Chúa Nhật 18 Quanh Năm
Ngày 6 tháng 8
CHÚA HIỂN DUNG
lễ kính
Phụng Vụ Giờ Kinh
Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho
các tín hữu nhớ rằng Chúa Ki-tô đã muốn “chuẩn bị tâm hồn các
môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá”. Nhưng đồng thời lễ
này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con
cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giê-su, và loan báo
ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể
nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Muôn lạy Đức Giê-su Cứu Chúa
Là Hào Quang phát tự Hào Quang,
Xin thương ghé mắt dịu dàng,
Nhậm lời cầu khẩn hát mừng thiết tha.
Dung nhan Chúa vượt xa chính ngọ,
Áo trắng như tuyết phủ non ngàn,
Hiển dung trên đỉnh thiên san
Để cho các vị chứng nhân ngắm nhìn.
Này ngôn sứ kề bên môn đệ,
Cựu tân hai thế hệ khác nhau,
Giờ đây ý hợp tâm đầu,
Tin Ngài Con Đấng Tối Cao giáng trần.
Lời Thánh Phụ vang ngân trong gió,
Gọi Ngài là Thánh Tử dấu yêu,
Chúng con xưng tụng hoà theo :
Ngài là Vua Cả thiên triều muôn năm.
Xưa đã mặc xác phàm yếu đuối,
Cứu loài người thoát khỏi hư vong,
Giờ xin biến đổi chúng con
Thành phần thân thể oai phong của Ngài.
Xin dâng Chúa đôi lời tán tụng,
Ôi Giê-su cao cả vinh quang,
Thánh Linh, Thánh Phụ chứng rằng :
Ngài là Thánh Tử Cha hằng yêu thương.
Đức Giê-su đã bày tỏ mầu nhiệm này cho các môn đệ trên núi
Ta-bo. Đang khi cùng đi đường, Người đã chuyện trò với các
ông về Nước Trời và về cuộc quang lâm của Người. Có lẽ các
ông chưa xác tín những điều Người tiên báo về Nước Trời, nên
Người muốn cho các ông thâm tín tận đáy lòng và từ những
việc hiện tại, các ông có thể tin vào những việc tương lai.
Vì thế, trên núi Ta-bo, Người đã cho các ông thấy một quang
cảnh thần diệu như hình ảnh báo trước về Nước Trời. Dường
như Người muốn nói với các ông : “Để anh em khỏi mất lòng
tin trong khi còn phải chờ đợi, thì ngay bây giờ, Thầy
bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ
sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển
trị trong vinh quang của Cha Người.”
Để chứng tỏ Đức Ki-tô muốn thế nào thì có quyền làm như thế,
tác giả sách Tin Mừng thêm : Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an
là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng
ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và
kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với
Người.
Đó là những điều kỳ diệu của ngày đại lễ hôm nay ; đó là mầu
nhiệm đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, mầu nhiệm đang được
thực hiện trên núi vào chính lúc này. Quả thế, cả sự chết
lẫn vinh quang của Đức Ki-tô đang quy tụ chúng ta. Vậy chúng
ta sẽ đi sâu vào những mầu nhiệm thánh thiêng khôn tả này
cùng với những người Đức Ki-tô đã tuyển chọn trong số môn đệ
được Thiên Chúa dẫn lối soi đường. Để được như thế, chúng ta
hãy lắng nghe tiếng nói thánh thiêng của Thiên Chúa. Từ đỉnh
núi cao, Người đang khẩn thiết kêu mời chúng ta.
Tôi dám nói là chúng ta phải mau chân tìm đến đó như Đức
Giê-su. Giờ đây, trên trời, Người vẫn đưa đường dẫn lối cho
chúng ta. Cùng với Người, chúng ta sẽ rực sáng, và chỉ những
ai có đức tin mới nhận ra, vì một cách nào đó, khuôn mặt tâm
linh của chúng ta được đổi mới, được nên đồng hình đồng dạng
với Người, và cũng như chính Người, chúng ta không ngừng
được biến đổi hình dạng, được thông phần bản tính thần linh
và sẵn sàng để được đưa về trời.
Chúng ta hãy chạy đến đó, phấn khởi hân hoan ; hãy vào sâu
trong đám mây, như các ông Mô-sê và Ê-li-a hay các ông
Gia-cô-bê và Gio-an. Như ông Phê-rô, hãy say sưa chiêm ngắm
cảnh tượng thần thiêng, hãy để cho cuộc biến đổi hình dạng
vinh quang của Chúa biến đổi con người bạn, giúp bạn siêu
thoát cõi đời và xa rời trần thế. Hãy từ bỏ xác thịt, lìa xa
thụ tạo và quay về với Tạo Hoá, với Đấng mà trong phút xuất
thần, ông Phê-rô đã thưa lên : Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật hay quá.
Hẳn rồi, lạy thánh Phê-rô, ở
đây với Đức Giê-su và ở đây mãi mãi thì thật
hay quá. Còn gì hạnh phúc hơn, còn gì cao cả và quý báu
hơn là được ở với Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng
với Người và được chan hoà ánh sáng ? Hẳn rồi, mỗi chúng ta
khi có Thiên Chúa ở trong mình và được biến đổi nên hình ảnh
thần thiêng của Người, thì phải vui mừng kêu lên : Ở
đây thật hay quá, vì ở đây, mọi sự đều sáng ngời rực rỡ
; ở đây, có niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào ; ở đây, lòng ta
được hoàn toàn bình an, thanh tĩnh và êm đềm ; ở đây, ta
được nhìn thấy Đức Ki-tô ; Người chọn chỗ này làm nơi cư ngụ
cùng với Chúa Cha. Vừa bước vào, Người đã nói : Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này ; ở đây,
có Đức Ki-tô là có những kho tàng chất chứa phúc lộc đời đời
; ở đây những hoa trái đầu mùa và những hình ảnh tiên báo
đời sau được mô tả như đang hiển hiện trong một tấm gương
vậy.
Hôm nay Thiên Chúa muốn cho Đức Ki-tô tỏ vinh quang mình cho ba
môn đệ được thấy. Ta hãy tôn vinh Người và thiết tha cầu nguyện
:
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã cho ba môn đệ được nhìn
ngắm vinh quang của Thánh Tử Giê-su, và được nghe tiếng Chúa
phán dạy phải vâng nghe lời Người, - xin cho chúng con cũng biết
vâng phục Người luôn mãi.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Chúa đã ban phúc lộc đầy dư cho những người Chúa chọn, - xin cho
chúng con biết tìm đến Đức Ki-tô là mạch suối trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Trong những giờ đen tối, xin cho chúng con được soi sáng nhờ ánh
vinh quang Chúa tỏ hiện nơi dung nhan Đức Ki-tô, - và cho chúng
con hằng tha thiết chiêm ngưỡng thánh nhan Người.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô hiển dung, Chúa kêu gọi chúng con đổi
mới cuộc đời, - xin cho mọi người trên thế giới được nhờ ánh
sáng Tin Mừng mà đạt tới phúc trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Vì yêu thương, Chúa đã cho chúng con được trở thành con cái
Chúa, - xin làm cho chúng con thật nên giống Thánh Tử Giê-su khi
Người quang lâm.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Con Một Chúa biểu lộ dung
nhan vinh hiển Người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông
Mô-sê và ông Ê-li-a, để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu
nhiệm cứu độ, và báo trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban là nhận
chúng con làm nghĩa tử. Xin cho chúng con nghe lời Con Một Chúa,
để mai sau được chung hưởng gia nghiệp với Người. Người là Thiên
Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh
Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc
I: Ðn 7, 9-10. 13-14
"Áo Người trắng như
tuyết".
Trích sách Tiên tri
Ðaniel.
Tôi ngắm nhìn cho đến khi
đặt ngai toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người
trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh
xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người.
Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người.
Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều mở ra.
Trong một thị kiến ban
đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong
đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài
đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự
và vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều
phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không
khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không khi nào bị phá
huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca:
Tv 96, 1-2. 5-6. 9
Ðáp: Chúa
hiển trị, Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị,
địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói
và sương mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê
ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu
sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái
đất. Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được
thấy vinh hiển của Người. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, vì Ngài là
Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn
chúa tể. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 2 Pr 1, 16-19
"Chúng tôi đã nghe
tiếng ấy từ trời phán xuống".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, chúng tôi
không theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em
biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của
Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi
có lời từ sự vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: "Này là
Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời
Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc chúng
tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc
chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó,
nó như ngọn đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông
và sao mai mọc lên trong lòng anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 17, 5c
Alleluia, alleluia! - Này
là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người.
- Alleluia.
Phúc
Âm: Mc 9, 1-9
"Ðây là Con Ta yêu
dấu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa
Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và
Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi
trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể
giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với
Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng
thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt
lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và
một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng
sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng
phán rằng: "Ðây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời
Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác,
chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi
đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho
ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống
lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ
trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Ðó là lời Chúa.
LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong
loạt 33 bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)
1- Trong
Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày
trọng đại duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp
Phục Sinh: “Chúa Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời
loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất
cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình
trên Núi Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc
biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và
Gioan thấy phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng
tiếng của Chúa Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).
Vào
ngày lễ Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn
vẹn thực tại của chúng. Người
Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn,
đã sống lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng
của Người, tín hữu chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ
của Giáo Hội Đông Phương xướng lên, “được Thần Linh phục sinh,
chúng ta muôn đời chúc tụng Ba Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh
Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến Hình). Với một tấm lòng tràn
đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh thần chúng ta hãy leo lên
ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở
chóp đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục
Sinh.
2- Chúa
Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai
chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung
gian của lề luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần
tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ
hiện bởi những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu
diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng
tiêu biểu cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở
nên sáng láng, trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào
trên trần gian này có thể làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây
trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện trong cuộc Xuất Ai Cập của
dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện nơi lều Giao Ước
(x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).
Vào
Buổi Sáng ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên
rằng: “Ôi Lời Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng
Chúa Cha, trong ánh sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm
nay chúng con đã được thấy ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là
Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu tất cả mọi tạo vật”.
3- Bản
văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình
trên núi của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi
tiếng nói phát ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn
ngấm ngầm về việc Thánh Linh hiện diện nơi biến cố biến hình
song song với biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng,
lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu xuống trên Người (Mk 1:10).
Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người” (Mk 9:7) của Chúa Cha
cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của Người đều là
“thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).
Bởi
vậy, chúng ta có thể leo lên
ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm
ánh sáng của Thiên Chúa. Tabo
tiêu biểu cho tất cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên
Chúa, như các nhà thần bí vẫn thích dùng hình ảnh so sánh này. Một
bản văn khác của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện
cuộc tiến lên tới chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các
dân, hãy đến mà theo tôi!
Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của
chúng ta hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy
tinh thần mà chiêm ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần
được rạng ngời nơi Người Con Duy Nhất” (troparion at the
conclusion of the Canon of St John Damascene).
4- Nơi
Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm
Thiên Chúa, đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta
còn được mời gọi để lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta
nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề Luật hiện thân nơi Moisen cũng như
ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi Êlia, tiếng nói của Chúa Cha
có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói của Chúa Con, như
Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi
dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn
mạnh đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu
Kitô “đã nhận được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và
có một tiếng nói đã phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao
cả: ‘Đây là Người Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’;
chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy phát ra từ trời, vì chúng
tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng tôi càng vững
vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi chú ý
tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày
rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).
Chúng
ta hãy chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.
