SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ml 1, 14b - 2, 2b. 8-10
"Các ngươi đã đi sai đường lối, và làm cho nhiều người vấp phạm lề luật".
Trích sách Tiên tri Malakhi.
Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng kính sợ trong các dân tộc. [Ta sẽ làm cho các ngươi phải túng thiếu.]
{Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này, hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự) chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi.}
Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. Bởi thế, Ta để cho các ngươi bị khinh rẻ và đốn mạt trước mọi dân tộc, vì các ngươi đã không tuân giữ đường lối của Ta, và vị nể trong khi thi hành lề luật. Chớ thì mỗi người chúng ta không có một người cha sao? Chớ thì không phải có một Thiên Chúa tạo thành chúng ta sao? Vậy tại sao mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của tổ phụ chúng ta?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3
Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.
Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.
2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.
3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 2, 7b-9, 13
"Chúng tôi muốn trao phó cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn mạng sống chúng tôi nữa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi. Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nguyện Lời Chúa
Từ duy luật chỉ thiên đến duy ngã độc tôn
Nếu theo dõi kỹ các bài Phúc Âm liên tục từ Chúa Nhật XXV trở đi
cho tới tuần này, chúng ta thấy liên quan đến thành phần “các trưởng tế
và các kỳ lão tromg dân” (Tuần XXV-XXIX), “những người biệt phái”
(Tuần XXX), “các luật sĩ và các người biệt phái” (Tuần XXXI), thành phần
hầu hết ở trong Hội Đồng Đầu Mục Do Thái, nếu không muốn nói là thành
phần làm nên cơ cấu tổ chức đầu não Do Thái giáo này, vì đã thuộc về thành phần đầu mục trong
dân và của dân tất phải thông luật và giữ luật mới xứng đáng
và hội đủ điều kiện tối yếu.
Trong Bài Phúc Âm tuần trước, Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXX Thường Niên
Năm A, Chúa Giêsu, qua câu Người trả lời cho “một
người thông luật trong nhóm họ” về
vấn đề then chốt nhất đối với họ, cũng là vấn đề liên quan đến căn gốc
lầm lạc và lệch lạc trong việc giữ đạo duy luật chỉ thiên của họ là “trong
lề luật, giới răn nào trọng nhất?", Người
đã khôn khéo nhắc nhở cái sai lầm chính yếu của họ, cái sai lầm đã khiến
họ sống hoàn toàn phản lại với những gì họ dạy dân chúng liên quan đến
lề luật của Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu, trong bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm A
tuần này, đã cảnh giác “dân
chúng và các môn đệ rằng: ‘Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên
toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân
giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc
những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ
ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì
thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong
đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và
được người ta xưng hô là ‘Thầy’".
Thật
vậy, chính trong việc họ “duy luật chỉ thiên”, nghĩa là chỉ giữ luật mến
Chúa mà không biết yêu người mà cả ngay ở việc “duy luật chỉ thiên” này
của họ cũng sai luôn: “Họ
nói mà không làm” thật
là chí lý, đúng như Chúa Giêsu đã nhận xét quá chính xác về họ - “Họ
buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn
giơ ngón tay lay thử”.
Và cũng
chính vì họ sống đạo theo kiểu “duy luật chỉ thiên” mến Chúa mà không
yêu người như thế họ mới đi đến chỗ cho mình là nhất thiên hạ, "duy ngã
độc tôn", đáng mọi người kính phục, bằng những hành vi cử chỉ phô trương
kèm theo những lời xưng tụng được dân chúng trọng vọng, như Chúa Giêsu
điểm mặt họ khi nói với “dân chúng và các môn đệ rằng … Mọi công việc họ
làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua
áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa
được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’".
Như thế, việc giữ đạo “duy luật chỉ thiên” của thành phần biệt phái và
luật sĩ thực tế chẳng những không yêu người mà cũng chẳng mến Chúa nữa,
trái lại, còn nhân danh Thiên Chúa để khủng bố tha nhân nói chung và
thành phần tội lỗi nói riêng, nhất là lạm dụng danh Thiên Chúa để tôn
vinh danh mình. Đó là lý do, qua miệng tiên tri Malachi ở Bài Đọc 1 hôm
nay chúng ta mới nghe thấy lời cảnh báo nghiêm minh như sau (những
chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang
được diễn giải):
“Chúa các đạo binh phán rằng: Ta là Vua cao cả, và danh Ta đáng
kính sợ trong các dân tộc. Và bây giờ, trên các ngươi có án lệnh này,
hỡi các tư tế: Nếu các ngươi không nghe, và nếu các ngươi không lưu
tâm mà tôn vinh danh Ta, Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ phóng (sự)
chúc dữ xuống trên các ngươi; và Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các
ngươi. Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm lề
luật và huỷ bỏ giao ước Lêvi, Chúa các đạo binh phán như vậy. …Tại sao
mỗi người chúng ta lại khinh rẻ anh em mình mà phản bội giao ước của
tổ phụ chúng ta?”
Những ai
sống đạo trọn vẹn và trọn hảo là những người chẳng những “mến Chúa” mà
còn “yêu người” nữa thì họ mới có được những tâm tình của “những ai tôn
thờ Thiên Chúa đích thực trong tinh thần và chân lý“ (Gioan 4:24), những
tâm tình được Thánh Vịnh gia bày tỏ trong Thánh Vịnh 123 ở Bài Đáp Ca
hôm nay:
1) Lạy
Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng
không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.
2) Nhưng con
lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong
lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.
3) Israel
hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.
Một trong những tấm gương đã sống trọn vẹn “giới luật trọng nhất” bao
gồm cả mến Chúa lẫn yêu người đó là gương của Vị Tông Đồ Dân Ngoại
Phaolô, vị đã đạt đến tầm mức tu đức hiệp sinh đến độ như ngài tự thú:
“Sự sống tôi đang sống không phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong
tôi“ (Galata 2:20), nên ngài mới có thể như Chúa Kitô là Đấng “đến không
phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc
nhiều người” (Mathêu 20:28), một Chúa Kitô đã được phản ảnh sống động
nơi cuộc sống tông đồ của ngài, như chính ngài bày tỏ với Giáo Đoàn
Thessalonica trong Thư Thứ Nhất gửi họ ở Bài Đọc 2 hôm nay sau (những
chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang
được diễn giải):
“Anh em thân mến, chúng tôi đã trở thành như những kẻ bé mọn giữa
anh em. Như người vú nuôi nâng niu con cái mình thế nào, thì chúng
tôi yêu thương anh em đến nỗi chúng tôi rất vui lòng trao phó cho
anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống
chúng tôi nữa: vì anh em đã nên thiết nghĩa với chúng tôi”.
Chính nhờ
đời sống của Vị Tông Dồ Dân Ngoại này, không còn “duy luật chỉ thiên”
như thời còn là một biệt phái nữa, mà những gì ngài nói và làm không còn
tính cách ngẫu tượng và phản tác dụng nơi chính bản thân ngài cũng như
nơi quần chúng nữa, trái lại, còn mang lại muôn vàn hoa trái thiêng
liêng nơi thiện chí lắng nghe lời rao giảng của ngài, như ở trường hợp
của các Kitô hữu thuộc Giáo đoàn Thessalonica được ngài cảm nhận trong
Bài Đọc 2 hôm nay (những
chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang
được diễn giải):
“Anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: chúng tôi, phải
làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi
chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em. Bởi thế chúng
tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì anh em nhận lãnh lời Thiên Chúa
do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy không phải như lời
của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời đó
hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin”.
Thứ Hai
Bài Ðọc I: (Năm
I) Rm
11, 29-36
"Thiên
Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa
thương xót hết mọi người".
Trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân
mến, Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như
xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh
em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót
anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam
hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.
Ôi thẳm sâu
thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa! Sự phán quyết
của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì
chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai
đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người và
trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen.
Ðó là lời
Chúa.
Ðáp Ca: Tv
68, 30-31. 33-34. 36-37
Ðáp: Lạy
Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14cd).
Xướng: 1)
Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn
thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng
Ngài với bài tri ân. - Ðáp.
2) Các bạn
khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn
hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân
của Người bị bắt cầm tù. - Ðáp.
3) Vì Thiên
Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây
người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa
hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. - Ðáp.
Alleluia: Mt
11, 29ab
Alleluia,
alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta
hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc
14, 12-14
"Ông chớ
mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi
ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con
và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn
cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn
tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn
cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền
ơn".
Ðó là lời
Chúa.
Chia sẻ suy niệm
Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm tiếp theo hai bài Phúc Âm cuối tuần trước, vì cùng ở trong một bối cảnh của một bữa ăn diễn ra tại nhà của một trong những lãnh đạo viên của thành phần biệt phái.
Nếu trong bài Phúc Âm cho Thứ Bảy tuần vừa rồi huấn dụ của Chúa Giêsu liên quan đến thái độ của khách được mời đến dự tiệc, thì ở bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ của Người liên quan đến người mời khách là chính vị gia chủ đã mời Người:
"Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: 'Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn'".
Ở đây chắc hẳn Chúa Giêsu không cố ý nói rằng chúng ta chẳng bao giờ mời thân nhân và thân hữu đến dự bữa khoản đãi của chúng ta nhân một dịp nào đó, như chúng ta theo khuynh hướng tự nhiên vẫn làm và luôn làm, mà chỉ khuyên chúng ta rằng dầu sao chúng ta cũng:
1- Trước hết, đừng quên những con người xa lạ khác, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất trong xã hội đáng thương, cần thương yêu, ưu đãi và giúp đỡ hơn ai hết;
2- Sau nữa, chúng ta có làm gì cho ai, dù cho người thân yêu hay xa lạ, chúng ta cũng đừng làm chỉ vì mình, ở chỗ để được đền đáp xứng đáng, hơn là chỉ vì yêu thương họ, cho dù họ "không có gì đền ơn".
Tại sao làm ơn hay yêu thương mà không cần đền ơn hay đáp trả như thế? - Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hướng thượng chúng ta về đời sau như thế này: "vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".
Nghĩa là, theo tinh thần của lời Chúa này: 1- việc làm yêu thương bác ái không bao giờ qua đi, sẽ vĩnh viễn tồn tại (được ám chỉ ở chữ "sống lại"); 2- việc yêu thương trọn hảo mới làm cho con người nên "công chính"; 3- việc bác ái yêu thương mới làm cho con người phản ảnh Thiên Chúa (một tình trạng liên hệ với ý nghĩa "được đền ơn").
Chính Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về việc mời khách dự tiệc Nước Trời do Ngài khoản đãi, ở chỗ, Ngài đã mời cả những người xa lạ "không tin Thiên Chúa", ngoài dân Do Thái là dân tộc đã được Ngài tuyển chọn giữa các dân nước trên trái đất này, như Thánh Phaolô Tông Đồ đã đề cập đến trong Bài Đọc 1 cho năm lẻ hôm nay:
"Anh em thân mến, Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người".
Huấn dụ Chúa Giêsu ngỏ cùng vị gia chủ mời Người dùng bữa tại nhà của ông trong bài Phúc Âm hôm nay quả thực phản ảnh ý nghĩ cùng đường lối siêu việt của Thiên Chúa, trái ngược lại với tâm thức tầm thường và hạn hẹp của con người trần gian, đến độ Thánh Phaolô đã phải chất ngất than lên trong cùng Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa! Sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen".
