SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXXII Thường Niên 

Năm A (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (Trong Tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: Kn 6, 13-17 (Hl 12-16)

"Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó".

Trích sách Khôn Ngoan.

Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước.

Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình, vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết sức ân cần đón tiếp họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).

Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.- Ðáp.

2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.

3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.

4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Tx 4, 13-14 {hoặc 13-18}

"Nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.

{Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi. Vì thế, anh em hãy dùng những lời đó mà an ủi nhau.}

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 25, 1-13

"Kia chàng rể đến, hãy ra đón người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng Người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi".

"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 25, 1-13

 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Cây Đèn Đức Tin Sáng Lửa Đức Mến Bằng Dầu Đức Cậy

 

 

 

Chiều hướng phụng vụ Lời Chúa càng về cuối phụng niên bao gồm 34 tuần lễ của Mùa Thường Niên càng cho thấy chiều hướng cánh chung. Mà cánh chung, cho dù đã được mở đầu ngay từ “thời điểm viên trọn” (Galata 4:4), "thời điểm sau cùng" (Do Thái 1:2), thời điểm “Thiên Chúa đã sai Con Mình đến hạ sinh bởi một người nữ” (Galata 4:4), nhưng chỉ kết thúc vào thời điểm tái giáng của Chúa Kitô mà thôi. 

Ở đây, trong chu kỳ Năm A theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, một Thánh Ký giành gần nguyên đoạn 24, trước đoạn 25 của Bài Phúc Âm hôm nay, để nói về tận thế bao gồm các hiện tượng và dấu báo về ngày cùng tháng tận này. Nhưng lại không phải là đoạn được Giáo Hội chọn đọc vào thời điểm kết thúc phụng niên hướng về việc Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà Giáo Hội lại chọn dọc và chỉ chọn đọc ba bài Phúc Âm cuối cùng của phụng niên, đều ở trong cùng đoạn 25, về giáo huấn của Chúa Kitô liên quan đến tinh thần và thái độ sống đức tin của chung Kitô hữu. 

Tinh thần và thái độ sống đức tin của Kitô môn đệ của Chúa Kitô phải hoàn toàn khác với và vượt trên thành phần biệt phái và luật sĩ cũng như thành phần trưởng tế và kỳ lão trong dân Do Thái, thành phần duy luật chỉ thiên đã được Người đề cập đến trong suốt 7 Bài Phúc Âm Chúa Nhật, từ Chúa Nhật XXV đến Chúa Nhật  XXXI. Như thể Người ngầm răn dạy thành phần môn đệ Do Thái, không nhiều thì ít, sẵn mang tâm thức lề luật, bị ảnh hưởng men giả hình của họ, rằng đừng sống như họ mà là sống như giáo huấn Phúc Âm của Người là đức tin cứu độ hơn công trạng cứu độ, là lòng nhân hậu hơn là hy tế. 

Trong Bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn 10 trinh nữ hay 10 phù dâu (ám chỉ Kitô hữu) khôn ngoan cầm đèn kèm theo dầu chờ đón chàng rể và nghênh đón chàng rể đến muộn là một huấn dụ Kitô hữu hãy luôn tin tưởng cậy trông vào Chúa Kitô, (dụ ngôn về nén bạc đối với người đầy tớ không sinh lợi ở Bài Phúc Âm 33 tuần tới cũng thế), chứ đừng tin vào mình, như năm cô trinh nữ phù dâu cầm đèn mà không mang theo dầu, để rồi khi chàng rể xuất hiện thì chẳng còn kịp trở tay nghênh đón chàng mà vào dự tiệc cưới với chàng trong mối hiệp thông thần linh. 

Sở dĩ chàng rể là Chúa Kitô đến muộn (late), hay đúng hơn là Người trì hoãn (was delayed), không phải gây ra bởi tính nết vốn chậm trễ của Người là Đấng luôn đúng giờ: "giờ Tôi chưa tới" (Gioan 2:4), mà chính vì và chỉ vì phần rỗi của các trinh nữ nói chung, nhất là các cô khờ dại không mang theo dầu nói riêng: "Anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ" (2Phêrô 3:15). Nhưng thời giờ của Người không thể cứ bị tội lỗi loài người không bao giờ cùng và càng ngày càng kinh khủng chưa bao giờ thấy ngăn cản, đến độ sẽ phải đình trệ vô thời hạn, mà là, trái lại, vào chính lúc "nửa đêm", lúc con người mê ngủ nhất về tâm lý và tối tăm nhất về thể lý, nghĩa là vào lúc con người hoàn toàn bất lực và tội lỗi nhất, thì "Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28).

Vậy thì dầu cần được mang theo đây là gì, nếu không phải là chính lòng "thiết tha trông đợi Người", nghĩa là đức cậy của ngọn đèn đức tin để thắp sáng ngón lửa đức mến, vì theo dụ ngôn chung thẩm của Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXIV là Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua, kết thúc riêng Mùa Thường Niên và chung Phụng Niên cho chu kỳ Năm A theo Thánh ký Mathêu, thì không có đức mến không được thừa hưởng Nước Trời, một đức mến lại chỉ xuất phát từ đức tin: “Đức tin thể hiện qua đức mến (Galata 5:6) cũng là một đức tin sống động nhờ đức cậy và tồn tại với đức cậy. 

Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo đoàn Do Thái đã khẳng định rằng Chúa Kitô “sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để cứu độ mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha (eagerly) trông đợi Người” (Do Thái 9:28), như trường hợp của những cô trinh nữ phù dâu khôn ngoan, chẳng những mang đèn đức tin cháy lửa đức mến, mà còn mang theo cả dầu đức cậy, để giữ cho lửa đức mến tiếp tục cháy sáng cho tới khi chàng rể tới, hay cho tới khi họ gặp được chàng rể, bất chấp mọi thử thách, bao gồm cả việc chàng rể cố ý đến muộn để thử thách đức tin của những ai đón chờ Người, hay nói đúng hơn, để khiến cho thành phần nghênh đón chàng càng tỏ ra “thiết tha” hơn, xứng với tư cách đáng yêu trên hết mọi sự của họ, thành phần không còn tha thiết gì hơn ngoài chàng, một khát vọng thiên đường ngay trên trần thế, một tình trạng hiệp thông thần linh bất diệt ngay trong thời gian hữu hạn. 

Những ai tin vào Chúa Kitô bằng tất cả niềm trông đợi ở Người, trong tất cả mọi sự, với bất cứ giá nào, là thành phần khôn ngoan nhất trên trần gian này. Bởi vì, làm sao để đạt được cùng đích của mình mới là khôn ngoan, bằng không, chỉ là khờ dại, khi đánh mất cái chính yếu để bám vào và tìm kiếm những gì là tạm bợ, là phụ thuộc, là phù du mau qua chóng hết, những thứ chỉ làm cho mình bất an, chán chường, tuyệt vọng v.v. 

Đó là lý do, Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khôn Ngoan, mới chí lý bày tỏ cảm nhận đầy xác tín về những gì khôn ngoan, cho khôn ngoan như là một ngọn đèn “sáng tỏ” hướng dẫn cho “những ai yêu mến nó”, “tìm kiếm nó”, “tỉnh thức tiến lại gần nó”, “tỉnh thức vì nó”, như sau: 

Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước. Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình, vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết sức ân cần đón tiếp họ”.

Nếu những ai tin vào Chúa Kitô bằng tất cả niềm trông đợi ở Người, trong tất cả mọi sự, với bất cứ giá nào, là thành phần khôn ngoan nhất trên trần gian này, thì ngược lại, những ai được khôn ngoan dẫn dắt cũng chỉ biết tìm kiếm Thiên Chúa, khao khát Thiên Chúa và trông đợi ở nơi Người mà thôi, đúng như tâm tình đầy cảm thức siêu nhiên của vị tác giả Thánh Vịnh trong Thánh Vịnh 62 ở Bài Đáp Ca hôm nay.   

1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.

2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài.

3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ.

4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. 

Nếu Chúa Kitô “sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để cứu độ mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha (eagerly) trông đợi Người” (Do Thái 9:28), thì chính niềm tin tưởng trông đợi Người nơi tâm hồn của Kitô hữu sẽ đưa họ đến tận cuộc hội ngộ tối hậu với Chúa Kitô, như năm cô trinh nữ phù dâu khôn ngoan trong Bài Phúc Âm hôm nay, và như Thánh Phaolô khẳng định cùng trấn an Kitô hữu Giáo đoàn Thessalonica trong Thư Thứ Nhất ngài gửi họ ở Bài Đọc 2 hôm nay  (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được diễn giải)

“Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”.


Ngày 12 tháng 11

Thánh Giô-sa-phát, giám mục, tử đạo

Thánh nhân sinh khoảng năm 1580 tại U-cơ-rai-na, trong một gia đình theo Chính Thống Giáo. Nhưng người lại sớm gắn bó với giáo hội U-cơ-rai-na hợp nhất với Rô-ma. Năm 1617, người làm tổng giám mục Pô-lốc và dấn thân phục vụ dân tộc mình không so đo tính toán, nhất là cố gắng lo cho việc hợp nhất Hội Thánh. Thành công trong hoạt động tông đồ của người đã khiến cho các kẻ thù của Hội Thánh Công Giáo căm ghét người. Người bị giết ở Vi-tép trong lúc đang viếng thăm các tín hữu, năm 1623.

12 Tháng Mười Một Thánh Josaphat (1580?-1623) – HUYNH ĐOÀN GIÁO DÂN ĐA MINH

 

Gương Thánh nhân: Thánh Gio-sa-phát sinh tại Vla-đi-mia, nước Ba-lan, năm 1581, trong một gia đình quí phái làm nghề thương mại.

Lớn lên thánh nhân làm phụ giúp một thương gia ở Quin-na. Nhưng ngài cảm thấy lý tưởng đời ngài là phục vụ Chúa và cứu vớt các linh hồn, vì mọi sự ở đời đều mau qua chóng mất, chỉ có Chúa mới tồn tại, chỉ có phần rỗi linh hồn mới xứng đáng mọi người kiếm tìm hơn hết. Ngài cầu xin Chúa soi sáng cho ngài phải chọn đường nào, và sau cùng đã xin gia nhập dòng thánh Ba-si-li-ô.