5- Bởi
vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối
dẫn chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh
quang của Chúa Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước
việc Chúa Kitô đến trong vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân
xác thấp hèn của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển của
Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình đồng thời cũng
nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng ta mới
được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)”
(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556).
Như
linh đạo của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến
Hình cho thấy một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô,
Giacôbê và Gioan, những vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như
ba người trẻ trong lò lửa của Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90),
phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và là Đấng Hóa Công, ngợi
khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến lửa thành sương
sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi
người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).
Giờ
đây chúng ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những
lời của Kinh Nguyện Thánh Gioan Đamascênô:
“Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con bằng lòng khao khát Chúa, và
đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh. Xin Chúa hãy thiêu đốt
tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin hãy đoái thương
làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng hớn hở,
con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san
L’Osseervatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)
Một số hình ảnh về Núi Tabor trong chuyến Hành Hương Thánh Địa Tuần
Thánh Vượt Qua 2019 của Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)
Ở dưới hầm (tầng dưới) nhà thờ (từ tầng trên có thể nhìn xuống) có một bàn
thờ và các mảnh tường của một nhà thờ từ thời Đế Quốc Byzantine,
và nền đá của cái hầm (crypt) này được tin là nơi Chúa Giêsu đứng khi Người
biến hình trên núi.
Cuối lòng nhà thờ hay ngay lối vào từ cuối nhà thờ này, một bên (phải) là
bàn thờ trên tường có hình tiên tri Elia và một bên (trái) có hình Moisen
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
11, 4b-15
"Một mình tôi không mang nổi
dân này".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, con cái
Israel nói rằng: "Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn
ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải,
hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó
lại chỉ thấy manna".
Manna hình giống hạt ngò, sắc
giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay
hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như
bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng
rơi xuống.
Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà
nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình.
Ông thưa cùng Chúa rằng: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không
được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có
cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: "Hãy ẵm
nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa
ban cho tổ tiên nó?" Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ
kêu khóc với con rằng: "Hãy cho chúng tôi ăn thịt". Một mình con không
mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với
con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo
con phải khốn cực dường này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80,
12-13. 14-15. 16-17
Ðáp: Hãy reo
mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Dân tộc của Ta chẳng có
nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho
chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết
nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta
sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ
trở tay. - Ðáp.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng
tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh
hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. -
Ðáp.
Alleluia: Mt 4,
4b
Alleluia, alleluia! - Người ta
sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14,
13-21
"Mọi người đều ăn no".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan
Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang
địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người.
Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa
những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa
Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải
tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông
rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại
rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo
các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng
ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên
trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân
phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười
hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn
ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
xin Thầy
giải tán dân chúng </> các
con hãy cho họ ăn
Bài Phúc Âm
cho Thứ Hai
Tuần XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại về biến cố
phép lạ bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh
ra nhiều lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh
ký Gioan thuật lại trong Chúa
Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước, hay Chúa Nhật XVIII Thường Niên
Năm A hôm qua.
Trong bài Phúc Âm được Thánh
ký Gioan thuật lại về
biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa
Giêsu đóng vai
chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các ông trước và đích thân
Người phân phát bánh cùng cá cho dân chúng.
Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất
đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh
cho những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người
đã biết việc Người sắp làm".
Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân:
"Bấy
giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Trong khi đó, ở
bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả
về việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng.
Các tông đồ quan
tâm đến dân chúng: "Chiều
tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ
đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua
thức ăn'".
Các tông đồ phân
phát cho dân chúng: "Khi
Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh
và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho
các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".
Tuy nhiên, việc các tông đồ
quan tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích
cực. Ở chỗ các
vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách
thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy
quá sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị
không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana
mà nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân
chúng đang đói kìa!"
Cho dù các tông đồ
không tích cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn
của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình
như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi
các vị trước khi Người ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:
"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần
phải đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con
chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem
lại cho Thầy'".
Thật
sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi
là các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các
vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy
đem lại cho Thầy".
Căn cứ vào chi tiết
nho nhỏ này thì có
thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương
thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như
chẳng mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh
và 2 con cá.
Thấy tình hình như thế nên
các vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng
không ngờ lý lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các
tông đồ, ở chỗ, không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình
trạng đói ăn của họ mà ngược lại: "Họ chẳng
cần phải đi, các con hãy cho họ ăn".
Có những giải thích phép lạ Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể
cố ý hay tìm cách xuyên tạc phép lạ Chúa
Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối bỏ các phép lạ
của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ giải thích
rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động lòng nên
ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống, nên
ai cũng ăn no.
Vậy thì "12 thúng đầy"
dư ở đâu mà ra, dư từ
5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đồ ăn của
dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu
thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân
chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con
cá hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và
trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng
cần phải đi, các
con hãy cho họ ăn"
phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người
làm phép lạ hóa ra nhiều hay
từ những gì của dân chúng mang theo??
Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã
được báo trước qua hình ảnh manna được Thiên Chúa hằng ngày ban cho dân
Do Thái trong thời gian 40 năm hành trình băng qua sa mạc từ Biển Đỏ về
Đất Hứa, một thứ lương thực mà họ được hưởng một cách nhưng không, và vì thế họ
cũng tưởng là "bởi trời" như Bánh Sự Sống là chính Chúa Kitô khi Người
giảng cho họ nghe về Bánh Sự Sống này ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 6. Sách
Dân Số ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả manna như thế này: "Manna
hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt,
rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu
thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa
xuống trại thì manna cũng rơi xuống".
Nếu các tông đồ ở trong bài Phúc Âm hôm nay không biết giải quyết thế
nào khi được Chúa Kitô bảo các vị rằng: "Họ
chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'", sau khi các
vị cảm thấy gánh nặng phải lo cho dân chúng quá ư là đông đảo đã ngỏ ý
cùng Người "xin
Thầy giải tán dân chúng", thì
trong Bài Đọc 1 hôm nay, Moisen cũng cảm thấy gánh nặng đến độ muốn hoàn
toàn trút bỏ như sau: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa?
Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân
này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa
bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào
đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?'".
Tâm trạng của Moisen chán nản đến tột cùng, như ông van xin Chúa cũng
trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Một mình con không mang nổi dân này
vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì
xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực
dường này", xét về phương diện loài người, như phản
ảnh tâm trạng của Thiên Chúa trước dân của Ngài, một tâm trạng được
Thánh Vịnh 80 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy như sau:
1) Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn
bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ
theo sở thích.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường
lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để
đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng
sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho
chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo; Thánh Catejano,
linh mục (7/8)
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo
Thánh XISTÔ II Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo
Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên
ngôi Giáo hoàng, kế vị Đức Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang
chìm trong con người bách hại thời Valerianô. Pontiô, một phó tế
của Thánh Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục nhân hậu hòa nhã". Ngài
đã tránh được một cuộc ly khai khi để cho các Giáo hội địa
phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo lạc
giáo.
Một năm sau thánh Cyprianô loan tin:
Đức giáo hoàng Xystô đã bị xử tử đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ
tá (phó tế) của Ngài. Các Kitô hữu Roma đã bị binh lính đột kích
trong khi đang cử hành thánh lễ tại hang toại đạo Callistô. Để
khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu chết. Ngài
bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số 7
vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và
Stêphanô. Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị
chặt đầu cùng ngày tại hang toại đạo Praetextato.
Cái chết vì đoàn chiên trong những
cảnh thương tâm như vậy đã khiến cho Đức Xystô được dân chúng
tôn kính rộng rãi. Ngài được mai táng trong hầm mộ giáo hoàng
tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có lẽ đã
được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn
được tôn kính cho đến ngày nay.
http://conggiao.info/thanh-xisto-ii-giao-hoang-va-cac-ban-tu-dao-d-17667
Thánh Sixtô II và các bạn tử đạo
Thánh Sixtô II là công dân thành Athena, theo học và tốt
nghiệp trường đại học triết lý tại Hy Lạp, được bầu làm giáo
hoàng ngày 31.8.257.
Trở ngại đầu tiên của Giáo Hoàng Sixtô II là phải bảo vệ đức
tin Công giáo trước những lầm lạc mà các bè phái lạc giáo,
ly giáo gieo rắc trong Giáo hội. Ngoài ra, ngài đã khôn
ngoan dàn xếp một cách ổn thỏa các ý kiến về phép Rửa Tội
giữa các giám mục và giáo sĩ, nhờ vậy toàn thể giáo sĩ và
giáo dân cùng hiệp lực chung xây dựng Giáo hội. Con thuyền
Giáo hội còn bị phong ba bão táp trước sức tấn công của vua
Valêrianô, một bạo vương luôn muốn tróc nã và hành quyết các
tông đồ của Chúa, ngăn cấm không cho những người Kitô hữu tụ
họp và ra lệnh sát hại các giám mục, linh mục và phó tế.
Một lần kia, thánh Sixtô II cùng với bốn phó tế bị phát hiện
khi đang dâng thánh lễ tại hầm mộ của thánh Calistô. Ngài bị
trảm quyết cùng với các phó tế Janvier, Magne, Vicentê và
Etienne vào ngày 6.8.258. Ngoài ra, thầy Félicissime và
Agapit cũng đã bị bắt và bị xử chém tại nghĩa trang
Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị hành hình và chết
vào bốn ngày sau.
Thánh Sixtô II được an táng ngay trong hầm mộ và trở thành
vị Giáo hoàng thứ hai được nhiều người sùng kính nhất sau
thánh Phêrô.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-sixto-ii-va-cac-ban-tu-dao_a7694
Thánh Catejano, linh mục
Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh
cần thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử
thiếu học thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt
động gì cả. Khi các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng
có quyền để xin giúp đỡ, họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các
vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh
này? Tất cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản
ứng bằng cách tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ
không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi
lưu tâm đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến
Rôma năm 1523 — không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có
quyền nhưng để gia nhập Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ
chức nhỏ bé, bán chính thức, tận tụy trong công việc bác ái. Họ chăm
sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ côi và các tù nhân. Dần dà họ
gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở
Vicenza khi mẹ ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh
Giêrôme. Sau khi mẹ chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người
đau yếu, đồng thời sáng lập một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi
ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm sóc người nghèo, người đau yếu
không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu anh hùng.
Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong
hàng giáo phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời
sống của các tông đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ
khích lệ họ và người khác cố gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì
Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích này, họ nhắm đến đời sống
luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc mục vụ, giúp đỡ
người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục vụ. Tu
hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân
đến tu hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các
giáo sĩ và giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống
thánh thiện cũng như lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán
cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm
trọng bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô
thiển lên chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, “Chúa Cứu Thế
chết trên thập giá. Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này.” Ngài từ
trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.
Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố
gắng phục vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng
trong bệnh viện, chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài.”
https://dongten.net/2019/08/06/hanh-cac-thanh-07-08-thanh-cajetan/
https://giaophanvinhlong.net/thanh-cajetan-14801547.html
https://www.hddaminhthanhlinh.net/a7332/7-thang-tam-thanh-cajetan-1480-1547-
Thánh Cajêtan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là con
trai của một bá tước. Cajêtan tốt nghiệp trường đại học Pađua với
văn bằng cử nhân lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó, Cajêtan phục vụ tại
văn phòng của giáo triều Rôma. Cajêtan thụ phong linh mục năm 1516.
Rồi ngài trở về thành phố quê hương Vicenza và làm việc mục vụ tại
đây. Dù cho những bạn bè quý tộc của Cajêtan ra sức phản đối và giận
dữ, thánh nhân vẫn tham gia với nhóm người khiêm tốn, chuyên phục vụ
các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Cajêtan đi khắp thành phố
tìm kiếm những người bất hạnh và chính ngài đã tự phục vụ họ.
