SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Is 45, 1. 4-6
"Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại:
Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c
Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. - Ðáp.
3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa. - Ðáp.
4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 1-5b
"Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em".
Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.
Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 15-21
"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Đừng có mà tưởng bở ...
Lịch sử và thực tế cho thấy, con người nói chung và con người vô thần nói riêng, kể cả thành phần nhận mình là hữu thần mà sống như vô thần, thì họ có nhiều lầm tưởng lắm. Họ cho mình làm được những gì họ nghĩ theo khả năng tự nhiên hay trau dồi của họ và được làm những gì họ muốn liên quan đến luân thường đạo lý. Chẳng hạn, theo lập luận của con người văn minh tân tiến về nhân bản tột đỉnh hiện nay, họ lấy lý thân xác là của họ và cái mầm thai hoặc cái thai còn non trong tử cung của họ chỉ là một cục thịt nên họ có quyền trên thân xác của họ (như luật nhân tạo cho phép) để trục xuất cục thịt ấy ra khỏi thân xác độc quyền của họ.
Thế nhưng, thử hỏi họ nhé: 1- thân xác của họ từ đâu mà có, hay họ tự nhiên có không cần ai dựng nên và không cần phải được sinh ra, và 2- nếu họ chính là cục thịt mầm thai hay cái thai non bị trục xuất ấy thì họ có muốn bị mẹ của họ phá thai hủy hoại họ như họ phá đi cái thai họ cưu mang hay chăng? 3- họ có biết rằng nếu cục thịt ấy không phải "là" người thì nó sẽ không bao giờ phát triển thành hình thể của một con người, (chứ không phải thành hình thể của một con vật hay một đồ vật), trong tử cung là người của họ, 4- bởi thế họ trục xuất cục thịt là người ấy thì họ đã sát hại một con người, dù bấy giờ mầm thai ấy hay cái thai non ấy chưa thành hình dạng con người, nhưng nếu không có cục thịt là người ấy thì không thể nào thành hình dạng của một con người như họ.
Trong lịch sử cũng thế, các chính trị gia cũng cứ tưởng mình có quyền là do khả năng và thế giá của mình, nên muốn làm gì thì làm, bất chấp công ích hay quần chúng. Thế nhưng, như thực tế cho thấy, để được bầu làm tổng thống, trong thời gian tranh cử, họ đã làm hết cách để mị dân, làm tôi dân chúng, cho dù gian trá, hầu chiếm được phiếu bầu của dân. Thậm chí có những Kitô hữu bất chấp đức tin của mình để giữ lấy vị thế chính trị đang lên của mình hay cần được tái đắc cử của mình, bằng cách phò phá thai, phò đồng tính hôn nhân, phò triệt sinh an tử hay triệt sinh trợ tử, hoặc chủ trương thượng đẳng da trắng, kỳ thị, bạo lực súng đạn v.v.
Đó là lý do trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm A hôm nay, để trả lời cho thành phần công chính kiểu đạo theo (theo ý nghĩ, ý thích và ý riêng của mình) hơn là theo đạo (là tinh thần luật, là lòng thương xót, là phục vụ hơn hưởng thụ, là cho đi phúc hơn nhận lãnh v.v.) đã đặt vấn đề với Chúa Giêsu, âm mưu "bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói": "Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?", Chúa Giêsu liền trả lời khiến họ cứng họng, đang khôn ngoan sáng suốt trở thành lẩn thẩn như thể đã bị một tay cao thủ giáng cho một đón chí tử làm họ choáng váng cả mặt mày: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Đối với họ, với thành phần biệt phái và kinh sư mà trong số họ có nhiều người đóng vai trưởng tế và kỳ lão trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thì cho dù tận đáy lòng muốn lật đổ đế quốc Roma đấy, vẫn mong muốn có một vị cứu tinh thiên sai nào đó như thời các quan án hậu xuất hành để cứu đất nước và dân tộc của họ, nhưng vì căm thù ghen ghét Chúa Giêsu Kitô đến tận xương tủy và không đội trời chung mà họ thà làm tôi cho Cesa còn hơn làm tôi cho Thiên Chúa trong việc chấp nhận Con Thiên Chúa làm Người là Đức Giêsu Kitô: "Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cesar" (Gioan 19:15).
Họ đã không trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa là công nhận Đấng Ngài sai đến với họ, trái lại, họ lại trả về cho Cesar những gì không thuộc về Cesar là lòng thần phục của họ, coi Cesar hơn Thiên Chúa làm người ở giữa họ. Thật ra, trong câu Chúa Giêsu nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" không phải là một tách biệt trần tục là trần tục, thế quyền là thế quyền, cái gì thần linh là thần linh, thần quyền là thần quyền, không dính dáng gì với nhau, trái lại, cả hai đều từ Chúa và đều phải cùng nhau qui về Ngài.
Bởi thế, để áp dụng nguyên tắc này: "cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa", Kitô hữu nói riêng, trước hết, cần phải công nhận quyền bính thế tục và tuân phục quyền bính thế tục, như "trả về cho Cesar những gì của Cesar", tuy nhiên, việc công nhận và tuân phục quyền bính thế tục này nơi họ cần phải được tỏ ra và thực hiện bằng một tinh thần đức tin siêu nhiên, ở chỗ vì Chúa là Đấng ban quyền bính thế tục mà công nhận và tuân phục, có thế họ mới "trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa", trong khi họ "trả về cho Cesar những gì của Cesar".
Trong Bài Đọc 1 hôm nay, qua miệng tiên tri isaia, Thiên Chúa cũng đã nhắc nhở cho Vua Cyrô, "kẻ xức dầu của Chúa", về thân phận cùng vai trò của ông là người được Ngài tuyển chọn và sử dụng "để bắt các dân suy phục trước mặt nó", nhờ đó ông nhận thức được bản thân mình mà đừng tỏ ra ta đây khi thấy các dân nước thuần phục ông, vì Ngài muốn tỏ mình ra cả nơi ông nữa, như chính Ngài phán cùng ông rằng:
"Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác".
Con người nói chung và cách riêng thành phần được Thiên Chúa sử dụng trong lãnh vực chính trị hay tôn giáo mà biết "trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa", thì họ sẽ cảm nhận được sâu xa thấm thía tâm thức và tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
2) Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.
3) Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.
4) Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính.
Trong đoạn mở đầu bức Thư thứ nhất gửi Giáo Đoàn Thessalonica, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho biết rằng đời sống của các Kitô hữu thuộc thành phần dân ngoại trở lại này đã "trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa" ở "sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta", vì chính họ đã được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn: "Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín".
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 4, 20-25
"Có lời đã chép vì chúng ta là những kẻ được kể là tin vào Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, lòng tin của Abraham vào Thiên Chúa không nao núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình, -- vì ông đã gần trăm tuổi, -- và tuổi già tàn tạ của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa; trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi đấy, "việc đó đã được kể cho ông là sự công chính".
Và khi chép rằng "Ðã được kể cho ông", thì không phải chỉ chép vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa, là những kẻ tin vào Ðấng đã cho Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Lc 1, 69-70. 71-72. 73-75
Ðáp: Chúc tụng Chúa là Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người (c. 68).
Xướng: 1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa. - Ðáp.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Người. - Ðáp.
3) Lời minh ước mà Người tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Người cho chúng tôi được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Người trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Người, trọn đời sống chúng tôi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 13-21
"Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Ðoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Đồ ngu...
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Hai Tuần XXIX Thường Niên, là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, và cả 2 bài Phúc Âm, cùng với Bài Đọc 1 của từng ngày, đều nhắm đến vấn đề người công chính sống bởi đức tin.
Thật vậy, chính đức tin mới chứng tỏ ai là người công chính và ai là người không công chính hay chưa công chính. Mà đức tin không thể tách rời với thử thách, tức những thử thách liên quan tới bản tính tự nhiên, tới giác quan thực nghiệm, tới ý nghĩ phàm nhân cho dù là hợp lý, tới ý muốn tự do cho dù là tốt lành v.v.
Bởi thế ai công chính là người như nhìn thấy Đấng vô hình, là người đi mà không biết mình đi đâu ngoài những nơi được hứa hẹn song chưa bao giờ tới, là người hy vọng trong cả những lúc hầu như tuyệt vọng v.v. Như trường hợp của vị tổ phụ Abraham là nhân vật được gọi là cha của những kẻ tin, như Thánh Phaolô Tông Đồ cho thấy trong Bài Đọc 1 hôm nay:
"Anh em thân mến, lòng tin của Abraham vào Thiên Chúa không nao
núng, mặc dầu ông nhìn đến thân xác cằn cỗi của mình, -- vì ông đã
gần trăm tuổi, -- và tuổi già tàn tạ
của Sara. Ông đã không cứng lòng hồ nghi lời hứa của Thiên Chúa;
trái lại, ông vững tin mà làm sáng danh Thiên Chúa, ông biết chắc
chắn rằng Thiên Chúa có quyền năng thi hành điều Người đã hứa. Bởi
đấy, 'việc đó đã được kể cho ông là sự công chính'".
Đức tin đây không phải chỉ áp dụng cho riêng tổ phụ Abraham mà cho tất cả những ai tin tưởng như ông, tin tưởng vào Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, Vị Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tổ phụ Abraham bằng lời hứa của Ngài, một lời hứa đã được hiện thực nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế. Bởi thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã viết thêm cho Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Rôma như sau:
"Và khi chép rằng 'đã được kể cho ông', thì không phải chỉ chép
vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa, là những kẻ tin vào Ðấng đã cho
Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại, Người đã bị nộp
vì tội lỗi chúng ta, và đã sống lại để chúng ta được công chính hoá".
Đề tài người công chính sống bởi đức tin cũng được chính Chúa Giêsu áp
dụng trong bài Phúc Âm hôm nay, qua dụ ngôn
Người huấn dụ về khuynh hướng
tự nhiên nơi con người thường tham
lam vô đáy và
chỉ muốn hưởng
thụ tối đa, chẳng biết đến yêu thương bác ái
là gì, đến nỗi họ chỉ
biết có thiên đường trần gian mà quên mất linh hồn bất tử đời
sau của mình:
"Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy
tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích
trữ hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho
lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và
của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: Hỡi linh hồn,
ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn
uống vui chơi đi!' Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại,
đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích
trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm
giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
"Nếu được
lợi lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì" (xem
Mathêu 16:26) thì quả thật: "Hỡi
kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những
của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?". Đó
là lý do Chúa Giêsu đã cảnh giác "người
trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Lạy Thầy, xin Thầy bảo
anh tôi chia gia tài cho tôi'" rằng: "Các
ngươi hãy coi chừng, giữ mình cho khỏi mọi
thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo
đảm cho đâu".
Ở đây, Chúa Giêsu chẳng
những cảnh báo cho người anh tham lam không chịu chia gia tài cho
người em mà còn cảnh giác cả người em bị thiệt phần gia tài bị anh
lấy mất nữa. Như thể Người khuyên người em rằng có lấy được phần gia
tài của mình chăng nữa cũng chẳng ích lợi gì, cũng không
quan trọng bằng phần
rỗi đời đời của anh ta, đôi khi còn vì của cải mà mất linh hồn nữa.