Nhờ nhân đức và đời sống thánh thiện, năm 1614, thánh nhân được chọn làm bề trên nhà dòng. Ngài tận tụy đào luyện các tu sĩ và luôn nêu gương khắc khổ cầu nguyện cho họ. Nhờ đó, nhà dòng ngày càng phát triển, các tu sĩ ngày càng thêm nhân đức trọn lành.

Danh tiếng thánh nhân lan rộng nên năm 1617, ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục phụ tá cho Tổng Giám mục ở Pô-lô, và năm sau lên kế vị.

Từ ngày lên làm Tổng Giám mục, thánh nhân càng nổ lực sống khắc khổ nhiệm nhặt hơn, để nêu gương cho hàng giáo sĩ, các tu sĩ và đoàn chiên. Đặc biệt ngài dồn hết sức lực vào công việc hiệp nhất trong Hội thánh. Vì lúc đó các Ki-tô hữu phần đông theo nghi thức By-xăn-tin. Thánh nhân dùng sách vở và lời giảng dạy kêu gọi mọi người trung thành với Hội thánh Chúa sáng lập, tuân theo phụng vụ Rô-ma. Nhưng có số người phản đối. Ngài cương quyết giữ vững lập trường hiệp nhất, thế nên họ thù ghét ngài, tìm cách ám hại ngài.

Năm 1623, trên đường đi thăm mục vụ trong tổng giáo phận, thánh nhân bị một đám người thuộc nhóm ly khai giết chết cách dã man. Xác ngài được đưa về chôn cất tại Pô-lô. Và năm 1867, thánh nhân được tôn phong Hiển thánh với thành tích bảo vệ hiệp nhất trong Giáo hội. Chính Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 11 đã ngợi khen ngài: “Theo kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa thì Hội thánh đã được thiết lập để vào thời viên mãn sẽ trở thành như một đại gia đình bao gồm tất cả nhân loại. Và chúng ta biết rằng: cùng với các dấu hiệu khác nói lên đặc tính của mình, Hội thánh được nhận thức nhờ ở sự hiệp nhất đại kết”.

“Thật vậy, khi Đức Ki-tô phán bảo các tông đồ: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta, vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân (Mt. 28, 18-19), thì không những Người trao cho họ sứ mạng Người đã lãnh nhận nơi Chúa Cha, mà hơn nữa, Người còn muốn cộng đoàn tông đồ hiệp nhất, các phần tử phải liên kết với nhau bằng một sợi dây đôi thật khắng khít; bên trong là nhờ một đức tin và nhờ đức ái mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng chúng ta (Rm. 5,5), còn bên ngoài là nhờ quyền bính của một người duy nhất trên tất cả, vì Đức Ki-tô đã đặt Phê-rô làm thủ lãnh các tông đồ, làm như một nguyên lý vĩnh viễn và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất, nhưng để cho sự hiệp nhất và hòa hợp nầy được mãi mãi tồn tại. Thiên Chúa quan phòng đã hiến thánh chúng bằng dấu hiệu của sự thánh thiện và tử đạo”.

“Vinh dự đó cũng đã được ban cho thánh Gio-sa-phát, Tổng Giám mục Pô-lô-xơ, thuộc nghi lễ đông phương La-vô-ni-a, chúng ta thật có lý để coi ngài như cột trụ thời danh và cao cả, nhất là miền ấy. Quả vậy, khó tìm được người nào mang lại vinh dự cho dòng giống Xơ-la-vơ và đã tiếp tục làm được cho phần rỗi của dân Người hơn là Vị mục tử và là tông đồ của họ. Nhất là vì ngài đã đổ máu đào để hiệp nhất Hội thánh, ngài cảm thấy Chúa linh ứng thúc đẩy hoạt động để tái lập sự hiệp nhất của Hội thánh khắp hoàn cầu; ngài hiểu có thể cộng tác vào đó nhiều, nếu duy trì nghi thức Đông phương Xô-la-vơ và dòng thánh Ba-xi-li-ô trong sự hiệp nhất và Hội thánh phổ quát”.

Quyết tâm: Suốt đời sống trung thành với Hội thánh Chúa, và đem hết tài năng sức lực hiệp cùng mọi người thiện chí, cổ động và cầu nguyện cho mọi người hiệp nhất nên một ràn chiên và một chủ chăn, theo gương thánh Gio-sa-phát.

Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giám mục Gio-sa-phát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng con hằng biết noi gương Người, không ngại xả thân vì anh em.

Ngày 12/11: Thánh Josaphat (1580?-1623) - "ĐƯỢC LỜI LÃI CẢ THẾ GIAN MÀ MẤT  LINH HỒN THÌ NÀO CÓ ÍCH GÌ?" (Mt 16.26)


Thánh Josaphat, vị giám mục theo lễ điển Ðông Phương, được coi là vị tử đạo cho sự hợp nhất giáo hội vì ngài cố gắng đưa Chính Thống Giáo về hợp nhất với Rôma.
Vào năm 1054, một sự chia cắt chính thức được gọi là đại ly giáo đã xảy ra giữa Giáo Hội Ðông Phương ở Constantinople và Giáo Hội Tây Phương ở Rôma, vì những bất đồng về thần học và đời sống độc thân của giáo sĩ. Cho đến năm thế kỷ sau, một giáo chủ Chính Thống Giáo ở Kiev và năm giám mục Chính Thống Giáo, quyết định đưa hàng triệu người Chính Thống Giáo dưới quyền về hợp nhất với Rôma. Khi Thượng Hội Ðồng ở Brest Litovsk khai mạc vào năm 1595, thì Thánh Josaphat Kunsevich lúc ấy chỉ là một cậu bé trai, nhưng đã được chứng kiến các kết quả tích cực cũng như tiêu cực của thượng hội đồng.
Hàng triệu Kitô hữu đã không đồng ý với các giám mục về sự hiệp thông với Công Giáo, và cả đôi bên đều tìm cách giải quyết sự bất đồng, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng vũ lực. Do đó cả hai phía đều có nhiều người đã tử vì đạo. Giữa những xáo trộn ấy, Thánh Josaphat là một tiếng nói hòa bình.
Khi còn niên thiếu, nhờ sự khuyến khích của hai vị linh mục dòng Tên, nên ngài đã gia nhập tu viện Holy Trinity ở Vilna năm 1604. Trong thời gian này, ngài quen thân với Joseph Benjamin Rutsky, là người trở lại Kitô Giáo sau một thời gian theo phái Calvin. Cả hai đều muốn sự hợp nhất trong giáo hội và cải tổ đời sống tu trì.
Sau đó, Josaphat được gửi đi trông coi một cơ sở ở Rôma, còn Rutsky được làm tu viện trưởng ở Vilna. Khi Rutsky được làm giáo chủ của Kiev, thì Josaphat lại được thế chỗ Rutsky làm tu viện trưởng. Nhân cơ hội này, Josaphat thi hành kế hoạch cải tổ, nhưng đường hướng cải tổ phản ảnh một đời sống nghiêm nhặt và khắc khổ của ngài, nên không mấy ai hưởng ứng. Ngay cả một tu hội còn dọa ném ngài xuống sông!
Khi là vị giám mục đầu tiên ở Vitebsk, và sau đó ở Polotsk vào năm 1617, Ðức Giám Mục Josaphat phải đối diện với nhiều khó khăn. Có thể nói giáo hội lúc ấy thật thối nát, giáo sĩ tái hôn đến hai ba lần, và họ không lo lắng gì đến việc mục vụ hoặc đời sống gương mẫu. Trong vòng ba năm, Ðức Giám Mục Josaphat phải chấn chỉnh lại giáo hội qua các thượng hội đồng, phân phát sách giáo lý khắp nơi, và áp đặt những quy luật cho hàng giáo sĩ. Nhưng đáng kể hơn cả là chính đời sống của ngài mà hầu như lúc nào cũng đi rao giảng, giáo dục đức tin, thăm viếng những kẻ đau ốm.
Bất kể công việc và tiếng tăm của Ðức Giám Mục Josaphat, những người Chính Thống Giáo ly khai đã bầu một tổng giám mục của họ ngay ở cùng một thành phố. Thật đau lòng cho Ðức Giám Mục Josaphat khi thấy những người ngài phục vụ, bị phân ly trong những cuộc bạo loạn. Ngay cả giáo phận cũ của ngài ở Vitebsk cũng chống đối sự hợp nhất và chống chính ngài. Ðau khổ hơn cả, là chính người Công Giáo mà ngài tìm cách hợp nhất cũng chống đối ngài, chỉ vì họ không thích lễ điển Byzantine mà ngài chủ trương, thay vì lễ điển Rôma. Vì sợ hãi hoặc vì ngu dốt, vị chưởng ấn của Lithuania, tin lời đồn đãi rằng ngài xúi giục dân chúng nổi loạn, nên thay vì giúp đỡ thì lại lên án Ðức Giám Mục Josaphat. Thực sự, ngài chỉ dùng đến quyền lực khi các người ly khai chiếm nhà thờ Mogilev, và ngài xin nhà cầm quyền giúp phục hồi lại quyền bính.
Vào tháng Mười 1623, Ðức Giám Mục Josaphat quyết định trở về Vitebsk để đích thân lắng dịu vấn đề. Ngài biết rất nguy hiểm nhưng cho biết, “Nếu tôi xứng đáng được phúc tử đạo, thì tôi không sợ chết”.
Những người ly khai coi đây là cơ hội để trừ khử Josaphat và làm ngài mất uy tín, nếu họ xúi giục được phe của ngài nổi loạn trước, và coi đó là cái cớ để chống lại. Sự đe dọa tính mạng của ngài quá lộ liễu đến nỗi ngài phải lên tiếng, “Quý vị muốn giết tôi sao? Quý vị phục kích tôi trên đường phố, trên cầu cống, trong chợ búa, ở khắp mọi nơi. Chính tôi đây. Tôi đến với quý vị như một mục tử. Quý vị biết là tôi rất vui mừng để hy sinh cho quý vị. Tôi sẵn sàng chết cho sự hợp nhất của Giáo Hội dưới quyền Thánh Phêrô và các giáo hoàng kế vị”.
Khi người ly khai thấy kế hoạch thất bại, họ lập mưu bằng cách, đưa một linh mục tên Elias đến nơi tụ họp của phe đức giám mục, để lên tiếng sỉ vả bất cứ ai đi ngang qua, nhất là vu khống Ðức Giám Mục Josaphat và Giáo Hội Công Giáo, cốt để chọc tức.
Biết được thâm ý của họ, Ðức Giám Mục Josaphat giữ im lặng và cầu nguyện nguyên ngày. Qua ngày hôm sau, Elias lại đến nữa và các người phục dịch của đức giám mục, đã bắt nhốt Elias trong một căn phòng khi ngài đi vắng. Trở về nhà, thấy vậy ngài đã mở cửa phòng cho Elias trốn đi. Nhưng đã quá trễ. Ðám ly khai chỉ chờ có thế, để báo động cả thành phố đến bao vây với gậy gộc trên tay.
Khi bước ra sau vườn, ngài thấy đám du côn đánh đập các người phục dịch và các linh mục khác, ngài lớn tiếng kêu: “Này các con, các con làm gì những người đó vậy? Nếu các con muốn chống đối cha, thì có cha đây, đừng đụng đến những người ấy!” Sau tiếng hô to, “Hãy giết tên theo giáo hoàng”, bọn họ đánh đập Ðức Giám Mục Josaphat với gậy gộc, sau đó họ dùng rìu và cuối cùng bắn vào đầu ngài. Thi thể đầy máu của ngài bị họ kéo lê ra sông, và quăng xuống đó cùng với xác con chó của ngài.
Những anh hùng vô danh trong thảm kịch này, là các người Do Thái ở Vitebsk. Họ đã liều mạng xông vào toà giám mục, để can gián và cứu những người trong toà giám mục khỏi bị sát hại. Nhờ sự can đảm của họ, nhiều người đã được cứu sống. Cũng chính những người Do Thái này đã công khai lên án các tên sát nhân và thương tiếc Ðức Giám Mục Josaphat, trong khi người Công Giáo ở thành phố lại trốn chui trốn nhủi vì sợ hãi.
Thông thường, sự bạo động luôn luôn có hậu quả trái ngược. Vì hối hận và kinh hoàng về cuộc bạo động khiến họ mất đi một vị giám mục thánh thiện, nên công chúng lại hướng về sự hợp nhất với Rôma. Và sau cùng, đức tổng giám mục mà phe ly khai dựng lên là Meletius Smotritsky, cũng đã hoà giải với Rôma.
Vào năm 1867, Ðức Giám Mục Josaphat là vị thánh đầu tiên của Giáo Hội Ðông Phương được Rôma tuyên phong Hiển thánh.