Cajêtan vào bệnh viện săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh
tởm nhất. Tại các thành phố khác, thánh Cajêtan cũng làm các việc từ
thiện ấy. Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng
lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Ngài nói: “Tôi sẽ không bao giờ vui
sướng cho tới khi nào được thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh
nhận Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm hở vui mừng, chứ không lo buồn
tủi hổ.”
Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajêtan đã thiết lập một tu
hội giáo sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin, chuyên đi
thuyết giảng. Họ khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh nhận bí tích
Thánh Thể, giúp bệnh nhân và làm những công việc từ thiện khác.
Thánh Cajêtan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối
cùng, thánh nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác sĩ
khuyên ngài nên dùng nệm êm. Nhưng Cajêtan nói: “Đấng Cứu Chuộc tôi
đã chết trên cây thập giá. Vậy ít ra, hãy để tôi được chết trên tấm
gỗ này!” Cajêtan về trời ngày mùng 7 tháng Tám năm 1547 tại thành
phố Napôli. Tới năm 1671, đức thánh cha Clêmentê X tôn phong Cajêtan
lên bậc hiển thánh.
Để noi gương
vị thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm
đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cajêtan giúp
chúng ta biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài.
Biên dịch: Đa
Minh M. Nguyễn Phúc Lộc, CMC
http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4555-thanh-cajetan.html
Thứ Ba
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
12, 1-13
"Môsê không như tiên tri
khác; sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Maria và
Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói:
"Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán
cùng chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người
hiền lành nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và
Maria rằng: "Cả ba hãy đến nhà xếp giao ước".
Khi cả ba ra đi, thì Chúa ngự
xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria.
Hai người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu
trong các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng
người ấy trong thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc
mộng. Nhưng Môsê tôi tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành
trong cả nhà Ta. Ta trực tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy
Chúa tỏ tường, không bí ẩn hay là hình bóng. Vậy sao các ngươi dám
chê trách Môsê tôi tớ của Ta?" Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây
trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria bị phung cùi, mình trắng như
tuyết.
Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã
bị phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng
tôi đã dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ
sinh non? Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát".
Môsê kêu van cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà
ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13
Ðáp: Lạy
Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội
(c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện
thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ
bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. -
Ðáp.
2) Vì sự lỗi con thực là con
biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng
một Thiên Chúa. - Ðáp.
3) Con thi hành điều ác trước
thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã
chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho
con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người
con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần
Chúa ra khỏi con. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
14, 22-36
"Xin truyền cho con đi trên
mặt nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập
tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi
cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền
thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên
mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông
hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.
Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây,
đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy
đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa
Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên
rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy
ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên
thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy
Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
{Khi
đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra
Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và
người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ
rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được
chữa lành}.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm:
Chúa thích chơi trò ma quái
Bài Phúc Âm cho Thứ Ba
Tuần XVIII Thường Niên
hôm nay thuật
lại một biến
cố xẩy ra sau
phép lạ bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy
ra thứ tự 4 phần
như sau:
Phần nhất: "Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền
mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải
tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn
ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập
chờn vì ngược gió".
Ở đây
chúng ta thấy chính Chúa
Giêsu giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm
một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ
của Người. Người đích
thân
làm
việc này có thể là vì "Người
lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó
Người đã "giục
môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con
thuyền mà Thày trò đã sử dụng để
tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì
một mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến
chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị
sóng đánh chập chờn vì ngược gió".
Phần hai: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi
trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ
hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy
yên tâm. Thầy đây, đừng sợ'".
Phải, ở đây
chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra
giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi
Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ
không xuất hiện với các vị khi
trời còn sáng và vào lúc
không có sóng gió gì, khiến
các ông bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà
nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên
Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được
Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ
mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào
Ngài: "Hãy
yên tâm. Thầy đây, đừng sợ".
Phần
ba: "Phêrô
thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy
gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy,
xin cứu con'. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người
hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió
liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng:
'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày
của mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm
thấy hết sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng:
"Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước
mà đến cùng Thầy". Chúng
ta thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày
mà là xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến"
ngài liền "xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".
Về
sự kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng
thế, người ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì
gọi là phép lạ của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy
giờ là mùa đông nên nước bị đông cứng do đó Chúa Giêsu mới có thể bước đi trên
tảng băng chứ không phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con,
chỉ đánh lừa được những ai không cẩn thận đọc Thánh Kinh.
Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất không
bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị đóng
băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à? Thật
là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.
Chúng ta không biết được
từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến với thuyền
của các
tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng
không còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn
thấy được Người và còn có thể nghe được
tiếng của Người giữa sóng
gió ào ào. Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể
suy đoán rằng Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút
thì đã cảm thấy chới với: "Khi
thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy
Thầy, xin cứu con'".
Tất
nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết
chìm: "Lập
tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao
lại nghi ngờ?'". Đúng thế,
chỉ vì "nghi ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái
lại, nếu sóng gió càng mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng
Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin
tưởng tuyệt đối vào Thày, qua cử chỉ cứ nhìn thẳng vào
Thày hơn là nhìn chung quanh, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là
chính mục tiêu tiến đến của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được
Người trong chính sóng gió và giữa đêm tối.
Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được
mục đích của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan
khốn khó đầy hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người:
"Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong
thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
"Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có
nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp
xếp xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào
trong thuyền của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận
biết Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên
Chúa!'"
Điều tích
cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta
hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ Phêrô, vị tông đồ một khi
hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi cuồng phong nên bị chìm xuống thế
nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt đức tin của chúng
ta vào Chúa, mà chỉ vào những sự kiện hay con người gây khốn cho
mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể nào không
tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm xuống
dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không vượt
trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của
mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ
Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con
với".
Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị
quáng gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao?
Tại vì hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho
mắt con người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị
sóng sánh, bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không
còn làm chủ được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để khỏi bị tình
trạng quáng gà đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ
nhìn thẳng vào đối tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu.
Tâm trạng đột nhiên hoảng hốt của tông đồ
Phêrô nên vị tông đồ đang tin tưởng đi trên nước đến với Thày mình
thì bị chìm ngay xuống nước trong bài Phúc Âm hôm nay, được phản ảnh
phần nào nơi trường hợp của Maria và Aaron là anh chị em ruột thịt
của Moisen trực tiếp "nói
xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói: 'Thiên
Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng
chúng ta như thế sao?'", mà
chính là gián tiếp trách móc Thiên Chúa như thể cho Ngài là thiên
vị, nên đã phạm đến cả Thiên Chúa, đến độ, sau khi Chúa tỏ cho 2 vị
này biết về Moisen ở trong "nhà xếp giao ước", thì "Chúa
nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là
Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết. Maria
bị phung cùi, mình trắng như tuyết".
Sau khi "Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói
với Môsê rằng: 'Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã dại phạm tội.
Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non? Ðây phân nửa
thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát'. Môsê kêu van cùng Chúa
rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy'", một
tiếng kêu van thay cho chính phạm nhân Maria, một người chị em của
ông chắc chắn đã nhận biết lỗi lầm của mình, khi bị Chúa trừng phạt
nhãn tiền như thế, để cảnh tỉnh bà và giúp cho bà nhờ đó sống tốt
lành hơn nhờ biết mình và tin vào Ngài hơn, bằng tất cả tâm hồn
thống hối ăn năn như tâm tình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm
nay:
1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con
theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch
lâng tội ác. .
2) Vì sự lỗi con thực là con biết, và tội con ở trước mặt con luôn.
Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên Chúa.
3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình
khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã
hoài thai con.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh
thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa,
chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Ngày 8 tháng 8
Thánh Đa-minh, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha.
Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma.
Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ
(Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập dòng Anh Em Thuyết Giáo
tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu
với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch
được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong dòng phải sống
khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng
chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm dòng ở Rô-ma trước khi qua đời ở
Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Thánh Đa-minh rất mực đoan chính và nhiệt tình mến Chúa. Không
nghi ngờ gì nữa, ai cũng chứng thực là người thật đáng kính và
đầy ân sủng. Tâm hồn người hết sức bình thản, chỉ xao động khi
đồng cảm nỗi thống khổ của người khác hay khi tỏ lòng thương xót
khoan dung. Lòng vui thì nét mặt cũng vui lây, nên người đã giãi
toả niềm an vui nội tâm trên khuôn mặt khả ái hân hoan.
Qua lời nói cũng như việc làm, đâu đâu người cũng tỏ ra là một
con người phúc âm. Ban ngày, không ai hoà đồng vui vẻ với anh em
bằng hữu hơn người. Ban đêm, chẳng ai kiên trì canh thức cầu
nguyện đủ cách như người. Người ít nói, ngoại trừ nói với Thiên
Chúa -tức là cầu nguyện- hay nói về Thiên Chúa, và người thường
khuyên bảo anh em như vậy.
Người thường dâng lên lời cầu khẩn đặc biệt này, là xin Thiên
Chúa thương ban cho người lòng bác ái chân thật, lòng bác ái
giúp người nỗ lực tìm kiếm và đem lại ơn cứu độ cho con người.
Người nghĩ rằng người chỉ thật sự là chi thể của Đức Ki-tô khi
đem trọn vẹn con người và sức lực ra cứu các linh hồn như Chúa
Giê-su là Đấng cứu độ mọi người đã dâng hiến trọn vẹn con người
mình để cứu độ chúng ta. Và để thực hiện công trình này, theo kế
hoạch quan phòng sâu thẳm từ ngàn đời của Thiên Chúa, người đã
lập dòng Anh Em Thuyết Giáo.
Người hay dùng lời nói và thư từ khuyên bảo anh em dòng thường
xuyên học hỏi Tân Ước và Cựu Ước. Lúc nào người cũng mang theo
mình sách Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cùng với các thư thánh
Phao-lô, và học đến hầu như thuộc lòng.
Hai ba lần được chọn làm giám mục, nhưng lần nào người cũng từ
chối, vì thích sống nghèo với anh em hơn là ngự trong một toà
giám mục. Người bảo toàn đức khiết tịnh cao quý vẹn tuyền cho
đến chết. Người những ước ao được chịu đòn, chịu tan xương nát
thịt và chịu chết vì tin Đức Ki-tô. Đức giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô
IX đã nói về người : “Tôi biết người đã theo lối sống của các
Tông Đồ một cách trọn hảo, nên không chút nghi ngờ : người cũng
được chia sẻ vinh quang trên trời với các Tông Đồ.”
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh
một tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa-minh. Xin
nhậm lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu, mà ban cho Hội
Thánh luôn tiến triển nhờ công đức và lời giảng dạy của người.
Chúng con cầu xin
THÁNH DAMINH (8/8)
LẬP DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO
1. Vài dòng lịch sử
Thánh Đaminh sinh tại Castile nước Tây ban nha, năm 1170.
Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm
mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất
định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến
xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho
người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:
- Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để
chuộc em chị về.
Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm
phục sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến thụ giáo
với một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia nhập Đại chủng
viện tại Palencia. Sau khi hoàn tất việc học, Ngài được Đức Cha Diégo de
Azsvedo truyền chức Linh Mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên
Đức Giám Mục Martin de Bazan đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.
Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo. Trong
thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè rối Albigeois
gây ra cho Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất
đều xấu xa: muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc
khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của
họ. Nhưng nhận thấy một mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá
mạnh của họ nên ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác.