Trái lại, anh ta có thể lợi dụng chính những bất công và thua thiệt
về vật chất ấy để sống đức tin, để sống nghèo khổ, để sống
thiếu thốn, nhờ đó anh ta mới
có thể càng
thêm lòng trông cậy mọi sự nơi Đấng Quan Phòng Thần Linh.
Bài Đáp Ca hôm nay được
trích từ Ca Vịnh của Tư Tế Giacaria, thân phụ của Tiền Hô Gioan Tẩy
Giả, bài ca vịnh được ông bộc phát sau một thời gian dài câm
lặng, bởi ông đã
tỏ ra hồ nghi không tin lời tiên báo của Tổng Thần Gabiên về việc
người vợ son sẻ hết thời của ông sẽ hạ sinh một người con trai (xem
Luca 1:18-20), cũng như sau
khi người con trai "là tiếng kêu trong sa mạc" của ông vừa
mở mắt chào đời
và đang cần đặt
tên cho.
Nội dung của
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa ý thức đức tin về một Vị Thiên Chúa
giao ước cũng chính là Vị Thiên Chúa cứu độ của thành phần công
chính sống bởi đức tin:
1) Chúa đã gầy dựng cho chúng tôi một uy quyền cứu độ, trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa. Như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa.
2) Ðể giải phóng chúng tôi khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng tôi. Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng tôi, và nhớ lại lời thánh ước của Người.
3) Lời minh ước mà Người tuyên thệ với Abraham tổ phụ chúng tôi, rằng Người cho chúng tôi được không sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù. Phục vụ Người trong thánh thiện và công chính, trước tôn nhan Người, trọn đời sống chúng tôi.
Ngày 23/10
Thánh Gioan Capistranô, linh mục
Cha của Gioan là một nhà quí tộc người Pháp đã theo bá tước Anjon
trong cuộc chinh vương quốc Naples. Để ân thưởng cho lòng can đảm,
ông đã được chiếm những lãnh điạ rộng lớn. Ông định cư tại
Caoistranô và qua đời sớm sau khi cưới một thiếu nữ người Y. Gioan
con của ông theo học tại Perugia đã gia nhập ngành thẩm phán.
Các tài năng của thánh nhân đã khiến cho thánh nhân được coi như
hoàng tử của các luật gia. Được đặt làm nhà cầm quyền, thánh nhân
hiểu rõ sự cao trọng trong sứ mạng của mình: dửng dưng với những đe
dọa của các lãnh chúa, Ngài quyết nâng đỡ những người nghèo khó. Một
cư dân quí phái giàu có muốn gả con cho Ngài. Tương lai rực rỡ trước
mắt Gioan khi bất ngờ định mệnh đổi khác.
Gioan muốn tẩu thoát, bị gãy chân và nằm bẹp nhưng một hầm gia dưới
đất. Trong tận cùng đau khổ, một tu sĩ dòng Phanxicô xuất hiện mời
gọi Ngài sống đời sống nghèo khó và bác ái. Gioan đã nhiệt thành đáp
lời. Vừa khi được phóng thích, Ngài bán mọi của cải, từ hôn và đến
với các tu sĩ dòng Phanxicô ở Perugia. Chân phước Marcô thành
Bergame nghi ngờ ơn gọi như vậy và đón nhận Ngài với những lời chẳng
hoà nhã chút nào: "các tu viện không phải nơi trú chân của những kẻ
lang thang hay chán đời. Phải có những thử thách khác để gia nhập
một dòng tu. Tôi chỉ nhận anh khi anh nói lời từ giã những phù vân
thế tục mà tôi sẽ chỉ cho anh".
Đây là một lời giã từ lừng danh, một thử thách nổi tiếng thánh nhân
phải chịu. Perugia được chiêm ngưỡng nhà cầm quyền của họ riễu qua
đường phố, quay ngược lại trên lưng lừa ăn mặc rách rưới, đầu đội
nón có ghi những tội của mình bằng chữ lớn. Dân chúng nhạo cười,
nhưng Gioan can đảm đón nhận mắng nhiếc.
Tại nhà dòng, Gioan có một bậc thầy chỉ là trợ sĩ, anh Onuphre,
người nghiêm khắc lột bỏ con người cũ của Ngài cách vĩnh viễn. Thêm
vào những lời quở trách là những nghiêm nghị. Nhưng những bất công
dày và phải được bỉnh thản lãnh nhận, chẳng hạn ngày kia anh em giặt
đồ đang đợi cho nước bớt nóng. Bỗng anh Onuphre đi tới. Bỏ qua mọi
anh em khác, anh giận dữ phạt Gioan vì biếng nhác và lấy áo dài từ
nước nóng bỏng ra thải vào mặt Gioan. Đáp lại, Gioan khiêm tốn đến
quì trước mặt anh.
lòng nhiệt thành của Ngài còn
tăng gấp đôi trong
những công việc thấp hèn nhất, đồng thời vẫn học thần học thánh
Bernadinô thành Sienua là thầy dạy, thán phục vì những buớc tiến
ngoại hạng của Người đã nói: "Gioan ngủ mà học những điều mà người
khác ngày đêm nỗ lực mới học được" Dường như Ngài có sự hiểu biết
thiên phú, là nhà thần học sâu sắc và sắp thành nhà truyền giáo lớn
của thời Ngài.
Gioan rảo qua các tỉnh thuộc nước Ý và dẫn về cho Chúa hàng triệu
những kẻ lạc giáo và những tội nhân, Ngài đã thăm các dòng tu ở Đông
phương, góp phần hiệp nhất với người Armenia. Trở về Ngài nổi bật
tại cộng đồng Florentinô và được đặt làm sứ thần tại Sicile. Giữa
những thành công rực rỡ. Gioan vẫn là con người cầu nguyện và sám
hối. Ngài xây dựng các tu viện, chống lại lạc giáo. Các bài giảng
của Ngài thật phi thường. Thiên Chúa rõ ràng bao bọc Ngài. Những
người rối đạo lân la để biết chỗ Ngài ở đâu. Giọng điệu của họ đủ
cho thấy rõ số phận họ muốn dành cho Ngài như thế nào. Gioan giản dị
và êm ái trả lời: "Tôi đây". Những người theo bè rối sững sờ và
không làm gì hại Ngài.
Một huyền thoại bình dân kể rằng: thánh nhân khi giã từ Assisiô với
các bạn để hoàn thành một sứ mệnh, bị từ chối không được chở qua
sông gần Trévise vì người lái xe đoán rằng: đám người nghèo này sẽ
không trả tiền. Thánh nhân trải áo của Bernađiô thầy mình trên sông.
Nước rẽ ra và các tu sĩ qua bờ bên kia sông.
Đức giáo hoàng đã sai Gioan qua Đức, Hungari, Bohemia, Balan. Cả
thành ra đón Ngài, lão già nhỏ bé khô khan kiệt sức nhưng vui tươi
không mệt mỏi. Cả đoàn thính giả đã nghe Ngài mỗi ngày. Sau đó người
ta công khai đốt các cỗ bài, những hình ảnh dâm ô, những đồ trang
sức, mọi cái có hại cho tâm hồn.
Đây là lửa hỏa thiêu lâu đài của quỉ dữ. Ở Bohemia sau một trong
những bài giảng về sự phán xét, thánh nhân đã gây hứng khởi cho hơn
100 thanh niên ôm ấp đời sống tu trì. Các Đức giáo hoàng nối tiếp
liên tiếp trao cho Ngài những sứ mệnh đặc biệt.
Người Hồi vừa mới xâm chiếm Constantinople. Mahomet tin rằng: mình
là thủ lãnh Kitô giáo. Không ông hoàng nào xem ra có thể ngăn cản
nổi cuộc xâm lăng. hi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công
Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức
Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập
tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Gioan
Capistranô nhận được lệnh của Đức giáo hoàng để cổ động đoàn quân
thánh giá, Ngài liên kết được 40 ngàn người và chọn Hunyade là một
anh hùng làm thủ lãnh của họ. Quân hung bạo bốn lần đông hơn chế
nhạo. Belgrade đã bị chiếm. Mọi sự xem ra đã mất hết. Gioan lao lên
hàng đầu, tay cầm kỳ hiệu và một thánh giá, khuyên các binh sĩ hoặc
thắng hoặc chết. Địch quân rút lui, thành lũy được cứu thoát.
Vài tuần sau, Hunyade qua đời trong tay Gioan, người sống sót đã được lâu hơn ông ta một chút. Ngài tiến tới gần cái chết với sự bình thản hoàn toàn và các ông hoàng đã thán phục sự can đảm của Ngài, bấy giờ phải bối rối trước sự khiêm tốn của vị thánh khi hấp hối, công khai thú nhận các lỗi lầm của mình. Ba tháng sau ngài từ trần ở Illok, Hung Gia Lợi ngày 23.10.1456. Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia.
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 5, 12. 15b. 17-19. 20b-21
"Nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị, thì càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi có sự chết, và thế là sự chết đã truyền đến mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Vì nếu bởi tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa và ơn huệ kèm trong ân sủng của một người, là Ðức Giêsu Kitô, càng tràn ngập chan chứa hơn nữa tới nhiều người. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô.
Do đó, tội của một người truyền đến mọi người, đưa tới án phạt như thế nào, thì đức công chính của một người truyền sang mọi người, đưa tới bậc công chính ban sự sống cũng như thế. Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế.
Nhưng ở đâu càng đầy tràn tội lỗi, thì ở đó càng tràn đầy dư dật ân sủng: để như tội lỗi đã thống trị làm cho người ta chết thế nào, thì nhờ đức công chính, ân sủng sẽ thống trị làm cho người ta sống đời đời do Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng như vậy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 7-8a. 8b-9. 10. 17
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).
Xướng: 1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 35-38
"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Chủ mà cũng không có chìa khóa vào nhà... phải gõ cửa chờ mở ra cho
Trong Bài
Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXIX Thường Niên hôm nay Chúa
Giêsu cho chúng ta thấy hình ảnh sống động về một con người công
chính sống bởi đức tin như thế nào, qua những gì Người nói với các
môn đệ của Người sau đây:
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy
làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở
ngay cho
chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy
bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại
hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như
vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
Người công chính sống bởi đức tin ở đây, theo lời Chúa dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước hết và trên hết, đó là một con người luôn có thái độ "tỉnh thức", bằng cách "thắt lưng" (hy sinh, bỏ mình, làm chủ bản thân) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (cây đèn đức tin cháy lửa đức mến bằng dầu đức cậy), nhờ đó, họ mới có thể tiếp nhận chủ của họ khi người chủ của họ "đi ăn cưới về".
Kinh nghiệm sống đạo cho thấy một khi Kitô hữu sống buông thả theo bản tính tự nhiên, không khổ chế, không hãm mình, không "thắt lưng", thì hậu quả bất khả tránh đó là ngọn đèn đức tin của họ không thể hay khó lòng cháy sáng được, vì ngọn đèn này bị đam mê nhục dục và tính mê nết xấu của họ dập tắt mất bằng đủ mọi thứ tội lỗi của họ.
