đi đến nhà xếp,
thì toàn dân chỗi dậy, ai nấy ra đứng trước cửa trại mình nhìn theo
ông Môsê, cho đến khi ông vào nhà xếp. Khi ông đã vào nhà xếp giao
ước, thì có một cột mây rơi xuống, và dừng lại tại cửa, và Chúa đàm
đạo cùng Môsê; mọi người trông thấy cột mây dừng lại trước cửa nhà
xếp. Họ đứng nơi cửa nhà xếp mình và sấp mình thờ lạy. Chúa đàm đạo
cùng Môsê diện đối diện, như người ta quen đàm đạo với bạn hữu mình.
Khi ông trở về trại, thì người hầu cận ông là Giosuê, con ông Nun,
còn trẻ tuổi, không rời khỏi nhà xếp.
Ông Môsê đứng trước mặt Chúa
mà khẩn cầu danh Người. Chúa đi ngang qua trước mặt ông và hô lên:
"Ðức Chúa! Ðức Chúa! Ðấng cai trị mọi sự, là Ðấng từ bi, nhân hậu,
nhẫn nại, đầy lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời,
tha thứ gian ác, độc dữ và tội lỗi; (nhưng) trước mặt Chúa không ai
coi mình là vô tội. Sự gian ác tổ tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu
đến ba bốn đời". Ông Môsê vội vã sấp mình xuống đất thờ lạy Chúa và
thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được ơn nghĩa trước mặt Chúa, thì xin
Chúa đi với chúng con, (vì dân này là dân cứng đầu), và xin Chúa tha
thứ sự gian ác và tội lỗi chúng con. Xin nhận chúng con làm cơ
nghiệp của Chúa". Vậy ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày,
không ăn bánh và không uống nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia
đá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
102, 6-7. 8-9. 10-11. 12-13
Ðáp: Chúa
là Ðấng từ bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Chúa thi hành những
sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức. Người
tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái
Israel. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng từ bi và hay
thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Người không chấp
tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm hờn. - Ðáp.
3) Người không xử với chúng
tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa theo điều oan trái chúng
tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao trên mặt đất, lòng nhân Người
còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. - Ðáp.
4) Cũng như từ đông sang tây
xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. Cũng như người
cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Người. -
Ðáp.
Alleluia:
Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! - Lời
Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và là ý
muốn của tâm hồn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
13, 36-43
"Cũng như người ta thu lấy
cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ
xảy ra như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, sau khi giải tán dân
chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng:
"Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con
nghe". Người đáp lại rằng: "Kẻ gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là
thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái
gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ
gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu
đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con
Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm
điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ
phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời
trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe".
Ðó là lời Chúa.
Cánh chung: Từ thời điểm viên trọn tới thời điểm chung cuộc
Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên hôm nay chất
chứa những lời Chúa Giêsu dẫn giải về dụ ngôn người gieo giống tốt
trong thửa ruộng của mình trong bài
Phúc Âm hôm Thứ Bảy tuần trước, để đáp
lại lời yêu cầu của các môn đệ: "Khi
ấy, sau khi giải tán dân chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ
đến gặp Người và thưa rằng: 'Xin Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng
trong ruộng cho chúng con nghe'".
Theo thứ
tự các hình ảnh trong dụ ngôn, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của
từng hình ảnh hay sự việc được Người ám chỉ trong dụ ngôn này như
sau:
"Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là
con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng
là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Cũng
như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì
ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con Người sẽ sai các thiên thần
đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa,
rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Bấy
giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình".
Ở đây chúng ta thấy những điều cần chú ý sau đây:
1- Nếu "Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là
con cái Nước Trời" thì
có nghĩa là Chúa Kitô Thiên Sai đã cứu độ thế gian hay cứu độ loài
người khỏi tội lỗi và sự chết bằng cuộc Vượt Qua của Người, nhờ đó
Người đã ban cho họ sự sống thần linh, như
thể Người đã gieo giống tốt trong thửa ruộng thế gian của Người, nơi
Người đã hóa thân làm người để nhờ Người mà thế gian được cứu độ
(xem Gioan 3:16-17).
2- Nếu "Cỏ
lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ" thì
có nghĩa là Satan và bọn ngụy thần của hắn nhất định tàn phá công
nghiệp của Chúa Kitô nơi các tâm hồn nói riêng và Giáo Hội nói
chung. Bởi thế, chúng ta không lạ gì Giáo Hội của Chúa Kitô liên lỉ
trở thành mục tiêu tấn công của thần dữ suốt giòng lịch sử của Giáo
Hội, và thành phần Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội luôn bị bách hại
và sát hại, càng ngày càng dữ dội hơn.
3- Nếu "Mùa
gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần" thì
có nghĩa là tất cả sẽ có cùng, và mọi sự sẽ được giải quyết công
minh đúng như dự án thần linh của Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng Thần
Linh làm chủ lịch sử loài người, cho dù trong thời gian hiện tại
thành phần kẻ lành lúa
tốt chỉ
là một thiểu số và bao giờ cũng chịu
thua thiệt tất cả mọi sự trước áp lực hung hăng tàn bạo của thành
phần kẻ dữ lùng vực hầu
như bất khả khống chế.
Có một chi tiết hơi kỳ lạ trong dụ ngôn được Chúa Kitô đề cập tới,
đó là chi tiết: "Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả
gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả
chúng vào lửa". Chi tiết kỳ lạ này là "tất
cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác khỏi nước Chúa", nghĩa
là trong "nước Chúa" đã có hay đã
bao gồm "tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian
ác" rồi phải không nên sau cùng mới bị loại ra. Như
thế nghĩa là gì? "Nước Chúa", nếu hiểu là thiên đàng, là
mối hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, cũng có cái xấu và sự dữ
hay sao?
Ở đây, theo kẻ chia sẻ suy niệm lời Chúa hiểu, thì "Nước Chúa" trên
thế gian này có thể hiểu là chính mạc khải thần linh của Thiên Chúa,
một mạc khải được tỏ ra cho tất cả mọi người, như hạt giống được
gieo cả vào vệ đường, sỏi đá và bụi gai nữa, chứ không phải chỉ vào
đất tốt, và vì thế ai không chấp nhận mạc khải thần linh của Ngài là
Chúa Giêsu Kitô, là ơn cứu độ của Người, là Lòng Thương Xót Chúa,
thì kể như họ không chấp nhận Lòng Thương Xót Chúa, không chấp nhận
ơn cứu độ của Ngài, do đó tự họ loại mình ra khỏi "Nước Chúa".
Như
thế, dụ ngôn người gieo giống tốt trong thửa ruộng của mình đây bao
gồm từ "thời điểm viên trọn" (Galata 4:4) của Chúa Kitô Thiên
Sai, qua suốt giòng lịch sử của Giáo Hội Chúa Kitô, cho đến tận thế
là thời điểm chung cuộc. Dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng này là một dụ
ngôn Chúa dẫn giải chẳng những để giúp
cho chúng ta hiểu
biết về thực tại Nước Trời mà còn khuyến dụ chúng ta hãy sống
thực
tại Nước Trời này nữa, ở chỗ hãy nhẫn
nhục chịu đựng gian nan khốn khó trong cuộc hành trình đức tin của
mình và luôn chờ đợi
bằng lòng tin
tưởng vào Đấng "sẽ
xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha
mong đợi Người"
(Do Thái 9:28).
Dụ ngôn này đồng thời cũng cho chúng ta thấy một Vị Thiên Chúa nhẫn
nại cho tới cùng, đối với cả kẻ dữ, và làm tất cả mọi sự cho lợi ích
của kẻ lành là lúa tốt, thậm chí bằng chính kẻ dữ là cỏ lùng. Đó là
lý do, như chính Chúa Kitô đã khẳng định:
"Khi lúa lớn lên và trổ bông thì cỏ lùng cũng lộ ra", nghĩa
là khi thành phần Kitô hữu sống đức tin và bắt đầu trổ bông đạo đức
(nhưng chưa thành quả thánh thiện) thì họ cần phải bị thử thách bởi
cỏ lùng là những chống đối cùng cách hại thậm chí sát hại, để đức
tin của họ trở nên sâu xa mãnh liệt, có thể từ mức độ hoa đạo đức
thành quả thánh thiện, hay từ đức tin tuân phục thành trái đức ái
trọn hảo.