Chính vì những huấn dụ Chúa Giêsu dạy là giáo huấn từ trời như thế, vô cùng chân thật và thiện hảo như thế mà ai áp dụng thực hành sẽ nên giống Chúa và đẹp lòng Ngài. Tuy nhiên, tự bản chất hèn yếu, con người khó lòng sống theo giáo huấn thần linh này của Chúa. Bởi thế mà họ cần phải có tâm tình và cảm nhận của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.
2) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.
3) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 12, 5-16
"Kẻ này là chi thể của người kia".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, chúng ta tuy nhiều người, nhưng cũng chỉ là một thân thể trong Ðức Kitô, và tương quan với mỗi người, kẻ này là chi thể của người kia. Nhưng chúng ta được những ân huệ khác nhau tuỳ theo ân sủng đã ban cho chúng ta: nếu là ơn nói tiên tri, thì hãy xử dụng sao cho xứng đối với đức tin; nếu là chức phận giúp việc, thì hãy chuyên cần giúp việc; nếu là thầy dạy, hãy lo dạy dỗ; nếu là khuyên bảo, hãy lo khuyên bảo; nếu là người phân phát, hãy có lòng chân thành; nếu là người cai quản, hãy cần mẫn; nếu là kẻ thương giúp, hãy vui vẻ.
Ðức ái không được giả hình. Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ: Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: hãy sốt mến trong tâm thần và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà. Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3
Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.
Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.
2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.
3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.
Hoặc:
Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28-30a. 31-32
Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội (c. 26a).
Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.
2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa. - Ðáp.
3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 15-24
"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".
"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ
Lời Chúa:
sự sống chia sẻ
Hôm nay, Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên Quanh Năm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta trong Bài Phúc Âm của ngài về bữa tiệc mời và thái độ đáp ứng của khách được mời.
Chúng ta nên nhớ
rằng, Bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua và 2 Bài Phúc Âm
cuối tuần trước, những Bài Phúc Âm ở nửa đầu của Đoạn 14 này cho biết
rằng Người đang tham dự bữa ăn ở nhà của một trong những người lãnh đạo
nhóm biệt phái, một môi trường hiếm quí Người muốn lợi dụng để có thể tỏ
mình ra cho riêng thành phần hầu như toàn biệt
phái lúc ấy.
Theo thứ tự của các Bài Phúc Âm này thì đầu tiên, ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước, Người đã dạy cho thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật một cách duy luật này về ý nghĩa nhân bản đích thực của bản chất luật, bằng cách chữa lành nạn nhân bị thủy thủng ngay trong ngày hưu lễ và tại nhà của gia chủ biệt phái.
Sau đó, ở Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Người dạy cho thành phần biệt phái ham danh đầy khoe khoang này về thái độ họ cần phải có khi họ được mời đến dự tiệc nơi công cộng, ở chỗ "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng", ở chỗ sẵn sàng chấp nhận bất cứ chỗ nào đã ấn định cho mình, chứ không phải "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", tức những gì theo ý riêng chủ quan đầy tham vọng của mình.
Rồi trong Bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Hai, cũng liên quan đến bữa ăn, Người trực tiếp ngỏ cùng gia chủ biệt phái mời Người hôm ấy về tinh thần mà ông cần có trong việc mời mọc khách đến tham dự tiệc tùng do ông khoản đãi, ở chỗ, đặc biệt là mời những ai không thể nào đền đáp lại lòng tốt của ông.
Cũng lợi dụng bối cảnh của một bữa ăn hôm ấy và chẳng những theo
tư cách là khách tham
dự (như Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước), mà còn theo tư cách của
người đãi tiệc (như Bài Phúc Âm hôm qua), hôm nay, qua Bài Phúc Âm theo
ngày,
và lợi dụng câu hỏi
của "một
người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc
trong nước Thiên Chúa'", Người đã nói đến
cả 2 vế: vế người đãi
tiệc lẫn
vế khách được
mời.
Về vế người đãi tiệc, Bài Phúc Âm hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã tiếp tục dùng dụ ngôn mà dạy như thế này: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi".
Về vế của
khách được mời, Bài Phúc Âm cho biết phản ứng của
"mọi người"
trong họ,
nại đủ những lý do riêng tư chính đáng của họ như sau: "Nhưng
mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: 'Tôi mới
tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu'.
Người thứ hai nói: 'Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng,
nên xin ông cho tôi kiếu'. Người khác lại rằng: 'Tôi mới cưới vợ, bởi đó
tôi không thể đến được'".
Trước thái độ có vẻ coi thường của khách được mời, của "mọi người", của tất cả mọi khách được vinh dự mời như thế, khiến cho bữa tiệc thịnh soạn của mình dọn ra chỉ để đãi khách như bị ế ẩm như thế, người đãi tiệc đã tỏ thái độ ra sao, Bài Phúc Âm hôm nay đã thuật lại như sau:
"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt'. Người đầy tớ trở về trình rằng: 'Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ'. Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi'".
Ở đây, trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đãi tiệc và khách được mời này có ít là hai điều cần chú ý, nhờ đó có thể biết được ẩn ý của dụ ngôn, nghĩa là biết được dụ ngôn này ám chỉ về ai, điều chú ý thứ nhất liên quan đến phía khách được mời và điều chú ý thứ hai liên quan đến phía người đãi tiệc.
Về phía khách được mời, dụ ngôn cho biết là "mọi người đồng thanh xin kiếu" và thành phần "mọi người" đây phải chăng ám chỉ chung dân Do Thái, cho đến nay, họ vẫn từ chối tham dự bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ dọn ra cho họ và mời họ đầu tiên, bằng cách, cho đến nay họ vẫn chưa chấp nhận Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ?
Về phía người đãi tiệc, dụ ngôn cho thấy thái độ của người này tỏ ra trước phản ứng bất lợi của khách được mời, một thái độ rất tuyệt vời trong việc giải quyết theo chiều hướng biến dữ thành lành. Ở chỗ, người đãi tiệc này đã mời đủ mọi loại khách xa lạ khác đến tham dự thay chỗ cho đám khách quí thân quen trước đó, một thái độ được tỏ ra đúng như những gì Chúa Giêsu đã dạy cho gia chủ biệt phái trong bài Phúc Âm hôm qua trong việc mời khách thì mời thành phần không thể đáp trả.
Chiều hướng và ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay về phía của chủ tiệc mời
khách đúng như chiều hướng của lòng thương xót Chúa, được Thánh Phaolô
cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm qua, ở chỗ lợi dụng khuyết điểm của người
này để thương người kia, rồi lợi dụng người kia để thương lại người nọ.
Chiều hướng yêu thương bất khả phân ly với hiệp nhất, hơn là tẩy chay
này, vẫn được Thánh Phaolô tiếp tục ở Bài Đọc 1 hôm nay, liên quan đến
ân sủng nhận được nơi từng người là để phục vụ lẫn nhau:
"Anh em thân mến, chúng ta tuy nhiều người, nhưng cũng chỉ là một thân thể trong Ðức Kitô, và tương quan với mỗi người, kẻ này là chi thể của người kia. Nhưng chúng ta được những ân huệ khác nhau tuỳ theo ân sủng đã ban cho chúng ta: nếu là ơn nói tiên tri, thì hãy xử dụng sao cho xứng đối với đức tin; nếu là chức phận giúp việc, thì hãy chuyên cần giúp việc; nếu là thầy dạy, hãy lo dạy dỗ; nếu là khuyên bảo, hãy lo khuyên bảo; nếu là người phân phát, hãy có lòng chân thành; nếu là người cai quản, hãy cần mẫn; nếu là kẻ thương giúp, hãy vui vẻ".
Và đó là lý do mới có những câu Đáp Ca hôm nay như thế này:
1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.
2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.
3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.
Thứ Tư
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 13, 8-10
"Yêu thương là chu toàn trọn cả luật".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn Lề luật. Ðó là: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 4-5. 9
Ðáp: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay (c. 5a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.
2) Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. - Ðáp.
3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 25-33
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ Lời Chúa:
sự sống nợ nần
Bài Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua, nhưng hoàn toàn với một bối cảnh khác, không còn ở trong bữa ăn tại nhà của một trong nhũng người lãnh đạo của thành phần biệt phái nữa, mà là đã xong bữa ăn ấy và đang thực hiện một cuộc hành trình, tiếp tục tiến về Giêrusalem, một cuộc hành trình đến một đích điểm chất chứa một ý nghĩa cần phải được Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác cho rất ư là nhiều người đang hào hứng đồng hành với Người bấy giờ, như Bài Phúc Âm thuật lại như sau:
"Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta".
Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những khẳng định và cảnh giác những ai theo Người lên Giêrusalem, một số người đông thật là đông, số người đồng hành với Người ấy không biết có phải vì đã xem thấy đầy những phép lạ Người làm, nghe những lời Người giảng vô cùng khôn ngoan xuất chúng, nên tưởng rằng theo Người đến giáo đô Giêrusalem là thủ phủ của Do Thái giáo họ sẽ được vinh dự một cách nào đó trước mặt dân chúng bởi họ thuộc về nhóm của Người hay chăng, Người còn cho họ biết rằng họ cần phải lượng sức mình kẻo bị thất vọng, như Người đã khuyên họ ngay sau khi cảnh giác họ về thân phận của những ai muốn theo Người cần phải từ bỏ và vác thập giá trên đây:
"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'. Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
Chính trong lời khuyên cho những ai muốn theo Người cần phải khôn ngoan lượng sức mình này, liên quan đến ơn gọi theo Chúa, như trong việc tính toán xây tháp và mưu lược xuất trận trần gian, Chúa Kitô đồng thời cũng âm thầm nhắn nhủ với những ai muốn theo Người rằng: việc từ bỏ bất khả thiếu và cần phải có, cho dù là những gì hợp tình hợp lý theo trần gian, để theo Người không phải là việc tự diệt, mà là kiến thiết, và việc cần phải vác thập giá bất khả tránh, cho dù có phải mất mạng sống mình, để trung kiên theo Người không phải là thảm bại, mà là chiến thắng.
Điều kiện từ bỏ và vác thập giá mà theo Chúa Kitô là để theo gương Người và nên giống Người, Đấng "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người - non ministrari sed ministrare" (Mathêu 20:28). Có nghĩa là những ai theo Chúa Kitô là thành phần theo đuổi đức ái trọn hảo - perfectae caritatis. Đó là lý do một trong những môn đệ ngoại lệ của Chúa Kitô là vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã khuyên nhủ và nhắc nhở tín hữu giáo đoàn Roma trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng:
"Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì
ai yêu người, thì đã giữ trọn Lề luật. Ðó là: Chớ ngoại tình, chớ giết
người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật
nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như
chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu
toàn cả lề luật".
Chỉ có những tâm hồn theo Chúa Kitô sống đức ái trọn hảo mới cảm nghiệm được ý nghĩa và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 111 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.
2) Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình.
3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.
Thứ
Năm
Ngày 09 tháng 11
CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ
Thánh đường La-tê-ra-nô là vương cung thánh đường của đức giáo hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Con-tan-ti-nô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”. Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của đức giáo hoàng, người kế vị thánh Phê-rô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hợp nhất trong Dân Thiên Chúa.
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-2. 8-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c. 5).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 9b-11. 16-17
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.
Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 2 Sb 7, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 2, 13-22
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Ðó là lời Chúa.
Thánh thi (Phụng Vụ Giờ Kinh Sáng ngày 9/11)
Từ thành thánh trên trời gửi xuống
Đá góc tường gầy dựng thiên cơ,
Ấy là chính Đức Ki-tô,
Xây Nhà Giáo Hội thiên thu vững vàng.
Thành thánh được Thiên Hoàng yêu chuộng,
Hằng tụng ca hợp xướng nhịp nhàng,
Ba Ngôi Một Chúa cao sang,
Lời hô tiếng hát trổi vang không ngừng.