Về thời giờ chủ của họ trở về mà họ không "tỉnh thức" không thể đón nhận Người, là vì thời giờ ấy không dễ đoán trước hay ngay giữa ban ngày, song vào "canh hai hoặc canh ba", (nghĩa là vào khoảng "nửa đêm" như trong dụ ngôn 10 trinh nữ - Mathêu 25:6 - "canh hai" từ 9 giờ tối tới nửa đêm "hay canh ba" từ nửa đêm tới 3 giờ sáng), một thời giờ vừa đêm tối về thời gian vừa buồn ngủ về nhân gian.
Thời điểm được Chúa Giêsu khuyên các môn đệ của Người phải "tỉnh thức" trong bài Phúc Âm hôm nay đây có thể hiểu về thời điểm Người tái giáng, Người đến lần thứ hai, thời điểm Người "ăn cưới về", nghĩa là thời điểm xẩy ra sau khi Người nhập thể (để hiệp nhất nên một với nhân loại nơi ngôi vị hai bản tính của Người) cũng như sau khi Người cứu thế (nhờ đó đã phát sinh ra một Nhiệm Thể Giáo Hội hiền thê của Người trên cây Thánh Giá).
Nếu "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức" để có thể nghênh đón Người và tiếp nhận Người như Người mong muốn, nghĩa là họ còn nhận biết Người, như Người tỏ mình ra cho họ, thì phúc cho họ, bởi vì họ chẳng những gặp lại Người, mà nhất là còn được hiệp nhất nên một với Người, "được thông phần với Thày" (Gioan 13: 8), đến độ: "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng", như Người cũng đã thực sự thắt lưng và hạ mình xuống rửa chân cho mỗi và mọi tông đồ trong Bữa Tiệc Ly ngày xưa (xem Gioan 13:4-5), nghĩa là được Người "yêu cho tới cùng" (Gioan 13:1) để nhờ đó các môn đệ của Người có thể sinh muôn vàn hoa trái trong họ và qua họ.
Nguyên việc chính chủ cũng không có chìa khóa mà phải "gõ cửa" để đầy tớ của mình mở cửa cho mà vào trong nhà, hay cho dù chủ có chìa khóa chăng nữa mà cũng không tự động mở vào, đã cho thấy người chủ này rất tôn trọng đầy tớ của mình, và hoàn toàn tin tưởng đầy tớ của mình. Đến độ, có thể nói, ông đã cho đầy tớ được quyền làm chủ, thay ông làm chủ trong thời gian ông đi vắng. Phải chăng ở đây bao gồm cả ý nghĩa quyền bính của riêng vị lãnh đạo Phêrô và các vị thừa kế ngài là các vị giáo hoàng trong giòng thời gian được trao cho "chìa khóa Nước Trời" (Mathêu 16:19), cũng như của chung các tông đồ và các vị giám mục thừa kế các ngài trong việc đóng mở (Mathêu 18:18).
Thật vậy, "chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ" "những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức", thành phần đầy tớ làm công cho chủ, hoàn toàn không xứng đáng được chủ yêu thương quá như vậy, bởi thân phận của họ chẳng những không ngang hàng với chủ như bạn hữu hay thân nhân ruột thịt, mà còn là một tạo vật tội lỗi xấu xa vô cùng hèn hạ trước nhan Người là Thiên Chúa của họ nữa.
Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa thích tới vào lúc đen tối ("canh hai hoặc canh ba"), mà đen tối ám chỉ ma quỉ, gian dối, chết chóc? Trước hết, Chúa không thích đêm tối, một tình trạng chỉ ở nơi loài tạo vật bất toàn, nhất là nơi thành phần hư đi, bao gồm cả thiên thần sa đọa và loài người, Ngài không thích những gì là gian ác, dối trá, phản lại với bản tính chân thật và toàn thiện của Ngài.
Bởi vậy, sở dĩ Chúa hay đến vào lúc đêm tối là vì để cứu độ con người cho khỏi "quyền lực tối tăm" (Colose 1:13) là tội lỗi và sự chết, bởi "con người thích tối tăm hơn ánh sáng" (Gioan 3:19), thích đường rộng hơn vào cửa hẹp (xem Mathêu 7:13-14), thích sống theo bản tính tự nhiên buông thả hơn là "thắt lưng" hy sinh hãm mình khổ chế, không dám chấp nhận ánh sáng là tất cả sự thật về mình, không sống theo đức tin như "cầm đèn sáng trong tay".
Như thế, bất cứ khi nào cuộc đời của Kitô hữu cảm thấy tăm tối nhất, khốn khổ nhất, gian nan nhất, hầu như chẳng còn lối thoát, trước mắt chỉ còn tuyệt vọng, thì chính bấy giờ lại là lúc rất thích thuận để "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Gioan 1:5) tỏ mình ra, miễn là Kitô hữu biết mình hoàn toàn bất lực, chẳng còn biết trông cậy vào ai, ngoài một mình Đấng Tối Cao có thể cứu mình.
Đó là lý do, ơn cứu độ không phải do công nghiệp của con người, của thành phần đầy tớ, mà do tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, do ân sủng của Ngài nơi Đức Giêsu Kitô Thiên Sai Cứu Thế, đến độ tội lỗi của con người càng tràn lan thì ân phúc của Ngài càng ngập lụt, càng bao phủ tội lội, càng nhận chìm tội lỗi, đúng như cảm nhận và xác tín của Thánh Phaolô Tông Đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:
"Nếu bởi tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa và ơn huệ kèm trong ân sủng của một người, là Ðức Giêsu Kitô, càng tràn ngập chan chứa hơn nữa tới nhiều người. Vì nếu bởi tội của một người mà sự chết đã thống trị do một người đó, thì những người lãnh được ân sủng và ơn huệ dồi dào bởi đức công chính, càng được thống trị hơn nữa trong sự sống do một người là Ðức Giêsu Kitô... Ở đâu càng đầy tràn tội lỗi, thì ở đó càng dồi dào dư dật ân sủng: để như tội lỗi đã thống trị làm cho người ta chết thế nào, thì nhờ đức công chính, ân sủng sẽ thống trị làm cho người ta sống đời đời do Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cũng như vậy".
Bài Đáp Ca hôm nay chất chứa những nhận thức và tâm tình của một con người sống bởi đức tin ở chỗ dấn thân thực thi ý muốn tối cao của Vị Thiên Chúa công minh và từ bi nhân ái, để tình yêu và ân sủng của Ngài càng được tràn lan viên mãn:
1) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".
2) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.
3) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
4) Hãy mừng vui hoan hỉ trong Chúa, bao nhiêu kẻ tìm Chúa, và luôn luôn nói: Chúa thực là cao cả! Bao nhiêu kẻ mong ơn phù trợ của Ngài.
THÁNH ANTON MARIA CLARET: MỘT CUỘC ĐỜI
Người cha tinh thần của Cuba” là một nhà truyền giáo, người sáng lập dòng, người cải cách xã hội, tuyên uý của hoàng hậu, nhà văn và nhà xuất bản, là đức tổng giám mục và cũng
là người tị nạn. Thánh nhân là người Tây Ban Nha mà vì công việc người đã đặt chân đến các nơi như quần đảo Canary, Cuba, Madrid, Paris và Công Ðồng Vatican I.
Thánh Antôn Claret sinh ở làng Salient, tỉnh Catalonia, năm 1807 tại Sallent Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Đó là năm hoàng đế Napôlêôn đem quân xâm lược đất nước này. Có lẽ đó là dấu chỉ của sự kiện náo động sẽ theo Antôn suốt cả cuộc đời.
Là con thứ 5 trong 10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Trong khi làm thợ dệt cũng như vẽ kiểu cho một xưởng tơ sợi ở Barcelona, người dùng thời giờ rảnh rỗi để học tiếng Latinh và học cách in ấn: quả thật Chúa đang chuẩn bị người để trở nên một linh mục và nhà xuất bản tương lai. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng ngài, kèm theo mọi hành động và sắp trở thành mạnh mẽ nhất : cuối cùng ngài đã bước qua cổng chủng viện ở Vich năm 1829.
Ðược thụ phong linh mục lúc 28 tuổi, vì sức khỏe yếu kém nên ước mơ trở nên một tu sĩ dòng Tên hay dòng Thánh Brunô không thành tựu, người đã trở nên một linh mục triều nổi tiếng về rao giảng ở Tây Ban Nha. Người dành 10 năm để đi giảng tuần đại phúc, và luôn luôn nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể và sự sùng kính Trái Tim Mẹ Maria. Người ta nói, chuỗi mai khôi không bao giờ rời khỏi tay người. Khi 42 tuổi, cùng với năm linh mục trẻ, người thành lập tu hội truyền giáo, mà ngày nay được gọi là tu sĩ Dòng Claret.
Trước tâm hồn phong phú của thánh nhân, Đức Cha Corcuera đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ ngài đã được rửa tội. Được cử làm cha sở, ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng việc tông đồ của ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Rôma, muốn gia nhập dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha. Bản chất nóng nảy của ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện thánh của ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuộng của ngài là : “đường thẳng và chắc để về trời" và ngày càng thêm nhiều người dấn thân vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi ngài trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp ..
Trong thời gian làm linh mục, Antôn Maria Claret là giám đốc đại chủng viện ở Marid. Ngài đã thiết lập trường thánh Micael để bảo vệ công trình nghiên cứu nghệ thuật và văn chương. Thậm chí cha còn cố gắng thiết lập một trường học để nghiên cứu nông nghiệp. Cha Antôn Maria Claret cũng có một năng lực viết lách đặc biệt. Ngài đã viết 144 cuốn sách và rất nhiều những tập sách nhỏ; Antôn thuyết giảng trên 25000 bài! Quyển sách danh tiếng nhất của Antôn Maria Claret, Lẽ phải, đã vươn tới với hàng triệu độc giả.
Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, ngài từ chối tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra. Antôn rất gần gũi tự do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng của ngài. Mạng sống bị đe dọa, ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng Giám mục Santiago, Cuba, tại nhà thờ chính toà Vich, ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm hoá các đảo Camari. Đây là lúc ngài thêm danh hiệu MARIA vào tên mình. Vào năm 1849, Antôn Maria Claret thiết lập một hội dòng mới gọi là dòng Thừa Sai Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, cũng gọi là dòng Claret. Hội dòng có sứ vụ giảng các tuần đại phúc tại các giáo xứ.
Nữ hoàng Isabella II nước Tây Ban Nha đánh giá rất cao về cha Antôn Maria Claret. Bà đã đề nghị cha làm tổng giám mục giáo phận Santiagô, Cuba. Từ năm 1850 đến 1857, người được bổ nhiệm về làm tổng giám mục của giáo phận bị quên lãng từ lâu là Tổng Giáo Phận Santiago ở Cuba. Việc tông đồ của Antôn tại Cuba lại mở ra bảy năm thú vị nữa. Đức tổng giám mục Antôn Maria Claret thăm viếng các xứ đạo, chống lại các thói xấu xã hội, nhất là tội buôn bán nô lệ. Ngài chúc lành cho bậc hôn nhân gia đình và ban bí tích Thanh tẩy cho các trẻ em.