Đúng thế, chính
tình yêu vô cùng nhân hậu của Ngài, nơi đức ái trọn hảo của họ là
lúa tốt cuối cùng sẽ thắng vượt tất
cả trong Chúa Kitô
Thiên Sai, Đấng đã
vượt qua từ khổ giá đến phục sinh, tức là Người chẳng những đã
chiến thắng tội lỗi và sự chết của loài người và nơi loại người, mà
còn ban cho họ sự sống đời đời nữa, bằng chính đức ái trọn hảo của
thành phần môn đệ lúa tốt trung thực của Người, để rồi, nếu kẻ dữ là
cỏ lùng có bị trừng phạt xứng
với tội ác của họ thì không phải là do Thiên Chúa vô cùng nhân
hậu ra tay, cho bằng chính
họ
bị day dứt quằn quại bằng cách "khóc lóc và nghiến răng" trước tình
yêu vô cùng nhân hậu của Ngài trong trường hợp họ bị bất hạnh hư đi
đời đời.
Trong Bài Đọc
1 của năm lẻ hôm nay cho thấy một Moisen, hình bóng của một Đức Kitô
Thiên sai giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết mà đem
vào đất hứa sự sống viên mãn, đang đóng vai trò là người gieo
lúa tốt trong thửa ruộng dân Chúa của mình, đồng
thời qua Moisen cũng cho thấy một vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu xót
thương, ở
chỗ:
1- Di chuyển nhà xếp giao ước cho lợi ích của dân:
"Trong những ngày ấy, Moisen hạ
nhà xếp, đem dựng ra một khoảng ở ngoài trại, và đặt tên là 'nhà xếp
giao ước'. Ai trong dân có điều gì muốn hỏi, thì đến nhà xếp ở ngoài
trại".
2- Có
một hầu cận là mầm mống thừa kế của mình: "Chúa
đàm đạo cùng Moisen diện đối diện, như người ta quen đàm đạo với bạn
hữu mình. Khi ông trở về trại, thì người hầu cận ông là Gioduệ,
con ông Nun, còn trẻ tuổi, không rời khỏi nhà xếp".
3- Cầu
khẩn cùng Chúa cho dân: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy
lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian
ác, độc dữ và tội lỗi; trước mặt Chúa không ai coi mình là vô tội.
Sự gian ác tổ tiên đã phạm, Chúa phạt con cháu đến ba bốn đời".
4- Nhận
lãnh bia đá thập giới (lần hai) từ Thiên Chúa để trao lại cho dân: "Vậy
ông Môsê ở đó với Chúa bốn mươi đêm ngày, không ăn bánh và không
uống nước; Chúa ghi mười lời giao ước vào bia đá".
Bài Đáp
Ca hôm nay chất chứa một cảm nghiệm thần linh về một vị Thiên Chúa
chẳng những tỏ mình ra bề ngoài có vẻ uy nghi lừng lẫy mà còn có một
tấm lòng vô cùng nhân hậu xót thương đúng như những gì Moisen đã cảm
nhận trong Bài Đọc 1: "Chúa!
Chúa! Đấng cai trị mọi sự, là Đấng từ bi, nhân hậu, nhẫn nại, đầy
lân tuất và chân chính. Chúa xót thương đến ngàn đời, tha thứ gian
ác, độc dữ và tội lỗi":
1)
Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho
những người bị ức. Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công
cuộc Người cho con cái Israel.
2) Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức
khoan nhân. Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ
thế căm hờn.
3) Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả
đũa theo điều oan trái chúng tôi. Nhưng cũng như trời xanh vượt cao
trên mặt đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ
Người.
4) Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi, Người đã ném tội lỗi xa
khỏi chúng tôi. Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu
thương những ai kính sợ Người.
Ngày 1 tháng 8
Thánh An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh năm 1696 tại Na-pô-li. Người từ bỏ nghề luật sư
để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan
báo tình yêu của Chúa Ki-tô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng
năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập dòng
Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền
quê (năm 1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác
phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Tất cả sự trọn lành thánh thiện của linh hồn hệ tại lòng yêu
mến Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa chúng ta, là sự thiện
tuyệt đối và là Đấng cứu chuộc chúng ta. Đức ái liên kết và
bảo toàn tất cả mọi nhân đức làm cho con người nên trọn
lành.
Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không đáng cho chúng ta hết lòng yêu
mến sao ? Từ muôn thuở Người đã yêu thương chúng ta. Người
như muốn nói với chúng ta : “Hỡi con người, hãy suy xét :
chính Ta đã yêu con trước. Lúc con chưa mở mắt chào đời, và
cả khi đất trời chưa có, Ta đã yêu con rồi. Ta hiện hữu là
Ta yêu con.”
Thiên Chúa thừa biết là ân huệ thu hút con người, nên Thiên
Chúa đã muốn ban nhiều đặc ân để thúc bách họ yêu mến Người
: “Con người dễ sa vào lưới nào, thì Ta muốn dùng lưới ấy mà
chinh phục họ : lưới dò tình yêu.” Mọi tặng ân Thiên Chúa
ban cho con người đều nhằm mục đích đó. Thiên Chúa ban cho
họ linh hồn có trí nhớ, trí hiểu và lòng muốn để nên hình
ảnh của Người, ban cho họ thân xác có giác quan. Thiên Chúa
cũng đã tạo dựng trời đất với bao nhiêu sự vật. Người đã làm
nên tất cả vì yêu thương con người, để mọi thụ tạo đó phục
vụ con người, còn con người thì yêu mến Thiên Chúa vì bao
nhiêu ân huệ Chúa ban.
Không những Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta các thụ tạo tốt
đẹp kia, mà Người còn đi xa hơn nữa : để lôi kéo chúng ta
yêu mến Người, Người đã ban trót cả mình Người cho chúng ta.
Chúa Cha hằng hữu đã yêu thương chúng ta đến nỗi tặng ban
chính Con Một Người. Khi thấy tất cả chúng ta phải chết và
bị mất hết ân sủng vì tội lỗi, thì Người làm gì ? Người đã
thương chúng ta vô cùng, hay đúng hơn nữa, theo kiểu nói của
thánh Phao-lô, Người đã thương chúng ta quá đỗi, nên đã sai
Con yêu dấu đến đền tội cho chúng ta, phục hồi cho chúng ta
sự sống đã mất đi vì tội lỗi.
Người đã ban Con của Người cho chúng ta. Để tha tội cho
chúng ta, Người đã không tha chết cho Con của Người. Đồng
thời, Người cũng rộng ban mọi sự tốt lành, như : ân sủng,
tình yêu và thiên đàng. Bởi chưng, tất cả những ân huệ đó
chắc chắn đều không quý bằng chính Con của Người. Thánh
Phao-lô viết : Đến
như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban người Con đó, lẽ
nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta ?
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa không ngừng ban cho Giáo Hội những khuôn mẫu
luôn luôn mới của đời sống Ki-tô hữu. Xin cho chúng con hằng
noi gương thánh giám mục An-phong mà nhiệt thành cộng tác
với Chúa trong công trình cứu độ, để mai sau được Chúa ân
thưởng cùng với thánh nhân. Chúng con cầu xin
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Alphonsus
of Ligouri
Lễ thánh Anphongsô Maria Liguori
Thứ Tư sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
34, 29-35
"Thấy mặt ông Môsê, họ sợ
không dám đến gần".
Trích sách Xuất Hành.