Đó là những người sau này sẽ trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi
là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của ngài kể lại:
“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh
liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng
và ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải
trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng
rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt
hiền từ và vui tươi của Ngài.
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin Mừng, cả trong lời nói
lẫn hành động”
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng
bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta.
Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết
sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu
Chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm
công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em
Thuyết Giáo”
Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo
lời rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết
quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ
dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi khôi, để nhờ đó
Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời
Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi khôi, giải thích các
mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả
thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn
trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ơn Đức
Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Roma, xin Đức Honoriô III châu phê luật dòng
vào ngày 22/10/1216. Từ đó dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp
thế giới .
Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức
Thánh Cha Gregoriô thứ IX đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
2. Lời trăn trối cuối cùng
“Anh em thân mến. Đây là những gì Cha thánh để lại cho anh em để anh em
giữ lấy như là con có quyền thừa kế:
Anh em hãy sống bác ái
Hãy giữ lòng khiêm tốn
Hãy tự nguyện giữ đức thanh bần – khó nghèo.”
Đây không phải là những gì rút ra từ sách vở, mà là kết tinh của cả một
cuộc sống mà chính Ngài đã nỗ lực thực hiện trong suốt một cuộc đời 51
năm – hơn một nửa thế kỷ.
ĐTC Biển Đức XVI nói về Thánh Đaminh trong bài giáo lý ở cái
link dưới đây:
3/2/2010 - Bài 104 về Thánh Đaminh
Thứ Tư
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35
"Ðất ngon lành họ đã không
thèm" (Tv 77, 24)
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán
cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông,
mỗi chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem
đất Canaan mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".
Sau bốn mươi ngày, những người
dò thám đất đi khắp miền, đoạn trở về.
{Họ
đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc
Pharan, tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng
đồng, và cho người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói:
"Chúng tôi đã vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất
chảy tràn sữa và mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân
cư trong xứ hùng cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi
đã thấy ở đó cả những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân
Hit-tit, Giơbusi và Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển
và bờ sông Giođan".
Bấy giờ Caleb truyền cho dân
nín bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng
nổi nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên
đánh dân ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con
cái Israel về đất họ đã dò thám, họ nói: "Ðất chúng tôi đã băng qua
để dò thám là đất làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng
tôi đã thấy trong xứ toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy
ở đó những người khổng lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng
lồ). Quay nhìn lại mình, thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu,
và trước mắt họ, chúng tôi chỉ như thế đó".
Và toàn thể cộng đồng kêu la;
họ lên tiếng},
và đêm ấy toàn dân la lối khóc
lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng
tôi chết quách ở trong sa mạc này!").
Chúa phán cùng Môsê và Aaron
rằng: "Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng
kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa
phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm
cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng
này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu
trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một
năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác
các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì
Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao
mòn và chết trên rừng vắng này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
105, 6-7a. 13-14. 21-22. 23
Ðáp: Lạy
Chúa, xin nhớ đến chúng con (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng con đã phạm
tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở
bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét
những việc lạ lùng của Chúa. - Ðáp.
2) Nhưng họ đã mau quên công
việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định
kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách
Thiên Chúa trong cõi cô liêu. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng
đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh
ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện
tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra
cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.
Alleluia: 1
Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời
ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
15, 21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh
tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu
lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy
đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương
xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một
lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy
về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ
được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà
nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh
của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó
con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời
cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được
vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ
Tư trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng
ta về việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ
Canaan được khỏi bị quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có
một đức tin đầy ma lực đến độ "muốn gì được
nấy".
Thế nhưng, để có
một đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang
Cannan này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng
khiếp, một trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên
quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.
Cuộc thử thách đức
tin liên quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các
môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà
cứ theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến
cùng chiên lạc nhà Israel'". Qua câu
trả lời cho các môn đệ này,
Chúa Giêsu như muốn
nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ
là đồ thứ
yếu, không đáng
chú trọng cho bằng dân Do Thái.
Cuộc thử thách đức tin
liên quan đến phẩm giá làm người
của người đàn bà
Canaan: "Nhưng
bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người
đáp: 'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây,
bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai
còn nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình
như thế nữa hay chăng, hay là điên tiết quại lại bằng câu hùng hổ
như: "Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những
gì tôi xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc
cần ông".
Thế nhưng, cho
dù người đàn
bà Canaan bị
một độc chưởng
vô cùng lợi hại
chỉ từ
chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì,
trái lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu
vô cùng ngoạn mục: "Vâng,
lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi
xuống", một
tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua
bà lập tức: "Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy".
Điều duy nhất người đàn bà ngoại
bang Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị
quỷ ám khốn cực lắm", đến độ,
bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như
là của bà, nên bà đã xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà chứ
không phải là đứa con gái của bà: "Lạy
Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để
rồi, nhờ đức
tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay
lúc đó, con gái bà đã được lành".
Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong Bài Phúc Âm hôm qua
thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã hoàn toàn trổi
vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với cả bà là
một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm thấy
bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào
Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải
chăng ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn
bay trên mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh
thần hơn là thứ phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ
trong bài Phúc Âm hôm qua.
Nếu đức tin của người đàn bà ngoại bang Canaan trong
Bài Phúc Âm hôm nay phi thường như thế nào thì đức tin của dân Chúa
trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Dân Số, cho thấy quá ư
là yếu tin, cho dù đã thấy được biết bao nhiêu là dấu lạ và phép lạ
Thiên Chúa tỏ mình ra trong thời gian 40 năm trong sa mạc, đến độ
Thiên Chúa, sau lần họ đúc bò vàng để thờ như một vị cứu chúa của họ
khi họ mới băng qua Biển Đỏ chẳng được bao lâu, lại muốn hủy diệt họ
đi một lần nữa ngay trước khi họ sắp vào được Đất Hứa,
"Chúa phán cùng Môsê
và Aaron rằng: 'Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã
nghe tiếng kêu trách của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng
rằng: Chúa phán: Ta hằng sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên
Ta sẽ làm cho các ngươi như vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên
rừng vắng này. Tất cả các ngươi, tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều
đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem thấy đất, trong bốn mươi ngày,
(thì) một năm kể thay cho một ngày; các ngươi mang lấy cái khổ của
sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét của Ta: vì Ta đã phán
thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên chống lại Ta như
vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này'".
Tuy nhiên, mỗi lần cảm thấy Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ, nhất là khi
bị Ngài trừng phạt xứng với tội của mình, thì dân Ngài lại ăn năn
thống hối, bởi Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, biết được lý do
chính yếu mà dân Ngài cứ tiếp tục cứng lòng tin là bởi khuynh hướng
hay quên việc Ngài làm cho họ,
như Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm
điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên
Ai-cập, đã không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân
Ngài, họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng
ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ
họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là
Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi
giận và đừng tiêu diệt họ.
Thánh Têrêsa Benedicta Đồng trinh tử đạo (9/8)
Edith Stein, một nữ tu Cát Minh thánh thiện, một triết gia
uyên thâm và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh
hưởng lớn ở thời ấy mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn
trong giới triết gia và trí thức ở Ðức cũng như trên toàn
thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả những ai coi
Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng hiến cho sự
đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở
Breslau, nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng
lực học hỏi lạ thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài
đã học xong triết và ngữ văn tại đại học Breslau và
Goettingen.
Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg
và lấy bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư
phụ tá và là cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của
hiện tượng học và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy
của thánh nữ.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm
kiếm chân lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy
ở Giáo Hội Công Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa
Avila. Edith Stein được rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học,
diễn thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài
trở nên một triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài
khao khát là cuộc sống cô độc và tịnh niệm của dòng Cát
Minh, là nơi ngài tận hiến cho Thiên Chúa và người dân của
ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại người Do Thái khiến
ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng đã đồng ý
để ngài gia nhập dòng Cát Minh Hèn Mọn ở Cologne-Lindenthal
vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế tiếp, ngài được
mặc áo dòng và lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của Thánh Giá.”
Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên
cuồng, Sơ Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt
tại nhà dòng Cát Minh ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên
để di chuyển đến một tu viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng
Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt biên giới đến Hòa Lan là nơi
ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt vào dòng Cát Minh ở
Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là Thánh Giá Học.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức
Quốc Xã đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan
công bố lá thư mục vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái
và đuổi các học sinh Do Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì
Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi người Công Giáo thuộc gốc Do
Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị bắt vào ngày 2 tháng
Tám 1942, và được chở đến trại tử thần Auschwitz. Ngài chết
trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
phong chân phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ
được phong thánh ngày 11 tháng Mười 1998.
Lời Nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ
tiên chúng con, Chúa đã đưa Thánh Têrêsa Benedicta đến sự
tròn đầy của khoa học thập giá trong giờ tử đạo của người.
Xin lấp đầy chúng con sự hiểu biết ấy; và nhờ lời người
chuyển cầu, xin cho chúng con luôn kiếm tìm Chúa là chân lý
tối thượng, và trung tín cho đến chết đối với giao ước tình
yêu đã được ký kết trong Máu Con Chúa cho ơn cứu độ của tất
cả mọi người. Chúng con cầu xin.
Lời Bàn
Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần lớn
đã được dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực, ngài
theo đuổi chân lý mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy đến. Sơ
Josephine Koeppel, O.C.D., người đã dịch vài cuốn sách của
Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng quát về vị thánh này như
sau, ngài “học biết cách sống trong bàn tay Thiên Chúa.”
Lời trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II nói: “Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng với người
chị là Rosa và những người Công Giáo cũng như Do Thái khác
bị đưa từ Hòa Lan đến trại tập trung Auschwitz, là nơi ngài
chết vì hơi ngạt. Ngày nay, chúng ta tưởng nhớ ngài với lòng
tôn trọng sâu xa. Một vài ngày trước khi bị trục xuất, người
phụ nữ đạo đức này đã gạt bỏ vấn đề được cứu nguy: ‘Ðừng làm
như vậy! Tại sao tôi phải được miễn trừ? Không đúng sao khi
tôi chẳng được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi không thể
chia sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi
chắc chắn bị tiêu diệt’.”
Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng
nói: “Cuộc đời các con không phải là một chuỗi không cùng
của những cánh cửa mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình! Ðừng dừng
ở ngoài mặt nhưng đi sâu vào tâm điểm của mọi sự! Và khi đến
giờ, hãy có can đảm quyết định! Thiên Chúa chờ đợi các con
phó thác sự tự do của mình trong bàn tay nhân ái của Người.”
Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá Edith Stein (1891-1942)
Thứ Năm
Ngày 10 tháng 8
Lễ Thánh Lôrensô, Phó Tế, Tử Ðạo
Lễ Kính
Bài Ðọc I: 2 Cr 9,
6-10
"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho
cách vui lòng".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, ai gieo ít thì
gặt ít; ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã
định, không phải cách buồn rầu, hoặc vì miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu
thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn
mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư
dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay
bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời".
Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ
cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự
công chính của anh em.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111,
1-2. 5-6. 7-8. 9
Ðáp: Phúc đức cho
người biết xót thương và cho vay (c. 5a).
Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn
sợ Chúa, người hết lòng hâm mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ
hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.
- Ðáp.
2) Phúc đức cho người biết xót
thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. Cho tới
đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức sẽ được ghi nhớ muôn
đời. - Ðáp.
3) Người không kinh hãi vì nghe
tin buồn thảm, lòng người vững vàng cậy trông vào Chúa. Lòng người kiên
nghị, người không kinh hãi, cho tới khi nhìn thấy kẻ thù phải hổ ngươi.