 

Lời Bàn

Mầm mống chia rẽ được bắt đầu vào thế kỷ thứ tư, khi Ðế Quốc La Mã bị chia cắt làm hai phần Ðông và Tây. Không một lý do nào có thể biện minh cho sự phân ly hiện nay trong Kitô Giáo, mà trong đó 64 phần trăm là Công Giáo Rôma, 13 phần trăm là các Giáo Hội Ðông Phương (hầu hết là Chính Thống Giáo) và 23 phần trăm Tin Lành, trong khi 71 phần trăm dân số thế giới chưa được biết đến Ðức Kitô, thì họ phải là những người được mục kích sự hợp nhất Kitô Giáo và đức bác ái của những người mệnh danh là Kitô hữu!

http://giaoxutanviet.com/ngay-12-thang-11-thanh-gio-sa-phat-giam-muc-tu-dao/

Người đã đổ máu mình
vì sự hợp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 12/11)

Trích thông điệp Hội Thánh của Thiên Chúa của đức giáo hoàng Pi-ô XI.

Hội Thánh của Thiên Chúa đã được thiết lập theo một kế hoạch kỳ diệu, để khi thời gian viên mãn, Hội Thánh nên như một đại gia đình bao gồm toàn thể nhân loại. Chúng ta biết rằng, người ta nhận ra Hội Thánh là của Thiên Chúa nhờ sự hợp nhất phổ quát cũng như nhờ một số đặc tính khác.

Chúa Ki-tô không những trao riêng cho các Tông Đồ sứ vụ Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha khi Người nói : Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất ; vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng Người còn muốn đoàn Tông Đồ hợp nhất hoàn toàn nhờ hai mối dây rất chặt chẽ : bên trong là lòng tin và lòng mến mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta ; còn bên ngoài là việc một người cai quản mọi người, vì Chúa đã trao quyền lãnh đạo các Tông Đồ cho ông Phê-rô, đặt ông làm nguyên lý vĩnh cửu và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất.

Và để mãi mãi duy trì sự hợp nhất và đồng tâm ấy, Thiên Chúa quan phòng đã lấy sự thánh thiện cùng với ơn tử đạo như một ấn tín mà thánh hiến Hội Thánh. Thánh Giô-sa-phát, tổng giám mục Pô-lốc, thuộc nghi lễ Xi-la-vô-ni-a trong Hội Thánh Đông Phương được cả hai vinh dự ấy. Chúng ta có đủ lý do để nhìn nhận người là vinh quang rực rỡ và là cột trụ của những người Xi-la-vô-ni-a theo nghi lễ Đông Phương. Bởi lẽ, khó có ai khác đã làm rạng danh họ hay đã góp phần vào ơn cứu độ cho họ hơn vị mục tử này và cũng là tông đồ của họ, nhất là do việc người đã đổ máu mình vì sự hợp nhất của Hội Thánh. Hơn thế nữa, khi cảm thấy mình được ơn trên thúc đẩy để tái lập sự hợp nhất phổ quát của Hội Thánh, người hiểu rằng mình có thể đóng góp nhiều hơn nữa, nếu duy trì được nghi lễ Xi-la-vô-ni-a Đông Phương và nếp sống đan viện theo thánh Ba-xi-li-ô, trong Hội Thánh duy nhất và phổ quát.

Trong khi đặc biệt quan tâm đến việc giúp cho những người đồng hương của mình liên kết với Toà Thánh Phê-rô, thánh Giô-sa-phát đã tìm mọi lý lẽ để cổ võ cũng như để củng cố mối liên kết ấy, nhất là người nghiên cứu những sách phụng vụ mà các tín hữu Đông Phương và cả chính những người ly khai cũng quen sử dụng, theo truyền thống của các giáo phụ. Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng như thế, người khởi công tái lập sự hợp nhất một cách vừa thật mạnh mẽ vừa thật êm dịu và rất hiệu quả, đến nỗi những kẻ đối nghịch đã gọi người là tên bắt cóc các linh hồn.

 

Lời nguyện (Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 12/11)

 

Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh giám mục Giô-sa-phát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo Hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng con hằng biết noi gương người, không ngại xả thân vì anh em. Chúng con cầu xin

 

Thứ Hai

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 1, 1-7

"Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu; Thánh Thần Chúa tràn ngập hoàn cầu".

Khởi đầu sách Khôn Ngoan.

Hỡi các vị lãnh đạo trần gian, hãy chuộng đức công chính. Hãy tưởng nghĩ về Chúa cách ngay lành, và hãy tìm kiếm Người với tâm hồn đơn sơ. Vì những ai không thử thách Chúa, sẽ gặp thấy Người, và Người sẽ tỏ mình cho những ai tin vào Người. Vì chưng, những tà ý làm xa cách Chúa, và quyền năng bị thử thách sẽ sửa phạt những kẻ ngu đần đó. Sự khôn ngoan sẽ không ngự vào tâm hồn gian ác, và không ở trong thân xác nô lệ tội lỗi. Vì Thánh Thần, Ðấng dạy dỗ chúng ta, sẽ xa tránh kẻ gian dối, lánh xa những tư tưởng ngông cuồng, và lui đi khi sự gian ác tới.

Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu, nhưng không tha thứ kẻ nói lộng ngôn. Vì Thiên Chúa thấu suốt tâm can kẻ ấy, Người thực sự kiểm soát lòng nó và nghe lời nó nói. Vì thần trí Chúa tràn ngập hoàn cầu. Người nắm giữ mọi sự, và thông biết mọi lời.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 4-6. 7-8. 9-10

Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.

2) Khi lời nói chưa lên tới đầu lưỡi, thì kìa, lạy Chúa, Ngài đã biết cả rồi; sau lưng hay trước mặt, Chúa bao bọc thân con, và trên mình con, Chúa đặt tay. Ðối với con, sự thông minh này quá ư huyền diệu, quá cao xa, con thực không thể hiểu ra. - Ðáp.

3) Con đi đâu xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được tới trời, thì cũng có Ngài ngự đó, nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài. - Ðáp.

4) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 25

Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 17, 1-6

"Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.

"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".

Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".

Ðó là lời Chúa.

 


Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 Không sống Đức Tin không thể tránh làm gương mù và có sống đức tin mới có uy tín sửa lỗi cho nhau


Hôm nay, Thứ Hai Tuần XXXII Thường Niên, Bài Phúc Âm bao gồm 3 vấn đề "Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ" của Người, những vấn đề dường như hoàn toàn khác nhau, chẳng liên quan gì đến nhau: vấn đề thứ nhất là "gương xấu", vấn đề thứ hai là "sửa bảo nhau" và vấn đề thứ ba là "lòng tin hạt cải".

Về "gương xấu": 
"Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này".

Về "sửa bảo nhau": "Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: 'Tôi hối hận', thì con hãy tha thứ cho nó"

Về "lòng tin hạt cải":
 "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển', nó liền vâng lời các con".