Khi ông Môsê từ trên núi Sinai
đi xuống, ông mang hai bia đá chứng từ; và ông không biết do sự đàm
đạo với Chúa, mặt ông sáng láng rực rỡ. Nhưng ông Aaron và con cái
Israel thấy mặt ông Môsê sáng láng rực rỡ, thì sợ không dám đến gần.
Ông Môsê gọi họ, thì cả Aaron lẫn các thủ lãnh hội đường mới quay
lại. Sau khi ông nói chuyện với họ, tất cả con cái Israel mới đến
gần ông. Ông truyền lại cho họ tất cả những điều ông đã nghe Chúa
phán trên núi Sinai. Nói xong, ông lấy khăn che mặt mình. Khi ông
vào trước mặt Chúa và đàm đạo với Người, thì ông cất khăn cho đến
lúc ông trở ra và bấy giờ ông thuật lại cho con cái Israel những
điều Chúa đã truyền dạy ông. Lúc ông Môsê ra đi, họ thấy mặt ông
sáng láng rực rỡ; nhưng khi ông nói với họ, ông che mặt ông lại.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
98, 5. 6. 7. 9
Ðáp: Thiên
Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh (c. 9c).
Xướng: 1) Hãy cao rao Chúa là
Thiên Chúa chúng ta. Hãy sấp mình dưới bệ kê chân Người; đây là bệ
ngọc chí thánh. - Ðáp.
2) Trong hàng tư tế của Người
có Môsê và Aaron, và có Samuel trong số người cầu đảo danh Người.
Các ông kêu cầu Chúa và chính Người nhậm lời các ông. - Ðáp.
3) Trong cột mây, bấy giờ
Người phán bảo; các ông đã nghe những huấn lệnh của Người, và chỉ
thị Người đã truyền cho các ông giữ. - Ðáp.
4) Hãy cao rao Chúa là Thiên
Chúng chúng ta; hãy sấp mình trên núi thánh của Người: vì Thiên
Chúa, Chúa chúng ta, là Ðấng Thánh. - Ðáp.
Alleluia: 1
Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời
ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
13, 44-46
"Anh bán tất cả những gì anh
có mà mua thửa ruộng đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng,
người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả
những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người
buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán
mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
Ðó là lời Chúa.
Kho tàng ơn gọi và viên ngọc đẫm máu
Hôm
nay, Thứ Tư Tuần
XVIIThường Niên, Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu tiếp tục ghi lại
một cặp dụ ngôn nữa về Nước Trời được Chúa Kitô diễn tả để mạc khải
cho dân Do Thái nói chung và cho các môn đệ của Người nói riêng biết.
"Nước
Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia
gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì
mình có mà mua thửa ruộng ấy".
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc
đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì
mình có mà mua viên ngọc ấy".
Hai dụ ngôn về Nước Trời này có liên hệ hết sức mật thiết với nhau
bất khả phân ly, có
tính cách tu đức hơn là thần học. Ở
chỗ, một đàng thì "kho
báu trong ruộng" được
tìm thấy,
một đàng thì đi tìm
được: "viên ngọc quí". Một đàng
thụ động: "kho
báu trong ruộng" và một đàng chủ động: "đi
tìm ngọc đẹp".
Cặp dụ ngôn
thứ hai về Nước Trời này, như cặp dụ ngôn thứ nhất hạt cải và men
bột trong bài Phúc Âm
Thứ Hai tuần này, không được Chúa Giêsu giải thích cho biết. Tuy
nhiên, căn cứ vào đường lối suy diễn như ở cặp dụ ngôn thứ nhất, nhờ
căn cứ vào Chúa Kitô như là
chính Nước Trời thì cặp dụ ngôn thứ hai về
Nước Trời hay về Chúa Kitô có thể suy diễn như
sau.
Dầu sao cũng cần
phải nhớ rằng cặp dụ ngôn thứ hai này Chúa Giêsu nói riêng với các
tông đồ chứ không phải chung cho dân chúng như cặp dụ ngôn thứ nhất.
Vì Người nói ngay sau khi dẫn giải dụ ngôn cỏ
lùng trong ruộng lúa tốt cho các môn đệ là thành phần xin Người giải
thích "sau khi giải
tán dân chúng, Người đã về
nhà...".
Trước hết, "Nước Trời giống như chuyện kho báu
chôn giấu trong ruộng" - Phải chăng Chúa Giêsu có ý nói rằng
Người chính là kho báu được chôn giấu trong ruộng, mà "ruộng là
thế gian" (theo chính lời Chúa Giêsu giải thích trong bài Phúc
Âm hôm qua), nên Chúa Giêsu vẫn là những gì quí báu nhất trên trần
gian này mà ít người biết tới như thể kho tàng quí báu ấy
bị chôn giấu đi vậy?
"Có
người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất
cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy"
- Nghĩa là cho dù kho tàng ấy ít ai biết đến
như bị che giấu đi như thế,
ai mà gặp
được, chẳng hạn thành phần bé mọn được Cha tỏ
ra cho (xem Mathêu 11:25), thì họ chẳng còn tiếc gì nữa, sẵn
sàng từ bỏ mọi sự mà mua thửa ruộng có kho
tàng này, chứ không phải mua
chính kho tàng, vì mua cả thửa ruộng thì tất
nhiên có được kho báu trong đó nữa.
Đúng thế, nếu Chúa Kitô đã cứu chuộc thế gian thì
ai tìm gặp Người cũng quí
chuộng ơn cứu chuộc của Người và tìm hết cách để cứu lấy thế
gian, và khi họ đã dám hy sinh tất cả mọi
sự của họ cho phần rỗi của tha
nhân trên thế gian này là
họ có được tất cả Chúa Kitô là kho tàng
chôn trong thửa ruộng được họ tậu lấy vậy. Theo ý nghĩa ấy thì
quả thực dụ ngôn kho tàng trong ruộng này liên quan đến ơn gọi
theo Chúa của các tông đồ, thành phần môn đệ chứng nhân tiên
khởi của Người.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm
ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả
những gì mình có mà mua viên ngọc ấy". Phải chăng "một
thương gia đi tìm ngọc đẹp" đây chính là Chúa Kitô, Đấng đã
"đến để tìm kiếm và cứu với những gì hư hoại" (Luca
19:10), nhưng đối với Người "những gì hư hoại" ấy, như
con chiên lạc thứ 100 hay đồng tiền thất lạc (xem Luca 15:4,8)
lại rất quí báu, đến độ Người đã phải từ trời xuống thế để tìm
kiếm.
Như thế có nghĩa là con người ta là "một viên ngọc quí"
đã được Thiên Chúa tìm thấy và đã thực sự "mua viên ngọc ấy" bằng
chính máu thánh vô giá của Người, bằng chính sự sống hy hiến của
Người (xem Gioan 17:19; Mathêu 20:28)? Dụ ngôn này cũng liên
quan đến vai trò của các tông đồ chẳng những trong sứ vụ thừa
sai nhân chứng mà còn trong cả thừa tác vụ ban phát ân sủng và
sự sống thần linh cho các linh hồn nữa.
Cặp dụ ngôn về "kho tàng chôn giấu trong ruộng" và "viên
ngọc quí" được thương gia tìm thấy đây như thế có thể hiểu
"kho tàng" là chính Ơn Cứu Độ vô cùng quí giá của Chúa
Kitô, và "viên ngọc quí" chính là phần rỗi vô cùng quan
trọng của các linh hồn. Cả "kho tàng" Ơn
Cứu Độ và "viên ngọc" Phần Rỗi này đều phải được đánh
đổi bằng tất cả những gì có được của những ai được kêu gọi làm
chứng nhân tông đồ của Chúa Kitô như Kitô hữu chúng ta.
Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay cho thấy "rằng
da mặt Moisen sáng
chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa... Con cái Israel nhìn mặt ông Moisen thấy
da mặt ông sáng chói; ông Moisen lại lấy khăn che mặt, cho đến khi
vào đàm đạo với Thiên Chúa".