- Ðáp.
4) Người ban phát và bố thí cho
những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi; sừng người
được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự
sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 12,
24-26
"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ
tôn vinh nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống
đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối
đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai
ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai
phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó.
Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
Ðó là lời Chúa.
Bài đọc 2 Phụng vụ giờ kinh sách
Hôm nay, Hội Thánh Rô-ma mời gọi chúng ta mừng ngày thánh Lô-ren-xô
khải hoàn, ngày người đã chà đạp thế gian hung tợn, đã loại trừ thế
gian nịnh hót. Thế là tên quỷ dữ tấn công người chịu hai lần thất
bại. Như anh em vẫn biết, trong Hội Thánh Rô-ma, người đã thi hành
chức vụ trợ tá, đã phục vụ Máu Thánh Đức Ki-tô, đã chịu đổ máu vì
danh Đức Ki-tô. Thánh Gio-an tông đồ đã trình bày rất rõ về mầu
nhiệm bữa tối của Chúa khi nói : Đức
Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy cả chúng ta nữa, chúng ta
cũng phải thí mạng vì anh em. Thưa anh em, thánh Lô-ren-xô hiểu
điều ấy, người đã hiểu và thực hành. Người được lãnh nhận Đấng trao
ban chính mình làm của ăn tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng
trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống,
người yêu mến Đức Ki-tô, thì lúc chết, người cũng bắt chước Đức
Ki-tô.
Còn chúng ta, thưa anh em, nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa,
chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa. Chúng ta sẽ không thể sinh được
hoa trái mến yêu nào tốt hơn là noi gương bắt chước Đức Ki-tô. Thật
vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho
anh em dõi bước theo Người. Khi nói thế, dường như thánh tông đồ
Phê-rô hiểu rằng : Đức Ki-tô đã chỉ chịu đau khổ vì những ai dõi
bước theo Người, và cuộc Thương Khó của Đức Ki-tô
sẽ chẳng lợi ích gì cho ai ngoài những kẻ dõi
bước theo Người.
Các thánh tử đạo đã theo Người đến nỗi chịu đổ máu, đến nỗi chịu đau
khổ như Người. Các thánh tử đạo đi theo Đức Ki-tô, nhưng không phải
chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập ;
các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa đủ
loại hoa : không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ
khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím goá bụa. Anh em
thân mến, đừng bao giờ có ai thất vọng về ơn gọi của mình, dầu thuộc
hạng người nào đi nữa : Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì mọi người. Kinh
Thánh đã chép rất đúng về Người : Chúa
là Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.
Vì thế, người Ki-tô hữu vẫn phải biết cách đi theo Đức Ki-tô, mặc dù
họ không phải đổ máu, không có nguy cơ phải chịu thương khó. Thánh
Phao-lô tông đồ nói về Chúa Ki-tô : Người
vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa. Chúa uy nghi dường nào ! Nhưng
Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên
giống phàm nhân, sống như người trần thế. Chúa khiêm hạ biết bao
!
Đức Ki-tô đã hạ mình xuống. Hỡi Ki-tô hữu, đó là tấm gương bạn phải
noi theo. Đức Ki-tô
đã trở thành vâng phục, sao bạn lại kiêu căng ? Rồi sau khi đã
hạ mình đến cùng và tiêu diệt sự chết, Đức Ki-tô đã lên trời : Ta
hãy đi theo Người. Hãy nghe thánh Phao-lô tông đồ nói : Anh
em đã được cùng trỗi dậy với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì
thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
XThánh
Lô-ren-xô kêu lên rằng : “Tôi chỉ thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ
phụng sự một mình Người.
ĐCực
hình không làm tôi sợ hãi.
XThiên
Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi trú ẩn, là Đấng giải thoát tôi.”
ĐCực
hình không làm tôi sợ hãi.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, mà
thánh phó tế Lô-ren-xô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo
vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều người dạy, và
noi gương người mà yêu mến Chúa và anh em. Chúng con cầu xin
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ
thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh
lễ vọng. Sách nghi thức Đức Giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ
kính Ngài. Thời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính
thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?
Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ Ngài là những
người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi du học bên
Roma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài được chọn thành một
trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng
và Ngài được giao cho trách nhiệm "quản lý tài sản của Giáo hội". Khi sự
cấm đạo dưới thời Hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị
kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra
pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, Ngài hỏi "Cha ơi, cha đi
đâu mà không cho nô bộc này theo?" Ðức Giáo hoàng trả lời, "Con ơi, ta
không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta." Nghe thấy thế,
Laurensô thật vui mừng, Ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho
người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà
phân phát.
Khi những điều này tới tai Hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô.
Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên
tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo
hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài
sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn
Valrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc
thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải
chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng
này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:
- Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho
Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều
thiên tử đạo vào năm 158.
Thánh Laurensô đã một
lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương người nghèo. Xin cho mỗi
chúng ta cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân. Trung
kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu thiệt thòi về phần xác.
(Nguồn: website TGP Sài Gòn)
Nếu Thứ Năm tuần XVIII không bị lễ kính Thánh Phó Tế Laurensô át
đi thì PVLC và Suy Niệm Lời Chúa như sau:
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
20, 1-13
"Xin Chúa mở kho tàng châu
báu của Chúa là mạch nước hằng sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, vào tháng
Giêng, con cái Israel và toàn thể cộng đồng đến rừng Sim. Dân chúng
định cư ở Cađê. Tại đây bà Maria đã qua đời và được chôn cất.
Và khi dân chúng thiếu nước,
họ toa rập nhau chống đối Môsê và Aaron. Họ công kích Môsê rằng:
"Phải chi chúng tôi chết đi như anh em chúng tôi đã chết trước mặt
Chúa. Tại sao các ông dẫn cộng đoàn của Chúa vào rừng vắng này, để
chúng tôi lẫn súc vật chúng tôi phải chết? Tại sao bắt chúng tôi bỏ
Ai-cập mà dẫn lên chỗ rất xấu xa này, chẳng cày cấy được, chẳng sinh
quả vả, nho lựu, hơn nữa không có nước mà uống".
Môsê và Aaron lánh mặt khỏi
dân chúng và vào nhà xếp giao ước. Hai ông sấp mình xuống đất, kêu
van cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin nghe tiếng dân này
kêu van, và xin mở cho họ kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước
hằng sống, để họ uống no đầy mà hết kêu trách".
Sự vinh quang của Chúa hiện ra
trên họ. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy cầm lấy gậy và tập họp
dân chúng lại, ngươi và Aaron khiến hòn đá, trước mắt họ, và đá liền
chảy nước. Khi ngươi làm cho nước từ hòn đá này chảy ra, thì toàn
dân và súc vật sẽ được uống".
Môsê cầm lấy cây gậy để trước
mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến
trước hòn đá, ông bảo họ rằng: "Hỡi bọn người phản loạn và cứng
lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy
ra cho các ngươi được không?" Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá
hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống.
Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: "Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta
trước mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào
Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó".
Ðây là nước mâu thuẫn nơi con
cái Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94,
1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta
hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước
thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
- Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái
và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính
Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn
chiên thuộc ở tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn
nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa,
trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã
thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Alleluia: Tv
144, 13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa
trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc
Chúa làm. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
16, 13-23
"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho
con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con
Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì
bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó".
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì
chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha
Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên
đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không
thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước trời. Sự gì con cầm
buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới
đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền cho các môn đệ
đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu
tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều
đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày
thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng:
"Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy
đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra
đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết
những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về
loài người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu
Nazarét
Bài
Phúc Âm hôm
nay, Thứ
Năm Tuần
XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện
tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô,
tuyên xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một
Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người
trên nền tảng đức tin của vị
tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một
thâm cung bí sử tối quan hệ về Người.
Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng
thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô:
"Khi Đức Giê-su đến vùng
kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng:
'Người ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là
ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho
là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại
hỏi: 'Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô
thưa: 'Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'".
Chúa
Kitô đã thiết
lập Giáo Hội của Người trên nền
tảng đức tin của vị
tông đồ này:
"Đức Giêsu nói với ông:
'Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì
không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha
của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh
biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy
sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới
đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như
vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo
cởi như vậy".
Chúa
Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một thâm cung bí
sử tối quan hệ về Người:
"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ
biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do
các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng
Người ra và bắt đầu trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng
để Thầy gặp phải chuyện ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo
ông Phê-rô: 'Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy,
vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa,
mà là của loài người'".
Qua bài
Phúc Âm hôm nay, chúng
ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi
các tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các
tông đồ nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu
căn tính của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho
thấy: "Người
cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng
Kitô"?
Phải
chăng Người chỉ có ý
muốn trắc
nghiệm xem kiến
thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị
như thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần
chúng? Căn cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì
Chúa Kitô không phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức
tin của các
tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao
rồi, chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật
hết sức phũ phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các
tông đồ không thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên
xưng hết sức chính xác về Người đi chăng nữa.
Thật thế, điều tối mật về
Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục
sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đức
Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng
thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống"
(qua mầu nhiệm phục sinh), chứ
không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua
tông đồ Phêrô, hiểu
theo kiểu trần gian, ở
chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì
Người không thể nào lại chết được.
Nếu chung các tông đồ và
riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể
nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người,
như một tông đồ
Giuđa Íchca,
hay đã trắng
trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó
cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ
hãi trong
căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi.
Đó còn là lý do khi nhận
biết tất cả sự
thật về một
Chúa Kitô Phục Sinh,
tông đồ
Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi"
(Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã
chết nhưng đã sống
lại". Bởi
vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có
chết cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người
chết, để chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt.
Lời
tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể lập lại lời tuyên
xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống".
Sự kiện tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác về căn tính của "Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống" Thày của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng sau
đó, vị tông đồ này đã có một cảm nghiệm đức tin hoàn toàn không thích
hợp với sự thật thần linh về mạc khải thần linh vừa được ngài tuyên
xưng, nên ngài đã bị Vị Sư Phụ đáng tôn kính quí yêu thậm tệ quở trách.
Sách Dân Số cũng thuật lại nhân vật Moisen hằng tin tưởng vào Thiên Chúa
của mình, bằng không ông đã không dấn thân gánh vác sứ vụ giải phóng dân
Chúa ra khỏi Ai Cập vô cùng khó khăn và đau khổ, thế mà cũng có lúc
không đẹp lòng Chúa, như trường hợp ông theo lệnh Chúa dùng gậy khiến
nước chảy ra từ tảng đá, được ghi nhận ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy
ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước hòn đá, ông bảo họ rằng: 'Hỡi bọn
người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe đây. Chúng tôi có thể làm cho
nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi được không?' Môsê giơ tay cầm
gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra tràn trề. Dân chúng và súc vật
được uống. Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng: 'Vì các ngươi
không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước mặt con cái Israel, thì
các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ ban cho chúng nó'".
Nếu "đó là nước mâu thuẫn nơi con cái Israel trách
Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người", như
câu kết của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết, thì phải chăng ám chỉ đến Chúa
Kitô là tảng đá bị bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường (xem
Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42) ban nước hằng sống, nhưng chỉ cho những
ai tin vào Người mà thôi. Bởi thế mà bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Thánh
Vịnh 94, mới có những lời kêu gọi thích đáng như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ
của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca
để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan
Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là
dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở
Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi
đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thứ Sáu
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
4, 32-40
"Người đã yêu thương cha
ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng
rằng: "Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi
Thiên Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến
chân trời nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng?