Xin Chúa Cả đoái thương ngự xuống
Điện thờ này, theo lượng khoan nhân,
Nghe lời khấn nguyện nài van,
Nơi đây tuôn đổ muôn vàn tình yêu.
Cũng nơi đây mọi điều mong ước,
Chúng con trông sẽ được toại nguyền,
Mai vào cõi phúc vô biên,
Cùng chư thần thánh nghỉ yên muôn đời.
Xin bái chúc ngàn lời vinh dự
Dâng Ngôi Cha, Thánh Tử, Thánh Linh,
Hoạ theo nhã nhạc thiên đình,
Trần gian hợp tiếng tôn vinh hát mừng.
Lời cầu (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Mai ngày 9/11)
Cùng với Đức Ki-tô, chúng ta hãy cầu xin Chúa Cha cho Giáo Hội :
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Đây đền thờ xây trên nền đá tảng là Đức Ki-tô, đây dân thánh đặt niềm tin vào Người,
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Đây vườn nho Cha đã trồng và luôn săn sóc, đây dân thánh đem quả trường sinh cho nhân loại,
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Đây đoàn chiên được quy tụ dưới quyền người Mục Tử duy nhất, đây dân thánh để ý nghe tiếng Người,
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Đây mảnh đất Cha đã gieo Lời hằng sống, đây dân thánh như lúa vàng Cha thu lượm vào kho,
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Đây thành đô Thiên Chúa, thành Giê-ru-sa-lem trên trời, đây dân thánh được mời dự tiệc cưới Con Chiên,
Xin Cha đưa mắt nhìn và giơ tay giáng phúc.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Thánh đường này được gọi là “Latêrano”, là tên của gia đình Hoàng Hậu Fausta, người đã dâng hiến đền thờ và dinh thự của bà cho Đức Giáo Hoàng vào thế kỷ thứ IV. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là Mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mầng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: Giếng Rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên dân Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư ? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư ? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”.
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự Thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm Tuần Thánh Ðức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Rôma, với các Hồng y, Giám mục và ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là Rửa chân cho các Tông đồ.
Đền thờ Chúa Cứu thế Cực Thánh và Thánh Gioan Tẩy giả và Thánh sử Gioan tại Latêranô (Santissimo Salvatore e Santi Giovanni Battista ed Evangelista in Laterano), được hoàng đế Roma là Constantinô, vị đã hợp thức hóa Kitô giáo bằng sắc chỉ năm 313, đã xây cất vào khoảng năm 320, thời gian Giáo Hội vừa thoát khỏi các cuộc bách hại tàn khốc của đế quốc Roma suốt 3 thế kỷ đầu. Đền thờ này cũng được gọi là Tổng Đền Thờ (Archibasilica), là vì: 1- đây là nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo, 2- nhà thờ chính yếu của Kitô giáo vì là Vương Cung Thánh Đường của Giám Mục Roma, vị cũng là chính Giáo Hoàng, 3- và là nhà thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ hay đền thờ hoặc vương cung thánh đường trên thế giới. Tổng Đền Thờ Gioan Laterano này tọa lạc ngay trong trung tâm thành phố Roma, nhưng ở bên ngoài và cách biệt với lãnh thổ Quốc Đô Vatican khoảng 4 kilômét về phía tây bắc của Đền Thờ. Từ thế kỷ 16, Đền Thờ này đã cử hành những đêm Phục Sinh, đặc biệt là đã tiếp nhận từng đoàn người dân thành Roma đến gia nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, qua Phép Rửa Tội và cử hành Lễ Vượt Qua trong đền thờ.
Vào đầu thế kỷ thứ 4, gia đình laterani bị tước lột đất đai
của họ bởi vì trong gia đình của họ có một phần tử bị cáo
buộc là tham, gia âm mưu chống lại Hoàng đế Roma. Phần đất
này được lấy trao cho Vị Giám Mục Roma là chính Đức Giáo
Hoàng để xây cất Đền Thờ đầu tiên này của Kitô giáo. Kích
thước của đền thờ là dài 140 mét (460 ft), Rộng 140 mét
(460 ft) và Chiều rộng ở lòng đền thờ là 65 mét (213 ft)
Qua các thế kỷ, đền thờ đã bị cháy mấy lần và
1 lần bị động đất vào năm 897, nhưng cho dù có sửa chữa
nguyên mẫu của đền thờ vẫn không hề thay đổi. Chính tại Đền
Thờ này mà các vị giáo hoàng đăng quang cho tới năm 1870,
nơi các vị giáo hoàng đã cư trú, và sau này cho dù tông dinh
của các vị giáo hoàng được chuyển về Vatican vào hạ bán thế
kỷ 14, đền thờ này vẫn là nơi các vị giáo hoàng cử hành Thứ
Năm Tuần Thánh. Vào chính ngày 9/11/2019, ngày Lễ Cung Hiến
Đền Thờ này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến dâng lễ vào lúc
5:30 chiều.
Phái đoàn hành hương TĐCTT trong chuyến Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 2014 ngày 28/4.
Trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 2021 này, ngày đến Ý chính là ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ này và phái đoàn TĐCTT sẽ tái viếng thăm ngày 18/11/2021.
Bên cạnh đền thờ này có Lateran Palace, nơi các vị giáo hoàng đã liên tục ở qua cả ngàn năm, từ thế kỷ thứ 4, nghĩa là ngay từ khi có đền thờ này cho đến thế kỷ 14, tức là cho tới sau khi vị giáo hoàng từ Agvinon Pháp quốc trở về Roma vào năm 1377, thời điểm Lateran Palace đồng thời cũng bị cháy, nên các vị giáo hoàng từ đó bắt đầu về ở Vatican bên cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô cho tới nay. Lateran Palace thời xưa cũng đã từng là nơi diễn ra 3 công đồng riêng (non-ecumenical councils) vào những năm 649, 769 và 964, và 5 Công Đồng Chung (ecumenical councils) vào những năm 1123, 1139, 1179, 1215 và 1512-1517).
Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên đền thờ của Thiên Chúa
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 9/11)
Trích bài giảng của thánh Xê-da-ri-ô, giám mục Ác-lơ.
Anh em thân mến, hôm nay nhờ lòng khoan nhân của Đức Ki-tô, chúng ta hân hoan mừng rỡ cử hành ngày kỷ niệm khánh thành ngôi đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dân Ki-tô hữu quả có lý khi trung thành mừng kính ngày trọng đại của Mẹ Hội Thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội Thánh mà họ được tái sinh vào cuộc sống thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần đầu, chúng ta là những kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng lần sau, chúng ta đã được trở nên những kẻ được Người xót thương. Lần sinh thứ nhất dẫn chúng ta đến cõi chết, còn lần sinh thứ hai lại đưa chúng ta về cõi sống.
Thưa anh em, trước khi được thanh tẩy, mọi người chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ nhiều hơn về ơn cứu độ linh hồn, chúng ta sẽ biết chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên. Vì thế, thánh Phao-lô tông đồ đã nói : Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em.
Và vì khi Đức Ki-tô đến, Người trục xuất ma quỷ ra khỏi lòng chúng ta để chuẩn bị ngôi đền thờ cho chính Người trong chúng ta, nên với sự trợ giúp của Người, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, để nơi chúng ta, Người không còn phải chịu sỉ nhục vì các việc làm xấu xa của chúng ta nữa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì sỉ nhục Đức Ki-tô. Như tôi đã nói : trước khi Đức Ki-tô cứu chuộc chúng ta, chúng ta là đền đài của ma quỷ, về sau chúng ta lại được nên ngôi nhà của Thiên Chúa : chính Thiên Chúa đã đoái thương làm cho chúng ta trở thành ngôi nhà cho Người ngự.
Vì thế, thưa anh em, nếu chúng ta muốn hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Sở dĩ tôi nói như vậy là để ai nấy có thể hiểu rằng : mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.
Bạn muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Bạn đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Nếu bạn muốn ngôi thánh đường rực sáng, thì Thiên Chúa cũng muốn bạn không được để cho linh hồn ra tối tăm, nhưng lời Chúa nói phải được thực hiện : ấy là ánh sáng của các việc lành chiếu sáng trong chúng ta và như thế, Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời, được tôn vinh. Bạn muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa : Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.
Lời cầu (Phụng Vụ Giờ Kinh Ban Chiều ngày 9/11)
Đấng cứu độ chúng ta đã hy sinh mạng sống mình, để quy tụ con cái Thiên Chúa tản mác bốn phương về một nhà, vậy ta hãy dâng lên Người lời tha thiết nguyện xin :
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã xây Hội Thánh trên tảng đá vững bền, - xin củng cố lòng tin của Hội Thánh.
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Từ cạnh sườn Chúa, máu và nước đã chảy ra để trở nên nguồn ơn thánh hoá, - xin cho Hội Thánh được đổi mới không ngừng.
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Chúa hiện diện giữa những ai tụ họp vì danh Chúa, - xin nhậm lời Hội Thánh đang đồng tâm nhất trí nguyện cầu.
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Chúa ngự trị với Chúa Cha trong tâm hồn những ai yêu mến Chúa, - xin làm cho tình thương của Hội Thánh ngày thêm hoàn hảo.
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Chúa không khước từ một ai biết chạy đến cùng Chúa, - xin đón nhận tất cả mọi người quá cố vào nhà Cha trên trời.
Xin Chúa cho Hội Thánh được bình an.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho dân Chúa được gọi là Hội Thánh, xin nhìn đến chúng con đang tụ họp nơi đây nhân danh Chúa mà ban cho chúng con biết kính thờ, yêu mến và phụng sự Chúa cho phải đạo, hầu đạt tới phúc lộc quê trời Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin
Thứ Năm
(Nếu ngày này không trùng với và bị át đi bởi Lễ Kính Cung Hiến Đền Thờ Laterano trên đây)
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 14, 7-12
"Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa.
Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Ðức Kitô, bởi có lời chép: "Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa".
Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14
Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.
Alleluia: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 15, 1-10
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ Lời Chúa:
sự
sống thất
lạc
Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên hôm nay Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca bắt đầu 10 câu đầu của đoạn 15, một đoạn từ đầu đến cuối hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 3 dụ ngôn, 2 ngắn đầu và 1 dài cuối.
Sở dĩ Chúa Giêsu phải nói đến 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa ấy, là vì, như đầu Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng'".
Để đáp lại thái độ có vẻ kỳ thị và khinh người của nhóm biệt phái tự cho mình là công chính bấy giờ, Chúa Giêsu đã cho họ biết đâu là tinh thần họ phải có đối với tội nhân, đối với thành phần bị họ cho là "những kẻ tội lỗi", bằng 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa liền. Và hai dụ ngôn ngắn về Lòng Thương Xót Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay ấy như sau:
"Ai trong các ông có
một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác
trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã
tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và
những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm
thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một
người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần
hối cải".
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Hai dụ ngôn trên đây, một dụ ngôn về con chiên lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm con chiên lạc, và dụ ngôn về đồng bạc bị thất lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm đồng bạc bị thất lạc, đều cho thấy Lòng Thương Xót Chúa yêu thương và lưu ý đền từng người, yêu thương cho tới cùng, hoàn toàn không bỏ mất một ai, không bỏ mất một sự gì, dù nhỏ mọn mấy chăng nữa.