Nội dung của
Bài Đọc 1 này có liên hệ gì với cặp dụ ngôn trong bài Phúc Âm hôm
nay hay chăng? Xin thưa, tất nhiên là có. Ở chỗ nào? Ở chỗ khi được
gần gũi với "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5), con người
cần phải trở thành phản ánh của Ngài, như Chúa Kitô "là phản ánh
vinh hiển của Cha" (Do Thái 1:3).
Như thế, một khi kho tàng thần linh trong thửa ruộng thế gian là
Chúa Kitô thuộc về ai, có nghĩa là họ được hiệp nhất nên một với
Người, thì tất cả đời
sống và con người của họ trở thành phản ảnh Người, (như mặt Moisen
phản ảnh vinh quang Thiên Chúa nhờ gặp gỡ Thiên Chúa), bởi họ đã
dám hy sinh tất cả để mua lấy tất cả thuở ruộng thế
gian đã được Người cứu chuộc, đến độ Chúa Kitô sống trong họ để tiếp
tục công cuộc cứu chuộc của Người cho đến tận thế, cho đến khi Người
lại đến trong vinh quang. Nhờ đó, họ phản ảnh một Chúa Kitô nhân
hậu đi tìm kiếm viên ngọc
quí là phần rỗi của các linh hồn, qua sứ vụ chứng nhân và tinh thần
tông đồ truyền giáo của họ như Chúa Kitô.
Bài Đáp Ca hôm nay bao gồm nhận thức thần linh về Vị Thiên Chúa
Thánh Hảo, Đấng tỏ mình ra cho những ai cầu khẩn Danh Ngài và tuân
hành các thánh chỉ của Ngài, vì Ngài là Đấng Thánh:
1- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, phủ phục trước bệ rồng,
bởi Người là Đấng Thánh.
2- Moisen cùng Aaron trong hàng tư tế Chúa, cũng như Samuel trong số
người cầu khẩn Thánh Danh! Các ngài cầu khẩn Chúa, Chúa thương đáp
lại.
3- Từ cột mây, Chúa phán dạy các ngài, các ngài đã tuân hành thánh
ý, và chiếu chỉ Người ban.
4- Hãy suy tôn Chúa là Thiên Chúa chúng ta, hướng về núi thánh mà
phủ phục, vì Chúa, Thiên Chúa ta thờ, quả thật là Đấng Thánh.
Thánh Eusebio Vercelli Giám Mục, và Thánh Phêrô Eymard, Linh
mục (2/8)
Thánh Eusêbiô sinh tại Sardinia trong một gia đình quí phái. Nhưng
trổi vượt sự sao sang giàu có trần thế. Ngài được vinh dự là con của
một người cha chịu chết vì đức tin dưới thời Diôclêtianô. Mẹ Ngài đã
đưa hai người con về sống tại Roma. Ngài được Đức giáo hoàng Eusêbiô
rửa tội và lấy chính tên mình đặt cho con trẻ.
Eusêbiô được nuôi dưỡng trong bầu khí đạo đức, Ngài theo học văn
chương và nghệ thuật. Gia nhập hàng giáo sĩ, Ngài được phong chức
đọc sách.
Ngài được sai đi Vercelli và năm 345 được chọn làm giám mục tiên
khởi của giáo phận này. Xét rằng phương cách hữu hiệu nhất để thánh
hóa các linh hồn là phải có một hàng giáo sĩ được huấn luyện tử tế,
Ngài thiết lập một trường đào tạo linh mục. Cùng với nhóm môn sinh,
Ngài sống đời ẩn tu ngay giữa thành phố. Nhưng lời khuyên dạy đầy
cảm kích đã làm cho Vercellêsi thay đồi hẳn. Các tội nhân tìm về
lãnh nhận các bí tích và nhiệt thành phụng sự Chúa.
Chịu bách hại vì đạo, cuộc đời Eusêbiô đã đạt tới vinh quang cao cả.
Khi ấy bè rối Ariô bành trướng mạnh mẽ, với sự bảo trợ của hoàng đế
Constantino. Eusêbiô mãnh liệt chống lại và đức tin không thể lay
chuyển của Ngài mang lại niềm an ủi cho Đức giáo hoàng chỉ định dẫn
dầu phái đoàn các giám mục đến gặp hoàng đế để bênh vực đức tin. Đầy
nhiệt tâm Ngài thuyết phục được hoàng đế triệu tập một công đồng.
Năm sau công đồng khai diễn tại Milan. Tại công đồng, hoàng đế thúc
bách các giám mục phải để cho Eusêbiô tham dự. Nhưng những người
theo bè rối Ariô ngăn cản. Cuối cùng Ngài được tham dự. Thấy phần
đông theo lạc giáo, Ngài trình biểu thức đức tin của công đồng
Nicea, đòi mọi người ký nhận trước khi bàn đến điều gì khác nữa. Bọn
lạc giáo tức giận. Ngược lại, Ngài cương quyết không chịu ký vào văn
bản lên án thánh Athanasiô, vị giám mục chúng sợ nhất. Tức giận
chúng vận động hoàng đế đẩy Ngài đi Palestina.
Nơi lưu đầy, Eusêbiô chịu không biết bao nhiêu là điều cực khổ bởi
cách đối xử dã man của các địch thù, Ngài bị giam trong phòng tối,
bị bỏ đói. Khi biết rằng không thể bắt phục được con người sắt đá
này, chúng còn trói chân Ngài lại và lôi kéo Ngài qua các bậc thang
nhiều lần. Theo lời thánh Hiêrônimô kể lại, thánh nhân còn bị gởi đi
Cappadocia và tới miền thượng Thébaide bên Ai cập. Tại những nơi nầy
thánh nhân còn chịu muôn vàn cực hình cho đến khi hoàng đế
Constantiô băng hà và được hồi hương.
Dầu vậy trên đường về theo lệnh Đức giáo hoàng, thánh Eusêbiô còn
phải ghé nhiều giáo đoàn để an ủi khích lệ các giáo hữu bị đau khổ
bởi những tàn phá của phái Ariô để lại, dàn xếp những tranh chấp nội
bộ của một số giáo đoàn.
Trở về Vercelli, thánh Eusêbiô được tiếp đón nồng nhiệt như một vị
anh hùng. Già cả và yếu sức, Ngài vẫn tận tụy phục vụ giáo phận cho
đến khi qua đời năm 371. Người ta tôn kính Ngài như vị thánh tử đạo,
vì những đau khổ mà Ngài đã chịu suốt những ngày lưu đày.
http://conggiao.info/thanh-eusebio-vercellesi-giam-muc-371-d-17540
ĐTC
Biển
Đức XVI - Bài
Giáo Lý 54 - Thánh giáo phụ Eusebius of Verceili
Thánh Phêrô Eymard, Linh mục
THÁNH TỔ PHỤ PHÊRÔ GIULIANÔ EMA - ĐẤNG SÁNG LẬP ...
Mười Điểm Đặc Biệt Trong Cuộc Đời Thánh Phêrô Giulianô ...
Thứ Năm sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Xh
40, 14-19. 32-36
"Một đám mây che phủ nhà
xếp chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê thi
hành tất cả những điều Chúa đã truyền dạy. Vậy ngày mùng một tháng
Giêng năm thứ hai, đã dựng nhà xếp xong. Ông Môsê đã dựng nhà xếp,
lắp ván, đặt trụ, xà ngang và dựng cột, rồi căng mái nhà xếp và màn
che trên mái như Chúa đã truyền dạy. Ông đặt bia chứng từ vào hòm,
xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán dạy trên hòm. Khi đã rước
hòm bia vào nhà xếp, ông treo màn trước hòm để hoàn tất lời Chúa đã
truyền dạy. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, thì có một đám mây bao phủ
nhà xếp chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn ngập nhà xếp.