Th
ật ra, nếu phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy cả 3 vấn đề này đều có liên hệ với nhau. Chẳng hạn: vì "gương xấu không thể nào" không xẩy ra trên thế gian này (vấn đề 1), nên có thể sẽ khiến cho một số người nhẹ dạ như "những trẻ nhỏ" sa ngã phạm tội (vấn đề 2), nhưng muốn khỏi bị gương mù lôi cuốn đến vấp ngã thì cần phải có một "đức tin" trưởng thành thật là vững chắc (vấn đề 3).

Trước hết, về vấn đề "gương xấu": sở dĩ "không thể nào mà không xảy ra" là vì thế gian này, nhất là bản tính của con người, đã bị nguyên tội làm băng hoại, nên mới có những tư tưởng, lời nói, hành vi cử chỉ và việc làm xấu xa bậy bạ. Đôi khi chính đối tượng nhân không có gì là xấu xa bậy bạ, nhưng đối tượng nhân này tự nhiên lại trở thành "dịp tội" cho một người nào đó. Điển hình nhất là một người nữ đẹp, dù rất đoan trang nết na, vẫn rất có thể trở thành "dịp tội" cho một cặp mắt nhục dục nam nhân nào đó.

Trong trường hợp này, người nữ vô tình ấy không làm "gương xấu", mà người nam nhục dục kia vẫn có thể phạm tội, bởi "dịp tội" ở ngay con mắt của nam nhân này (xem Mathêu 5:28-29), ở ngay xu hướng thèm thuồng nhục thể của chàng ta. Nếu anh ta nhắm mắt lại, quay đi hay bỏ đi chỗ khác khi bị cám dỗ thì đã không phạm tội ngoại tình trong lòng của mình. Trái lại, nếu người nữ đã đẹp lại còn ăn mặc sexy thì hành động khiêu dâm hay thân mình gợi dục đến xúi dục mời gọi của nàng quả thực càng là "gương xấu" gây "dịp tội" cho thành phần nam nhân vốn có khuynh hướng chiếm đoạt...

Thế gian đã không thể tránh "gương xấu" mà còn càng gia tăng gương xấu hơn bao giờ hết trong một thế giới càng văn minh về vật chất và càng văn hóa về nhân quyền
, những gương xấu khủng khiếp chưa bao giờ có, chẳng hạn quyền phá thai, quyền được hôn nhân đồng tính v.v., khiến cho Chúa Giêsu dường như đã thấy trước và đã phải công nhận "vì sự dữ gia tăng mà lòng người hầu hết trở nên nguội lạnh" (Mathêu 24:12).

Đối với những ai gây "gương xấu" như thế thì phải chịu trách nhiệm về hành vi cử chỉ của mình: "
vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này". Tại sao hình phạt cho thành phần gây ra gương xấu không phải là một hình phạt nào khác ngoài hình phạt "bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển"? Phải chăng là vì họ chẳng khác gì như đàn heo bị quỉ nhập nên đã lao đầu xuống biển sau khi đám quỉ xuất khỏi người bị chúng ám (xem Mathêu 8:28-30)?

Tuy nhiên, không ai trong chúng ta dám vỗ ngực cho mình là trưởng thành, khó có thể hay không thể nào sa ngã trước bất cứ một 
gương xấu vào một lúc nào đó trong đời, và cũng chẳng ai dám tự phụ cho mình là chưa bao giờ gây gương mù gương xấu cho ai, nghĩa là chúng ta chưa bao giờ phạm tội, vì tội lỗi của chúng ta tự bản chất là một gương mù. Bởi thế, ai cũng có lỗi và cũng cần phải ăn năn thống hối và hoán cải. 

Thế nhưng, không phải vì thế mà chúng ta không dám chỉ bảo cho ai hay sửa lỗi cho ai. Trái lại, chính vì chúng ta lỗi lầm mới thấy được cái xấu xa và tai hại của lầm lỗi gây gương mù gương xấu 
tác hại lẫn nhau của chúng ta, mà chúng ta càng cần phải giúp cho nhau tránh khỏi những lầm lỗi như chúng ta, tránh gây tác hại xấu cho chung đoàn thể của chúng ta, bằng cách giúp nhau hoàn chỉnh lại những gì cần thiết. 

Nhất là phải có lòng quảng đại thứ tha một khi phạm nhân tỏ lòng thống hối ăn năn, thậm chí họ cứ sa đi ngã lại nhiều lần trong ngày nhưng vẫn có thiện chí hoán cải qua hành động họ tỏ thiện chí 
đến xin lỗi chúng ta: "nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: 'Tôi hối hận', thì con hãy tha thứ cho nó". 

C
ó thế, có thông cảm tha thứ cho hối nhân, mới chứng tỏ chúng ta sửa lỗi cho nhau chỉ vì thương nhau và cho công ích, bằng không, nếu cứ chấp nhất nhau, một khi họ đã hối hận và xin lỗi chúng ta, thì rõ ràng là chúng ta sửa bảo nhau chỉ vì những lý do không chính đáng, và chắc chắn chúng ta cũng không được Chúa thứ tha, thậm chí Ngài còn để cho chúng ta bị đong lại đúng cái đấu chúng ta đong cho anh chị em của chúng ta nữa (xem Luca 6:38)

Để có thể vừa tránh gương xấu bất khả tránh xẩy ra trên thế gian đã bị băng hoại bởi nguyên tổ này, và để có thể giúp nhau hoàn chỉnh cuộc đời theo ý Chúa, chúng ta không thể nào thiếu đức tin hay yếu đức tin. Hình ảnh "những trẻ nhỏ" bị lôi cuốn bởi gương xấu và sa ngã theo gương xấu là hình ảnh tiêu biểu cho bản tính yếu đuối của con người, cho một đức tin non dại chưa trưởng thành của Kitô hữu. 

Đó là lý do trong Bài Phúc Âm hôm nay "c
ác Tông đồ thưa với Chúa rằng: 'Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con'". Thật ra đức tin tự bản chất đối nội không tăng trưởng, vì đức tin đã chất chứa tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, không còn thiếu một sự gì. Tuy nhiên, đức tin ấy, đối ngoại, vẫn có thể gia tăng hay giảm sút, mạnh mẽ hay yếu mềm, tùy ở môi trường của đức tin, tùy ở mỗi một người có biết thực hành đức tin hay chăng, nhất là có biết chấp nhận mọi gian nan đau khổ thử thách để sống đức tin và chứng tỏ đức tin hay chăng! 

Tuy nhi
ên, đức tin gia tăng hay lớn lên hoặc mạnh mẽ không phải ở chỗ phát triển về hình dạng như thân thể của con người trong thời kỳ trưởng thành, mà trái lại càng nhỏ đi, nhỏ như "hạt cải" được Chúa Giêsu ví trong bài Phúc Âm hôm nay, "một hạt nhỏ nhất trong các hạt giống" (Mathêu 13:32), nhưng lại có khả năng và quyền lực thần kỳ trong việc có thể "khiến cây dâu này rằng: 'Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển', nó liền vâng lời các con". 

T
ại sao thế, nếu không phải, theo nguyên tắc tu đức và đường lối siêu nhiên, thì càng nhỏ lại càng lớn: "ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này là kẻ lớn nhất trên Nước Trời" (Mathêu 18:4)! 

Kinh nghi
ệm sống đức tin cũng cho thấy, một khi càng cậy mình lại càng thất bại, hay có thành công rồi cũng thất bại, thất bại một cách chua cay, bằng không, càng thành công càng nguy hiểm cho phần rỗi, Trái lại, cho dù đã cố gắng hết sức, lại càng chẳng làm được gì, càng bất lực trong những việc đạo đức và tông đồ mình ham muốn, mà nhờ đó mới có thể hoàn toàn trông cậy vào Chúa, mới càng được Chúa chiếm đoạt và càng làm được những việc cao cả chưa từng thấy và theo sức tự nhiên không thể nào làm được, vì Chúa sống trong họ và hoạt động qua họ, nhờ họ.

Đối với vấn đề đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay, vấn đề về gương mù gương xấu của thế gian và ở thế gian nói chung, những gì bất khả tránh, và về thành phần làm gương mù gương xấu nói riêng, nhất là những ai làm đầu, (chẳng hạn như các vị linh mục lạm dụng hiện nay), dù vô tình hay hữu ý, được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay vừa khuyên nhủ vừa cảnh báo như thế này:

"Hỡi các vị lãnh đạo trần gian, hãy chuộng đức công chính. Hãy tưởng nghĩ về Chúa cách ngay lành, và hãy tìm kiếm Người với tâm hồn đơn sơ. Vì những ai không thử thách Chúa, sẽ gặp thấy Người, và Người sẽ tỏ mình cho những ai tin vào Người. Vì chưng, những tà ý làm xa cách Chúa, và quyền năng bị thử thách sẽ sửa phạt những kẻ ngu đần đó. Sự khôn ngoan sẽ không ngự vào tâm hồn gian ác, và không ở trong thân xác nô lệ tội lỗi. Vì Thánh Thần, Ðấng dạy dỗ chúng ta, sẽ xa tránh kẻ gian dối, lánh xa những tư tưởng ngông cuồng, và lui đi khi sự gian ác tới. Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu, nhưng không tha thứ kẻ nói lộng ngôn. Vì Thiên Chúa thấu suốt tâm can kẻ ấy, Người thực sự kiểm soát lòng nó và nghe lời nó nói. Vì thần trí Chúa tràn ngập hoàn cầu. Người nắm giữ mọi sự, và thông biết mọi lời".

 

Và đó là lý do, vì vừa mù quáng vừa yếu đuối, họ cần phải nguyện cầu cùng Chúa như câu họa của Bài Đáp Ca trong Thánh Vịnh 138 (câu 24) hôm nay: "Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời".


13 Tháng Mười Một, Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)

Mother Cabrini, Italian- American Photograph by Science Source


Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.

 

Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý.  

Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.

Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.

  

Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.


Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.


Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý người lớn.


Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12 năm 1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển về nhà thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ sáng lập. Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.


Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến một phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.


Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và đặt Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.


Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ.”

 

Lời Bàn
Lòng thương người và sự tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc gia. Chúng ta than phiền về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng tin tức hàng ngày cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới không có một chút gì được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những người noi gương Mẹ Cabrini đến, để phục vụ người dân trên đất nước của họ.

https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&display=1&id=564 (trừ lời bàn cuối cùng)

 

Thứ Ba

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 2, 23 - 3, 9

"Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, nhưng thật ra các ngài sống trong bình an".

Trích sách Khôn Ngoan.

Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra, các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết.

Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời.

Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19

Ðáp: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc (c. 2a).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần gian. - Ðáp.

3) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. - Ðáp.

 

Alleluia: Cl 3, 16a và 17c

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Chúa Cha. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 7-10

"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.

"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".

Ðó là lời Chúa.



Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Không thật vô dụng  không thể hữu dụng


Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XXXII Thường Niên hôm nay sát ngay bài Phúc Âm hôm qua, vẫn ở trong bối cảnh Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ của Người để trả lời cho các vị về vấn đề các vị xin Người gia tăng đức tin cho các vị.

Đúng thế, sau khi "c
ác Tông đồ thưa với Chúa rằng: 'Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con'. Chúa liền phán rằng: 'Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển, nó liền vâng lời các con'", thì Chúa Giêsu nói tiếp những gì được Thánh ký Luca thuật lại trong bài Phúc Âm hôm nay:

"Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: 'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống'? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'".

Vậy, phần cuối của bài Phúc Âm hôm qua và cả bài Phúc Âm hôm nay có liên hệ gì với nhau hay chăng? Nói cách khác, việc gia tăng đức tin nơi các tông đồ ở cuối bài Phúc Âm hôm qua, 
và thái độ các vị cần phải tỏ ra sau khi hoàn thành nhiệm vụ đầy tớ của mình như Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, có liên hệ gì với nhau hay chăng?

Vấn đề là ở chỗ nếu không có liên hệ gì với nhau chắc Chúa Giêsu đã không nói 2 vấn đề này liền với nhau như thế. Bởi vì, nếu người đầy tớ làm công cho chủ không biết phận mình, trái lại, theo tự nhiên cảm thấy mình bị chủ lợi dụng, luô
n bắt mình phải phục dịch hầu hạ chủ, cho dù đuợc trả lương cân xứng, vẫn cảm thấy tủi nhục đến độ có thể bỏ cuộc, hay tỏ ra ngang bướng hoặc lén lút biếng nhác cách nào, thậm chí đành phải xin thôi. 

Trái lại, 
người đầy tớ nào biết thân biết phận sẽ thấy rằng tất cả những gì mình làm là phải, là việc của mình, việc của một người đầy tớ trong nhà: "chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm". Không có gì là nhục nhã. Chẳng có gì là tủi hổ. Không có gì là bất công. Chẳng có gì là vô phúc. Trái lại, thậm chí còn cảm thấy được vinh dự là đàng khác. Ở chỗ có việc làm xứng với thân phận thấp hèn của mình, tay làm hàm nhai, không lệ thuộc ai hay ăn bám người nào. Chẳng có việc nào là tầm thường hèn hạ khi sống hợp với nhân phẩm và nhân cách của mình. 

Thế nhưng, với thân phận đầy tớ, họ vẫn không thể nào làm hơn được nữa để giúp cho chủ của họ, nên họ vẫn thực sự cảm thấy mình chỉ "
là đầy tớ vô dụng". "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng" đây còn có thể hiểu là nếu không có họ thì chủ vẫn lo xong việc của chủ thôi, bằng cách thuê mướn những người khác, lắm khi còn khả năng hơn và tinh thần hơn họ nữa, và việc làm của những người đầy tớ thay thế họ đó có thể nhanh hơn họ làm và hoàn hảo hơn họ làm.

Trong 
đời sống hoạt động tông đồ, có một số tâm hồn cảm thấy không có họ thì hội đoàn này, đoàn thể kia, giáo xứ này, cộng đoàn nọ không thể phát triển, trái lại, sẽ bị sụp đổ, thất bại. Họ làm như họ là chủ chứ không phải là đầy tớ. Họ không chấp nhận ai hơn họ và không thể chịu được khi bị người khác phê bình, chỉ trích, chê bai, chửi bới v.v. Cái gì cũng phải làm theo ý của họ mới được. Ý của họ bao giờ cũng hay, cũng nhất, không thể nào bỏ qua v.v.

Họ tưởng rằng họ làm việc "cho" Chúa hơn là họ làm việc "của" Chúa. Chúng ta chẳng có gì gọi là "cho" Chúa. Bởi vì Chúa chẳng thiếu thốn gì, trái lại, Ngài còn ban cho chúng ta tất cả mọi sự những gì cần thiết (tài năng, thiện chí, tinh thần, vật chất, thời giờ, môi trường v.v.) để chúng ta có thể phục vụ mà làm sinh lợi các nén bạc Ngài trao cho từng người chúng ta. Bởi thế, khi làm việc tông đồ, ở một cách nào đó, là chúng ta "trả về" Chúa những gì Ngài đã ban cho chúng ta, "trả về" Ngài chẳng những cả vố
n lẫn lời gấp trăm: 2 sinh 2, 5 sinh 5 và 10 sinh 10 (xem Mathêu 25:14-30).

Thật vậy, khi làm việc tông đồ hay thi hành thừa tác vụ là chúng ta làm việc "của" Chúa, việc Chúa trao cho chúng ta là thành phần Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, một việc không thể nào không làm, để chứng tỏ chúng ta là Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, vì tự bản chất của mình
, chúng ta "là ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:14), không thể nào không chiếu sáng, một "ánh sáng" không phải tự họ mà có, nhưng chỉ là những gì phản ánh Đấng "là ánh sáng thế gian"(Gioan 8:12)

Đúng thế, để có thể xứng đáng 
làm việc "của" Chúa, chúng ta, về phần tiêu cực, không bao giờ được làm theo ý riêng của mình, dù ý đó có tốt đến đâu và có lợi đến mấy chăng nữa, nếu nó không phải là ý Chúa hay không hợp với ý Chúa, được tỏ ra qua bề trên hay ý chung của đoàn thể, và về phần tích cực, cần phải để cho chính Chúa làm trong chúng ta và qua chúng ta, bấy giờ chúng ta mới có thể trọn vẹn hoàn tất những gì Ngài trao phó cho chúng ta.  

Cho t
ới trình độ tin tưởng vào Chúa, hoàn toàn để cho Ngài làm mọi sự cho việc "của" Ngài trong chúng ta và qua chúng ta, chúng ta mới thấm thía lời Chúa Giêsu dạy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay sau khi chúng ta chỉ là thành phần đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ của mình: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng". 

V
à chỉ khi nào chúng ta cảm thấy mình thật sự là "vô dụng", nghĩa là cảm thấy mình hoàn toàn bất lực, không làm được gì thiện hảo ngoài Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và toàn năng mới chính thức và chủ động làm việc "của" Ngài trong chúng ta và qua chúng ta. Bởi thế, kinh nghiệm tu đức cho thấy, chính Ngài cũng ra tay thanh tẩy chúng ta khỏi khuynh hướng tự phụ và cậy mình, để chúng ta chỉ tin vào Ngài và để Ngài làm chủ chúng ta thôi. Phải chăng đường lối thần linh này của Thiên Chúa, ở chỗ từ vai trò làm chủ trở thành đầy tớ cho các đầy tớ của mình, khi Người cúi mình xuống trên những bất toàn, bất xứng và thấp hèn xấu xa của con người, để thanh tẩy họ nhờ đó họ xứng đáng với Người cũng như với việc của Người, điển hình nhất là việc Người rửa chân cho các tông đồ ngay trước Bữa Tiệc Ly cho họ được xứng đáng dự phần với Người (xem Gioan 13:1-17).

Thành phần đầy tớ biết chân thành nói "tôi chỉ là đầy tớ vô dụng", sau khi hết mình hoàn thành trách vụ của mình được chủ tin tưởng trao phó cho mình, là những con người được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết rằng:

"Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn".

 

Họ là thành phần có thể vang lên tâm tình như Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 33 ở Bài Đáp Ca hôm nay rằng:

 

1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.

2) Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần gian.

3) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát.  

 

 

 

Ngày 09 tháng 11

CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ

lễ kính

Tiểu sử 
Thánh đường La-tê-ra-nô là vương cung thánh đường của đức giáo hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Con-tan-ti-nô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”. Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của đức giáo hoàng, người kế vị thánh Phê-rô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hợp nhất trong Dân Thiên Chúa.

Bài Ðọc I: Ed 47, 1-2. 8-9. 12

"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Ðáp: Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c. 5).

Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 9b-11. 16-17

"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.

Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 2 Sb 7, 16

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 13-22

"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Ðó là lời Chúa.

 

 

Thứ Tư

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 6, 2-12

"Hỡi các vua chúa, hãy lắng nghe và học biết sự khôn ngoan".

Trích sách Khôn Ngoan.

Hỡi các vua chúa, hãy nghe và hãy hiểu. Hỡi các thủ lãnh trần gian, hãy học biết. Hỡi các vị lãnh đạo quần chúng, các ngươi kiêu hãnh, vì dân các ngươi đông đảo, xin lắng nghe: Quyền bính của các ngươi là do Chúa ban, và uy lực của các ngươi cũng do Ðấng Tối Cao. Người sẽ chất vấn mọi hành động và kiểm soát những tư tưởng các ngươi. Vì nếu các ngươi là những quản lý nước Chúa mà không xét xử công minh, không giữ luật công bình, không sống theo thánh ý Thiên Chúa, thì Người sẽ xuất hiện trên các ngươi cách kinh hoàng mau lẹ. Vì đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 81, 3-4. 6-7

Ðáp: Ôi Thiên Chúa, xin Chúa đứng lên xét xử địa cầu (c. 8a).