Người bắt đầu cải cách bằng việc rao giảng không ngừng và giải tội. Dĩ nhiên người phải chịu nhiều chống đối cay đắng -- phần lớn là vì người kịch liệt lên án vấn đề vợ lẽ và vì dạy giáo lý cho các người nô lệ da đen. Một tù nhân mà ĐGM Antôn chuộc ra khỏi tù đã được thuê để giết người, nhưng đức giám mục thoát chết và chỉ bị thương ở mặt và tay. Cũng chính ĐGM Antôn giúp người này thoát án tử hình. Người giúp thay đổi sự nghèo nàn của dân Cuba bằng cách giúp họ trồng trọt những thực phẩm khác nhau, cần cho thị trường. Ðiều này khiến các điền chủ tức giận, vì họ chỉ muốn dân chúng trồng mía để thu hoa lợi. Trong các văn bản về tôn giáo của người còn có hai quyển người viết khi ở Cuba: Suy Tư về Canh Nông và Lợi Nhuận Quốc Gia.
Vị Tổng Giám mục truyền giáo cập bến, ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít linh mục thiếu học nghèo túng, ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của ngài: 11.000 bài giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo ngài đã xúi giục các người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ.
Người được gọi về Tây Ban Nha với một công việc mà người không ưa thích gì -- làm tuyên uý cho nữ hoàng. Người đồng ý trở về với ba điều kiện: người sẽ ở ngoài hoàng cung, người chỉ đến nghe nữ hoàng xưng tội và dạy giáo lý cho con cái họ, và người không bị dính líu gì đến sinh hoạt triều đình. Từ Madrid, ngài tiếp tục cai quản Cuba. Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả kính của ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính ngài đã là tác giả xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời.
Cả cuộc đời Thánh Antôn, người chỉ mơ ước việc xuất bản sách báo Công Giáo. Người sáng lập Nhà In Công Giáo, một cơ sở xuất bản Công Giáo mạo hiểm kinh doanh ở Tây Ban Nha, và người đã viết cũng như xuất bản khoảng 200 cuốn sách lớn nhỏ.
Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng hậu tới Panu, rồi Paris là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết bất khả ngộ của Tòa Thánh. Trong Công Ðồng Vatican I, người trung thành bảo vệ tín điều bất khả ngộ của đức giáo hoàng, người được sự thán phục của các giám mục bạn. Ðức Hồng Y Gibbons của Baltimore nhận xét về người, “Ðây thực sự là vị thánh. ”Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha theo đuổi ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của ngài ở Prades, rồi ở L'Audes, nơi các thầy dòng Xitô ở Fontfroide là nơi ngài đã qua đời lúc 63 tuổi, sau những đau khổ dữ dội mà không hề phàn nàn kêu trách năm 1870. Antôn Maria Claret được đức thánh cha Piô XII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1950.
Antôn Maria Claret vị thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của ngài. Trước khi có các tu hội triều ngày nay, ngài đã sáng nghĩ ra "các nữ tu tại gia" là học giả uyên bác, ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ Công giáo vào "hàn lâm viện thánh Micae".
Ðức Giêsu đã nói trước cho những ai muốn theo Người là họ sẽ bị bách hại như chính Người. Ngoài những cám dỗ trong đời, Thánh Antôn còn phải chịu đựng biết bao vu khống xấu xa đến độ tên Claret của người đồng nghĩa với nhục nhã và bất hạnh. Ma quỷ không dễ gì buông tha con mồi của chúng.
Chúng ta không cần phải đi tìm sự bách hại. Tất cả những gì chúng ta cần là sẵn sàng chịu đau khổ vì đức tin chân thật nơi Ðức Kitô, chứ không phải vì những bất cẩn và tính khí bất bình thường của chúng ta.
Có lần Nữ Hoàng Isabella II nói với Thánh Antôn, “Không ai có thể nói cho tôi nghe một cách rõ ràng và thành thật như cha.” Sau này hoàng hậu nói với cha, “Mọi người đều xin tôi ban cho họ những ơn huệ này nọ, nhưng chưa bao giờ thấy cha làm như vậy. Cha có muốn xin điều gì không?” Người trả lời, “Thưa có, xin cho tôi từ chức.” Từ đó trở đi hoàng hậu không còn đề nghị gì khác.
THÁNH ANTON MARIA CLARET: NHỮNG MẨU TRUYỆN.
THÁNH ANTHONY MARY CLARET XIN ƠN CHẾT LÀNH CHO 4 TỬ TÙ
Khi Thánh Anthony Mary Claret sắp sửa rời Tây ban Nha để nhận chức Tổng Giám Mục ở nước Cuba xa xôi, ngài đã cứu được 4 tử tội khỏi sa hỏa ngục.
Trước đó, 4 tử tội đã bị kết án xử tử vào ngày thứ hai sắp đến. Cả 4
người đều không muốn ăn năn thống hối và không muốn chịu các bí tích
sau cùng, dù cho nhiều linh mục khuyên răn và năn nỉ.
Sáng hôm ấy, tình cờ Cha Claret đi ngang qua vùng Villafranca ấy
nhưng thật ra đó là chương trình của Chúa. Đưọc tin ngài đi qua đó,
các linh mục năn nỉ xin ngài hãy cứu 4 tử tội khỏi hỏa ngục.
Ngài vội vàng đến ngục thất và thấy có 3 tử tội còn trẻ và người tử
tội thứ 4 khoảng 40 tuổi.
Khi ngài vào phòng giam và khuyên răn thì có 3 tử tội chịu xưng tội.
Trước khi cho 3 người này chịu Mình Thánh Chúa thì Thánh Claret hỏi
xem liệu họ đã tha thứ cho tất cả mọi người chưa, thì một người tù
trẻ hét to:
“Con tha thứ cho hết mọi người, trừ mẹ con.”
Lời nói ấy làm ngạc nhiên tất cả mọi người đang hiện diện.
“Con không tha thứ cho mẹ con bởi chính vì bà mà con bị tử hình ngày
hôm nay. Nếu mẹ con chịu sửa sai con và trừng phạt con thì ngày nay
còn đâu phải bị xử tử hình. Vì thế, con sẽ không tha thứ cho mẹ
con.”
Nghe những lời này, Cha Claret xúc động, ngài quỳ trước kẻ tử tội và
năn nỉ hắn:
“Con ơi, hôm nay con sẽ ra trước Tòa Chúa là Đấng Thẩm Phán Chí Công! Con hãy tha thứ cho mẹ con đi!”
“Không, bà ấy là nguyên nhân của việc con bị xử tử!”
“Con ơi, con sẽ bị xuống hỏa ngục nếu con không tha thứ cho mẹ con. Cha xin con, vì Danh Chúa và vì cha, xin con tha thứ cho bà ấy!”
“Không, không bao giờ con tha thứ cho mẹ con.”
Mọi người xôn xao. Một số người cầu nguyện cho hắn, một số người
khóc, và đôi mắt mọi người gắn chặt vào cha Claret. Cha Thánh bèn
quay sang nói với vị linh mục rằng:
“Xin cha đừng cho hắn chịu Mình Thánh Chúa.”
Sau đó, cả 4 tử tù đi ra pháp trường, đàng sau họ là Thánh Claret,
ngài vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi cầu nguyện cho họ, nhất là cầu cho
hai người cứng đầu nhất, một người không chịu xưng tội, một người
không chịu tha thứ. Giờ lên đoạn đầu đài đã điểm. Bỗng dưng, người
trẻ kia lên tiếng:
“Từ trái tim của con, con tha thứ cho mẹ con. Xin mọi người cầu
nguyện cho con!”
Rồi sau đó, người lớn tuổi trong đám là kẻ đã từng từ chối không
xưng tội nay vội xin cha giải tội cho hắn. Cha Claret giải tội cho
hắn. Mọi người la lên:
“Chúc tụng Chúa đã gửi Cha Claret đến đây!”
Về sau, Chúa
tỏ lộ cho cha Claret biết rằng cả 4 tử tội đã được ơn cứu độ. Ngài
họp mọi người lại và tuyên bố điều ấy, và ai ai cũng vui mừng.
THÁNH ANTHONY CLARET TRỪ QUỶ
Lời kể của Thánh Anthony Mary Claret:
"Có một loại bịnh làm cho tôi mất nhiều thì giờ để chữa trị, đó là
bịnh quỷ ám. Trong khi tôi đi các thành phố để rao giảng Lời Chúa
thì có nhiều người bị quỷ ám được gia đình đem đến gặp tôi. Họ xin
tôi trừ quỷ cho người thân của họ. Vì được phép của giáo hội để trừ
quỷ nên tôi đã trực tiếp trừ quỷ cho hàng ngàn vụ.
Việc trừ quỷ làm cho tôi rất tốn thì giờ hơn là việc giải tội và rao
giảng Tin Mừng của Chúa. Tôi rút ra một kết luận là:
“Điều quan trọng hơn là hãy trừ quỷ tội trọng ra khỏi linh hồn người
ta hơn là trừ quỷ ra khỏi thế xác.”
Khi có ai xin tôi trừ quỷ thì tôi ra lệnh cho người ấy làm 3 điều
sau:
Thứ nhất, tất cả những người ấy phải kiên nhẫn và từ bỏ chính mình.
Thứ hai, không được uống rượu hay bất cứ một thứ nước giải khát nào
bởi vì tôi biết có một số người uống quá nhiều rượu, rồi say sưa, và
để tránh phiền toái, họ cứ đổ lỗi của mình cho kẻ dữ ám hại họ.
Thứ ba, tôi bảo họ mỗi ngày đọc 7 Kinh Lạy Cha và 7 Kinh Kính Mừng
để suy nhớ đến 7 sự Thương Khó của Đức Mẹ Maria.
Tôi khuyên họ nên xưng tội một cách kỹ càng, xưng các tội đã phạm từ
khi mới có trí khôn cho đến lúc ấy, tức là xưng tội trọn đời, rồi
rước lễ với lòng sùng kính và tôn thờ Chúa.
Sau đó có một số người đến cám ơn tôi và nói rằng họ được giải thoát và tự do. Có một số người được ơn hoán cải và nói rằng họ không phải bị quỷ ám nhưng họ bị ảo ảnh và họ giả vờ bị quỷ ám để mọi người chú ý, thương hại và giúp đỡ họ."
GƯƠNG SỐNG ĐẠO ANH HÙNG CỦA THÁNH ANTHONY MARY CLARET
Vì đức vâng lời tuyệt đối nên Thánh Anthony Mary Claret đã viết tác
phẩm Tự Thuật về cuộc sống của ngài. Đọc xong chúng ta nhận thấy
ngài có trái tim và linh hồn của một vị thánh. Thánh Anthony Mary
Claret nêu ra những điều minh chứng cho sự thành công trong việc cứu
rỗi các linh hồn. Ngài nhấn mạnh đến 5 đức tính tiên quyết cần thiết
để cho mục vụ truyền giáo có kết quả, đó là:
1. Khiêm nhường,
2. Sống khó nghèo,
3. Lòng nhân hậu,
4. Sự đơn sơ,
5. Sự từ bỏ chính mình, tức là chết đi cho cái tôi của mình.
Chúa Giêsu thường hiện ra và nói với ngài rằng:
“Con hãy cho Ta máu(từ bỏ chính mình) và Ta sẽ ban cho con Thần
Trí.”
Trong lúc làm công tác truyền giáo, Thánh Anthony Mary Claret không
bao giờ nhận tiền, và ngài đi bộ đến khắp mọi nơi, từ thành phố này
đến làng mạc kia. Ngài chỉ có một đôi giầy, một bộ quần áo và vài
cuốn sách trong người.