Hơn thế nữa, cả hai dụ ngôn này thậm chí còn cho thấy thái độ của các vị chủ nhân sau khi tìm thấy con chiên lạc hay đồng bạc bị mất nữa, ở chỗ các vị chẳng những không trút cơn giận dữ xuống trên đầu trên cổ con chiên lạc hay đồng bạc bị mất là những gì làm cho các vị chủ nhân của chúng đã mất giờ tìm kiếm và hết sức vất vả kiếm tìm, trái lại, cả hai còn tỏ ra hết sức hân hoan vui sướng nữa:
"Khi đã tìm thấy, người đó
vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận
mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên
lạc!'... khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng
đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi
đã mất'".
Nếu "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải", thì dụ ngôn về nhân vật tìm kiếm con chiên lạc đây ám chỉ chính Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) bằng mầu nhiệm nhập thể và vượt qua của Người.
Và con chiên lạc và đồng bạc thất lạc đây ám chỉ chẳng những chung loài người sa ngã phạm tội (99 con chiên không lạc được bỏ lại một nơi để đi tìm con chiên lạc có thể hiểu là ám chỉ các thiên thần vì liên quan đến hình ảnh "trên trời sẽ vui mừng... " sau khi con chiên lạc được tìm thấy, hay "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng..." sau khi kiếm được đồng bạc thất lạc), mà còn ám chỉ đến từng cá nhân ("một người tội lỗi hối cải" được lập lại 2 lần như nhau ở cuối 2 dụ ngôn) vướng mắc nguyên tội luôn chiều theo xác thịt, thế gian và ma quỉ.
99 con chiên bị vị mục tử nhân lành bỏ lại, như thể đối với vị mục tử này chúng không có giá trị bằng con chiên lạc duy nhất, còn thể hiểu là thành phần biệt phái và luật sĩ là đối tượng được Chúa Giêsu nói với trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần tự cho mình là "người công chính không cần hối cải", như trường hợp người biệt phái đã tỏ ra khi cầu nguyện trong đền thờ mà cùng lúc có một người thu thuế cũng cầu nguyện bị người biệt phái khinh miệt (xem Luca 18:10-14), nhưng lại là một tội nhân sống thật với mình nên đã làm cho cả tầng trời vui mừng.
Chính vì đã thấm nhuần
tinh thần của lòng thương xót Chúa đối với chính bản thân mình là một "đệ
nhất tội nhân" (1Timothêu 1:15) như thế mà vị tông đồ dân ngoại, từng
là chàng biệt phái Saolê tôn sùng Do Thái giáo, đã giảng dạy và huấn dụ giáo
đoàn Roma ở Bài Đọc 1 hôm nay như sau:
"Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Ðức Kitô, bởi có lời chép: 'Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa'. Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa".
Qua lời nhắn nhủ khuyên răn này, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến lòng thương xót đối với nhau, hơn là xét đoán và khinh miệt nhau, cho dù anh chị em mình có lầm lỗi hay sai trái đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa mới là Đấng có thẩm quyền luận án và thưởng phạt họ, còn chúng ta là thành phần "nhân vô thập toàn" không có quyền ném đá bất cứ một ai (xem Gioan 8:7-8), mà chỉ có phận sự thương cảm và cứu giúp nhau. Có thế, chúng ta mới xứng đáng cùng Thánh Vịnh gia vang lên câu họa của Bài Đáp Ca trong Thánh Vịnh 26 hôm nay: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh", và chúng ta cũng mang cùng một tâm tình của những câu xướng sau đó của cũng Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.
3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
Thứ Sáu
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 15, 14-21
"Tôi là người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các người Dân ngoại để của lễ Dân ngoại được Chúa chấp nhận".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện cảm, và đầy mọi sự hiểu biết, cho nên anh em có thể khuyên bảo lẫn nhau. Nhưng tôi đã viết thư này cho anh em có phần khá bạo dạn, có ý nhắc nhủ anh em nhớ lại: nhờ ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi trở nên người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các Dân ngoại, gánh lấy thiên chức rao giảng Tin Mừng, ngõ hầu của lễ Dân ngoại được chấp nhận và được thánh hoá trong Thánh Thần.
Bởi vậy trong Ðức Giêsu Kitô, tôi có thể tự hào trước mặt Thiên Chúa. Vì chưng tôi không dám nói điều gì ngoài việc Ðức Kitô dùng tôi làm cho dân ngoại vâng phục, bằng ngôn ngữ cũng như bằng hành động, nhờ những phép lạ, những việc phi thường và quyền lực của Thánh Thần. Bởi thế, từ Giêrusalem và miền chung quanh cho đến Illyricô, tôi đã rao giảng đầy đủ Tin Mừng của Ðức Kitô.
Như thế, tôi đã rao giảng Tin Mừng này, không phải ở những nơi đã kêu cầu danh Ðức Kitô, để tránh khỏi xây dựng trên nền móng kẻ khác đã đặt, nhưng tôi hành động như lời đã chép: "Những ai chưa hề nghe loan báo về Người, thì sẽ xem thấy Người; và những ai chưa hề nghe nói về Người, thì sẽ hiểu biết Người".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4
Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (x. c. 2b).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 16, 1-8
"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ
Lời Chúa:
sự
sống khôn
khéo
Hôm nay,
Thứ Sáu Tuần
XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm không tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua là
bài Phúc Âm về việc tìm kiếm con chiên lạc và đồng bạc bị thất lạc.
Sau 2 dụ ngôn này là dụ ngôn về người cha nhân lành thương 2 người con đáng thương của mình tùy theo hoàn cảnh của mỗi đứa, nhưng lại không được Giáo Hội chọn đọc, mà lại chọn đọc Bài Phúc Âm ở đầu Đoạn 16 về người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc nên đang mưu toan tìm cách sống còn.
Người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa'".
Người quản lý bất lương đang mưu toan tìm cách sống còn: "Người quản lý thầm nghĩ rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'".
Mục đích
của dụ
ngôn này là gì, hay Chúa Giêsu muốn nói đến dụ ngôn này để làm gì, nếu
không phải Người
muốn khuyên "các
môn đệ" là đối
tượng được Người nói với trong bài Phúc Âm hôm nay, như câu Người
kết luận cũng trong cùng Bài Phúc Âm rằng các vị là "con cái ánh
sáng" thì ngây thơ khù khờ, cần phải "hành
động cách khôn khéo... khi đối xử với đồng loại" như "con
cái đời này" vậy!
"Người
quản lý bất lương" này "khôn khéo" ở chỗ nào, nếu
không phải ở chỗ anh ta chẳng những đánh lừa được chủ nợ mà cả con
nợ của chủ nợ nữa. Bằng cách, anh ta đã biến các con nợ của chủ
thành con nợ của mình, khi tự động giảm nợ cho các con nợ số nợ của
họ với chủ nợ.
Có thể các con nợ cũng biết rằng người quản lý này gian lận ở việc
anh ta giảm nợ cho họ, nhưng dầu sao cũng vẫn có lợi cho họ thì họ
vẫn cứ hưởng chứ dại gì mà vạch trần việc làm gian lận của anh ta
làm chi với chủ của anh ta, hoàn toàn không hề biết gì đến tình
trạng sắp bị thất nghiệp của anh ta, một con người quen làm nghề
quản lý, chứ không quen làm việc tay chân mệt nhọc phần xác hay
chẳng làm gì mà vẫn có tiền như ngồi ăn xin xấu hổ mất mặt.
Thế nhưng, cho tới khi anh ta bị thất nghiệp, đi lang thang kiếm
sống, ghé vào các nhà con nợ đã được anh ta giảm nợ cho để xin
giúp đỡ, thì chẳng lẽ những người ấy lại phũ phàng từ chối xua đuổi
anh ta hay sao? Bấy giờ cho dù họ mới biết bị anh ta lừa đảo song đã
muộn và không thể không giúp anh ta cách nào đó, không nhiều thì ít,
không trước thì sau, miễn là đừng hoài hoài mãi mãi.
Chắc chủ nợ của anh ta có nhiều con nợ đã được/bị anh ta lạm dụng
ban ơn giảm nợ cho, nên anh ta cứ tháng này đến nhà người này, tháng
sau đến nhà người khác gõ cửa, và anh ta ăn xin một cách ngon lành,
không xấu hổ, vì anh ta là ân nhân của các con nợ từ người chủ đã sa
thải anh ta. Thật là "khôn khéo", đúng như người chủ nhận
xét về anh ta ở cuối bài Phúc Âm hôm nay.
Như thế phải chăng Chúa Giêsu đã chấp nhận cái khôn lanh trần gian có vẻ gian dối lừa đảo của người quản lý bất lương trong dụ ngôn là tốt, đáng các môn đệ của Người noi gương bắt chước. Vì Chúa Kitô "là sự thật" (Gioan 14:6) nên Người không thể nào hợp với những gì là gian dối lừa đảo, và vì Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) nên Người không chấp nhận bóng tối.
Bởi vậy, Người không khuyên các môn đệ bắt chước đường lối gian manh của người quản lý bất lương, mà chỉ khuyên các vị hãy bắt chước ước muốn lành mạnh của nhân vật này để khôn khéo làm sao có thể sống sót qua cơn gian nan khốn khó mà thôi: "phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
Thật ra, theo luân lý Công giáo (xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo các khoản 1755-1756), một việc tốt cần phải hội đủ ba điều kiện bất khả thiếu, đó là, thứ nhất việc làm tự bản chất là tốt, thứ hai là phải có ý hướng tốt khi làm việc ấy, và thứ ba là làm việc ấy một cách thích đáng.
Chẳng hạn, đi làm việc tông đồ tự nó là việc làm tốt, với ý hướng chính yếu là để giúp cho giáo xứ hay cộng đoàn dân Chúa của mình thêm sinh động và thăng tiến, thế nhưng, nếu làm việc tông đồ này đến độ bỏ bê trách nhiệm trong gia đình thì việc tông đồ ấy không tốt nữa.
Hay làm việc tông đồ này khi nào có thể nhưng với ý hướng lợi dụng việc tông đồ để quen biết mà trục lợi trong vấn đề làm ăn tư riêng cũng không tốt. Nếu chính việc làm tự bản chất là xấu, chẳng hạn việc trộm cắp, cho dù với ý hướng tốt là để giúp người nghèo thì việc trộm cắp cũng không thể trở thành việc tốt v.v.
Con người dù có ý tốt đến đâu cũng không thể nào biến một việc tự bản chất là xấu thành lành. Chẳng hạn nguyên tổ Eva dù có ý muốn chính đáng và tốt lành là nên giống như Thiên Chúa, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và xu hướng về lý tưởng nên giống như Ngài, thế nhưng cách thức để đạt tới đích điểm ấy, đạt được ý hướng ấy lại không tốt, ở chỗ bất tuân ý Chúa bằng cách nghe theo rắn quỉ ăn trái cấm không được phép, thì việc làm của bà bấy giờ là xấu, tội lỗi.
Việc làm cho người quản
lý bất lương trong dụ ngôn của Bài
Phúc Âm hôm nay,
cho dù có ý hướng tốt là làm sao có thể sống còn, nhưng cách làm của
nhân vật này lại có tính cách dối trá, gian lận của chủ (và cũng
chính vì máu "phung phí" như thế mà hắn đã
bị sa thải), nên
việc làm của hắn trở thành xấu xa. Giá hắn đến xin chủ thương
tình để hắn sửa mình và đền
bù những gì
hắn đã phung phí cho
chủ, hoặc xin chủ
cho làm việc khác nhẹ nhàng mà không dính dáng gì đến tiền bạc có
phải hơn không).