Có bao giờ người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng?
Có bao giờ một dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra
như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự
thử thách, dấu chỉ, điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh
mẽ và những thị kiến khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc
giữa các dân tộc khác, như Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất
cả các điều đó trước mặt các ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả
những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem thấy, để các ngươi biết
rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người, không có chúa nào
khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng Người; ở dưới
đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và từ giữa
đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương cha
ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã
dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi
trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc
lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban
đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện
nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng
rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có
Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính
ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau
được hạnh phúc, và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ
ban cho các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
76, 12-13. 14-15. 16 và 21
Ðáp: Tôi
hồi tưởng lại những việc làm của Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Tôi hồi tưởng lại
những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước
của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về
những đại sự của Ngài. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối
của Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng
tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ
quyền năng ở giữa chư dân. - Ðáp.
3) Ngài đã ra tay thục mạng
dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và
Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi
hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt
16, 24-28
"Người ta sẽ lấy gì mà đổi
được sự sống mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và
vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình
thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự
sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì
được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi vì Con Người sẽ đến trong
vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy
giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật,
Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không
nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cộng =
Trừ và Trừ
= Cộng
Hôm
nay, Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật
về mầu nhiệm Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở
chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
thì Người đồng thời
cũng phải là
một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới
chứng thực Người
quả là
"Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
Chúa Kitô, trong bài
Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối
sống liên quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là
một Đức Kitô Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu
ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo
Thầy".
Sau đó,
Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống
như thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy,
hay đúng hơn cần
phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không
thể nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh
ký Luca: "Ai
không vác thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27).
Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:
"Vì chưng, ai muốn
cứu sự sống
mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống
mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt
hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được
sự sống mình?"
Câu
tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo
trong Giáo Hội từ trước tới nay trong lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc
cứu thì mất bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp
bị rắn độc cắn nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn
chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay
sợ đau cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì
nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì
còn mạng.
Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn
Lành trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các
môn đệ của Người rằng nếu mắt của các
con hay tay của các con mà nên
cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt
nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn
nguyên toàn
thân lại bị
quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).
"Sự
sống mình"
mà Chúa bảo cần
phải mất đi để "được sự sống" đây
là gì, nếu không phải nếu "sự sống"
họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan
11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con
người. Đó là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ
chính bản thân mình đi
- must deny his very self".
Việc
"phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này
không phải là việc họ tự hủy diệt bản
thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân
vô cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng
cao cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân
mình để lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tim thấy kho tàng là
Chúa Kitô trong
thửa ruộng
thế gian thì đã
bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để
mua lấy thửa ruộng có kho tàng được
chôn giấu ấy
vậy (xem Mathêu 13:44).
Chúa
Kitô là "sự
sống" của
thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân
mình, đến độ không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có
Người là có tất cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã
khẳng định với các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu
ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc
người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?".
Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự
chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng hết hết sức tầm
thường này để theo
Người cho tới cùng thì sau này sẽ được
phần thưởng xứng đáng bất diệt đời
sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con
Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của
Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo
việc họ làm".
Thế
nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người
cần phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ
theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những
bằng điềm thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử
thách để họ càng tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên
một với Người là "sự sống" của họ mỗi
ngày một hơn.
Đúng thế, không có đức tin con người không thể nào bỏ mình và vác thập
giá mà theo Chúa được. Thế nhưng, con người cũng không thể nào tin vào
Thiên Chúa được nếu chính bản thân họ không được Ngài tỏ mình ra cho, để
qua đó họ có thể tin vào Ngài mỗi ngày một hơn đúng như mạc khải thần
linh của Ngài. Và đó là lý do những gì được nhân vật Moisen nhắc lại cho
dân Chúa nghe trong Bài Đọc 1 hôm nay, từ Sách Đệ Nhị Luật, đều là để
giúp cho dân Chúa nhớ lại và tái nhận thức về Vị Thiên Chúa chân thật
duy nhất của mình mà tin vào Ngài hơn, qua việc tuân giữ lề luật Ngài
ban như dấu hiệu trung thành với Ngài.
"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên
Chúa tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời
nọ, có bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ
người ta đã nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một
dân tộc đã nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã
nghe mà còn sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ,
điềm lạ, chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến
khủng khiếp, để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như
Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các
ngươi trong đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các
ngươi xem thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài
Người, không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe
tiếng Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của
Người; và từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã
yêu thương cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông
ấy. Người đã dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao
cả mà đi trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân
tộc lớn mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban
đất của họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện
nay. Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng:
Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào
khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền
dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc,
và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Thánh Vịnh 76 ở bài Đáp Ca hôm nay đã tỏ ra tích cực đáp ứng lời kêu gọi
của ông Moisen trong Bài Đọc 1 hôm nay, với những nhận thức và tâm tình
đầy tin tưởng và xác tín như sau:
1) Tôi hồi tưởng lại những việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những
điều kỳ diệu thuở trước của Ngài. Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của
Chúa, và tôi suy tư về những đại sự của Ngài.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của Ngài thánh thiện; có thần minh nào
vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài là Thiên Chúa làm nên những điều
kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa chư dân.
3) Ngài đã ra tay thục mạng dân Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp
và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron, Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn
chiên.
Ngày 11 tháng 8
Cơ-la-ra, trinh nữ
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nữ sinh năm 1193 tại Át-xi-di. Năm 18 tuổi, chị xin thánh
Phan-xi-cô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phan-xi-cô đã cho
chị ở trong một căn nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô ở cửa
ngõ thành Át-xi-di. Em của thánh nữ tên là A-nê và một số thiếu nữ
khác gia nhập nếp sống của chị : sống thanh bần triệt để. Đó là
những nữ tu Phan-xi-cô tiên khởi. Chị qua đời năm 1253.
(1194-1253)
1. Đôi dòng tiểu sử.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ Thánh Clara đồng trinh.
Cũng như thánh Phanxicô Khó Khăn, thánh nữ Clara là một ngọn đèn thật
sáng Chúa đã dùng để làm cho nhân loại hiểu rõ hơn về tinh thần khó
nghèo tuyệt đối của Phúc Âm là tinh thần như thế nào.
Clara sinh ngày 16/7/1194 tại Assise miền Ombrie nước Ý, trong một gia
đình quý phái. Clara được một người mẹ đạo đức đã lưu tâm dạy dỗ cho
ngay từ thuở còn thơ ấu, bằng cả lời nói cũng như bằng gương sáng của
mình. Bà đã giáo dục, tập cho Clara biết cầu nguyện, biết sống từ bỏ và
biết chịu đựng nhẫn nhục thật sớm.
Lên 16 tuổi, Clara đã tránh xa tiếng ồn ào của đô thị đến ẩn mình trong
một nhà thờ ở miền quê (1212). Chính nơi đây Clara đã gặp thánh Phanxicô
Khó Khăn và được Ngài tận tình giúp đỡ trên con đường tu đức. Khi Clara
chọn con đường dâng hiến cho Chúa, gia đình đã ngăn cản quyết liệt.
Clara đã can đảm vượt qua. Cuối cùng Clara đã được đưa đến đền thờ thánh
Ðamianô và ở đây Clara đã lập Hội Các Chị Tận Hiến cho Thiên Chúa.
Về đời sống thiêng liêng, ngài trực tiếp theo sự hướng dẫn của thánh
Phanxicô Khó Khăn. Ngài điều khiển tu hội cách ân cần và khôn ngoan.
Ngài qua đời ngày 11/8/1253 trước sự thương tiếc của mọi người.
Ðức Giáo Hoàng Alexandre IV đã đặt ngài lên hàng các thánh đồng trinh
năm 1255.
2. Con đường nên thánh.
Nhìn lại cuộc đời của thánh nữ Clara, chúng ta thấy ngài đã có một ý chí
thật cao và mạnh mẽ trên con đường dấn thân đi theo Chúa. Truyền thuyết
kể lại ngài đã thầm khấn dâng mình cho Chúa ngay từ lúc 16 tuổi, ngay
lúc còn ở nhà để giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi ngày Đấng
Quan phòng ấn định. Và ngày tốt đẹp ấy đã đến. Clara đã hết sức vui mừng
khi được biết về cuộc đời kỳ diệu của Phanxicô, con trai của một đại
thương gia giàu có người thành Assisi. Clara đã hết lòng cảm phục trước
việc Phanxicô dứt khoát từ bỏ mọi sự giàu sang và can đảm thoát ly mọi
áp lực trần thế kể cả việc phải từ bỏ cả nhà cha mẹ, để lên đường hiến
thân phục vụ Vua Trời trong đời sống khó nghèo.
Nghe biết về con đường của thánh Phanxicô, Clara đã kín đáo tìm đến gặp
và nói cho ngài biết tất cả chí hướng về đời sống nội tâm của mình.
Riêng Phanxicô, vì được ơn Chúa soi sáng, nên thánh nhân đã mau nhận ra
con đường Chúa muốn người con thiêng liêng của mình phải đi là con đường
nào. Vì thế, Phanxicô đã âm thầm giúp Clara chuẩn bị ngày công khai đoạn
tuyệt thế gian, để xe duyên với “đức khó nghèo”. Ngày ấy là ngày Chúa
nhật Lễ Lá năm 1212.
Theo lời chỉ dẫn của thánh Phanxicô, sáng hôm ấy Clara ăn mặc thật diễm
lệ, xứng đáng con nhà quý phái. Clara tiến lên, quỳ hàng ghế đầu, như để
từ giã mọi người lần cuối cùng. Trước cử chỉ lạ thường của Clara, mọi
người quen thuộc đều bỡ ngỡ! Và người ta càng bỡ ngỡ hơn nữa khi thấy
Clara không đi kiệu lá, cứ quỳ tại chỗ chăm chú nhìn lên bàn thờ, tay
nắm chặt cành lá xanh tươi, tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ đang dâng
lên trong tâm hồn… Thế rồi đêm hôm ấy, Clara bỏ nhà cha mẹ, tay cầm cành
lá chạy thẳng đến nhà nguyện Nữ Vương các thiên thần, nơi Phanxicô đang
quỳ chờ đợi. Trong nhà thờ nhỏ bé dâng kính “Bà Chúa nghèo” này, thánh
Phanxicô đã giúp người con thiêng liêng của mình hiến tóc và dâng lòng
cho Thiên Chúa. Sau khi dâng hiến cho Chúa mớ tóc huyền, Clara đổi bộ áo
diễm lệ ban sáng, mặc lấy chiếc áo thô của đức khó nghèo.
Và dòng nhì thánh Phanxicô hay là dòng Các chị em nghèo được thiết lập
từ đó.
Sáng hôm sau, Phanxicô dẫn Clara đến gửi tại một nữ tu viện gần làng
Baxia. Nhưng vì không chịu được sự phản đối quá gay gắt của gia đình,
Clara lại xin thánh Phanxicô đến lẩn tránh ở một tu viện khác. Tại đây,
thánh nữ đã khuất phục được một người em gái tên là Annê. Annê mới 15
tuổi, nhưng dáng người đẹp đẽ và tinh thần sắc sảo không kém gì Clara.