Vì mây che phủ nhà xếp, và uy
linh Chúa sáng rực trong nhà, nên ông Môsê không thể vào trong nhà
giao ước, vì có đám mây che phủ mọi sự. Hễ mây lên khỏi nhà xếp, thì
con cái Israel kéo nhau đi từng đám, còn khi mây che phủ nhà xếp,
thì họ ở lại tại chỗ. Vì ban ngày, đám mây của Chúa che phủ nhà xếp,
và ban đêm, có lửa trong mây, nên toàn dân Israel trông thấy suốt
thời gian xuất hành của họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
83, 3. 4. 5-6a và 8a. 11
Ðáp: Ôi
Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Ngài (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn con khát
khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và
thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm
được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh
bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, ôi Ðại vương là
Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai
ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Phúc thay người
Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên ngày càng thêm hăng hái. - Ðáp.
4) Thực một ngày sống trong
hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa
đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. -
Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
13, 47-53
"Người ta lựa cá tốt bỏ vào
giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt
được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa
chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Ðến ngày
tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra
khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc
lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa:
"Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế,
những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống như chủ nhà
kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình". Khi Chúa Giêsu
phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
Ðó là lời Chúa.
thế gian biển cả - thừa sai mạng lưới
Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XVII
Thường Niên hôm nay ghi lại dụ ngôn cuối cùng của Chúa Giêsu về Nước
Trời trong Phúc Âm Thánh Ký Mathêu ở đoạn 13.
"Nước trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá.
Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì
bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế cũng như
vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành,
rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng".
Cũng như cặp dụ ngôn thứ hai trong bài Phúc Âm hôm qua, dụ ngôn cuối
cùng về Nước Trời này cũng không được Chúa Giêsu giải thích gì hết
về những hình ảnh Người sử dụng. Lý do Người không giải thích gì hết
là vì các môn đệ của Người không yêu cầu Người giải thích như ở dụ
ngôn người gieo giống ra đi gieo giống và người gieo
giống tốt
trong ruộng của mình. Thậm chí khi được Người hỏi: "'Các
con có hiểu những điều đó không?' Họ thưa: 'Có'".
Sở
dĩ các môn đệ nói "có" hiểu dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời
này có thể là vì nội dung của dụ ngôn này cũng giống như dụ ngôn cỏ
lùng trong ruộng. Đúng thế, dụ ngôn cuối cùng về Nước Trời này
cũng
liên quan đến hai loại tốt và xấu. Nếu dụ ngôn người gieo giống tốt
trong ruộng của mình bao gồm lúa tốt và cỏ xấu, thì dụ ngôn cuối
cùng này liên
quan đến cá tốt và cá xấu.
Tuy nhiên, không biết các môn đệ của Chúa Giêsu bấy giờ đã hiểu dụ
ngôn cuối cùng về Nước Trời này như thế nào, chẳng hạn "lưới thả
dưới biển" ám chỉ những gì, và ý nghĩa chính yếu của dụ ngôn này
là chi, phần chúng ta, vẫn cần tìm hiểu xem những gì còn mập mờ
trong dụ ngôn này. Vậy, dựa
theo đường hướng Nước Trời ám chỉ Chúa Kitô, và dụ ngôn cuối
cùng trong loạt dụ ngôn được Thánh ký Mathêu ghi lại ở Đoạn 13 này
là dụ ngôn Chúa Giêsu nói riêng với các môn đệ thì chúng ta có thể
suy diễn như sau:
"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá".
Nếu đây là dụ ngôn cuối cùng trong loạt dụ ngôn về Nước Trời được
Thánh ký Mathêu thuật lại ở đoạn 13, và cũng là dụ ngôn được Chúa
Giêsu nói riêng với các tông đồ, thì dụ ngôn này gợi lại hình ảnh 7
tông đồ đi đánh cá ở Biển Hồ Tibêria sau 2 lần Chúa Kitô Phục
Sinh đã hiện ra với các vị (xem Gioan 21:1-14).
Nếu "ruộng" là nơi có cả "lúa tốt" lẫn "cỏ lùng" trong
dụ ngôn "người gieo giống tốt trong ruộng của mình" là "thế
gian" thì "biển" trong dụ ngôn này cũng có thể ám chỉ "thế
gian", nơi có cả "cá tốt" là
"người lành" lẫn
"cá xấu" là
"kẻ dữ".
Vậy
"lưới thả dưới biển" đây phải chăng chính là thành phần thừa
sai được Chúa
Kitô Phục
Sinh truyền lệnh: "Thày được toàn quyền trên trời dưới đất. Bởi
vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ thuộc tất cả mọi dân nước. Hãy
rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần. Hãy dạy cho họ
thi hành tất cả những gì Thày đã truyền cho các con" (Mathêu
28:19)?
"Lưới
đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ
vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài".
Nếu "lưới thả dưới biển" đây ám chỉ thành phần thừa sai
truyền giáo của Giáo Hội Chúa Kitô, tức là liên quan đặc
biệt đến dân ngoại, thành phần chính yếu làm nên Giáo Hội Chúa
Kitô, không phải dân Do Thái, thì "lưới đầy" ở đây
phải chăng có nghĩa là "đủ số dân ngoại" (Roma 11:25), và
chỉ khi nào "đủ số dân ngoại" bấy giờ mới có chuyện "người
ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ,
còn cá xấu thì ném ra ngoài", đúng
như ấn định
cứu độ của Chúa Kitô: "Các
con hãy đi khắp thế gian mà loan báo tin mừng cho tất cả mọi tạo
vật. Ai chấp nhận tin
mừng và chịu phép rửa thì được cứu độ; người nào không chấp
nhận tin mừng thì sẽ bị luận phạt"
(Marco 16:15-16).
"Đến
ngày tận thế cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ
ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải
khóc lóc nghiến răng".
Như thế thì vấn đề "đủ số dân ngoại" là dấu hiệu ngày cùng
tháng tận, là dấu hiệu "đến
ngày tận thế", thời điểm
chung thẩm cho số phận đời đời giữa chiên và dê (xem Mathêu
25:31-46), thời điểm "các
thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném
những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng", cũng
như các vị ở trong dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng đã làm vậy: "Thợ
gặt là các thiên thần. Cũng như người ta thu lấy cỏ lùng, rồi thiêu
đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy: Con
Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm
điều gian ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ
phải khóc lóc nghiến răng. Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như mặt trời
trong nước của Cha mình".
Đúng thế, việc thanh lọc cuối cùng chính yếu là để "tách
biệt kẻ dữ ra khỏi người lành", nhờ đó,
thành phần đã từng là nạn nhân của kẻ dữ, đã trải qua gian nan khốn
khó trên đời "bấy
giờ sẽ sáng chói như mặt trời trong nước của Cha mình", thành
phần ngay trong cuộc hành trình đức tin của họ đã phản ảnh được
Vị Thiên Chúa là Đấng luôn ở cùng họ, và họ đã trở thành nơi tỏ hiện
vinh quang của Thiên Chúa, như nhà xếp trong Bài Đọc 1.
Phải, Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến việc thiết dựng nhà
xếp, nơi Moisen "đặt
bia chứng từ vào hòm, xỏ đòn khiêng vào hai bên, và để toà phán dạy
trên hòm",
và
cũng là nơi tỏ hiện vinh quang của một Vị Thiên
Chúa ẩn ngự: "Khi
đã rước hòm bia vào nhà xếp, ông treo màn trước hòm để hoàn tất lời
Chúa đã truyền dạy. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, thì có một đám mây
bao phủ nhà xếp chứng từ, và vinh quang của Chúa tràn ngập nhà xếp".
Cảm nghiệm thần linh của
kẻ
lành lúc nào cũng cảm thấy khao khát thần linh và mong được ở
với Đấng duy nhất có thể thỏa đáng lòng của họ, được diễn tả qua
Bài Đáp Ca hôm nay:
1)
Linh hồn con khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Chúa. Tâm
thần và thể xác con hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh.
2) Đến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm,
để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa
thiên binh, ôi Đại vương là Thiên Chúa của con.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi
Chúa tới muôn đời. Phúc thay người Chúa con nâng đỡ, họ tiến lên
ngày càng thêm hăng hái.
4) Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn
ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa, hơn là cư
ngụ trong lều bọn ác nhân.
Thứ Sáu sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Lv
23, 1. 4-11. 15-16. 27. 34b-37
"Các ngươi phải kể những
ngày của Chúa là những ngày rất trọng thể và là ngày thánh".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ðây
là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải mừng lễ trong thời gian
của nó. Chiều ngày mười bốn tháng Giêng là Lễ Vượt Qua của Chúa; và
ngày mười lăm tháng Giêng, là lễ trọng không men của Chúa: Các ngươi
sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. Ngày thứ nhất, các ngươi phải
kể là ngày rất trọng thể, và là ngày thánh, các ngươi không nên làm
mọi việc xác trong ngày ấy". Trong bảy ngày, các người phải thiêu hy
lễ dâng lên Chúa. Ngày thứ bảy là ngày trọng thể và là ngày thánh
hơn, các ngươi không làm việc xác nào trong ngày ấy".
Chúa lại phán cùng Môsê rằng:
"Ngươi hãy nói cùng con cái Israel và bảo họ rằng: Khi các ngươi đã
tiến vào đất Ta sẽ ban cho các ngươi, và khi các ngươi gặt lúa, thì
phải mang bó lúa đầu mùa đến cho tư tế, người sẽ giơ bó lúa lên
trước mặt Chúa để hôm sau ngày sabbat, người xin Chúa chấp nhận cho
các ngươi, và thánh hoá nó. Vậy các ngươi hãy tính từ hôm sau ngày
sabbat, là ngày các ngươi đã dâng bó lúa đầu mùa, các ngươi tính đủ
bảy tuần, cho đến ngày hôm sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi
ngày, thì các ngươi phải dâng của lễ mới cho Chúa. Ngày mùng mười
tháng Bảy, là ngày đền tội rất trọng thể, gọi là ngày thánh: trong
ngày đó, các ngươi phải hãm dẹp tâm hồn, và dâng của lễ toàn thiêu
cho Chúa. Từ ngày mười lăm tháng Bảy sẽ mừng lễ Nhà Xếp kính Chúa
trong bảy ngày. Ngày thứ nhất sẽ gọi là ngày rất trọng thể và rất
thánh, các ngươi không nên làm mọi việc xác trong ngày ấy. Và trong
bảy ngày, các ngươi phải dâng của lễ toàn thiêu cho Chúa, ngày thứ
tám cũng rất trọng thể và rất thánh, các ngươi phải dâng của lễ toàn
thiêu cho Chúa, vì là ngày cộng đoàn tập họp, các ngươi không nên
làm mọi việc xác trong ngày ấy.
"Ðó là những ngày lễ của Chúa
mà các ngươi phải kể là những ngày rất trọng thể và rất thánh, trong
những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên Chúa lễ vật, của lễ toàn
thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
80, 3-4. 5-6ab. 10-11ab
Ðáp: Hãy
reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Hãy hoà nhạc và đánh
trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất huyền. Hãy rúc tù và
lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm, ngày đại lễ của chúng
ta. - Ðáp.
2) Vì đó là điều đã thiết lập
cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt
ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất gót lên đường lìa xa Ai-cập. -
Ðáp.
3) Ở nơi ngươi đừng có một
chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ tự một chúa tể ngoại lai: vì
Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra ngoài
Ai-cập. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con
trong chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
13, 54-58
"Nào ông chẳng phải là con
bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê
quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta
ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền
làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào
mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng
phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở
nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm
đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ
rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và
nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng
tin.
Ðó là lời Chúa.
Loại đồng hương hạt giống bụi gai
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên, được
Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện: "Chúa
Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường,
khiến người ta ngạc nhiên".
Thế
nhưng, cái ngạc nhiên của họ mang tích cách tiêu cực (ngờ vực) hơn
là tính
cách tích
cực (nhận
biết), bởi thế, họ đã tỏ ra hết sức thắc mắc với đầy những nghi vấn
như sau:
"'Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như
vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng
phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh
em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta
sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?' Và họ vấp phạm đến Người".
Thái độ
tiêu cực gần
như tẩy chay Chúa Giêsu của
dân làng Người cũng là chuyện dễ hiểu theo tâm lý tự nhiên, vì họ đã
từng biết Người từ hồi còn nhỏ, một con người ra sao trong làng, có
cha mẹ và thân thuộc như thế nào. Bởi thế, "Chúa
Giêsu phán cùng họ rằng: 'Không tiên tri nào mà không được vinh dự,
trừ nơi quê quán và nhà mình'".
Nếu
căn cứ vào 1 trong 4 loại môi trường ở dụ ngôn "người gieo giống
ra đi gieo giống" nơi Bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước (xem Mathêu
13:18-23), thì dân làng của Người không thuộc
loại "hạt rơi trên
vệ đường",
vì họ cũng hào hứng nghe Người chứ không đến nỗi hững hờ chẳng để ý
hay thiết tha gì; họ cũng không phải là "hạt rơi trên đá
sỏi"
vì
họ đâu có
chấp nhận Người
nên không đâm rễ tí nào hết, mà là "hạt rơi vào bụi gai" đã
bị chết nghẹt gây ra bởi các lo âu ngờ vực của họ. Do đó bài Phúc Âm
mới kết luận: "Người
không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin".
Thật
ra, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan thì "là ánh sáng thế
gian" (8:12) mà đã là ánh sáng thì không thể không soi chiếu mà
còn là ánh sáng, Chúa
Kitô cần
phải tự động tỏ
mình ra để
nhờ đó người ta mới có thể nhận biết người và tin
tưởng Người,
hơn là cứ phải có đức tin mới làm phép lạ, mới tỏ mình ra sau.
Tuy nhiên, trong trường hợp dân làng của Người trong bài Phúc Âm hôm
nay đã được Người tỏ mình ra cho họ rồi, đến nỗi đã khiến họ phải
bàng hoàng ngỡ ngàng: "Bởi
đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy?", thế
mà họ vẫn không tin. Chính thành kiến tự nhiên về Người đã
là một trở ngại khổng lồ chắn lối đức tin của
dân làng Người.
Bài Đọc
1 cho năm
lẻ hôm
nay được trích từ Sách Lêvi, bởi vì nội dung của bài đọc liên
quan đến các ngày lễ trong năm được coi là ngày thánh mà
Dân Do Thái cần phải cẩn
thận cử
hành theo qui định
của Thiên Chúa, đặc biệt và chính yếu nhất là Lễ Vượt Qua, "ngày
mười bốn tháng Giêng", sau đó,
theo thời gian trong năm, đến Ngày Lễ Ngũ Tuần:
"từ
hôm sau ngày sabbat,... các ngươi tính đủ bảy tuần, cho đến ngày hôm
sau cuối tuần thứ bảy, tức là năm mươi ngày", tới
Lễ Đền Tội "ngày
mùng mười tháng Bảy",
và
sau cùng là Lễ Lều Tạm (Nhà Xếp) "ngày
mười lăm tháng Bảy": "Đó
là những ngày lễ của Chúa mà các ngươi phải kể là những ngày rất
trọng thể và rất thánh, trong những ngày ấy, các ngươi phải dâng lên
Chúa lễ vật, của lễ toàn thiêu và lễ quán theo nghi lễ của mỗi ngày".
Bài Đọc
1 về các ngày lễ của dân Do Thái và
Bài Phúc Âm về
sự kiện dân làng của Chúa Kitô không tin tưởng vào Người có liên hệ
gì tới nhau hay chăng? Nếu không - tại sao? Nếu có - ở chỗ nào?