Ngài chỉ đi giảng đạo ở những nơi nào mà Đức Giám mục sai ngài đi.
Ngài thâm tín rằng Thiên Chúa đụng chạm đến những trái tim khi một
nhà truyền giáo làm việc với đức vâng lời thánh thiện hơn là với ý
riêng của mình. Ngài không bao giờ ăn thịt hay uống rượu, và ngài
chỉ ngủ từ 3 đến 5 tiếng đồng hồ mỗi đêm.
Ngài trở thành vị Tổng Giám Mục của vùng Santiago, nước Cuba. Ngài
đến viếng thăm mỗi giáo xứ trong địa phận của ngài 4 lần. Có những
nơi từ trước đến lúc ấy chưa hề được thấy một vị giám mục trong suốt
60 năm. Ngài làm việc truyền giáo ở khắp mọi nơi, ban phép thêm sức
cho 300 ngàn người, và hợp thức hóa hôn nhân cho 9 ngàn đôi vợ
chồng. Tất cả những điều ngài làm chỉ vỏn vẹn trong 6 năm và 2
tháng.
Ngài là cha giải tội của vị hoàng hậu nước Tây Ban Nha và khi ngài
quyết định đi nơi khác, ngài không hề nhận bất cứ một vật gì mà
Hoàng hậu muốn tặng cho ngài, dù chỉ là một cây kim. Suốt cuộc đời,
ngài chỉ muốn làm việc truyền giáo mà thôi.
Ngài không bao giờ bỏ phí thì giờ. Trong 35 năm làm linh mục, ngài
viết được 144 cuốn sách và giảng khỏang 25 ngàn bài giảng. Trong một
chuyến đi, ngài giảng 205 bài giảng trong 48 ngày, tức là khoảng 12
bài trong một ngày.
Để biện minh cho việc làm của mình, ngài viết:
“Nếu bạn thấy một người mù sắp rớt xuống hố, liệu bạn có cảnh cáo
người ấy không? Vì thế tôi cũng làm như vậy và tôi phải làm vì đó là
bổn phận của tôi. Tôi phải cảnh cáo những kẻ tội lỗi và cho họ thấy
trước những gì sẽ dẫn họ đến lửa hỏa ngục không bao giờ tắt, bởi vì
họ sẽ đến nơi ấy nếu họ không hoán cải. Khốn cho tôi nếu tôi không
rao giảng và cảnh cáo họ, bởi vì tôi sẽ chịu trách nhiệm nếu họ bị
án phạt."
Trong cuôc đời linh mục, ngài làm nhiều phép lạ, ngài có ơn tiên tri
và hiểu những bí mật của tâm hồn người khác. Chúa Giêsu và Đức Mẹ
Maria thường hiện ra với ngài. Có lần Chúa bảo ngài rằng có 3 án
phạt sẽ giáng xuống trần gian, đó là:
1. Thệ Phản và Cộng sản.
2. Lòng ham muốn lạc thú và tiền bạc, và sự độc lập của tư tưởng và ý muốn.
3. Chiến tranh và hậu quả của chiến tranh.
Theo ngài, sự khiếm khuyết của xã hội thời nay là:
“Tất cả mọi nguời trong thế gian đều thích giàu có, thích nổi danh
và ham muốn lạc thú. Lý do mà xã hội hư mất vì họ đã từ chối không
nghe lời Giáo hội, đó là lời Hằng Sống, Lời của Thiên Chúa. Tất cả
những chương trình cứu độ sẽ trơ trụi nếu như Lời vĩ đại của giáo
hội Công Giáo không được khôi phục một cách sung mãn.”
“Quyền giảng đạo và dạy dỗ con người là quyền mà giáo hội nhận từ
chính Thiên Chúa qua các thánh tông đồ, nhưng đã bị đảo lộn vì
truyền thông và những kẻ ngu dốt. Mục vụ rao giảng lời Chúa là một
điều quan trọng nhất và thăng hoa nhất bởi vì nhờ đó là trái đất
chiến thắng. Các linh mục cần rao giảng và phát hành những tài liệu,
sách báo tốt và những mục vụ bác ái để sinh hoa quả tốt lành.”
“Lạy Thiên Chúa của con, con dâng lên Ngài lời hứa của con rằng con
sẽ lao động, rao giảng, viết lách, và tặng thật nhiều sách báo tốt
cho mọi người để nhờ đó mà tẩy trừ những sự dữ bằng việc làm tốt.”
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp tứ Người Tín Hữu, Theo Vết Chân Người, Tin Mừng, TGP Sài Gòn, Hội Dòng Đaminh Thánh Linh
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 6, 12-18
"Anh em hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ cõi chết sống lại".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nguyện cho tội lỗi đừng thống trị trong xác hay chết của anh em, khiến anh em phải vâng phục những dục vọng của nó. Anh em cũng đừng dùng các chi thể anh em làm khí giới của gian tà để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ trong cõi chết sống lại, và hãy hiến dâng các chi thể anh em làm khí giới đức công chính để phục vụ Thiên Chúa. Vì chưng, tội lỗi không còn bá chủ được anh em: bởi anh em không còn ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng.
Thế nghĩa là gì? Nào chúng ta cứ phạm tội đi, vì chúng ta không ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng ư? Không phải thế! Chớ thì anh em chẳng biết rằng: hễ anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 123, 1-3. 4-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa (c. 8a).
Xướng: 1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, - Israel hãy xướng (lên) - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi. - Ðáp.
2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Ngài đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng. - Ðáp.
3) Hồn chúng tôi như cánh chim non, thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất! - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 39-48
"Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bao giờ "Con Người sẽ đến"? - Phải chăng không bao giờ vào lúc chúng ta tỉnh thức mà là vô thức?!
Hôm nay, Thứ Tư Tuần XXIX Thường Niên, bài Phúc Âm được Thánh ký Luca ghi lại tiếp theo bài Phúc Âm hôm qua về lời Chúa Kitô khuyên các môn đệ của Người "tỉnh thức" chờ Người đến.
Thật vậy, trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô nói cho các môn đệ của Người biết lý do tại sao các vị cần phải "tỉnh thức": "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Đúng thế, chính vì không biết giờ nào "Con Người sẽ đến" mà thành phần môn đệ của Chúa Kitô mới cần phải đợi chờ, mới cần phải nhẫn nại, mới cần phải trông mong. Đời sống trần gian của Kitô hữu quả thực là một mùa vọng, mùa đợi trông ơn cứu chuộc, dù đã được cứu chuộc, nơi Phép Rửa, nhưng lại là một ơn cứu chuộc cần phải bền đỗ đến cùng nữa (xem Mathêu 24:13) mới được, mới hoàn thành, mới nên trọn.
Chính vì thế mà trong Mùa Vọng đợi trông của cuộc đời người Kitô hữu như thế, thành phần môn đệ của Chúa Kitô còn cần phải sống tinh thần của Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh nữa mới được. Tinh thần của Mùa Chay hướng đến Mùa Phục Sinh này chính là tinh thần "thắt lưng" (tiêu biểu cho Mùa Chay) và "cầm đèn cháy sáng trong tay" (tiêu biểu cho Mùa Phục Sinh) như được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm qua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng vẫn lập lại với các môn đệ tinh thần Mùa Chay hướng về Mùa Phục Sinh này khi Người cảnh báo các vị về một đời sống hưởng thụ vô trách nhiệm đối với vai trò phục vụ của các vị như sau: "nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: 'Chủ tôi về muộn', nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung".
Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Tông Đồ Phaolô đã cảnh giác và khuyên nhủ Tín hữu Giáo đoàn Rôma về đời sống công chính bằng đức tin hơn là sống tự nhiên theo xác thịt lăng loài bại hoại như thành phần đầy tớ bại hoại trong Phúc Âm hôm nay:
"Anh em thân mến, nguyện cho tội lỗi đừng thống trị trong xác hay chết của anh em, khiến anh em phải vâng phục những dục vọng của nó. Anh em cũng đừng dùng các chi thể anh em làm khí giới của gian tà để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy hiến thân cho Thiên Chúa như những người từ trong cõi chết sống lại, và hãy hiến dâng các chi thể anh em làm khí giới đức công chính để phục vụ Thiên Chúa. Vì chưng, tội lỗi không còn bá chủ được anh em: bởi anh em không còn ở dưới chế độ lề luật, nhưng dưới chế độ ân sủng".
Như đã suy diễn trong bài Phúc Âm hôm qua, thời điểm trở về của chủ là thời điểm Chúa Kitô tái giáng, tức là thời điểm Người "ăn cưới về". Và vì thế, thành phần "đầy tớ" của người chủ này không ai khác hơn là thành phần môn đệ của Chúa Kitô nói chung và các vị lãnh đạo trong Giáo Hội của Người nói riêng, như Người đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay để trả lời cho câu hỏi của tông đồ Phêrô "Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?":
"Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình.... Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Tuy Chúa Kitô không trả lời thẳng cho tông đồ Phêrô là "Thày nói dụ ngôn ấy chỉ về các con đấy chứ còn ai nữa", nhưng nội dung của câu Người trả lời đã ám chỉ về các vị cũng như về thành phần thừa kế các vị là hàng giáo phẩm sau này, qua mọi thời đại, chứ không phải chỉ vào thời tận thế, vì không ai biết lúc nào Người trở lại, nên ai cũng phải tỉnh thức, bằng việc làm theo ý chủ mình qua phần nhiệm được Người trao phó, được Người "đặt" lên thay Người phục vụ, đó là "coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ".
Ở đây, qua câu này, chúng ta thấy 3 sứ vụ chính yếu bất khả thiếu và bất khả phân ly của hàng giáo phẩm: sứ vụ quản trị ở chỗ "coi sóc gia nhân mình", sứ vụ rao giảng Lời Chúa và sứ vụ thánh hóa bằng việc ban phát các Bí Tích Thánh, ở chỗ "phân phát phần lúa thóc cho họ". Mà phân phát khi "đến giờ" nữa. Hai chữ "đến giờ" này không phải chỉ hiểu theo kiểu hành chính và quan lại, cứ phải xưng tội hằng tuần vào trước giờ lễ chẳng hạn, mà là đáp ứng nhu cầu khẩn trương và ngoại lệ của tín hữu nữa, chẳng hạn họ sắp chết cần xức dầu ngay.
Tuy nhiên, cũng còn có thể hiểu là có thời Giáo Hội "đến giờ" phải bênh vực chân lý, như sau thời kỳ 300 năm Giáo Hội bị bách hại có những lạc thuyết sai lầm nguy hiểm về Chúa Kitô, qua các Công Đồng Chung như Nicea năm 325, Contantinople năm 381 và Epheso năm 431 v.v. Và có thời Giáo Hội "đến giờ" phải đối thoại với thế giới, phải trở thành men muối trong đời và cho đời, theo tinh thần của Công Đồng Chung thứ 21 là Vaticanô II (11/10/1962 - 8/12/1965), với văn kiện tiêu biểu nhất là Hiến Chế Gaudium et Spes - Vui Mừng và Hy Vọng được ban hành ngày 7/12/1965.