Trái hẳn với "Người quản lý bất lương" trong bài Phúc Âm hôm nay chính là vị tông đồ dân ngoại Phaolô, một con người "nhờ ân sủng Thiên Chúa đã ban cho trở nên người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các Dân ngoại, gánh lấy thiên chức rao giảng Tin Mừng, ngõ hầu của lễ Dân ngoại được chấp nhận và được thánh hoá trong Thánh Thần. Bởi vậy trong Ðức Giêsu Kitô, tôi có thể tự hào trước mặt Thiên Chúa. Vì chưng tôi không dám nói điều gì ngoài việc Ðức Kitô dùng tôi làm cho dân ngoại vâng phục, bằng ngôn ngữ cũng như bằng hành động, nhờ những phép lạ, những việc phi thường và quyền lực của Thánh Thần. Bởi thế, từ Giêrusalem và miền chung quanh cho đến Illyricô, tôi đã rao giảng đầy đủ Tin Mừng của Ðức Kitô".
Thánh Vịnh 97 ở Bài Đáp Ca hôm nay thật là xứng hợp với sứ vụ tông đồ dân ngoại của Thánh Phaolô:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel.
3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.
Ngày 10 tháng 11
Thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh
Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe doạ niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Người ta không biết được thánh Lêo
sinh ra ngày nào và cả nơi sinh của Ngài cũng không được biết chắc. Có lẽ
Ngài là người Roma. Chúng ta chỉ biết được rằng: Ngài là một phó tế góp phần
cai quản dưới hai triều Giáo hoàng Cêlestinô I và Sixtô III và được bầu làm
giáo hoàng năm 440. Được chọn làm giám mục Roma, phải đợi 40 ngày sau Ngài
mới được trở về.
Trước trách nhiệm chất đầy, Ngài đã
sợ: - Lạy Chúa, có sự cân xứng nào giữa gánh nặng Chúa trao và sự yếu hèn
của con, giữa sự cất nhắc và sự hư không của con ?
Và Ngài tiếp : - Chúa đã đặt gánh
nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng
đỡ con.
Công cuộc Ngài làm thật lớn lao và
đa diện khó có thể tóm kết lại được mà không bất công. Dầu vậy, có thể nói
công cuộc này qui về 4 hình thái chính: kiểm soát lạc giáo bên Tây phương,
can thiệp về giáo thuyết quan trọng bên Đông phương, bảo vệ Roma khỏi cuộc
tấn công của dân rợ và những nỗ lực của một mục tử và một nhà giáo dục.
Thánh Lêô đã phải có biện pháp đối
với không dưới ba lạc giáo. Không còn dễ dãi cho những người theo Pêlagiô
được hiệp thông nữa và đòi phải công khai tuyên xưng đức tin trước khi được
nhận là phần tử đầy đủ của Giáo hội. Những người trốn thoát cuộc tấn công
của Valda Phi Châu đã mang thuyết Manichêô đến Roma. Thánh Lêô thấy rằng:
cộng đoàn bí mật này phải được công khai đưa ra ánh sáng. Ngài cũng nhiệt
liệt ủng hộ các giám mục Tây Ban Nha và Phi Châu chống lại thuyết
Priscillanô, những cuộc tranh luận về giáo thuyết tại Giáo hội bên Đông
phương liên quan tới chính bản tính của Chúa. Hai nhà tiền phong của cuộc
tranh luận là Eutiches, một tu viện trưởng ở Constantinople và thánh
Plavianê, thượng phụ giáo chủ Constantinople là người trong cuộc chiến đã bị
những người theo Eutiches hành hạ cho đến chết.
Năm 451, một cộng đồng qui tụ trên
600 giám mục về Chalcedonia. Thánh Lêô đã viết lá thư danh tiếng gởi
Plavianô, trình bày giáo thuyết về ngôi vị và bản tính của Chúa Giêsu Kitô.
Ngài đã đặt bức thư này trên mộ thánh Phêrô, vị thủ lãnh tiên khởi của Giáo
hội và ăn chay cầu nguyện suốt 40 ngày. Bức thư được đọc tại công đồng và đã
được nhận như một bản tuyên xưng đức tin. Quyền tối thượng của Đức giáo
hoàng tỏ hiện khi giám mục đồng thanh kêu lớn : - Chính thánh Phêrô đã nói
qua Lêô.
Như thế đứng đầu các giám mục không
mấy quan tâm tới quyền tối thượng của Roma. Ngài đã cất giữ được sự hiệp
nhất Giáo hội. Ngài đã viết: "Đức tin của Phêrô đã được chính Thiên Chúa mặc
cho sự kiện vững không thể lay chuyển nổi. Dù cho sự cúng lòng của các lạc
giáo hay sư man rợ của lương dân cũng sẽ không bao giờ đảo lộn được đức tin
này".
Trong số các quyết định, Ngài đã
tạo được sự đồng ý giữa Đông Tây cử hành lễ phục sinh vào cùng một ngày ở
khắp nơi.
Một cuộc chiến khác chờ đón Đức
Giáo hoàng Attila và rợ Hung Nô võ trang hùng hậu, gieo rắc những khủng
khiếp chiến tranh và tàn phá. Người ta nói rằng: những người man di này khi
sinh ra là mẹ họ nghiền mặt đi cho hợp với nón sắt, và chính họ xẻ má cho
râu hết mọc nổi. Họ thờ thanh gươm khắc sâu vào bàn thờ, tưới máu các tù
nhân trên đó và làm một thiết đồ bằng đầu các địch thủ. Năm 452, họ đổ vào
miền Bắc Italia gieo rắc tàn phá trên đường tiến quân. Không một đoàn quân
nào có sức bảo vệ Roma. Các tướng lãnh và hoàng đế Valentinô III run sợ chỉ
biết đặt niềm tin tưởng vào Đức giáo hoàng.
Thánh Lêô sau 3 ngày cầu nguyện
chay tịnh đã ra đón người gieo vãi kinh sợ trên thế gian. Và điều gì đã xảy
ra ? Người ta có thể tưởng tượng được một Attila hùng hổ với đoàn quân đông
đảo đối diện với người cha chung của các Kitô hữu mặc phẩm phục giáo hoàng
và chỉ có tình yêu trong lòng làm khí giới. Attila tiến đến Roma với những
dự tính đẫm máu, nhưng Đức Lêô đã đổi lòng hắn. Vương quốc được bình an với
lễ vật triều cống hàng năm. dân Hung Nô trở lại Pannonnia. Đức Giáo hoàng
nói với nhà vua: - Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu chúng ta khỏi tai họa khủng
khiếp.
Đối với dân chúng vui mừng sung
sướng, Ngài truyền cho họ phải cảm tạ Chúa.
Nhưng lòng nhiệt thành và biết ơn
ban đầu đã không tồn tại được lâu. Dân chúng vô ơn và sa đọa, khi nỗi sợ qua
rồi họ quên rằng lòng thương xót họ đã cứu vương quốc và họ lao mình vào các
cuộc chơi bời phóng đãng. Cả đến nhà vua Valentinô cũng làm gương xấu cho
dân chúng. Những lời trách cứ của đức giáo hoàng không được đến xiả tới. Và
ba năm sau, những rợ Vandales dưới quyền vua Ghenséric kéo quân tới. Các
nhân vật lớn chạy trốn, cửa thành bỏ ngõ và Đức giáo hoàng một mình ở lại
với dân Roma. Ngài một lần nữa ra đón quân xâm lăng. Lần này họ ít bị khắc
phục hơn lần trước.
Dầu vậy, ảnh hưởng của thánh Lêô
cũng đáng đủ để kiềm chế bớt cuộc chém giết và sự tàn phá, các nhà thờ được
tôn trọng. Trái với lời hứa hẹn, nhiều dân thành vẫn bị bắt. Đức giáo hoàng
đã chuyển đồ cứu tế cho họ, sai các linh mục tới nâng đỡ họ và còn mua chuộc
lại một số lớn các tù nhân.
Những năm cuối đời Ngài dành sửa
sang lại các tai họa do các cuộc xâm lăng gây nên, xây dựng lại các tu viện
mà với cảm quan về nghệ thuật, Ngài đã làm giàu thêm bao nhiêu là họa phẩm.
Ngài để lai nhiều bài giảng, nhiều thư từ rất quan trọng, ngày nay chúng ta
còn đọc được.
Thánh Lêô từ trần năm 461. Ngài
xứng đáng được mệnh danh là người đầu tiên được chôn cất trong đại vương
cung thánh đường thánh Phêrô. Đức giáo hoàng Sergiô I ghi trên bia mộ của
Ngài: "Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên".
Đây là lời thánh Lêô để lại : -
"Các con được thấm nhập vào Chúa".
- " Trong tâm hồn mỗi tín hữu còn
có cái trên trời mà người ta thán phục".
- "Nước Trời không đến với những
người ngủ mê.
Năm 1754, Ngài được suy tôn lên bậc thánh tiến sĩ trong Giáo hội.
Bài đọc 2
Việc phục vụ đặc biệt trong tác vụ của tôi
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 10/11)
Trích bài giảng của thánh Lê-ô Cả, giáo hoàng.
Hội Thánh phổ quát của Thiên Chúa được tổ chức theo những cấp bậc khác nhau, sao cho các chi thể khác nhau duy trì được sự toàn vẹn của thân thể thánh. Tuy nhiên, như thánh Tông Đồ nói : Tất cả chúng ta chỉ là một trong Đức Ki-tô. Và cũng chẳng ai vì chức vụ của người khác mà bị tách ra, đến nỗi một phần chi thể tầm thường nào đó không còn liên kết với đầu nữa. Vậy anh em thân mến, hợp nhất trong đức tin và trong phép rửa, chúng ta làm thành một xã hội không phân biệt giai cấp, và chúng ta có chung một phẩm giá, theo lời thánh Phê-rô tông đồ nói : Cả anh em nữa, hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi Đền Thờ thiêng liêng và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Và ngay sau đó, thánh nhân nói thêm : Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa.
Thật vậy, dấu thánh giá làm cho mọi người đã được tái sinh trong Đức Ki-tô thành những bậc quân vương, rồi Thánh Thần xức dầu thánh hiến họ thành những tư tế : như vậy, không kể việc phục vụ đặc biệt trong tác vụ của tôi, mọi Ki-tô hữu sống theo ơn Thánh Thần đều biết mình đồng phận với hàng quân vương và được tham gia nhiệm vụ tư tế. Thật vậy, còn gì có tính cách vương giả cho bằng tâm hồn nhờ suy phục Thiên Chúa mà thành người cai quản chính thân xác mình ? Và còn gì có tính cách tư tế cho bằng hiến dâng cho Chúa lương tâm tinh tuyền, và tiến dâng những lễ phẩm vô tỳ tích của lòng đạo đức trên bàn thờ là chính lòng mình ? Nhờ ơn Thiên Chúa, mặc dầu những lễ dâng đó đã trở thành của chung mọi người, nhưng đối với anh em, thật là đạo đức và đáng ca ngợi khi anh em vui mừng với ngày đăng quang của tôi, coi đó như niềm vinh dự riêng của anh em, mà cử hành trong khắp cả Hội Thánh lễ mừng một mầu nhiệm tư tế duy nhất. Khi dầu thánh hiến tuôn chảy, mầu nhiệm ấy hẳn đã đổ tràn lên các chi thể cấp trên dào dạt hơn, nhưng cũng trào không ít xuống các chi thể cấp dưới.