Nếu tất cả mọi ngày lễ của Dân Do Thái là để họ tưởng nhớ đến Thiên
Chúa, Đấng đã tuyển chọn họ và hằng tỏ mình ra cho họ vào những
thời điểm đặc biệt trong giòng lịch sử cứu độ của họ, cho tới "thời điểm
viên trọn, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh hạ bởi một người nữ, sinh ra
theo lề luật"
(Galata 4:4), nghĩa
là tất cả lịch sử cứu độ đều
hướng về Chúa Kitô và về
"thời điểm
viên
trọn" của
Người, thì
dân của Ngài cần phải tin vào Con Ngài mới được cứu độ, thế nhưng
họ đã không tin, hay đúng hơn chưa tin Người được, chỉ vì Con của
Ngài, của một Vị Thiên Chúa vô cùng cao cả và toàn hảo, lại được "sinh
hạ bởi
một
người nữ"
ngay trong làng của họ.
Tuy nhiên, không phải bị dân làng tẩy chay bất chấp mà Chúa Kitô
không phải là Con Thiên Chúa nữa, không còn là Đấng Thiên Sai
nữa, Đấng duy nhất có thể cứu họ cùng toàn thể nhân loại khỏi tội
lỗi và sự chết, Đấng một khi được nhận biết thì Người chính là một
tin mừng cần phải được đón nhận, và là một đại lễ cần phải hân hoan
long trọng cử hành của mình thì dân Do Thái sẽ
không thể nào không cảm
thấy hớn hở như trong Bài Đáp
Ca hôm nay:
1)
Hãy hoà nhạc và đánh trống râm ran; dạo đàn cầm êm ái cùng với thất
huyền. Hãy rúc tù và lên mừng ngày trăng mới, trong buổi trăng rằm,
ngày đại lễ của chúng ta.
2) Vì đó là điều đã thiết lập cho Israel; đó là huấn lệnh của Thiên
Chúa nhà Giacóp. Người đã đặt ra luật này cho nhà Giuse, khi họ cất
gót lên đường lìa xa Ai-cập.
3) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác; ngươi cũng đừng thờ
tự một chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta
đã đưa ngươi ra ngoài Ai-cập.
Ngày 4 tháng 8
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh
mục
lễ nhớ bắt buộc
Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết bao khó khăn gian
khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ
Ác-xơ thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu :
hoàn toàn lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện
và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường,
nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết
lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm
1859.
Các con thân mến, kho tàng của người Ki-tô hữu không phải ở
dưới đất, nhưng ở trên trời. Thế thì lòng trí chúng ta phải
hướng đến nơi có kho tàng của chúng ta.
Con người có một bổn phận cao đẹp là cầu nguyện và yêu
mến... Các con cầu nguyện, các con yêu mến : đó là hạnh phúc
của con người trên trần gian.
Cầu nguyện không gì khác hơn là kết hợp với Thiên Chúa. Khi
có tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi
mình một thứ hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh
sáng rực rỡ chói chang. Trong mối kết hợp mật thiết này,
Thiên Chúa và linh hồn tựa hai khối sáp nóng chảy hoà vào
nhau, không thể tách rời nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với
thụ tạo bé nhỏ của Người : đẹp đẽ biết bao ! Hạnh phúc này,
không sao hiểu thấu.
Xưa kia chúng ta chẳng xứng đáng cầu nguyện, nhưng Thiên
Chúa đã thương cho chúng ta được thưa chuyện với Người. Lời
cầu nguyện của chúng ta là làn hương thơm rất đẹp lòng
Người.
Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu
nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa...
Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc
lộc thiên đàng tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không
thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên
êm ái ngọt ngào. Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu
nguyện sốt sắng, tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời.
Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú,
khiến ta không cảm thấy lâu. Đúng vậy : hồi các cha sở vùng
Bơ-rét-xơ bị bệnh hầu hết, cha phải đi khắp vùng. Cha vừa đi
vừa cầu nguyện với Thiên Chúa nhân lành. Nói thật với các
con là cha chẳng thấy lâu gì cả.
Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá
trong nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không
bị chia trí. Ôi, cha mến những tâm hồn quảng đại này quá !
Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Co-lê-ta trông thấy Chúa
và chuyện vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với
nhau. Còn chúng ta, biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà
chẳng biết mình đến để làm gì, cũng chẳng biết mình muốn xin
gì ! Thế mà khi đến nhà ai thì ta lại biết rõ mình đến để
làm gì... Có những người như muốn nói với Thiên Chúa nhân
lành rằng : “Con đến nói mấy câu cho xong chuyện với Chúa
đây...” Cha thường nghĩ rằng : Khi đến tôn thờ Chúa, chúng
ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện là lời cầu
xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và một tấm
lòng thật trong trắng.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh
linh mục Gio-an Ma-ri-a nên một tấm gương tuyệt vời về lòng
tận tuỵ hy sinh của người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay
nguyện giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của
người mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Ki-tô, để muôn
đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Chúng con cầu xin
Ngày 04/08: Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục, bổn mạng ...
Trong chuyến Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017,
phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) chúng tôi đã ghé kính
viếng di tích lịch sử của Thánh Gioan Vianney sáng ngày 19/5, và
thấy được cuộc đời khổ hạnh thánh đức của ngài ra sao....
Nhà bếp của Cha Sở Họ Ars Gioan Vianney, Vị Thánh Khổ Hạnh chuyên
hãm mình ăn khoai cả đời
Thánh Gioan Vianney chẳng những ăn chay mà còn đánh tội nữa, để
chẳng những đền tội lỗi của mình mà còn đền tội cho những hối nhân
đến xưng tội với ngài nữa.
Bởi thế lũ ma quỉ rất căm tức thánh nhân vì ngài đã cướp lấy khỏi
tay chúng biết bao nhiêu là mồi ngon cho hỏa ngục, nên chúng đã quấy
phá ngài nhất là về đêm là lúc ngài cần nghỉ ngơi một chút để lấy
sức làm mục vụ.
Ở nơi đây, dưới thánh tích của ngài là một chút chất ở bộ não, chúng
tôi đã khởi hứng hát bài Lúa Chín Đầy Đồng để xin ngài chuyển cầu
cùng Chúa ban thêm ơn gọi linh mục cho Giáo Hội
Tòa giải tội trước đây của Cha Sở Họ Ars, quan thày của các cha xứ.
Không ngờ một chủng sinh dốt nát như ngài, không đủ khả năng về kiến
thức để làm linh mục, mà Chúa lại chọn làm linh mục nhờ nhân đức của
ngài
Thứ Bảy sau
Chúa Nhật 17 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
I) Lv
25, 1. 8-17
"Trong năm toàn xá, người
ta làm chủ lại cơ nghiệp mình".
Trích sách Lêvi.
Chúa phán cùng Môsê trên núi
Sinai rằng: "Ngươi cũng phải tính bảy tuần năm, tức là bảy lần bảy,
cộng chung là bốn mươi chín năm: Ngày mồng mười tháng bảy, ngươi hãy
thổi kèn trong thời gian đền tội trong toàn lãnh thổ ngươi. Ngươi
hãy làm cho năm thứ năm mươi nên năm thánh và hãy kể là năm tha tội
cho mọi người cư ngụ trong nước ngươi, vì đó là năm toàn xá. Người
ta sẽ làm chủ lại cơ nghiệp mình, và ai nấy đều được trở về gia đình
cũ của mình, vì năm toàn xá là năm thứ năm mươi. Các ngươi đừng cày
cấy, đừng gặt hái hoa màu tự nhiên phát sinh trong đồng ruộng, và
đừng hái nho đầu mùa, vì phải kể năm toàn xá là năm thánh, và các
ngươi được ăn hoa màu tự nhiên phát sinh.
"Trong năm toàn xá, mọi người
nhận lại cơ nghiệp của mình. Khi ngươi mua bán vật gì với người đồng
hương, ngươi chớ làm phiền lòng người anh em, nhưng hãy mua theo số
năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số hoa lợi của nó. Số các
năm sau năm toàn xá càng nhiều thì giá càng cao, và số năm càng ít,
thì giá mua càng hạ, vì nó tính mùa hoa lợi mà bán cho ngươi. Các
ngươi chớ hà hiếp những người cùng một chi tộc với các ngươi: nhưng
mỗi người hãy kính sợ Thiên Chúa mình, vì Ta là Thiên Chúa các
ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
66, 2-3. 5. 7-8
Ðáp: Chư
dân hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng
Ngài (c. 4).