Xướng: 1) Hãy bầu chữa kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn. Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác. - Ðáp.

2) Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi sẽ té nhào. - Ðáp.


Alleluia: 1 Tx 2, 13

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa và đích thực là thế. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 11-19

"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".

Ðó là lời Chúa.


 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Vô ơn là thái độ lạm dụng Thiên Chúa và coi Ngài như một phương tiện sử dụng của mình hơn là cùng đích nhắm đến



H
ôm nay, Thứ Tư Tuần XXXII Thường Niên, Bài Phúc Âm cho chúng ta thấy Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người, một cuộc hành trình đã đi tới chỗ "Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa".

Th
ật vậy, cuộc hành trình Giêrusalem của Chúa Giêsu, theo bài Phúc Âm hôm nay ghi nhận, thì kể như mới rời khỏi miền bắc nước Do Thái là Xứ Galilêa, và bắt đầu vượt qua "biên giới" giữa hai miền trung bắc mà vào miền trung của nước này là Samaria. Bởi vì, cũng theo bài Phúc Âm này, Người đã chữa lành cho 10 nạn nhân phong cùi, trong đó có một "là người xứ Samaria". 

Vậy thì 9 người kia có thể toàn là người Do Thái chính gốc, một là họ vốn thuộc về dân cư ở Samaria, chung đụng với thành phần Do Thái vẫn bị những người Do Thái chính cống coi là thứ ngoại lai nhơ nhớp đáng xa tránh, hai là ở Galilêa hoặc Giuđêa nhưng một mình đến cư ngụ ở Samaria để xa tránh gia đình bởi thân phận bị cùi hủi của mình. Có thể vì thế mà họ đã tập trung ở cùng một chỗ với nhau như bài Phúc Âm cho biết: "vào một làng kia", hoàn toàn bị cách ly với xã hội lành mạnh bên ngoài.

Thế nhưng, họ đâu có ngờ rằng, ở một nơi xa vắng cách ly như vậy, một thế giới của những con người bị bỏ rơi, bị kinh sợ, như ma quái ấy, một ngày kia, bất ngờ, họ lại được gặp một vị cứu tinh là Chúa Giêsu, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: "Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: 'Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi'".

Đúng vậy, biết thân biết phận, 10 nạn nhân bị phong cùi đáng thương này "đứng ở đàng xa", chứ không dám đến gần ai. Thế nhưng, vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao từ xa mà họ biết được nhân vật mà hình như họ chưa bao giờ gặp, nhưng lại là vị dường như họ hằng mong chờ ấy là "Chúa Giêsu", Đấng duy nhất có thể cứu họ chứ? 

Không biết có bao giờ Chúa Giêsu đã đến chỗ này hay chưa? Hay là có một ai đó trong họ đã biết Người trước khi đến làng cùi này? Hoặc họ được ai đó ngay lúc bấy giờ liều lĩnh đến báo cho họ biết có sự hiện diện của Chúa Giêsu? Có thể là họ đã nghe tin đồn về Người từ dân làng chung quanh hay chăng, hoặc từ chính những người thân nhân nào đó trong họ đến thăm họ? v.v.

Chỉ biết rằng, Chúa Giêsu không thể không động lòng thương họ khi thấy được hoàn cảnh hết sức đáng thương như thế. Bởi vậy, Người đã đáp ứng lời họ kêu lên cùng Người "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi", bằng lời truyền "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Và thành phần nạn nhân phong cùi không trực tiếp xin Người chữa lành cho mà chỉ gián tiếp xin Người chữa lành nếu Người "thương xót" họđã đồng thanh tin tưởng tuân hành và được chữa lành như bài Phúc Âm cho thấy: "Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch".

Tuy nhiên, sự vụ không chấm dứt ở chỗ này. Sau đó, Phúc Âm tiếp tục cho biết rằng: "Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: 'Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này'. Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: 'Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi'".

Trong đời sống đạo cũng thế, khi chúng ta gặp gian nan khốn khó, tai ương hoạn nạn, đớn đau khổ sở v.v. chúng ta rất mau mắn chạy đến cầu xin cùng Chúa cho chúng ta chóng thoát khỏi những thứ bất hạnh vô phúc ấy. Thậm chí khấn hứa với Ngài điều này điều nọ. Như đã từng xẩy ra trong cuộc vượt biển của thuyền nhân Việt Nam ở thập niên 1980 đang trong cơn nguy tử. Có những lúc chúng ta cầu được ước thấy, để rồi sau khi thoát nạn rồi, chúng ta chẳng giữ lời khấn nguyện gì cả, trái lại, còn lợi dụng xã hội tự do văn minh mà sống một cách vô thần duy vật nữa, như thực tế phũ phàng cho thấy trong cộng đồng Người Việt hải ngoại chúng ta.

Trường hợp của 9 nạn nhân phong cùi được khỏi nhưng vô ơn như thế, hay của những ai được ơn mà vô ơn, thì họ coi Thiên Chúa chỉ là phương tiện cứu độ, như cái phao bám víu trong lúc khẩn cấp vậy thôi, để rồi sau khi tai qua nạn khỏi, họ vứt Ngài đi như vứt bỏ một thứ không còn giá trị gì nữa, hoàn toàn vô dụng, như thể không bao giờ họ gặp gian nan khốn khó như vậy hay hơn vậy nữa. 

Nếu ai có thái độ không coi Thiên Chúa như cùng đích của mình như người phong cùi Samaritanô trở về tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã chữa lành cho mình, thì hãy coi chừ
ng họ sẽ được ứng nghiệm những gì Chúa Giêsu đã nghiêm khắc cảnh báo với nạn nhân bất toại 38 năm được Người chữa lành sau đây: "Hãy nhớ nhé, giờ đây anh đã được khỏi rồi đó. Đừng phạm tội nữa kẻo anh sẽ trở nên tệ hại hơn đó" (Gioan 5:14). 

Về thành phần 9 người phong cùi được chữa lành mà lại coi thường Đấng đã chữa mình thì chẳng khác gì coi những gì mình muốn là nhất, và lợi lộc của mình là cùng đích, còn Thiên Chúa chỉ là thứ yếu, là phương tiện, nghĩa là họ coi mình hơn Thiên Chúa, coi Ngài như đầy tớ của mình, là bầy tôi phải phục vụ họ là chủ nhân ông, là thành phần lãnh đạo, nắm trong tay quyền bính, không cần biết ơn bề dưới, thì Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay đã vừa cảnh báo vừa nhắn nhủ họ như sau:

 

"Đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.

 

Nếu Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến 9 người cùi vô ơn, thì Bài Đáp Ca (trích Thánh Vịnh 81) hôm nay liên quan đến người cùi biết ơn, như sau:

 

1) Hãy bầu chữa kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn. Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác.

2) Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi sẽ té nhào.



15/11

Thánh Albertô Cả, Giám mục Tiến sĩ Hội thánh

 

Saint Albert the Great, Bishop and Doctor - My Catholic Life!

I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ

Thánh Albert Cả là linh mục Ða Minh người Ðức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristote được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.

Các sinh viên triết biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas. Sự hiểu biết về triết Aristote của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển cái nhìn tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực và cần cù.

Ngài sinh năm 1206 tại Lauingen (Bavaria). Là con cả của một lãnh chúa quyền thế và giàu có ở Ðức. Ngay từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào trường đại học ở Padua, nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Ða Minh khiến gia đình thật khó chịu.

Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực khác nhau đã thúc giục ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng biện, toán học, thiên văn, luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công trình này phải mất 20 năm mới hoàn tất. Ngài nói, “Mục đích của chúng tôi là đưa ra tất cả những học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh hội được.”

Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa giảng dạy tại Paris và Cologne, khi làm bề trên dòng Ða Minh và ngay cả khi là giám mục của Regensburg từ năm 1260 đến 1262.

Ngài bảo vệ các dòng Ða Minh và Phanxicô chống lại sự tấn công của William ở Thành Amour, và giúp Thánh Tôma chống lại với tà thuyết Averroi.Thánh
Thánh Albert là vị tiến sĩ uyên bác về mọi phương diện (Universal Doctor), một nhà học giả, một quản trị gia, một nhà triết gia, vạn vật học, và một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức tính của một nhà thông thái ngày nay.

Ngài qua đời ngày 15 tháng 11 năm 1280 tại Cologne, Prussia (modern Germany) và được mai táng trong nhà thờ Thánh Andrea, Cologne.

Ngài được Đức Giáo Hoàng Gregory XV tôn phong Chân Phước năm 1622 và Đức Giáo Hoàng Pius XI phong thánh và tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 16 tháng 12 năm 1931. Đức Pius XII đặt làm quan thầy những nhà chuyên môn tự nhiên học năm 1941.

II. SỰ NGHIỆP.

Nhìn lại cuộc đời của thánh Albertô, chúng ta thấy Ngài quả thực là một thiên tài Chúa ban cho Giáo Hội, là vị tiến sĩ uyên bác về mọi phương diện (Universal Doctor), một nhà học giả, một quản trị gia, một nhà triết gia, vạn vật học, và một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức tính của một nhà thông thái ngày nay, thế nhưng sau những đức tính nổi bất đó, tôi còn thấy một đức tính tuy không nổi bất nhưng lại rất sáng chói cho rất nhiều người ngày hôm nay. Đó là biết rút lui đúng thời đúng lúc nhường GHẾ cho những người có khả năng hơn.

Lịch sử ghi lại: “ Khi đã hoàn thành công cuộc hết sức có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản.”

Tấm gương của Ngài phải nói là một bài học cho nhiều người hôm nay.

Cụ thể nhất là việc Đức Thánh Cha Bênêđictô Ngày 11 tháng 2 năm 2013, tuyên bố sẽ từ chức Giám mục Rôma, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2013.

Trong công nghị lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2 năm 2013, trước sự hiện diện của các hồng y và giám mục, ngài tuyên bố:

“Anh em rất thân mến.