Vậy, anh em thân mến, cho dù chúng ta có dư lý lẽ để cùng vui mừng vì được thông chia ân huệ trên đây, nhưng chúng ta còn có lý do đích thực và chính đáng hơn nữa khi không dừng lại ở thân phận mọn hèn của tôi. Ngược lại, sẽ hữu ích hơn nhiều, xứng hợp hơn nhiều, nếu chúng ta đưa mắt tâm hồn lên chiêm ngưỡng vinh quang của thánh cả Phê-rô tông đồ và cử hành ngày lễ hôm nay chủ yếu là để tôn kính người. Chính suối nguồn mọi đoàn sủng đã tuôn đổ cho người ngập tràn muôn ơn, đến nỗi vì chỉ có một mình người đã nhận được nhiều ơn, nên không có ơn nào được thông ban cho người khác mà chính người lại không được chia sẻ. Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Đức Ki-tô đã tự hiến hoàn toàn để cứu chuộc loài người.
Thánh Giáo Phụ Lêô Cả
Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 5/3/2008
Bài Giáo Lý 68 trong loạt bài về Giáo Hội Hiệp Thông Tông Truyền
Anh chị em thân mến,
Để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta với các vị Giáo Phụ của Giáo Hội, những luồng ánh sáng hướng dẫn thực sự từ xa, trong cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay đây, chúng ta sẽ nhìn đến một vị giáo hoàng, vị mà vào năm 1754, đã được Đức Biển Đức XIV tuyên bố là tiến sĩ của Giáo Hội: hiển nhiên là tôi muốn nói về Đức Leô Cả. Như danh xưng của ngài được truyền thống gán cho, ngài thực sự là một trong những vị đại giáo hoàng làm vẻ vang cho Ngai Tòa Rôma. Ngài đã đóng góp rất lớn cho việc kiên cường quyền bính và thế giá của ngài tòa này. Ngài là vị Giám Mục Rôma đầu tiên lấy tên Lêô, một danh xưng sau đó được xưng nhận bởi 12 vị giáo hoàng nữa. Ngài cũng là vị giáo hoàng đầu tiên chúng ta thấy được việc ngài giảng dạy cho dân chúng qui tụ lại bên ngài trong các cuộc mừng lễ. Điều này làm cho chúng ta tự nhiên nghĩ về ngài liên quan tới các buổi Triều Kiến chung Thứ Tư; một cuộc gặp gỡ trong các thập niên gần đây đã trở thành một cách thức gặp gỡ thông thường và cần thiết với tín hữu cũng như với nhiều khách thăm viếng khác trên khắp thế giới.
Thánh Lêô vào đời ở Tuscia. Ngài đã trở thành một vị phó tế của Giáo Hội Rôma vào khoảng năm 430 và qua giòng thời gian ngài đã tiến lên vị trí cao cả. Ngài nổi bật trong vai trò phó tế này và vào năm 440 Galla Placidia đang cai quản Đế Quốc Rôma Tây Phương bấy giờ đã sai ngài tới Gallia để giúp giải quyết một tình trạng rất ư là khó khăn.
Tuy nhiên, vào mùa hè năm đó, Đức Giáo Hoàng Sisto III – một danh xưng liên quan tới những tấm vi thạch ghép uy linh ở Santa Maria Maggiore – qua đời. Chính Thánh Lêô là vị kế nhiệm ngài; ngài đã nghe tin này trong khi đang thực hiện sứ vụ hòa bình của ngài ở Gaul.
Khi trở về Rôma, vị tân Giáo Hoàng này đã đăng quang vào ngày 29/9/440. Giáo triều của ngài kéo dài 21 năm và phải công nhận là một trong những giáo triều quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội. Khi qua đời vào ngày 10/11/461, vị Giáo Hoàng này đã được mai táng gần một Thánh Phêrô. Thánh cốt của ngài vẫn còn được lưu giữ ở một trong những bàn thờ ở Vatican cho tới ngày nay.
Giáo Hoàng Lêô đã sống vào những thời buổi rất khó khăn: nào là những cuộc xâm chiếm của man dân cứ tái đi diễn lại, nào là tình trạng dần dần suy yếu về quyền lực đế quốc ở Tây phương cùng với một cuộc khủng hoảng lâu dài về xã hội là những gì buộc vị Giám Mục Rôma – như đã từng xẩy ra ở một mức độ trầm trọng hơn nữa vào một thế kỷ rưỡi sau đó trong giáo triều của Đức Grêgôriô Cả – phải lãnh nhận vai trò ở những gì đang xẩy ra về dân sự lẫn chính trị thời bấy giờ. Điều này hiển nhiên đã giúp vào việc làm gia tăng tầm quan trọng và thế giá của Ngai Giáo Hoàng Rôma.
Thánh Lêô Cả được đặc biệt nhớ đến về một số những gì xẩy ra trong cuộc đời của ngài vào năm 452, khi ngài gặp Attila người Mông Cổ ở Matua và đã chinh phục được ông hủy bỏ cuộc xâm chiếm của ông là những gì đã tàn phá các miền đông bắc Ý quốc. Việc làm này của ngài đã cứu được cả phần đất còn lại của bán đảo Ý quốc.
Biến cố quan trọng đáng ghi nhớ này đã trở thành biểu hiệu cho những nỗ lực hòa bình của vị Giáo Hoàng ấy. Tiếc thay, một sáng kiến khác của vị giáo hoàng này xẩy ra sau đó 3 năm không được thành công cho lắm. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy lòng can đảm kinh khủng. Vào mùa xuân năm 455, Đức Lêô đã không thể ngăn chặn được các nhóm quân Geiseric Vandals xâm chiếm và tàn phá Rôma hai tuần lễ. Dầu sao cử chỉ do vị Giáo Hoàng này thực hiện – vị đã đi tay không cùng với hàng giáo sĩ của ngài đến gặp kẻ xâm lược trong nỗ lực thuyêá phục ông ta dừng tay – đã tránh cho Rôma khỏi bị thiêu rụi và cứu được Đền Thờ Thánh Phêrô, Thánh Phaolô và Thánh Gioan là những nơi dân chúng Rôma đang khiếp sợ ẩn náu.
Chúng ta đã biết rõ những hành động của Giáo Hoàng Lêô, nhờ những bài giảng tuyệt hay của ngài – khoảng gần 100 trong số những bài giảng của ngài đã được bảo trì bằng tiếng Latinh xuất sắc và rõ ràng – cũng như nhờ ở các bức thư của ngài, khoảng ở con cố 150. Trong các bản văn của mình, vị Giáo Hoàng này đã cho thấy tất cả những gì là cao cả của mình, trong việc phục vụ cho chân lý bằng bác ái yêu thương, bằng việc thực hiện không mỏi mệt một thứ ngôn từ chứng tỏ ngài vừa là một thần học gia vừa là vị chủ chiên.
Đức Lêô Cả, vị luôn nhận biết các tín hữu của mình và dân chúng Rôma, song cũng biết được cả mối hiệp thông giữa các Giáo Hội khác nhau cùng những nhu cầu của chư giáo hội này, đã là một vị củng cố và không ngừng phát động vai trò chính yếu của Rôma, cho ngài là vị thừa kế đích thực của Thánh Phêrô Tông Đồ: nhiều vị giám mục tham dự Công Đồng Chung Chalcedon – hầu hết là đông phương – đã hoàn toàn thấy được điều ấy.
Diễn ra vào năm 451, với 350 vị giám mục, công đồng này là một cuộc tụ họp quan trọng nhất chưa hề thấy được cử hành trong lịch sử Giáo Hội. Chalcedon đã tiêu biểu cho mục tiêu cuối cùng về Kitô học của ba công đồng chung trước đó: Công Đồng Chung Nicea năm 325, Constantinople năm 381 và Êphêsô năm 431. Ngay vào thế kỷ thứ 6, 4 công đồng này, những công đồng đã tổng hợp đức tin của Giáo Hội sơ khai, được so sánh với 4 cuốn Phúc Âm, như Thánh Grêgôriô Cả khẳng định trong một bức thư nổi tiếng của ngài (I,24), trong đó ngài đã tuyên bố rằng chúng ta cần phải “chấp nhận và tôn kính, như bốn cuốn Phúc Âm Thánh, 4 Công Đồng ấy”, vì, như ngài giải thích thêm, nhờ những công đồng ấy mới có “cấu trúc của đức tin thánh hảo được dựng nên như trên một nền đá”.
Khi bác bỏ lạc thuyết của Eutiche, một lạc thuyết chối bỏ nhân tính thực sử của Con Thiên Chúa, Công Đồng Chalcedon đã khẳng định mối hiệp nhất nơi một Ngôi Vị duy nhất, không lẫn lộn và không phân chia, của hai bản tính nhân loại và thần linh.
Vị Giáo Hoàng này đã khẳng định niềm tin tưởng vào Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật trong một bản văn tín lý quan trọng gửi cho vị giám mục ở Constantinople, được gọi là “Tom to Flavianus”, một bức thư được đọc ở Công Đồng Chung Chalcedon và được hoan hô bởi các vị giám mục tham dự, được ghi vào văn bản của Công Đồng với những lời này: “Phêrô đã nói qua miệng của Lêô”, các vị nghị phụ đã cùng nhau kêu lên như thế.
Từ việc can thiệp này cũng như những cuộc can thiệp khác trong vấn đề tranh luận về Kitô học trong những năm ấy, rõ ràng là vị Giáo Hoàng này cảm thấy trách nhiệm khẩn trương của vị Thừa Kế Thánh Phêrô, vị có vai trò đặc thù chuyên nhất trong Giáo Hội, vì “chỉ có một vị Tông Đồ duy nhất được lý thác cho những gì được truyền đạt cho tất cả mọi vị tông đồ”, Đức Lêô đã khẳng định như thế trong một những bài giảng về Thánh Phêrô và Phaolô (83,2).
Vị giáo hoàng này đã thực thi những trách nhiệm như thế, ở Tâp phương cũng như Đông phương, bằng việc can thiệp vào những trường hợp khác nhau cách khôn ngoan, cương quyết và minh tường qua các bản văn của ngài cũng như qua những bản viết thảo của ngài. Làm như thế là ngài đã chứng tỏ cho thấy tầm quan trọng của thượng quyền Rôma bấy giờ, cũng như ngày nay, để hiệu nghiệm giúp vào mối hiệp thông là một đặc tính của Giáo Hội Chúa Kitô duy nhất.
Ý thức được tầm quan trọng về lịch sử của những thời buổi ngài đã sống và tình trạng đổi thay đang diễn ra – một thời điểm khủng hoảng trầm trọng – từ dân ngoại tới thành Rôma Kitô Giáo, bằng việc giảng dạy và chăm sóc mục vụ, Đức Lêô Cả đã có thể sống gần gũi với dân chúng và tín hữu. Ngài đã phấn khích việc bác ái ở một thành Rôma đang chịu tình trạng đói kém, tị nạn, bất công và nghèo khổ. Ngài đã ngăn cản những thứ mê tín dị đoan của dân ngoại và các hoạt động của những nhóm Nhị Nguyên Thuyết. Ngài đã liên kết phụng vụ với đời sống hằng ngày của Kitô hữu bằng việc liên kết, chẳng hạn, việc chay tịnh với đức bác ái và bố thí, nhất là trong 4 “tempora” là những gì đánh dấu những thay đổi theo mùa trong năm. đặc biệt là Đức Lêô Cả giảng dạy tín hữu – thậm chí ngày nay các lời của ngài vẫn còn áp dụng cho cả chúng ta nữa – rằng phụng vụ Kitô giáo không phải chỉ là một cách thức để tưởng nhớ những biến cố trong quá khứ mà là những gì chú trọng tới những sự thật vô hình đang sinh động nơi đời sống của hết mọi người. Ngài nhấn mạnh trong một bài giảng (64,1-2) là chúng ta cần phải cử hành Phục Sinh bất cứ lúc nào trong năm “chứ không phải là một cái gì đó trong quá khứ, mà là một biến cố của hiện tại”.