Xướng: 1) Xin Thiên Chúa xót
thương và ban phúc lành cho chúng con; xin tỏ ra cho chúng con thấy
long nhan Ngài tươi sáng, để trên địa cầu thiên hạ nhìn biết đường
lối của Ngài, cho chư dân người ta được rõ ơn Ngài cứu độ. - Ðáp.
2) Các dân tộc hãy mừng vui và
khoái trá, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các
nước địa cầu. - Ðáp.
3) Ðất đã cho chúng tôi hoa
trái. Ðức Thiên Chúa, Chúa chúng tôi, đã chúc phúc lành cho chúng
tôi. Xin Thiên Chúa chúc phúc lành cho chúng con, để cho khắp cùng
bờ cõi trái đất kính sợ Ngài. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi
hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
14, 1-12
"Hêrôđê sai người đi chặt
đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe
danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này
là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các
phép lạ như vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã
bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua
không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân
chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của
Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho
Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì
nó xin. Ðược mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy
Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và
vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người
đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho
cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy
và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Hêrôđê - Một con cáo già, vừa đánh
trống vừa ăn cướp
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XVII Thường
Niên, Thánh Ký Mathêu ghi lại một sự kiện đó là "Thời
ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những
kẻ hầu cận rằng: 'Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết
trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ".
Sau đó
vị thánh ký đã thuật lại lý do tại sao đã thúc đẩy vị
tiểu vương này đã ra tay sát hại nhân vật mà ông cho là đã sống lại
từ
cõi chết và đang sống động nơi
Chúa Giêsu Kitô:
Số là vua Hêrôđê đã bắt trói ông Gioan và tống ngục vì bà
Hêrôđia, vợ ông Philípphê, anh của nhà vua. Ông Gioan có nói với
vua: 'Ngài không được phép lấy bà ấy'. Vua muốn giết ông Gioan,
nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. Vậy, nhân ngày
sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái bà Hêrôđia đã biểu diễn một điệu
vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề
là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa
rằng: 'Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gioan Tẩy Giả
đặt trên mâm'. Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề
trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào
ngục chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao
cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ. Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem
đi mai táng, rồi đi báo cho Đức Giêsu".
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao vị quận vương này
cho rằng nhân vật Gioan Tẩy
Giả có thể tự mình sống lại cho dù bị ông ta
sát hại, và tại sao ông ta lại ghép việc sống lại của vị Tẩy Giả này
vào trường hợp của Chúa Giêsu, bởi nghe thấy Người "có
quyền năng làm phép lạ"? Ông
ta có ý nghĩ Gioan Tẩy Giả có thể sống lại trước khi ông ta ra lệnh
lấy đầu của ngài,
hay sau khi nghe thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ mới có ý nghĩ
Gioan sống
lại như vậy?
Phải
chăng vị quận vương này có ý muốn nói rằng chính nhờ ông ta hành
quyết Gioan Tẩy Giả mà Chúa Giêsu mới có quyền năng làm phép lạ như
thế, bằng không Người không thể nào có thể làm phép lạ như vậy? Qua
câu nói này của ông ta, cũng có thể là ông ta đã bị ám ảnh về cái
chết của nhân vật Gioan Tẩy Giả là nhân vật ông rất kính nể nhưng đã
ra lệnh hành quyết bởi lỡ miệng hứa với đứa con gái của người vợ bất
chính và muốn giữ thể diện của mình trước mặt bá quan văn võ trong triều đình
của ông
bấy giờ?
Có nghĩa là ông ta đang tìm cách
vừa đánh trống vừa ăn cướp, ở chỗ muốn
xoa dịu lương tâm bị áy náy của
mình là người đã lỡ sát hại một kẻ công chính, bằng
cách
gán ghép quyền năng làm phép lạ của
Chúa Giêsu cho nạn nhân của
mình là kẻ đã bị mình hành quyết, nhờ đó mình chẳng những vô tội mà
còn nổi tiếng nữa qua các phép lạ Chúa Giêsu làm. Nếu vậy thì vị
quận vương này đúng là một thứ cáo già, gian manh không thể nào
tượng tưởng nổi!
Không biết có phải vì thế mà ít
lâu sau, khi gặp lại ông ta trong thân phận của một
tử tội được Tổng Trấn Philatô chuyển đến cho thẩm
quyền của ông ta,
Chúa Giêsu đã không hề lên tiếng nói gì với ông ta (xem Luca 23:9).
Chắc
chắn thái độ im lặng của Chúa Giêsu không phải là thái độ coi thường
thẩm quyền của ông ta, hay khinh bỉ con người tồi bại của ông ta, cho
bằng Người muốn tỏ ra thái độ nhẫn nhục nhân ái với con người đầy gian ác
hết
sức đáng
thương ấy,
một con người chỉ biết có quyền lực kèm theo tình dục, và chỉ mong gặp Chúa Giêsu để xem
Người làm phép
lạ (xem Luca 23:8) mà không được toại nguyện, vì Chúa Giêsu đến thế
gian này không phải như một cứu tinh xuất chúng về quyền lực nhưng
là để giải thoát con người, điển hình là vị quận vương Hêrôđê này, khỏi
tội lỗi và sự chết.
Bài Đọc
1 cho năm lẻ hôm nay liên quan đến năm toàn xá là thời điểm 50 năm
một lần trong dân Do Thái, một "năm thánh", bao gồm, trước
hết là việc
nghỉ ngơi cho chính con người cũng như cho thiên nhiên vạn vật:
"Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên
cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó. Đối với (các)
ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các ngươi sẽ trở
về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của
mình. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá:
các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc,
không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ
toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa
lợi của đồng ruộng".
Sau nữa, "năm
thánh" không phải
chỉ liên
quan đến việc nghỉ ngơi của con người và thiên nhiên tạo vật, mà
còn liên quan nhất là với tha nhân nữa, qua các việc bác ái yêu
thương không gây thiệt hại cho người khác, như sau:
"Năm toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu
của mình. Nếu các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua
cái gì từ tay người đồng bào, thì đừng ai làm thiệt hại người
anh em mình. Ngươi sẽ mua của người đồng bào theo số năm sau năm
toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm thu hoạch. Còn nhiều
năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm thì ngươi mua giá thấp, vì
nó bán cho ngươi một số năm thu hoạch. Không ai trong các ngươi
được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải kính
sợ Thiên Chúa của (các) ngươi, vì Ta là Chúa,
Thiên Chúa của (các) ngươi. Thiên Chúa bảo đảm về năm sabát".
Mối
liên
hệ giữa Bài Phúc Âm về ý nghĩ của quận vương Hêrôđê về quyền
năng của Chúa Giêsu và Bài Đọc 1 hôm nay về năm thánh 50 năm một
lần của dân Do Thái liên
quan đến bác ái yêu thương, là ở chỗ
Chúa
Giêsu là hiện thân sống động của Lòng Thương Xót Chúa, và vì
thế sứ vụ của Người đó là công bố Năm Thánh cũng là năm
hồng ân của Thiên Chúa (xem Isaia 61:2; Luca 4:19) cho cả nhân
loại, không trừ một ai, "nhất là những linh hồn cần đến LTXC
hơn" như quận vương Hêrôđê, cùng tất cả mọi tạo
vật (xem Marco 16:15; Roma 8:21).
Bởi
thế, trước tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng chẳng những dựng
nên tất cả mọi sự, mà còn quan phòng chăm sóc cho những gì Ngài
dựng nên, để làm cho chúng được nên thánh hảo theo ý muốn của
Ngài, mà con người cần phải có tâm tình như các câu Đáp ca hôm
nay:
1- Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả
hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ
của Ngài.
2- Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn
cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường
chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.
3- Đất đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng
ta, đã ban phúc lộc. Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta!
Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!