Tôi triệu tập anh em đến dự Công nghị này không phải để chỉ nói về 3 cuộc phong thánh, nhưng còn để thông báo cho anh em một quyết định rất quan trọng đối với đời sống Giáo hội. Sau khi nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi tới sự chắc chắn rằng sức lực của tôi, vì tuổi cao, không còn thích hợp nữa để thi hành sứ vụ Phêrô một cách thích đáng nữa. Tôi ý thức rõ sứ vụ này, do yếu tính thiêng liêng, phải được chu toàn không những bằng hoạt động và bằng lời nói, những còn bằng đau khổ và cầu nguyện. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, đang chịu những biến chuyển mau lẹ và bị dao động vì những vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin, để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, cần có nghị lực cả thể xác lẫn tâm hồn, nghị lực mà trong những tháng gần đây bị suy giảm nơi tôi đến độ tôi phải nhìn nhận mình không có khả năng thi hành tốt sứ mạng đã được trao phó cho tôi. Vì thế, với ý thức rõ ràng về hành vi hệ trọng này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi do tay các hồng y ngày 19 tháng 4 năm 2005, để từ ngày 28 tháng 2 năm 2013 sắp tới, Tòa Roma, Tòa Thánh Phêrô sẽ trống tòa từ lúc 20 giờ và những ai có thẩm quyền cần phải triệu tập Mật Nghị Hồng y để bầu vị giáo hoàng mới.

Anh em rất thân mến, tôi chân thành cảm ơn anh em vì tất cả lòng quý mến và công việc mà anh em đã cùng mang gánh nặng sứ vụ của tôi, và tôi xin lỗi vì tất cả những thiếu sót của tôi. Giờ đây, chúng ta hãy phó thác Hội Thánh cho vị Mục Tử Tối cao, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và cầu xin Mẹ Maria của Ngài, với lòng từ mẫu xin Mẹ trợ giúp các Hồng y trong việc bầu vị giáo hoàng mới. Về phần tôi, cả trong tương lai, tôi muốn hết lòng phục vụ Hội Thánh của Thiên Chúa bằng cuộc sống dành trọn cho việc cầu nguyện.”

Thật là tấm gương sáng chói cho tất cả những ai đang sống trong Giáo hội của Chúa.

Một câu chuyện khác cũng thật cảm động: “Ngày 28/8/2020, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố từ chức. Ông nói trong cuộc họp báo:

“Tôi đã quyết định từ chức Thủ tướng”. “Tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”.

“Tôi xin lỗi từ tận đáy lòng mình rằng mặc dù được sự ủng hộ của người dân Nhật Bản, nhưng tôi vẫn quyết định từ chức dù vẫn còn 1 năm nhiệm kỳ. Tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”

Ngày 03/9/2021, người kế nhiệm ông Shinzo Abe là đương kim Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga lại tuyên bố từ chức. Ông Suga cho biết:

“Như tôi đã nhiều lần nói với mọi người, bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng. Đó là những gì mà bản thân tôi cống hiến”.

“Tôi nhận ra tôi cần nguồn năng lượng rất lớn. Tôi không thể làm cả hai việc (tái tranh cử và xử lý đại dịch). Tôi phải chọn một việc thôi”

Các Thủ tướng Shinzo Abe và Yoshihide Suga đã đặt quyền lợi nhân dân Nhật Bản lên trên quyền lợi cá nhân và đảng phái chính trị. Tuy còn sức khoẻ, còn rất minh mẫn, được nhân dân ủng hộ, nhưng ông Shinzo Abe từ chức trước nhiệm kỳ 1 năm vì “tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”, “tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”. Còn ông Yoshihide Suga thì “bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng”, “tôi cần nguồn năng lượng rất lớn”, “tôi không thể làm cả hai việc”, “tôi phải chọn một việc thôi”.

Nước Nhật hùng mạnh là bởi họ có những nhà lãnh đạo như thế. Họ không tranh luận về chủ thuyết. Họ không hô khẩu hiệu. Họ hành động. Họ biết tuy họ vĩ đại, nhưng còn có nhiều người vĩ đại hơn - nên phải nhường bước. Nếu họ là người vĩ đại nhất thì nước Nhật hết đường tiến.”

 

ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Albertô Cả

 

Anh Chị Em thân mến,
 
Một trong những bậc đại sư của nền thần học thời trung cổ là Thánh Albetô Cả. Danh xưng “Cả” (Magnus) mà ngài đã trải qua trong lịch sử cho thấy tính chất bao rộng và sâu xa nơi giáo thuyết của ngài, một giáo thuyết ngài hòa hợp với đời sống thánh đức. Tuy nhiên, thành phần đồng thời của ngài không ngại qui cho ngài những tước hiệu tuyệt diệu thậm chí vào lúc bay giờ. Một trong những người moan đệ của ngài là Ulric ở Strasbourg, đã gọi ngài là “sự lạ và phép lạ của thời đại chúng ta”.
 
Ngài được sinh ra ở Đức, vào đầu thế kỷ 13. Khi còn trẻ ngài đã đến Ý, đến Padua, địa điểm của một trong những đại học đường nổi tiếng nhất thời trung cổ. Ngài đã dấn thân học hỏi khoa được gọi là “liberal arts”: văn phạm, thuật hùng biện, biện chứng pháp, đại số, hình học, thiên văn học và nhạc, tức là về văn hóa nói chung, chứng tỏ ngài hào hứng đặc biệt về các khoa học tự nhiên là những khoa học chẳng bao lâu trở thành lãnh vực ưu ctú cho việc chuyên muôn hóa của ngài. Trong thời gian ngài ở Padua ngài đã tham dự Nhà Thờ của các tu sĩ Dòng Đaminh, thành phần ngài sau đó gia nhập bằng việc tuyên các lời khan dòng.
 
Các nguồn liệu nguyên cứu về các vị thánh cho rằng Thánh Albetô đã từ từ tiến đến quyết định này. Mối liên  hệ sâu đậm của ngài với Thiên Chúa, gương thánh đức của Anh Em Tu Sĩ Dòng Đaminh, nghe những bài giảng của Chân Phước Jordan thành Saxony, vị thừa kế của Thánh Đaminh làm Tổng Quyền Dòng Giảng Thuyết, là những yếu tố quyết liệt giúp ngài chế ngự mọi ngờ vực và thậm chí thắng vượt được việc chống đối của gia đình ngài. Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong những name tháng trẻ trung của chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy được dự phóng của đời sống chúng ta. Cũng thế đối với Thánh Albetô, cũng như cho tất cả chúng ta, việc tư riêng nguyện cầu, được nuôi dưỡng bằng lời Chúa, việc thường xuyên lãnh nhận các Bí Tích và việc được linh hướng bởi thành phần khôn ngoan là phương tiện khám phá ra tiếng nói của Thiên Cúa và tuân theo tiếng của Ngài. Ngài đã lãnh nhận áo dòng từ Chân Phước Jordan thành Saxony.
 
Sau khi thụ phong linh mục, các vị bề trên của ngài sai ngài đi dạy học ở các trung tâm khác nhau học hỏi về thần học kế can với các tu viện của các Cha Dòng Đaminh. Các phẩm tính thông sáng của ngài đã có thể giúp ngài hoàn hảo những nghiên cứu về thần học của ngài ở đại học đường thời danh nhất bay giờ là Đại Học Paris. Từ bấy giờ trở đi Thánh Albetô bằt đầu hoạt động đặc biệt của mình như một cây bút, một hoạt động ngài đã theo đuổi suốt cuộc đời của ngài.
 
Những công việc có tính cách thanh thế đều được ủy thác cho ngài. Vào năm 1248, ngài có trách nhiệm mở một khóa học hỏi về thần học ở Cologne, một trong những thủ đô theo vùng quan trọng nhất ở Đức, nơi ngài đã sống qua những thời điểm khác nhau và là nơi trở nên thành phố thừa nhận của ngài. Ngài đã mang theo mình từ Paris một học sinh xuất sắc là Thánh Tôma Aquinas. Nguyên công làm thày của Thánh Tôma cũng đủ để heat lòng ca ngợi Thánh Albetô rồi. Mối liên hệ và tương kính và tương thân đã phát triển giữa hai đại thần học gia này, những thái độ nhân bản là những gì rất hữu ích trong việc phát triển ngành kiến thức này. Vào năm 1254, Thánh Albetô được chọn làm Giám Tỉnh Các Cha Đaminh Tỉnh Dòng Teutonic là tỉnh dòng bao gồm các cộng đồng rải rác khắp vùng rộng lớn ở Trung Âu và Bắc Âu. Ngài nổi bật về lòng nhiệt thành được ngài thi hành thừa tác vụ này, bằng việc viếng thăm các cộng đồng và liên tục kêu gọi anh em mình trung thành với giáo huấn và gương sáng của Thánh Đaminh.
 
Những tặng ân của ngài không thoát khỏi sự chú ý của vị Giáo Hoàng thời ấy, đó là Đức Alexander IV, vị muốn Thánh Albetô ở với mình một thời gian tại Anagni là nơi các Giáo Hoàng thường đến ở chính Rôma cũng như ở Viterbo, để làm cố vấn thần học co vị giáo hoàng này. Cũng vị giáo hoàng ấy đã bổ nhiệm Thánh Albetô làm Giám Mục ở Regensburg, một giáo phận rộng lớn và trứ danh, thế nhưng lại là một giáo phận đang trải qua một giai đoạn khó khăn. Từ năm 1260 đến 1262, Thánh Albetô đã thi hành thừa tác vụ này bằng cuộc dấn thân không ngừng nghỉ, thành đạt trong việc phục hồi an bình và hòa hợp cho thành phố ấy, trong việc tái tổ chức lại các giáo xứ và các tu viện cũng như trong việc cống hiến một lức nay mới cho các hoạt động bác ái.
 