Sau Clara, Annê là người thứ hai được Phanxicô cắt tóc và dâng lên Thiên
Chúa lời khấn vâng lời, trinh khiết và khó nghèo. Người ta kể, khi gia
đình Annê đến, nhất quyết lôi nàng về. Thì lạ thay, con người nhỏ bé của
nàng bỗng trở nên rắn cứng và nặng trĩu, đến nỗi bốn năm người kéo không
nổi. Biết đó là việc lạ Thiên Chúa làm, mọi người đành yên lặng ra về…
Khi công việc đã êm xuôi, thánh Phanxicô đến lĩnh ý Đức Giám mục xây cho
chị em một ngôi nhà nhỏ lấy tên là tu viện thánh Đamianô. Đây là tu viện
đầu tiên của dòng các chị nghèo. Tuy nhỏ bé, nhưng số chị em lên rất
đông. Đầu tiên chị em sống theo qui luật của chính thánh Phanxicô soạn,
nhưng đến năm 1215 công đồng Latêranô sửa đổi lại, tham chiếu theo luật
dòng thánh Biển Đức. Bốn năm sau, Đức Hồng Y Ugolinô lại duyệt lại và bỏ
bớt những điều luật quá nghiêm ngặt về đời sống khổ nghèo của chị em.
Riêng thánh nữ Clara, người được đặc ân của Đức Giáo Hoàng, cho tự do
sống khó nghèo vượt hẳn qui luật dòng.
Các nữ tu đều đi chân không, ngủ trên nền đất, không ăn thịt và hầu như
giữ im lặng hoàn toàn. (Về sau thánh Clara, cũng như thánh Phanxicô,
thuyết phục chị em điều chỉnh điều khắt khe này: “Cơ thể chúng ta không
được làm bằng đồng”). Dĩ nhiên, điều nhấn mạnh nhất là sự nghèo khó Phúc
âm. Họ không sở hữu tài sản, ngay cả giữ chung, chỉ sống nhờ vào những
của bố thí hằng ngày.
Bà chăm sóc các bệnh nhân, hầu bàn, rửa chân cho các chị em khi họ đi
hành khất về. Ảnh hưởng của bà mạnh đến nỗi các giáo hoàng, hồng y và
giám mục thường đến tham vấn bà. Bà rất sùng kính Thánh Thể. Bà luôn nói
với các chị em: “Đừng sợ. Hãy tín thác vào Chúa Giêsu”.
Ngày 11-8 năm 1253, thánh nữ gọi các chị em lại để nhắn nhủ mấy lời cuối
cùng: “Chị em thân mến! Tôi Clara, nữ tỳ hèn mọn của Chúa Kitô, là thân
cây non Thiên Chúa đã ban cho cha thánh Phanxicô, đem trồng trong vườn
tu viện như một tiểu muội, một hiền mẫu của chị em. Dù không xứng đáng,
tôi cũng nhân danh Thiên Chúa chúc lành cho chị em tất cả”. Sau cùng
thánh nữ kêu to tiếng: “Nào chị em không thấy Vua vinh hiển đang đến với
tôi kia ư?”. Nói đoạn, ngài nhắm mắt lại, êm ái ra đi như người ngủ!
Nhiều chị em dòng làm chứng đã thấy Đức Mẹ và nhiều thánh nữ khác hiện
đến đón linh hồn thánh Clara về trời!
Thánh nữ được Đức Giáo Hoàng Alexanđrô IV phong lên bậc hiển thánh. Và
sau, Đức Clêmentê X định lễ kính thánh Clara vào ngày 12 tháng 8 hằng
năm, ngày thánh nữ được Chúa gọi về trời lãnh triều thiên vĩnh cửu, sáng
rực những hạt ngọc trinh khiết và khó nghèo!
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
(nguồn: website TGP Sài Gòn)
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Hạnh phúc thay người được tham dự bàn tiệc thánh để được hết lòng
kết hợp với Đức Ki-tô. Toàn thể đạo binh thiên quốc không ngừng thán
phục vẻ đẹp của Người. Yêu mến Người thì sẽ say mê, chiêm ngưỡng thì
được thêm sức mạnh. Lòng nhân hậu của Người làm ta no thoả, sự dịu
dàng của Người làm ta ngây ngất. Nhớ đến Người tựa như được ánh sáng
êm dịu chiếu soi. Hương thơm của Người làm kẻ chết hồi sinh. Nhìn
vinh quang Người, mọi công dân thành Giê-ru-sa-lem thiên quốc được
hạnh phúc. Vì Người là phản ánh vinh quang ngàn đời, là vẻ
rực rỡ của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương không chút tỳ ố. Thưa
hoàng hậu, hiền thê của Đức Giê-su Ki-tô, xin bà hãy soi mình hằng
ngày vào tấm gương ấy và cũng hãy nhìn kỹ khuôn mặt của bà trong đó
; nhờ vậy bà trang điểm cả bề trong lẫn bên ngoài bằng trang phục
huy hoàng lộng lẫy, bằng vòng hoa và xiêm y nhân đức, xứng đáng là
nữ tử và hiền thê rất thanh khiết của Đức Vua cao cả. Nhưng trong
tấm gương ấy còn phản ánh đức khó nghèo diễm phúc, đức khiêm nhường
thánh thiện và đức bác ái tuyệt vời. Nhờ ơn Thiên Chúa, qua tấm
gương trọn vẹn này, bà có thể chiêm ngắm tất cả.
Vậy, xin bà hãy ngắm nhìn từ đầu tấm gương ấy : đó là sự nghèo khó
của Chúa, Đấng được bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ. Ôi sự khiêm
nhường đáng khâm phục ! Ôi sự nghèo khó gây ngỡ ngàng ! Vua các
thiên thần, Chúa Tể trời đất lại nằm trong máng cỏ.
Rồi ở giữa tấm gương, bà hãy chiêm ngắm sự khiêm nhường, ít ra là sự
nghèo khó. Hãy ngắm nhìn bao nỗi cực nhọc vất vả Người đã chịu để
cứu chuộc loài người.
Còn ở cuối tấm gương, bà hãy chiêm ngưỡng tình yêu khôn tả khiến
Người chịu đóng đinh trên cây thập giá, và chịu chết cách tủi nhục
nhất.
Chính Chúa là tấm gương đó. Từ trên thập giá, Người mời gọi khách
qua đường hãy ngắm nhìn, theo như lời nhắn nhủ : Này
tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem : có nỗi khổ nào so sánh
được với nỗi khổ tôi phải chịu. Chúng ta hãy hợp một tiếng,
chung một lòng đáp lại lời Chúa, Đấng đang kêu than : Nỗi
niềm riêng canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi.
Vậy, thưa hoàng hậu của Đức Vua trên trời, xin bà hãy đốt lên ngọn
lửa yêu mến mỗi ngày một nồng nàn hơn.
Nhưng xin bà cũng hãy chiêm ngắm những niềm hoan lạc, những giàu
sang khôn tả và những vinh dự vĩnh cửu của Người, và vì lòng yêu
mến, khát khao mãnh liệt, xin bà hãy mượn lời sách Diễm ca mà kêu
lên : “Lạy Đức phu quân trên trời, xin
hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng sánh bước, theo mùi hương anh thơm
ngát. Em sẽ chạy
mãi không biết mệt cho đến khi anh đưa em vào phòng tiệc, cho đến
khi anh đưa tay trái cho em gối đầu, đưa tay phải âu yếm ghì chặt
lấy em, rồi hôn em nồng nàn.”
Khi chiêm niệm điều ấy, xin bà hãy nhớ đến người mẹ bé nhỏ nghèo hèn
của bà, nên biết rằng tôi ghi nhớ hình ảnh bà trong trái tim tôi,
không bao giờ phai nhạt, vì tôi quý mến bà hơn hết mọi người.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Chúa đã dìu dắt thánh Cơ-la-ra và
soi sáng cho thánh nữ biết yêu chuộng đời sống khó nghèo. Xin
nhậm lời thánh nữ cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng con được
cùng người sống tinh thần nghèo khó, mà theo chân Đức Ki-tô để
được vào quê trời chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Chúng con cầu
xin
Một số hình ảnh tiêu biểu về Đền Thờ Thánh Clara ở
Assissi Ý quốc trong chuyê ếHành Hương Đức Tin Chứng Tích Phục
Sinh 2021 của Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)
Sau cái chết của vị thánh nữ Clara, bên ngoài của ngôi thánh
đường cổ kính Thánh George, nơi lưu giữ thân thể của Thánh
Phanxicô Assisi cho đến năm 1230,
đã được tái thiết theo kiểu Gothic và mang tên Nhà
Thờ Thánh Clara.
Thánh Clara xuất thân từ một gia
đình trưởng giả, nhưng chị đã cương quyết không chịu kết hôn như
cha mẹ mong muốn và
sắp xếp để hiến thân cho đời sống chiêm niệm theo gương Thánh
Phanxicô Assisi, một thần tượng cùng sinh quán với chị, nhưng
hơn chị khoảng 12 tuổi.
Do đó, vào năm 18 tuổi chị đã trốn gia đình
để theo gương Thánh Phanxicô như thành
phần môn đệ đầu tiên của thánh nhân bấy giờ ở Porziuncola.
Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của chị như dấu hiệu của
lòng thống hối và khổ hạnh.
Phái đoàn hành hương TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương),
trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh
(8-19/11/2021) giữa đại dịch covid-19 toàn cầu,
đang chờ đợi một cách thảnh thơi và mau chóng, bởi không phải
xếp hàng vừa dài lại vừa lâu như trong mùa hè hay trong thời
gian không bị đại dịch,
tới phiên được vào Nhà Thờ trưa ngày
14/11/2021 để viếng xác còn nguyên của
Thánh nữ Clara và Cây Thánh Giá của Thánh Phanxicô, cả hai đều ở
tầng hầm nhà thờ.
Đền thờ kính Thánh Clara chỉ có một gian giữa với một chỏm cao
vút chính giữa đầy những trang hoàng, trong khi đó lại không có
các bức tranh vẽ trên tường như ở đa số các nhà thờ nổi tiếng
khác.
Ở đây, trong nguyện đường Chúa Chịu Nạn, còn có cây
Thánh Giá nguyên thủy ở nhà thờ Thánh Damiano, cây Thánh Giá đã
vang tiếng gọi Thánh Phanxicô "hãy
xây nhà lại cho Ta",
mà bấy giờ thánh nhân lại cứ tưởng là đi xây lại các nhà thờ cũ
kỹ ở Assisi, mà chính là canh tân lại Nhà Giáo Hội của Chúa đang
trở nên bệ rạc, nhất là nơi thành phần giáo sĩ bấy giờ.
Chị đã bị gia đình đến áp lực bắt về, nhưng vẫn hoàn toàn bất lực
trước con người kiên quyết đến độ không ai có thể lay chuyển được
thân xác của chị bấy giờ.
Sau khi được nhập tu như thành phần môn đệ của Thánh
Phanxicô, chị được đến ngụ ở nhà thờ Thánh Damiano, nơi từ
từ có thêm cả mẹ của chị và người em gái của chị, trong số khoảng 50
người nữ.
Để rồi sau này thánh nữ đã lập dòng nữ theo lý
tưởng của Thánh Phanxicô, gọi là Dòng Thánh Clara Nghèo (Poor Clares),
chuyên sống nghèo và cầu nguyện.
Vị thánh nữ này chịu một chứng bệnh kinh niên, nhưng, theo truyền
thuyết, vào năm 1240, bất chấp bệnh nạn trầm trọng, thánh nữ cũng đã cố
gắng cứu tu viện của mình cho khỏi cuộc tấn công của đám dân du mục Ả
Rập,
bằng cách cầm lấy mặt nhật có Mình Thánh Chúa xoay qua xoay lại, như vị
linh mục ban phép lành Thánh Thể, ở một cửa sổ của tu viện.
Chị qua đời năm 1253, hưởng thọ 60 tuổi và được phong hiển thánh
2 năm sau.