Vị Giáo Hoàng Thánh này nhấn mạnh rằng điều này là toàn phần của một biến cố được hòa tấu: Như vị Hóa Công thở sự sống vào con người được nặn lên từ bùn đất thế nào thì sau nguyên tội Ngài đã sai Con Ngài vào thế gian để trả lại cho con người phẩm vị của họ và hủy diệt triều đại của ma quỉ bằng sự sống mới của ân sủng như thế.
Đó là mầu nhiệm về Kitô học được Đức Leô Cả góp phần trọng yếu và hiệu nghiệm bằng bức thư của ngài cho Công Đồng Chung Êphêsô, khẳng định trong công đồng này những gì Thánh Phêrô đã nói ở Caesarea-Philippi.
Với Thánh Phêrô và như Thánh Phêrô, ngài đã tuyên xưng rằng: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Thiên Chúa cùng với con người, “không xa lạ với nhân loại nhưng xa lạ với tội lỗi” (cf. Serm. 64).
Bằng sức mạnh của niềm tin Kitô học này của mình, ngài đã là một con người cao cả rao giảng an bình và yêu thương. Bởi thế, ngài tỏ cho chúng ta thấy đường lối là trong tin tưởng chúng ta biết sống bác ái. Nhờ Thánh Lêô Cả, chúng ta học biết tin tưởng vào Chúa Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, và hiện thực đức tin của chúng ta hằng ngày qua các hoạt động cho hòa bình cũng như qua tình yêu thương tha nhân.
Đaminh Maria
Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
5/3/2008
Lời nguyện (Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 10/11)
Lạy Chúa, Chúa đã xây dựng Hội Thánh Chúa trên nền tảng vững chắc là các Tông Đồ, khiến cho sức mạnh của ác thần không tài nào thắng nổi. Xin nhậm lời thánh giáo hoàng Lê-ô nguyện giúp cầu thay, mà cho Hội Thánh luôn giữ vững chân lý và được vui hưởng thái bình. Chúng con cầu xin
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 16, 3-9. 16. 22-27
"Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, tôi xin gởi lời chào bà Prisca và ông Aquila, là những người cộng sự viên của tôi trong Ðức Giêsu Kitô, (họ đã liều mất đầu để cứu mạng sống tôi; không chỉ một mình tôi mang ơn họ mà thôi, nhưng còn tất cả các Giáo đoàn dân ngoại nữa), xin gởi lời chào Giáo đoàn đang hội họp tại nhà họ. Xin gởi lời chào Êphênêtô, người tôi yêu quý, ông là hoa quả đầu mùa trong Ðức Kitô bên Tiểu Á. Xin gởi lời chào Maria, người đã vất vả nhiều vì anh em. Xin gởi lời chào Anđrônicô và Giunia, người bà con và bạn tù của tôi; họ là những người danh vọng trong hàng các Tông đồ và đã thuộc về Ðức Kitô trước tôi. Xin gởi lời chào Ampliatô, người tôi rất yêu quý trong Chúa. Xin gởi lời chào Urbanô, cộng sự viên của chúng tôi trong Ðức Giêsu Kitô, và cả Sitakhin, người tôi yêu quý. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện. Tất cả các Giáo đoàn của Ðức Kitô gởi lời chào anh em.
Tôi là Tertiô, người viết thư này, xin gởi lời chào anh em trong Chúa. Caiô, người cho tôi trọ nhà, và toàn thể Giáo đoàn cũng gởi lời chào anh em. Êrastô, chủ kho bạc thị trấn, và Quartô, người anh em, xin gởi lời chào anh em. Nguyện chúc ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng tất cả anh em. Amen.
Kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Tin Mừng tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các dân ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin. Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (x. c. 1b).
Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.
2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Ðáp.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 16, 9-15
"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.
"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Chia sẻ Lời Chúa:
sự sống phàm tục
Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca được Giáo Hội chọn đọc tiếp tục với Bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến người quản lý bất lương bị chủ sa thải nên đã tìm cách để tồn tại trong tình trạng thất nghiệp khốn khổ ấy, và cách thức người quản lý bất lương này làm liên quan đến tiền bạc gian lận của chủ. Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, tiếp tục huấn dụ "các môn đệ", Chúa Giêsu đã nói với các vị về tiền bạc.
Trước hết, đối với tha nhân, Người bảo các vị hãy lợi dụng tiền bạc mà làm việc bác ái, hay nói đúng hơn, đừng coi của hơn người mà ngược lại phải coi người hơn của: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời". Ở đây chúng ta cũng có thể hiểu câu Chúa nói này trong trường hợp chúng ta mất trộm hay buôn bán thua lỗ vì bị lừa đảo, chúng ta cứ việc tìm công lý, nhưng với tấm lòng quảng đại thứ tha cho phạm nhân, thì chúng ta mới đáng được thứ tha cứu độ.
Nếu chúng ta coi người hơn của, thì theo lời Chúa dạy, có nghĩa là chúng ta đã "trung tín trong việc nhỏ (là sử dụng chính đáng tiền bạc nhỏ mọn chẳng là gì so với đức ái cao cả), thì cũng trung tín trong việc lớn (tức mới có thể sống bác ái là những gì trọng đại được)". Ngược lại, nếu chúng ta coi của hơn người, tức là "gian dối trong việc nhỏ (ở chỗ sử dụng tiền của một cách bất chính) thì cũng gian dối trong việc lớn (ở chỗ sống vị kỷ chẳng biết sống bác ái yêu thương gì hết)".
Đến đây chúng ta mới thấy dụ ngôn hôm qua về người quản lý bất lương gian lận tiền bạc bị sa thải vì "phung phí" của chủ có thể sẽ trở thành trường hợp của chính các môn đệ là những người theo Chúa Kitô, qua lời Ngưòi khẳng định với các vị trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật (có thể Chúa ám chỉ các linh hồn được các vị coi sóc hay ơn cứu độ cần các vị ban phát) cho các con".
Sau nữa, đối với Thiên Chúa, Người bảo các vị đừng lệ thuộc vào tiền của mà hãy chỉ phụng sự Thiên Chúa mà thôi, tức hãy coi Thiên Chúa hơn tiền của: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ". Đó là lý do, Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ là thành phần theo Người rằng: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Đúng thế, theo tâm lý chung cũng như theo kinh nghiệm sống đạo thực tế, một khi con người ham thích tiền bạc, mê man của cải trần gian, lúc nào cũng tìm cách và tính toán sao cho có tiền, có nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu, rồi xài sang, sống hết sức tiện nghi đến xa xỉ, thiếu thốn một chút gì thì không chịu được, thì kêu ca nhăn nhó v.v., họ sẽ dễ dàng quên Chúa và bỏ Chúa, thậm chí có những lúc lạm dụng chính đức bác ái để làm tiền, và cũng chỉ vì tiền, vì lợi lộc đâm ra lỗi đức bác ái yêu thương cao cả, mất lòng Chúa. Chẳng hạn, phũ phàng thay và mâu thuẫn thay, họ tranh nhau gây quĩ bác ái cứu trợ v.v.
Giáo lý trong Bài Phúc Âm hôm nay của Chúa Giêsu đề cao tinh thần hơn vật chất, đề cao Thiên Chúa và tha nhân cao cả hơn tiền bạc thường hèn, một huấn dụ Người chỉ khuyên dạy riêng cho riêng các môn đệ của Người, nhưng không ngờ đã trở thành như một cái tát vào mặt thành phần tham lam của cải trần gian, cũng hiện diện và nghe thấy giáo huấn này của Người bấy giờ, và vì thế, cuối Bài Phúc Âm hôm nay còn có thêm chi tiết: "Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người". Một thái độ "nhạo cười" như thể họ cho giáo huấn của Người là những gì không tưởng, chẳng thực tế, không bao giờ thực hiện được, chẳng ai theo nổi.
Thế nhưng, đáp lại, Chúa Giêsu đã thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối và lối sống giả hình của thành phần "biệt phái" có vẻ thông luật và giữ luật hơn người như là các thày dạy luật này rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta (chẳng hạn như tiền của hay danh giá hoặc chức quyền được người ta sùng bái như ngẫu tượng trên hết của họ), thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa" là Đấng, như vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã tuyên tín và giảng dạy ở cuối bức Thư gửi giáo đoàn Roma trong Bài Đọc 1 hôm nay: "khôn ngoan độc nhất", Đấng chí tôn chí ái trên hết mọi sự, Đấng đáng chúng ta cần phải "nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời".
Với tâm tình của một con người chỉ tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình như thế, chúng ta mới có thể cùng Thánh Vịnh gia vang lên những lời của Thánh Vịnh 144 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
Ngày 11 tháng 11
Thánh Mác-ti-nô, giám mục
Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hi-la-ri-ô, lập đan viện Li-guy-gê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (năm 372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Tu-ren và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Gương Thánh nhân: Thánh Mác-ti-nô sinh năm 316, tại Pan-nô-ni, nước Hun-ga-ri, trong một gia đình ngoại giáo; nhưng chính Thánh nhân lại mến mộ đạo Chúa, nên lớn lên đã ghi tên vào sổ dự tòng ở một họ đạo gần đó, mặc dầu bị gia đình chống đối mãnh liệt.
Năm lên 15 tuổi, thánh nhân bị bắt quân dịch. Ngài bị sung vào đạo binh Rô-ma và phục dịch tại xứ Gôn (nước Pháp ngày nay). Đây là nơi sau nầy ngài sẽ rao giảng Tin mừng.
Sống trong quân ngũ, thánh nhân phải gần gũi với đủ thứ hạng người, phần đông họ là những thanh niên ham vui chơi phóng đãng, rượu chè be bét. Ngài không những chẳng chạy theo họ, mà còn luôn làm gương tốt cho họ, có dịp thì khuyên bảo họ theo đường ngay nẻo chánh. Đặc biệt ngài có lòng bác ái yêu thương anh em, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người.
Một hôm ngay mùa đông trên đường đi công tác, thánh nhân gặp ngay ở cổng thành A-mi-en một người ăn xin trần trụi, lạnh run lặp cặp. Ngài liền nhớ lại câu Chúa nói: “Ta trần trụi, các ngươi đã cho áo mặc”.
Đến gần người đó, ngài nói:
– Tôi không có tiền bạc, chỉ có áo quần và khí giới.
Nói xong thánh nhân rút kiếm ra, xẻ đôi chiếc áo choàng đang mặc, và trao cho người ăn mày một nửa.
Tương truyền đêm hôm đó trong giấc ngủ, thánh nhân thấy Chúa Giê-su choàng nửa chiếc áo ngài cho người ăn mày hôm qua và nói:
– Đây là chiếc áo Mác-ti-nô đã cho Ta.
Năm 20 tuổi, thánh nhân lãnh Bí tích Rửa tội. Và 2 năm sau thì xin được giải ngũ, trở về gia đình. Ngài ao ước cho cha mẹ ngài trở lại đạo, và cầu nguyện xin Chúa. Chúa nhậm lời cho mẹ ngài theo đạo, còn cha ngài thì từ chối.
Thánh nhân nghe danh tiếng thánh Hi-la-ri-ô thì đem lòng mộ mến, ngài đã đến xin được chỉ giáo. Và năm 361, ngài đã thành lập tại Li-gu-gê một tu viện, đây là tu viện đầu tiên ở xứ Gôn, nước Pháp.