Hơn thế nữa, còn có thời Giáo Hội "đến giờ" phải tỏ lòng thương xót hơn bao giờ hết, một thời điểm kể từ Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từ Đại Năm Thánh 2000, qua việc ngài phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, Sứ Giả của Lòng Thương Xót Chúa, nhất là thời điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô, vị giáo hoàng chủ trương nghèo hèn và phục vụ những người anh chị em hèn mọn nhất của Chúa Kitô, cũng là vị giáo hoàng đã bất ngờ mở Năm Thánh ngoại lệ về Lòng Thương Xót (8/12/2015 - 20/11/2016).
Ở bài Phúc Âm hôm qua, các môn đệ của Chúa Kitô đóng vai "đầy tớ" đối với chủ, nghĩa là mang thân phận làm theo ý chủ chứ không phải làm theo ý riêng mình, thân phận phục vụ chủ chứ không phải hưởng thụ, còn ở bài Phúc Âm hôm nay, các vị lại đóng vai "quản lý" đối với "gia nhân" của chủ, tuy có quyền "coi sóc gia nhân" của chủ và có quyền "phân phát phần lúa thóc cho họ" khi "đến giờ", nhưng vẫn với tư cách là "đầy tớ" của chủ, được chủ chọn để thay Người phục vụ như Người và với Người, chứ họ thực sự không phải là chủ, không có toàn quyền như chủ.
Thành phần sống thân phận "đầy tớ", thân phận lệ thuộc chẳng khác gì thân phận của những kẻ "nô lệ", trong vai trò "quản lý trung tín khôn ngoan" này, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, quả thực đã "biết rằng: hễ anh em hiến thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của kẻ anh em vâng phục đó sao? hoặc là nô lệ của tội lỗi để rồi phải chết, hoặc là nộ lệ của đức vâng lời để rồi được nên công chính? Nhưng cảm tạ Thiên Chúa, vì xưa kia anh em là nô lệ của tội lỗi, mà nay anh em đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ. Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính".
Đúng thế, chính vì biết phận mình là "đầy tớ" chỉ biết phục vụ theo ý của chủ như thế, nghĩa là "đã hết lòng vâng theo khuôn mẫu đạo lý đã truyền cho anh em noi giữ", mà họ mới đích thực là quản lý của chủ và thay chủ: "Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình": "Một khi anh em đã được giải phóng khỏi ách tội lỗi, anh em đã được nhận vào phục vụ đức công chính".
Thành phần "đầy tớ" đóng vai "quản lý" phục vụ thay chủ trong Bài Phúc Âm hôm nay chỉ có thể chu toàn những gì được chủ trao phó bằng tất cả ý thức và cảm nhận của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Nếu như Chúa không che chở chúng tôi, - Israel hãy xướng (lên) - nếu như Chúa không che chở chúng tôi, khi thiên hạ cùng chúng tôi gây hấn, bấy giờ người ta đã nuốt sống chúng tôi rồi, khi họ bầng bầng giận dữ chúng tôi.
2) Bấy giờ nước cả đã lôi cuốn mất, trào lưu đã ngập lút con người chúng tôi, bấy giờ sóng cả kiêu hùng đã ngập lút chúng tôi! Chúc tụng Chúa vì Ngài đã không để chúng tôi nên mồi trao đưa vào răng chúng.
3) Hồn chúng tôi như cánh chim non, thoát khỏi lưới dò của người gài bẫy bắt chim. Lưới dò đã đứt gãy, và chúng tôi đã thoát thân. Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất!
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 6, 19-23
"Giờ đây anh em được thoát khỏi sự tội, được phục vụ Thiên Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi nói theo kiểu người phàm, bởi lẽ xác thịt anh em yếu đuối: như xưa anh em đã cống hiến chi thể anh em để làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác, khiến anh em trở nên người gian ác thế nào, thì giờ đây anh em hãy cống hiến chi thể anh em để phục vụ đức công chính, hầu nên thánh thiện cũng như vậy. Vì xưa kia anh em làm nô lệ tội lỗi, thì anh em được tự do đối với đức công chính. Vậy thì bấy giờ anh em đã được những lợi ích gì do những việc mà giờ đây anh em phải hổ thẹn? Vì chung cục của những điều ấy là sự chết. Nhưng giờ đây, anh em được thoát khỏi sự tội, được phục vụ Thiên Chúa, thì anh em được những ích lợi đưa đến thánh thiện, mà chung cục là sự sống đời đời. Bởi vì lương bổng của tội lỗi là sự chết. Nhưng hồng ân của Thiên Chúa là sự sống đời đời trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa (c. Tv 39,5a).
Xướng: 1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa và suy ngắm luật Chúa đêm ngày. - Ðáp.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa, lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt. - Ðáp.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong. - Ðáp.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Chúa Kitô cũng chủ trương bạo lực như ai? - "Thày đến không phải để đem bình an mà là gươm giáo!"
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XXIX Thường Niên, tuy có 4 câu ngắn ngủi nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa sâu xa liên quan đến chính bản thân của Chúa Kitô, hơn là đến các môn đệ của Người như 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia, nhưng lại là những gì được Người "phán cùng các môn đệ" chứ không với ai khác, với chung dân chúng hay với riêng thành phần biệt phái và luật sĩ như thường thấy. Nguyên văn của Bài Phúc Âm hôm nay như sau:
"Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Có ít là 3 vấn đề chính yếu cần phải tìm hiểu trong bài Phúc Âm hôm nay liên quan đến bản thân của Chúa Kitô, thứ tự ở ngay 3 câu đầu tiên như sau: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên" (1); "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất" (2); và "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ" (3).
1- "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên".
"Lửa" đây là gì, nếu không phải là Thánh Thần!?! Vì Người là Đấng "làm phép rửa bằng Thánh Thần" (Gioan 1:33), một phép rửa Người sẽ thực hiện cho thành phần môn đệ tông đồ của Người khi sau khi Người thăng thiên về cùng Cha để sai Thánh Thần từ Cha xuống trên các tông đồ cũng là trên Giáo Hội của Người: "Gioan làm phép rửa bằng nước nhưng trong vòng ít ngày nữa các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần" (Tông Vụ 1:5), Đấng khi hiện xuống vào Lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem trên các tông đồ cũng như từng tông đồ, đã mặc lấy hình lưỡi lửa (xem Tông Vụ 2:3).
2- "Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất".
"Phép rửa" Chúa Giêsu cần phải chịu đây là gì, như Người cũng đã đề cập với cặp anh em tông đồ Giacôbê và Gioan trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm B đầu tuần này, nếu không phải là chính cuộc khổ giá của Người, một cuộc khổ giá bất khả thiếu mà Người không thể nào tránh được với tư cách là một Đấng Thiên Sai Cứu Thế, một cuộc khổ giá vì thế Người không thể nào không "khắc khoải" dấn thân thực hiện "cho đến khi hoàn tất" theo ý của Đấng đã sai Người, và là một "phép rửa" khổ giá vô cùng cần thiết cho "phép rửa bằng Thánh Linh" mà Nhiệm Thể Giáo Hội của Người sẽ lãnh nhận.
3- "Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ".
Nếu chỉ căn cứ vào duy câu nói này thôi của Chúa Kitô thì chắc chắn sẽ không một ai còn lương tâm chân chính trên thế gian này có thể chấp nhận Người là giáo tổ Kitô giáo, trái lại, trong trào lưu bạo loạn và khủng bố khắp nơi ngày nay, họ sẽ cho Người là một tên chúa tể hung ác bạo tàn, chẳng khác gì như những tay lãnh đạo nhóm khủng bố Al Queda hay ISIS, hay những tên chuyên chế độc tài diệt chủng ở thế kỷ 20, và Người sẽ bị cơ quan mật vụ FBI của Mỹ theo dõi sát nút.
Thế nhưng dù sao vẫn không thể nào phủ nhận được sự thật bất khả chối cãi của lời Người khẳng định như thế. Bởi vì, chính Người xuống thế gian là để đem lại bình an cho nhân loại, ở chỗ Người đã tái lập lại mối liên hệ đã bị nguyên tội làm lũng đoạn giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với thiên nhiên tạo vật và với nhau, bằng chính cuộc Vượt Qua của Người.
Tuy nhiên, tinh thần Phúc Âm trọn lành theo con đường hẹp rất ít người đi của Người và như Người như thế, tự bản chất của mình, đã gây "chia rẽ" nơi xã hội loài người, ở chỗ, tinh thần trọn lành cùng con đường hẹp Phúc Âm của Người đã làm đảo lộn khuynh hướng vị kỷ của trần gian, bằng đường lối "bỏ mình và vác thập giá" (Mathêu 16:24), và đã cách mạng văn hóa hưởng thụ của con người tự nhiên, bằng tinh thần "không để được phục vụ nhưng phục vụ làm giá chuộc nhiều người" (Mathêu 20:28), khiến cho những ai dấn thân theo Người bị cả chính thân nhân ruột thịt của họ phản kháng và chống phá, như chính Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay:
"Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Tình trạng "chia rẽ" xẩy ra trong xã hội loài người do tinh thần và đường lối Phúc Âm của Chúa Kitô gây ra như thế thực sự đã phản ảnh của tâm trạng "chia rẽ" trong nội tâm của mỗi một con người, như chính Thánh Phaolô Tông Đồ đã cảm nhận và bày tỏ trong Thư gửi Giáo đoàn Rôma ở Bài Đọc 1 cho năm lẻ ngày mai: "sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm" (7:19).
Bởi thế, trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, ngài đã khuyên Kitô hữu của giáo đoàn này đừng sống theo xác thịt mà "làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác", trái lại hãy sống cho Thiên Chúa một cách tự do để được "sự sống đời đời" như sau:
"Anh em thân mến, tôi nói theo kiểu người phàm,
bởi lẽ xác thịt anh em yếu đuối: như xưa anh em đã cống hiến chi thể
anh em để làm nô lệ sự ô uế và sự gian ác, khiến anh em trở nên
người gian ác thế nào, thì giờ đây anh em hãy cống hiến chi thể anh
em để phục vụ đức công chính, hầu nên thánh thiện cũng như vậy. Vì
xưa kia anh em làm nô lệ tội lỗi, thì anh em được tự do đối với đức
công chính. Vậy thì bấy giờ anh em đã được những lợi ích gì do những
việc mà giờ đây anh em phải hổ thẹn? Vì chung cục của những điều ấy
là sự chết. Nhưng giờ đây, anh em được thoát khỏi sự tội, được phục
vụ Thiên Chúa, thì anh em được những ích lợi đưa đến thánh thiện, mà
chung cục là sự sống đời đời. Bởi vì lương bổng của tội lỗi là sự
chết. Nhưng hồng ân của Thiên Chúa là sự sống đời đời trong Ðức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
Bài Đáp Ca hôm nay diễn tả về người công chính sống bởi đức tin theo tinh thần trọn lành và con đường hẹp Phúc Âm của Chúa Kitô nên họ được triển nở một cách viên mãn như sau:
1) Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
2) Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa, lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
3) Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi, vì Chúa canh giữ đường người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 7, 18-25a
"Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi cái xác chết này?"
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy trong chi thể tôi có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và giam hãm tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi. Tôi là con người vô phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này? Cảm tạ Thiên Chúa, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Như thế, chính tôi lấy tâm thần mà phục vụ lề luật Thiên Chúa; còn về xác thịt, thì vâng phục lề luật của sự tội.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 66. 68. 76. 77. 93. 94
Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài (c. 68b).
Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.
4) Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. - Ðáp.
5) Ðời đời con không quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống. - Ðáp.
6) Con thuộc về Chúa, xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 54-59
"Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Nạn Nhân Bản Thân
Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXIX Thường Niên, tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm hôm qua về chính bản thân của Chúa Kitô, bài Phúc Âm hôm nay, với 7 câu cuối cùng của đoạn 12, Thánh ký Luca đã thuật lại cho chúng ta những gì "Chúa Giêsu phán bảo dân chúng" về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại, cũng như việc họ cần phải thanh toán với đối phương khi còn có thể.
Trước hết, về việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ?"
Sau nữa, về việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể: "Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
Vấn đề được đặt ra ở đây là việc họ biết xem điềm trời mà không biết suy đoán dấu chỉ thời đại và việc họ cần phải thanh toán với đối phương bao lâu khi còn có thể có liên hệ gì với nhau hay chăng, nếu có thì ở chỗ nào, vì thật sự là giữa hai sự việc này, về mạch văn, được nối kết với nhau bằng liên từ "thế nên" ở sự việc thứ hai, ngay sau sự việc thứ nhất, tức là có liên quan đến sự việc thứ nhất?
Thật vậy, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay có thể hiểu về lương tâm nơi con người, được biểu hiệu qua hình ảnh của "quan toà", một thẩm quyền phán xét nơi con người có thể ra tay hành hạ con người như những tay "lý hình", và đồng thời cũng có thể "tống" con người "vào ngục" là chính thâm tâm khổ ải bất an của con người, "cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng" là chấp nhận lỗi lầm của họ, những lỗi lầm mà trước đó, lúc còn "đang lúc đi dọc đường", lúc đang còn được lương tâm nhắc nhở đừng làm, đừng vấp phạm, tức nếu biết tránh né, đã không bị lương tâm trở thành "quan tòa" phán xét họ đến độ họ cảm thấy bị hành hạ bởi những áy náy, lo sợ, khổ tâm và bất an v.v.
Dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ là chính những nhắc nhở của lương tâm trước khi họ liều mình vấp phạm theo đam mê nhục dục của họ, bằng việc họ trấn an lương tâm theo những lý lẽ chủ quan nông cạn đầy tham vọng nhất thời của họ. Hay dấu chỉ thời đại để họ có thể giải quyết vấn đề lương tâm của họ thậm chí còn là chính những cắn rứt sau khi họ đã lỡ vấp phạm, để nhờ đó họ có thể được giải thoát "ra khỏi" ngục tù thâm tâm của họ, bằng cách "tự mình phê phán điều gì phải lẽ?" theo lời Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ chấp nhận lỗi lầm của mình, trả lại cho công lý những gì mình đã qua mặt và cướp quyền: "trả xong đồng xu cuối cùng".
Trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay, Thánh Phaolô Tông Đồ cũng cho thấy một thứ ngục tù nơi thâm tâm của con người đã vướng mắc nguyên tội, như thể con người bị giam giữ, khiến con người bị gò bó hạn hẹp không thể thoát thân, đến độ con người cảm thấy như Vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại than lên rằng: "Tôi là con người vô phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này?":
"Anh em thân mến, tôi biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề
luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy trong chi thể tôi
có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và giam hãm
tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi".
Thực tế phũ phàng cũng cho thấy, trong đời sống đạo, có những tâm hồn rất đạo đức, đọc kinh xem lễ rước lễ hằng ngày, xưng tội hằng tháng, tĩnh tâm hằng năm, chay tịnh trường kỳ, dạy đạo liên miên v.v., nhưng vẫn liên tục lỗi đức bác ái một cách trầm trọng và công khai, gây gương mù gương xấu cho những ai sống quanh mình và với mình, như cho con cái và bạn bè ngoại đạo.
Thậm chí trong những lúc bối rối, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta biết được ý định của Ngài để mà làm theo. Thế nhưng, khi đã rõ ràng biết được ý muốn của Thiên Chúa, như qua vị linh hướng, chúng ta liền trốn mất, hay vội vàng chối bỏ, vì ý Chúa ấy không đúng như ý của chúng ta, hay là những gì phản lại với đời sống tự nhiên của chúng ta, bắt chúng ta phải bỏ mình!
Tình trạng chối bỏ chân lý và lấn át chân lý này vẫn thường xẩy ra trong đời sống hằng ngày của tất cả mọi người trên thế gian này nói chung và của Kitô hữu chúng ta nói riêng, khi chúng ta liên tục chối bỏ tiếng lương tâm của chúng ta, liên quan đến việc làm lành lánh dữ được lương tâm nhắc nhủ hay cảnh báo, bằng việc chúng ta trấn an lương tâm hay lèo lái lương tâm theo sở thích tự nhiên của mình hay theo ý riêng vị kỷ của mình.
Bởi thế, để có thể sống chân chính và bằng an theo lương tâm của mình, hơn là theo đam mê nhục dục và tính mê nết xấu của bản tính mang nguyên tội của mình, khiến con người sống bất hạnh hơn là phúc hạnh, con người cần phải thành tâm khẩn cầu cùng Chúa bằng các ước nguyện của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Xin
Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ
thị của Ngài.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.
3) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa.
4) Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con.
5) Ðời đời con không quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống.
6) Con thuộc về Chúa, xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài.
Ngày 28 tháng 10
THÁNH SI-MON VÀ THÁNH GIU-ĐA, TÔNG ĐỒ
lễ kính
Tông đồ Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rô-ma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.
Còn thánh Giu-đa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối : “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian ?” Và ông đã nhận được lời Chúa hứa : “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”
Bài Ðọc I: Ep 2, 19-22
"Anh em đã được xây dựng trên nền tảng các tông đồ và các tiên tri".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em không còn là khách trọ và là khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng của các Tông đồ và Tiên tri, và chính Ðức Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa, trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng đã vang cùng trái đất (c. 5a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyện tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa; chúng con tuyên xưng Chúa là Chúa tể; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang các tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 6, 12-19
"Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Ðó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
Ðó là lời Chúa.
ĐTC Biển Đức XVI chia sẻ về 2 Thánh Tông Đồ Simon và Giuđa Thaddeo Thứ Tư 11/10/2006 trong Bài 21 trong loạt 138 bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay chúng ta chú ý tới hai trong 12 Tông Đồ, đó là Tông Đồ Simon người Canaan và Giuđa được gọi là Thaddêô (đừng nhầm với Giuđa Iscariot). Chúng ta chú ý tới hai vị cùng một lúc, không phải vì trong danh sách 12 Tông Đồ hai vị bao giờ cũng được nhắc đến bên nhau (x Mt 10:4; Mk 3:18; Lk 6:15; Acts 1:13), mà vì không có nhiều chi tiết về hai vị, ngoại trừ Sổ Bộ Tân Ước có một bức thư được cho là của Tông Đồ Giuđa Thaddêô.
Tông Đồ Simon được ghép với một hình dung từ khác nhau trong 4 bản liệt kê: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô diễn tả ngài như là “người xứ Canaan” thì Thánh Ký Luca diễn tả ngài như là “người nhiệt thành”. Thật sự, hai phẩm chất này là những gì tương đương nhau, vì chúng có cùng một nghĩa: đúng vậy, theo tiếng Do Thái thì động từ “qanà” có nghĩa là “nhiệt thành, hăng say”, và có thể được sử dụng để nói về Thiên Chúa liên quan tới nỗi hờn ghen đối với thành phần dân được Ngài tuyển chọn (x Ex 20:5), hay về thành phần bừng lên lòng nhiệt thành hoàn toàn dấn thân phụng sự Thiên Chúa như Elia (x 1Kgs 19:10).
Bởi thế, có thể Tông Đồ Simon này, nếu không thực sự thuộc về phong trào duy quốc gia chủ nghĩa của Nhóm Zealots, thì ít là có đặc tính của một lòng nhiệt thành đối với căn tính của người Do Thái, vì thế đối với Thiên Chúa, với dân tộc của mình và với lề luật thần linh. Nếu đúng là thế thì Tông Đồ Simon này hoàn toàn khác hẳn với Tông Đồ Mathêu, vị ngược lại, vì là một người thu thuế, xuất thân từ một hoạt động hoàn toàn được coi là dơ bẩn. Đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Người cũng như thành phần phụ giúp của Người từ những tầng lớp xã hội và tôn giáo khác nhau, không hề phân cách.
Người chú trọng tới con người, chứ không lưu ý tới thứ loại hay qui ước xã hội! Và điều tuyệt vời ở đây là trong các nhóm môn đệ của mình, mặc dù khác nhau, từ thành phần nhiệt thành đến thành phần thu thuế, đều chung sống với nhau, thắng vượt những khó khăn có thể được đặt ra: thật thế, chính Chúa Giêsu là động lực cho việc liên kết này, nơi Người, tất cả đều thấy mình được kết nối. Và điều ấy rõ ràng cống hiến cho chúng ta một bài học, thành phần thường chú trọng tới những gì là khác biệt nhau và có thể là những gì chống đối nhau, quên đi rằng nơi Chúa Giêsu Kitô chúng ta có được một sức mạnh để hòa giải các thứ xung khắc của chúng ta. Và chúng ta hãy nhớ rằng nhóm 12 là một hình ảnh tiền thân của Giáo Hội và vì thế cho thấy trước Giáo Hội cần phải có chỗ cho tất cả mọi đặc sủng, mọi dân nước, mọi chủng tộc, tất cả mọi phẩm chất làm người, tất cả những gì có thể được hòa hợp và hiệp nhất nơi mối hiệp thông với Chúa Giêsu.
Về Tông Đồ Giuđa Thaddêô, vị được gọi như thế bởi truyền thống, liên kết hai tên gọi khác nhau: trong khi Thánh Ký Mathêu và Marcô chỉ gọi ngài là “Thaddêô” (Mt 10:3; Mk 3:18), thì Thánh Ký Luca lại gọi ngài là “Giuđa con Giacôbê” (Lk 6:16; Acts 1:13). Biệt danh Thaddêô có một nguồn gốc không rõ ràng và được giải thích như xuất phát từ tiếng Aramaic “taddà”, nghĩa là “ngực” bởi thế có nghĩa là “hào hiệp cao thượng”, hay như tiếng viết tắt của một tên gọi Hy Lạp như “Theodore, Teodoto”. Ngài là vị ít được nói đến.
Chỉ có Thánh Ký Gioan ghi nhận một điều yêu cầu ngài đã tỏ ra cùng Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: Thaddêô nói cùng Chúa Giêsu rằng “Lạy Thày, tại sao Thày chỉ tỏ mình cho chúng con mà thôi và không tỏ ra cho thế gian?” Đó là một vấn nạn có một tầm quan trọng lớn lao hiện tại, một vấn đề chúng ta cũng hỏi Chúa Giêsu rằng: Tại sao Đấng Phục Sinh không tỏ hết vinh quang của mình ra cho các thành phần đối phương để chứng tỏ cho họ thấy rằng Người là người vinh thắng? Tại sao Thiên Chúa lại chỉ tỏ mình ra cho thành phần môn đệ mà thôi? Câu trả lời của Chúa Giêsu là một câu giải đáp huyền nhiệm và có ý nghĩa sâu xa.
Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu ai yêu mến Thày thì sẽ giữ lời Thày, và Cha Thày sẽ yêu thương họ, rồi Chúng Ta sẽ đến với họ, biến họ làm nơi cư trú của Chúng Ta” (Jn 14:22-23). Tức là Đấng Phục Sinh cũng cần phải được nhìn thấy, được nhận thấy, bằng con tim, nhờ đó Thiên Chúa có thể cư trú nơi họ. Chúa Giêsu không hiện ra như là một thứ đồ vật. Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc đời của chúng ta, vì vậy, việc Người tỏ mình ra là một thứ tỏ mình bao hàm và cần có một con tim cởi mở đón nhận. Chỉ có thế chúng ta mới thấy được Đấng Phục Sinh.
Xưa kia Tông Đồ Giuđa Thaddêô được cho là tác giả của một trong những bức thư Tân Ước được gọi là “công giáo” vì những bức thư này ngỏ cùng một số rất đông thành phần độc giả. Thật vậy, bức thư này được ngỏ cùng “thành phần được tuyển chọn đang sống trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha và được Chúa Giêsu Kitô gìn giữ bảo trì” (câu 1).
Mối quan tâm chính yếu của bản văn này đó là việc Kitô hữu phải coi chừng tất cả những ai lấy ân sủng của Chúa như tấm bình phong che đậy cái phóng túng bừa bãi của họ và lừa đảo anh em mình bằng những giáo thuyết bất khả chấp, gây chia rẽ trong Giáo Hội “bởi ảnh hưởng từ các thứ mơ tưởng của họ” (câu 8). Bởi vậy mà Tông Đồ Giuđa này so sánh họ với thành phần sa đọavà bằng những lời lẽ mạnh mẽ ngài nói rằng “họ theo đường lối của Cain” (câu 11).
Ngoài ra, ngài không ngần ngại gán ghép cho họ “như là những đám mây không mưa bị nổi trôi bởi gió cuốn hay những thứ cây cối cuối mùa chẳng sinh hoa kết trái, bị cằn chết, bị mất gốc; như những ngọn sóng hung dữ trên biển cả phun bọt bẩn thỉu; như những thứ tinh tú hoang đàng, đáng là đám sương mù tăm tối trong cõi vĩnh hằng” (các câu 12-13).
Ngày nay chúng ta không còn quen với việc sử dụng thứ ngôn từ gây tranh cãi này, thứ ngôn từ dầu sao cũng nói cho chúng ta một điều gì đó quan trọng: Đó là trong tất cả mọi chước cám dỗ hiện hữu, trước tất cả mọi trào lưu của cuộc sống tân tiến, chúng ta cần phải kiên trì gìn giữ lấy căn tính đức tin của mình. Dĩ nhiên đường lối ân huệ và đối thoại được Công Đồng Chung Vaticanô II đã thực hiện một cách khéo léo, chắc chắn sẽ được nhất mực tiếp tục thực hiện. Thế nhưng, đường lối đối thoại này, một đường lối rất ư là cần thiết, vẫn không được làm cho chúng ta quên đi nhiệm vụ cần phải cân nhắc và luôn làm chứng một cách mạnh mẽ những chiều hướng chi phối thuộc căn tính Kitô Giáo của chúng ta là những gì chúng ta không được loại bỏ.
Cần phải gìn giữ thật hiện đại cái căn tính ấy, cái căn tính chúng ta có không phải là trò đùa ở một bình diện thuần văn hóa hay ở một mức độ hời hợt, song nó cần phải là những mạnh mẽ, minh bạch và can đảm trước những xung khắc nơi thế giới chúng ta đang sống.
Đó là lý do bản văn của bức thư ấy mới tiếp tục viết như thế này: “Thế nhưng, anh chị em thân mến, hãy xây dựng bản thân mình trên đức tin rất thánh của anh chị em, hãy nguyện cầu trong Chúa Thánh Thần, hãy giữ mình trong tình yêu Thiên Chúa, hãy đợi chờ tình thương của Chúa Giêsu Kitô là Chúa của chúng ta nơi cuộc sống trường sinh; hãy tin tưởng, những ai trong anh chị em đang bị chao đảo…” (câu 2-22).
Chúng ta thấy rõ là vị tác giả của những giòng chữ này sống trọn vẹn niềm tin của ngài, một niềm tin hàm chứa các thực tại cao cả như tính cách liêm chính và niềm vui về luân lý, lòng tin tưởng và sau hết là việc chúc tụng, tất cả đều được tác động bởi duy sự thiện hảo của vị Thiên Chúa duy nhất của chúng ta và bởi tình thương của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Bởi thế, chớ gì cả Tông Đồ Simon người Canaan và Tông Đồ Giuđa Thaddêô giúp chúng ta biết tái nhận thức một cách mới mẻ và sống một cách thiết tha với vẻ đẹp của đức tin Kitô Giáo, biết thực hiện một chứng từ vừa mạnh mẽ vừa thanh thản.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit
phổ biến ngày 11/10/2006
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời các thánh Tông Đồ rao giảng mà cho chúng con được nhận biết danh Chúa, xin nhậm lời hai thánh tông đồ Si-mon và Giu-đa cầu nguyện, mà cho Hội Thánh được phát triển không ngừng khắp nơi trên thế giới. Chúng con cầu xin
Thứ Bảy
(Nếu ngày này không trùng với và bị át đi bởi Lễ 2 Thánh Tông đồ Simon và Giuđa Thaddeo trên đây)
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 8, 1-11
"Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, giờ đây không còn gì là án phạt dành cho những ai ở trong Ðức Giêsu Kitô: vì những kẻ ấy không còn sống theo xác thịt. Bởi chưng lề luật của Thánh Thần ban sự sống trong Ðức Giêsu Kitô, đã giải thoát tôi khỏi lề luật sự tội và sự chết. Ðiều mà lề luật không thể làm được, vì bị xác thịt làm cho ra yếu đi, thì Thiên Chúa sai Con của Người đến trong xác thịt giống như xác thịt tội lỗi, và để phản đối sự tội, Người đã luận phạt tội lỗi, và phản đối sự tội, Người đã luận phạt tội lỗi trong xác thịt, khiến cho ơn công chính của lề luật thành tựu đầy đủ trong chúng ta, là những người không còn sống theo xác thịt, nhưng theo tinh thần. Vì những ai sống theo xác thịt, thì tưởng ước những sự thuộc về xác thịt: còn những ai sống theo tinh thần, thì tưởng ước những sự thuộc về tinh thần. Mà tưởng ước của xác thịt là sự chết, còn tưởng ước của tâm thần là sự sống và bình an. Vì chưng sự khôn ngoan của xác thịt là thù nghịch với Thiên Chúa: bởi nó không tùng phục lề luật của Thiên Chúa: vả lại nó cũng không thể tùng phục được. Những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Lạy Chúa, đó là dòng dõi người tìm kiếm long nhan Chúa (c. 6).
Xướng: 1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững nó trên chỗ nước nguồn. - Ðáp.
2) Ai khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. - Ðáp.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong luật Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 13, 1-9
"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Người còn nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Những bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXIX Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm chất chứa lời Chúa Giêsu cảnh giác "những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu của họ hoà lẫn với máu của các vật họ tế sinh".
Người cảnh giác họ những gì, nếu không phải cảnh giác họ về hình phạt tương tự như thế nếu họ không ăn năn hối cải, mà cứ tưởng mình tốt lành hơn các nạn nhân được họ thuật lại cho Chúa Giêsu biết.
Ở đây, qua ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Người dường như vừa không công nhận đau khổ là hậu quả hay hình phạt của tội lỗi lại vừa công nhận.
Chúa Giêsu dường như không công nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay hậu quả của tội lỗi: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế... Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế".
Chúa Giêsu đồng thời lại khẳng định đau khổ là hình phạt của tội lỗi và là hậu quả của tội lỗi: "Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy... nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Trong trường hợp của người mù từ lúc mới sinh, Chúa Giêsu cũng dường như phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi khi khẳng định sự kiện anh ta bị mù từ lúc mới sinh: "không phải do tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta" (xem Gioan 9:3). Thật ra, Chúa Giêsu không phủ nhận đau khổ là hậu quả của tội lỗi, nhưng Người gán cho đau khổ một ý nghĩa quí giá hơn và cao cả hơn, như trong trường hợp người mù từ lúc mới sinh như nó là một cơ hội để Thiên Chúa tỏ mình ra: "Chính là để cho các công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta" (xem Gioan 9:3).
Trong bài Phúc Âm hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng không phủ nhận đau khổ là hình phạt của tội lỗi hay là hậu quả của tội lỗi, nhất là trong trường hợp con người không biết thống hối ăn năn. Tuy nhiên, cũng qua bài Phúc Âm hôm nay, Người còn gán cho đau khổ một ý nghĩa cảnh báo cho những ai tự phụ cho mình là lành thánh nên không bị đau khổ như người khác là những người tội lỗi chứ không vô tội như mình.
Chưa hết, cũng theo chiều hướng ấy, Chúa Giêsu dường như còn ngầm cho thấy rằng đau khổ cho dù là và chính là hậu quả của tội lỗi mà nó đã được Thiên Chúa sử dụng như gậy ông đập lưng ông, như của độc giải độc, trong việc đánh động con người tội lỗi, để nhớ đó họ có thể nhận lỗi, hối lỗi và sửa lỗi mà quay về cùng Người.
Đó là lý do ở phần cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn nói thêm một dụ ngôn liên quan đến việc cải thiện đời sống, qua hình ảnh cây vả không sinh hoa kết trái "đã 3 năm" liền, đáng bị đốn đi cho đỡ "choán đất", nhưng nó vẫn còn được kéo dài chờ thêm "một năm nữa":
"Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: 'Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!' Nhưng anh ta đáp rằng: 'Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi'".
Thật vậy, việc cải thiện đời sống được chứng tỏ qua việc tâm hồn thống hối trổ sinh hoa trái thiêng liêng, mà để có thể sinh hoa trái thiêng liêng, Kitô hữu không thể nào sống theo xác thịt vốn hướng chiều về chết chóc, mà phải sống theo Thánh Linh là Đấng ban sự sống, một sự sống bao gồm cả hồn xác của bản tính con người, đúng như xác tín của Thánh Phaolô Tông đồ trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay qua Thư gửi Giáo đoàn Rôma:
"Những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp
lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống
theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai
không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người.
Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội,
nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của
Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em,
thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác
phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong
anh em".
Bài Đáp Ca hôm nay nói đến những tâm hồn không sống theo xác thịt, "không để lòng xu hướng bả phù hoa", mà là sống theo Thánh Thần, ở chỗ sống trổi vượt trên trần gian như "trèo lên cao sơn của Chúa", như "đứng trong nơi thánh của Người", một con người có "tay vô tội và lòng thanh khiết", một con người "tìm kiếm Chúa, tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp":
1) Chúa là chủ
trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư trú
ở trong. Vì chính Người xây dựng nó trên biển cả, và Người giữ vững
nó trên chỗ nước nguồn.
2) Ai khá trèo lên cao sơn
của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Người? Người tay vô tội
và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa.
3) Người đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Ðấng cứu độ ban ân thưởng. Ðó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.