Thứ Bảy
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
6, 4-13
"Hãy yêu mến Chúa ngươi hết
lòng ngươi".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Hỡi
Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức
ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.
Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi
ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi
dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như
một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi.
"Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn
ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và
Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi
không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra,
những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi
không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã
dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa
là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà
thề".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17,
2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab
Ðáp: Lạy Chúa
là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực
con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh. -
Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn
động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ
phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát
khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá
Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho
vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của
Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv
129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng
rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17,
14-19
"Nếu các con có lòng tin, thì
chẳng có gì các con không làm được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ
gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai
tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa
và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng
các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng
tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu
đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu
quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc
ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con
không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu
lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt
cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi
kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ
Bảy Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài
Phúc Âm hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà
là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ
câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu
1 đến 13 mở đầu đoạn
17 là bài Phúc Âm về
biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử
hành hôm Thứ Năm vừa rồi
(là ngày
6/8 trong tháng như năm
2015), hay trong Chúa Nhật đầu tuần Tuần XVIII Thường Niên như năm
2023.
Bài Phúc Âm được Giáo
Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay tường thuật về
sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến
xin Người, vì môn đệ
của Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:
"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói
rằng: 'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong
và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước.
Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó
được'".
Chính
các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các
vị không
trừ được quỉ, và đã được
Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy
giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không
thể trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng
tin!'"
Đó là lý do sau khi nghe ông
bố của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không
trừ được quỉ ra khỏi con ông ta,
Chúa Giêsu đã không than
trách chung dân chúng
và riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho
bằng chính các
môn đệ của Người, thành
phần đã được Người ban cho quyền trừ
quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước
kia (xem
Mathêu 10:1), mà quyền
trừ quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp
này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi
thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta
còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"
Như
thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu,
nếu chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh
bởi Thiên Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền
năng chiến
thắng thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không
có đức tin hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc
quyền cai trị của ma quỉ sau nguyên tội.
Nếu "Con Thiên
Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ" (1Gioan 3:8)
thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là người tin
rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do, như bài
Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay
sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"
(Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị
Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan"
(Mathêu 16:23), vì
ngài phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là
theo ma quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!
Trái lại, nếu các
tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ mà còn
làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường hợp
của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa
Giêsu khẳng định
kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy
bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con
có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền
đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
"Nếu các con có
lòng tin lớn bằng hạt cải" đây
nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải
(xem Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám
chỉ Chúa
Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ
nhất) và phục sinh thăng thiên (cây
lớn nhất), thì "lòng
tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa
là "lòng
tin" của
các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng
tin" của
các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa
Kitô sống trong họ, biến họ trở thành chứng nhân trung thực và sống động
của Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong họ, nhờ họ
và qua họ.
Nếu "đức tin tỏ hiện
qua đức mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào
Chúa Kitô cũng được
hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình
yêu là thế, như trên vừa cảm nhận.
Đối với dân Do Thái thì đức tin của họ đưọc tỏ hiện bằng việc họ kính
mến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, được thể hiện cụ thể qua
lòng tri ân của họ ở chỗ luôn nhớ đến những gì Ngài làm cho họ chỉ vì
thương yêu tuyển chọn họ. Và đó là lý do Moisen, trong Sách Nhị Luật ở
Bài Đọc 1 hôm nay, đã căn dặn và huấn dụ thành phần dân được ông theo
lệnh Chúa dẫn họ ra khỏi Ai Cập như sau:
"Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc
nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết
sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào
lòng. Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời
ấy khi ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi
chỗi dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán
như một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi."Khi Chúa là Thiên
Chúa ngươi dẫn ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là
Abraham, Isaac và Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và
phồn thịnh mà ngươi không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà
ngươi không làm ra, những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và
vườn cây ôliu mà ngươi không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ,
đừng quên Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ.
Ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người
và lấy danh Người mà thề".
Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 17, đã
chất chứa những tâm tình tin tưởng và kính mến Thiên Chúa như sau:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng,
chiến lũy, và cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên
thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu
cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ
bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.
Ngày tháng 12 tháng 8
THÁNH GIOANNA PHANXICA CHANTAL
NỮ TU (1572 - 1641)
I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ
Gioanna Phanxica frémiot de Chantal chào đời
tại miền Dijon nước Pháp vào ngày 23/01/1572, Tuổi thơ của thánh nhân
được đánh dấu bằng một biến cố hết sức đau thương:mẹ Gioanna Phanxica
qua đời lúc thánh nhân chưa tròn hai tuổi. Nỗi đau thương ấy không gì có
thể khỏa lấp được đối vì Người lại phải sống cảnh gà trống nuôi con.
Nhưng với tình thương, lòng cương nghị, quả cảm của người Cha, Gioanna
Phanxica đã được hấp thụ ảnh hưởng của người cha trên cuộc đời của mình
rất nhiều. Chính người Cha của thánh nữ đã hun đúc, uốn nắn người nên
một nữ thánh kiên trì, quả cảm, dũng mãnh, giàu nghị
lực.
Lúc lớn lên, như mọi thiếu nữ khác, thánh
nhân đã kết hôn với bá tước Chantal. Cuộc hôn nhân của Người với bá tước
Chantal mang lại hạnh phúc lớn lao. Hai ông bà đã sinh hạ được bốn người
con. Ðời gia sống đình hạnh phúc của hai ông bà tưởng sẽ kéo dài đến vô
hạn. Nhưng chẳng có hạnh phúc nào mà không vương vấn đau khổ. Thánh giá
của Chúa đã ập xuống trên gia đình Gioanna Phanxica và bốn người con khi
bá tước Chantal bị tử nạn trong một chuyến đi săn bắn vào năm 1600. Với
ý chí sẵn có, lòng quả cảm trào dâng, thánh nhân dù đau khổ tột bực,
nhưng Người vẫn luôn cảm nghiệm thấy tình thương của Chúa cũng như ý
thức giá trị thánh giá Chúa gửi tới cho mình và cho con cái mình. Thánh
nữ Gioanna quyết tâm
nuôi lý tưởng ở vậy nuôi con và luôn hướng tâm hồn thuộc trọn về Chúa.
Con đường của Chúa luôn huyền nhiệm. Thánh nữ đã được Ðức Giám Mục địa
phận Genève hướng dẫn, nhờ vậy, Người tiến bộ rất mau trên đường nhân
đức, thuộc trọn về Chúa. Năm 1610 với sự đồng ý của con cái, gia đình,
thánh nữ đã từ giã mọi người thân yêu để gia nhập dòng Thăm Viếng. Với
tư cách là thành viên của Hội dòng, Thánh nữ đã góp công rất nhiều trong
việc cải tổ, củng cố tu viện, tổ chức các nhà tập, và lập các chi nhánh
nhà mới tại nhiều nơi. Ngài đã cống hiến tài năng sức lực vào
việc xây dựng, tổ chức lại nhà dòng và đã thành công.
Thiên Chúa đã yêu thương Người, kêu gọi Người về với Chúa vào ngày
13/12/1641 tại Moulins. Người được an táng tại Annecy trong nguyện đường
của tu viện. Vì những công đức Người cống hiến cho nhà dòng, những phép
lạ và những nhân đức anh hùng Chúa ban cho Người khi Người còn sống cũng
như khi Người qua đời, Chúa đã thưởng công cho Người. Ðức Giáo hoàng
Clêmentê XIII đã phong thánh cho Ngài vào năm 1767.
II. BÀI HỌC
Khi đọc lại gương các thánh, mỗi người chúng
ta không khỏi suy nghĩ về cuộc đời của các Ngài và rồi nhìn lại đời mình
để thấy những gì còn thiếu , những gì mình cần cố gắng, phấn đấu để cũng
nên thánh như
các thánh. Thánh Augustinô đã nói một câu rất chí lý:” Ông
kia bà nọ nên thánh được, tại sao lại không ?”.
Chúng ta tự hỏi:
Thánh GIOANNA
Phanxica Chantal đã để lại
cho chúng ta bài học gì ?
Nếu chỉ nhìn theo cái nhìn sử học, chúng ta
thấy Ngài chẳng khác gì những người khác:
Được sinh ra làm người, sống cuộc đời làm người qua những chặng đường
của cuộc sống và kết thúc cuộc sống làm người với cái chết để trở về với
bụi tro.
Cuộc sống làm người ai mà chẳng trải qua khuôn mẫu đó. Thế nhưng giữa
cái bắt đầu và kết thúc làm sao để sống cuộc đời của mình một cách ý
nghĩa. Đó mới là điều quan trọng.
Thánh GIOANNA
Phanxica Chantal đã biết làm cho cuộc đời của
mình có ý nghĩa bằng cách sống cuộc đời trong sạch, xa rời cuộc sống xa
hoa của giai cấp giàu có, hết lòng với bổn phận và yêu thương mọi người
nhất là đối với nhưng người nghèo
khổ.
Ngài đã từng tuyên bố: - “Nếu
không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên
Chúa”.
Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng khắp làng quê. Vị nữ bá
tước đón tiếp các người bị bỏ rơi, bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn
người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến. Ngài tự tay múc cháo phục vụ
mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại, ngài không từ chối giúp
đỡ họ và thưa với Chúa:
- Con đến gõ cửa van xin lòng thương xót của Chúa, nào là con có muốn
đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu?
GIOANNA tự lo cho mình, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn
khổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và may vá áo quần
cho họ.
Tới lúc Chúa muốn, GIOANNA đã anh dũng từ
giã gia đình, dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để giúp
mẹ trong việc giáo dục. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại
việc ngài ra đi và nằm ngang cửa để ngăn cản. GIOANNA lau nước mắt bước
qua mình con mình.
Ngài biết rằng: con mình sẽ không bị bỏ rơi, vì ngài đã trao phó cho
người cậu là Tổng Giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, ngài sẽ đi thăm
để lo cho lợi ích của các con.
Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đã thiết lập tu
viện đầu tiên
ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều gì xem ra hoàn hảo nhất.
Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo,
bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ
de Chantal đã
thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm mọi việc.
Vào cuối đời, ngài kể lại:
- “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch.
Nơi nào thánh nữ đi qua, ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm
tin tưởng. Người ta thấy ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can
đảm. Linh động trong mọi công việc, ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí,
ngài vui vẻ với các nữ tu... khiến họ nói: “Khi Mẹ chúng ta không giải
trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật không ngăn cản ngài
săn sóc và nghĩ tới mọi sự. Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác,
một lúc, ngài đọc cho 3 nữ tu.
Mười chín năm trước khi qua đời, GIOANNA de
Chantal mất người bạn, người cha, người nâng đỡ tinh thần là thánh
Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết
của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các
tang lễ liên tiếp ập đến với các người thân. Nhưng thử thách lớn lao
nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng
nghịch lại đức tin. Ngài không hề để
lộ ra những đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu.
Mẹ de Claugy đã nói về những khô khan liên tục của ngài:
- Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới biết hết được.
Khi ngài qua đời, cha giải tội nói:
- Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ròng
trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê.
Đó là cuộc đời của một vị thánh. Xin mẹ
thánh GIOANNA de Chantal cầu nguyện
cho chúng ta. Amen.
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-12-08-thanh-gioanna-phanxica-chantalnu-tu-1572-1641-39036
Thật là một hôn nhân lạ đời! Ngay khi cô Jeanne về nhà chồng thì mới
biết căn nhà ấy sắp sửa bị tịch thu. Chồng của cô, ông Christophe, không
chỉ thừa hưởng chức nam tước mà còn làm chủ một đống nợ kếch sù.