Từ đó, lòng đạo đức thánh thiện của thánh nhân ngày càng triển nở sâu đậm. Cầu nguyện, hãm mình, ép xác hằng ngày là lẽ sống của ngài. Vì lòng nhân đức tột bậc, ngài được Chúa chọn làm Giám mục giáo phận Tua năm 371. Trong suốt thời gian làm Giám mục, ngài luôn nhiệt thành chăm sóc đoàn chiên, củng cố hàng giáo sĩ, chỉnh đốn các tu viện. Năm 375, chính ngài lập thêm tu viện ở gần sông Loa, đây là trung tâm văn hóa và truyền giáo của ngài.
Có thể nói thánhMác-ti-nô là một Giám mục truyền giáo. Ngoài ra việc chăm sóc giáo phận, huấn luyện các tu sĩ, thánh nhân rảo khắp các làng mạc thành thị, rao giảng đạo Chúa. Ngài đến hầu hết các nơi trong xứ Gôn (nước Pháp), không một làng nào, thành nào mà chẳng được ngài loan báo Tin mừng Nước Trời. Và ngài đã đem được nhiều linh hồn về cho Chúa.
Nhưng đời sống con người có hạn, ai ai cũng phải đi đến cõi chết. “Thánh Mác-ti-nô thấy trước cái chết của minh từ lâu, và ngài nói với anh em rằng: ngày thân xác mình phải tiêu tan đã gần. Bấy giờ có một sự kiện khiến ngài phải đi viếng giáo phận Con-đa-si; hàng giáo sĩ ở đó bất thuận với nhau, ngài biết giờ chết của mình, nên vì muốn tái lập lại sự hòa thuận, nên ngài vẫn quyết định lên đường, hy vọng đạt được đỉnh trọn lành của các nhân đức, nếu có thể tái lập và để sự bình an lại cho Hội thánh”.
“Vậy sau một thời gian ở lại thị trấn đó, đúng hơn là nơi giáo phận mà ngài đã đến, ngài đã hòa giải được các giáo sĩ với nhau, và khi định trở lại tu viện thì bỗng nhiên ngài thấy mình không còn đủ sức nữa, ngài liền gọi anh em đến và cho biết ngài kiệt sức rồi…”
“Ôi con người tuyệt diệu không chịu khuất phục trước lao nhọc, và cũng không chịu khuất phục trước cái chết; không để mình nghiêng ngả về bên nào; không sợ chết thì không ngại sống. Ánh mắt và đôi tay ngài luôn hướng về Thiên Chúa, không để tinh thần bất khuất mình ngơi cầu nguyện…”
Thánh nhân qua đời ngày 8 tháng 11 năm 397 và được mai táng tại giáo phận Tua. Ngài đã được tôn phong Hiển thánh.
Quyết tâm: Noi gương thánh Mác-ti-nô Giám mục, hằng ngày dùng lời cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình, cầu cho kẻ tội lỗi và người ngoại đạo trở về cùng Chúa, và hết lòng lo cho mọi người tin theo Chúa được hòa thuận thương yêu nhau.
Lời nguyện:Lạy Chúa, xưa thánh Giám mục Mác-ti-nô đã làm vinh danh Chúa, khi còn sống cũng như lúc qua đời. Nay xin Chúa cũng ban cho chúng con những hồng ân kỳ diệu, để dù chết, chúng con chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ.
Ngài sinh trong một gia đình vô tôn giáo ở chỗ bây giờ là Hungary, và được lớn lên ở Ý. Là con của một cựu chiến binh, ngài bị ép buộc phải gia nhập quân đội vào lúc 16 tuổi. Ngài theo học đạo, và được rửa tội lúc 18 tuổi. Người ta kể rằng, ngài sống như một tu sĩ hơn là một binh sĩ. Năm 23 tuổi, ngài từ chối tham dự cuộc chiến của Hoàng Ðế Julian Caesar chống với thế giới bằng lập luận sau: “Tôi đã phục vụ ngài như một người lính; bây giờ hãy để tôi phục vụ Ðức Kitô. Hãy thưởng cho những người muốn chiến đấu. Nhưng tôi là một người lính của Ðức Kitô, và thật sai lầm nếu tôi đi đánh nhau”. Sau nhiều khó khăn, ngài được giải ngũ và trở thành môn đệ của Ðức Giám Mục Hilary ở Poitiers.
Martin được tấn phong làm người trừ quỷ, và hoạt động
tích cực chống với bè rối Arian. Ngài trở thành vị ẩn
tu, trước hết sống ở Milan, và sau đó sống ở một đảo
nhỏ. Khi Ðức Hilary được phục hồi quyền bính sau thời
gian lưu đầy, Martin trở về Pháp, và thành lập tu viện
có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó
trong 10 năm, đào tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp
nước.
Dân chúng ở Tours đòi hỏi ngài làm giám mục cho họ. Và
ngài bị lừa đến thành phố này và được đưa đến nhà thờ,
là nơi ngài lưỡng lự nhận chức giám mục. Một vài giám
mục tấn phong nghĩ rằng ngài không xứng đáng làm giám
mục, vì cái bề ngoài xuề xòa và mái tóc thiếu chải chuốt
của ngài.
Cùng với Ðức Ambrôsiô, Ðức Giám Mục Martin chống với Ðức
Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người lạc giáo
– cũng như sự can thiệp của hoàng đế vào vấn đề này.
Ngài còn thuyết phục được hoàng đế tha chết cho
Priscillian (người chủ trương những điều sai lạc về nhân
tính của Ðức Kitô). Vì những nỗ lực này, Ðức Giám Mục
Martin bị cho là cùng phía với bọn lạc giáo, và sau cùng
Priscillian bị xử tử. Sau đó Ðức Giám Mục Martin xin
chấm dứt việc bách hại những người ở Tây Ban Nha theo tà
thuyết của Priscillian. Ngài còn muốn cộng tác với Ðức
Giám Mục Ithacius về một vài lãnh vực, nhưng vì lương
tâm không thấy ổn thỏa nên ngài đã bỏ dở ý định ấy.
Khi đến giờ chết, các môn đệ xin ngài đừng bỏ họ. Ngài
cầu nguyện, “Lạy Chúa, nếu dân của Ngài vẫn còn cần đến
con, con sẽ không từ chối làm việc. Nhưng con xin vâng
theo ý Chúa”.
Lời Bàn Ðiều Thánh Martin quan tâm về sự cộng tác, nhắc nhở cho chúng ta biết hầu như không có gì hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Các thánh cũng là những tạo vật ở trần gian: Họ cũng phải do dự khi quyết định như chúng ta. Bất cứ quyết định nào của lương tâm đều ít nhiều có sự liều lĩnh. Nếu chúng ta chọn đi hướng Bắc, có thể chúng ta không biết được những gì xảy ra ở hướng Đông, hướng Tây hay hướng Nam. Tuy nhiên, quá thận trọng không dám quyết định, thì cũng không phải là nhân đức khôn ngoan, thật vậy, nếu cho rằng “không quyết định là sự quyết định” thì đó là một quyết định sai lầm. |
Bài đọc 2
Thánh Mác-ti-nô, con người khó nghèo và khiêm tốn
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 11/11)
Trích thư của sử gia Xun-pi-xi-ô Xê-vê-rô.
Giám mục Mác-ti-nô đã biết trước giờ ra đi của mình từ lâu. Người cho anh em biết giờ thân xác của người phải tiêu tan đã gần kề. Bấy giờ có một việc khiến người phải đi thăm giáo xứ Can-đơ : các giáo sĩ thuộc Hội Thánh ấy đang bất hoà với nhau. Vì muốn tái lập sự hoà thuận, nên dù biết những ngày cuối đời của mình không còn nhiều, người vẫn không vì thế mà từ khước ra đi. Thật vậy, người nghĩ rằng các hoạt động của mình sẽ kết thúc hoàn hảo, nếu người vãn hồi được sự hoà thuận cho Hội Thánh ấy.
Vậy sau một thời gian lưu lại thị trấn ấy, hay đúng hơn là Hội Thánh người đã tới, và đã tái lập được sự hoà thuận giữa các giáo sĩ với nhau, người nghĩ đến việc trở về đan viện. Nhưng bỗng nhiên sức lực của người sút giảm trầm trọng. Người gọi anh em đến và cho biết mình sắp ra đi. Lúc đó, ai nấy đều buồn phiền khóc lóc và đồng thanh than van : “Cha ơi, sao cha lìa bỏ chúng con ? Cha để chúng con bơ vơ lại cho ai ? Lũ sói rừng hung ác sắp xông vào đoàn chiên của cha, ai sẽ giữ chúng con khỏi bị cấu xé, khi người mục tử đã bị đánh rồi ? Chúng con biết cha ao ước được liên kết với Đức Ki-tô, nhưng phần thưởng dành cho cha đã chắc chắn rồi, cha có trì hoãn một chút cũng không làm cho phần thưởng giảm đi. Xin cha thương chúng con hơn là lìa bỏ chúng con !”
Họ khóc lóc khiến người cảm động. Lúc nào người cũng hoàn toàn kết hợp với Chúa, nên người dễ động lòng thương xót. Có kẻ nói rằng người đã khóc. Người hướng về Chúa, và chỉ đáp lại những người đang khóc bằng lời cầu nguyện sau : “Lạy Chúa, nếu con vẫn còn cần thiết cho dân Chúa, thì con không quản ngại vất vả. Chỉ xin cho ý Chúa được thể hiện.”
Ôi con người tuyệt diệu, không chịu thua vất vả, cũng không chịu khuất phục trước cái chết ! Người hoàn toàn không theo ý riêng mình : không sợ chết, cũng chẳng ngại sống ! Đôi mắt và đôi tay người luôn hướng về trời, không để cho tinh thần bất khuất của mình ngơi cầu nguyện. Rồi các linh mục bấy giờ đang tề tựu bên người xin người đổi bên nằm cho dễ chịu, nhưng người nói : “Xin anh em cứ để yên, xin cứ để tôi hướng lên trời hơn là nhìn xuống đất, để linh hồn tôi thẳng đường khi giờ tôi về với Chúa đã điểm.” Nói xong, người nhìn thấy quỷ đứng bên cạnh. Người liền bảo : “Đồ thú dữ, ngươi đứng đây làm gì ? Đồ sát nhân, ngươi đừng hòng kiếm được gì ở nơi ta. Tổ phụ Áp-ra-ham đang đón ta vào lòng của người.”
Nói những lời đó xong, người trút hơi thở cuối cùng để về trời. Giám mục Mác-ti-nô được tổ phụ Áp-ra-ham đón nhận vào lòng, hưởng niềm hoan lạc. Giám mục Mác-ti-nô, con người khó nghèo và khiêm tốn tiến vào trời, hưởng đầy tràn phúc lộc của Thiên Chúa.
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 11/11)
XPhúc thay vị thánh không nói lời xảo trá, không hạch tội, không kết án người nào.
ĐThánh nhân có mở miệng là để rao giảng Đức Ki-tô, để cầu chúc bình an, bày tỏ lòng nhân ái.
XNói sao về vị thánh không quản ngại gian lao, có chết cũng chẳng nề ; người không từ chối sự sống, cũng không sợ cái chết.
ĐThánh nhân có mở miệng là để rao giảng Đức Ki-tô, để cầu chúc bình an, bày tỏ lòng nhân ái.
Lời nguyện (Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 11/11)
Lạy Chúa, xưa thánh giám mục Mác-ti-nô đã làm vinh danh Chúa khi còn sống cũng như lúc qua đời, nay xin Chúa cũng ban cho chúng con những hồng ân kỳ diệu, để dù sống dù chết, chúng con chẳng lìa xa tình thương của Chúa bao giờ. Chúng con cầu xin