Trong năm 1263-1264, Thánh Albetô rao giảng ở Đức cũng như ở Bohemia, theo lời yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Urban IV. Sau đó ngài trở về Cologne và lãnh vai trò giảng viên đại học, học giả và tác giả. Là một con người cầu nguyện, khoa học và bác ái, việc ngài can thiệp uy thế của ngài vào các biến cố khác nhau của Giáo Hội cũng như của xã hội thời bấy giờ đã được hoan nghênh: trước heat ngài là một con người của sự hòa giải và hòa bình ở Cologne, nơi vị Tổng Giám Mục này đã đụng chạm trầm trọng với các cơ cấu của thành phố này; ngài đã đóng góp tối đa trong Công Đồng Lyon Thứ Hai name 1274 là công đồng được Đức Giáo Hoàng Gregôriô IX triệu tập để khuyến khích hiệp nhất giữa các Giáo Hội Latinh và Hy Lạp sau cuộc phân rẽ bởi cuộc đại ly giáo với Đông phương xẩy ra vào năm 1054. Ngài cũng đã dẫn giải tư tưởng của Thánh Tôma Aquinas là những gì đang bị chống đối và thậm chí còn bị nhiều cuộc lên án bất công.
 
Ngài đã chết trong phòng của ngài tại tu viện Thánh Giá ở Cologne vào năm 1280, và được anh em mình tôn kính rất sớm. Giáo Hội đã đặt ngài lên bàn thờ bằng việc phong chân phước cho ngài vào năm 1622 và phong thánh cho ngài vào năm 1931, khi Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên bố ngài là Tiến Sĩ của Giáo Hội. Đó that sự là việc công nhận thích đáng về con người cao cả này của Thiên Chúa và là một học giả ngoại hạng, chẳng những về các sự that của đức tin mà còn về nhiều ngành kiến thức lớn khác; that vậy, với một thoáng nhìn vào các tước hiệu của rất nhiều hoạt động của ngài, chúng ta nhận thấy rằng có một cái gì đó lạ lùng về văn hóa của ngài và những khuynh hướng bách khoa đã dẫn ngài chẳng những đến chỗ quan tâm tới triết lý và thần học, như các nhân vật đương thời của ngài, mà còn tới các hết mọi ngành khác được biết đến bay giờ, từ vật lý tới hóa học, từ thiên văn tới vi thể học, từ thảo mộc tới thú vật. Vì lý do ấy Đức Giáo Hoàng Piô XII đã đặt ngài làm Quan Thày của thành phần say mê các khoa học thiên nhiên và cũng gọi ngài là “Tiến Sĩ về vũ trụ” chính bởi vì sự bao rộng nơi những mối quan tâm và kiến thức của ngài.
 
Dĩ nhiên, các phương pháp khoa học được Thánh Albetô Cả sử dụng không phải là những phương pháp được thiết lập vào các thế kỷ sau đó. Phương pháp của ngài chỉ ở tại việc quan sát, diễn tả và phân loại hiện tượng ngài nghiên cứu, thế nhưng nhờ thế ngài đã mở cánh cửa cho việc nghiên cứu trong tương lai. Ngài vẫn có nhiều điều để dạy chúng ta. Trước hết, Thánh Albetô Cả cho thấy rằng không có vấn đề chống đối nhau giữa đức tin và khoa học, bất chấp xẩy ra một số giai đoạn hiểu lầm được lịch sử ghi nhận. Là một con người của đức tin và cầu nguyện, Thánh Albetô Cả có thể thản nhiên nuôi dưỡng việc nghiên cứu các khoa học tự nhiên và sự tiến bộ về kiến thức của ngành tiểu thế giới và đại thế giới, khám phá thấy các định luật hợp với từng vấn đề, vì tất cả đều góp phần vào việc nuôi dưỡng nỗi khao khát Thiên Chúa và lòng mến yêu Thiên Chúa. Thánh Kinh nói với chúng ta về thiên nhiên tạo vật như là thứ ngôn ngữ đầu tiên nhờ đó Thiên Chúa là thượng trí, là Lời, tỏ cho chúng ta biết một cái gì đó về chính mình Ngài. Sách Khôn Ngoan chẳng hạn, nói rằng hiện tượng thiên nhiên, được trang điểm với những gì là cao cả và đẹp đẽ, giống như các tác phẩm của một nhà nghệ sĩ, qua đó, nhờ so sánh, chúng ta có thể nhận biết Vị Tác Giả của thiên nhiên này (cf Wis 13:5). Nơi tính chất tương tự về cổ điển ở Thời Trung Cổ và ở Thời Phục Hưng, người ta có thể so sánh thế giới thiên nhiên với một cuốn sách được Thiên Chúa viết ra được chúng ta đọc theo các cách thức khác nhau của những ngành khoa học (cf. Address to the participants in the Plenary Meeting of the Pontifical Academy of Sciences, 31 October 2008; L'Osservatore Romano English edition, 5 November 2008, p. 6). Thật vậy, có biết bao nhiêu là khoa học gia, sau Thánh Albetô Cả, đã thi hành việc nghiên cứu của mình theo hứng khởi bởi nỗi ngỡ ngàng và niềm tri ân về một thế giới mà, đối với con mắt của họ là thành phần học giả và tín hữu, đã xuất hiện và đang xuất hiện như là một công cuộc tốt lành của một Vị Hóa Công khôn ngoan và yêu thương! Bởi thế việc nghiên cứu khoa học được biến thành một bài thánh ca chúc tụng. Enrico Medi, một đại thiên văn vật lý gia của thời đại chúng ta, vị đã ở vào tiến trình phong chân phước, đã viết: “Ôi các giải ngân hà huyền diêu các người… tôi thấy các người, tôi tính toán về các người, tôi hiểu biết về các người, tôi nghiên cứu về các người và tôi khám phá ra các người, tôi thấu suốt các người và tôi qui tụ các người. Từ các người tôi thấy được ánh sáng và làm cho nó trở thành kiến thức, tôi thấy các chuyện vận và làm cho nó thành sự khôn ngoan, tôi thấy được các mầu sắc tóe rạng và làm cho nó thành thi ca; tôi cầm lấy trong tay mình tinh tú các người, và cảm thấy rùng mình nơi cái duy nhất của hữu thể tôi, tôi nâng các người lean trên chính các người và dâng hiến các người lên Đấng Hóa Công bằng lời cầu nguyện, để qua duy một mình tôi tinh tú các người có thể tôn thờ” (Le Opere. Inno alla creazione).
 
Thánh Albêtô Cả nhắc nhở chúng ta rằng có một mối thân tình giữa khoa học và đức tin và qua ơn kêu gọi của chúng trong việc nghiên cứu thiên nhiên, các khoa học gia có thể đi vào con đường thánh đức chân thực và thiết tha. Tính chất cởi mở đặc biệt của ngài cũng được tỏ hiện cho thấy nơi một kỳ công về văn hóa được ngài thi hành một cách thành công, tức là việc ngài chấp nhận và cảm nhận tư tưởng của Aristote. Thật vậy, trong thời của Thánh Albetô Cả, kiến thức đã được trải rộng nhờ nhiều tác phẩm của nhà đại tiết lý Hy Lạp này, vị đã sống một phần tư thế kỷ trước Chúa Kitô, nhất là nơi lãnh vực đạo lý và siêu hình. Những tác phẩm này cđã cho thấy năng lực của lý trí, đã giải thích một cách minh bạch rõ ràng ý nghĩa và vấu trúc của thực tại, tính chất dễ hiểu của thực tại và giá trị cùng mục đích của các hành động con người. Thánh Albetô Cả đã mở cửa cho việc hoàn toàn chấp nhận vào triết lý và thần học trung cổ triết lý của Aristote, một thứ triết lý sau đó được Thánh Tôma cung cấp cho một hình thức nhất định. Chúng ta có thể nói việc chấp nhận triết lý của một người ngoại tiền Kitô giáo là một cuộc cách mạng thực sự về văn hóa vào thời bay giờ. Tuy nhiên, nhiều tư tưởng gia Kitô giáo đã cảm thấy sợ triết lý của Aristote, một thứ triết lý ngoài không phải Kitô giáo, nhất là vì, được trình bày bởi những nhà dẫn giải người Ả Rập của ông ta, nó đã được giải thích một cách, ít là ở một số điểm nào đó, như thể hoàn toàn bất khả hòa hợp với đức tin Kitô giáo. Bởi thế đã xẩy ra những gì là nan giải, ở chỗ, đức tin và lý trí có xung khắc với nhau hay chăng?
 
Một trong những công nghiệp lớn lao của Thánh Albetô đó là, với sự khiêm khắc về khoa học, ngài đã nghiên cứu các tác phẩm của Aristote, tin tưởng rằng tất cả những gì that sự hữu lý đều hợp với đức tin được mạc khải trong Thánh Kinh. Nói cách khác, Thánh Albertô Cả do đó đã góp phần vào việc hình thành một thứ triết lý tự lập, khác hẳn thần học và liên kết với thần học chỉ bằng mối hiệp nhất về chân lý. Bởi thế mà vào thế kỷ 13 mới có một phân  biệt rõ ràng giữa hai ngành kiến thức là triết lý và thần học, những ngành kiến thức, nhờ đối thoại với nhau, hợp tác một cách thuận hòa trong việc khám phá ra ơn gọi đích thực của con người, khao khát chân lý và hạnh phúc; và nhất là thần học được Thánh Albetô định nghĩa như là “kiến thức của cảm xúc”, một kiến thức cỉ vẻ cho con người ơn gọi của họ hướng đến niềm vui vĩnh hằng, một niềm vui xuất phát từ việc hoàn toàn gắn bó với chân lý. Thánh Albertô Cả có thể truyền đạt những quan niệm này một cách đơn giản và dễ hiểu. Là một người con chân thực của Thánh Đaminh, ngài muốn rao giảng cho Dân Chúa là thành phần được chính phục bởi lời của ngài cũng như bởi gương sống của ngài.
 
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin Chúa để các thần học gia thức giả không bao giờ bị thiếu thốn trong Hội Thánh, các thần học gia khôn ngoan và đạo hạnh như Thánh Albetô Cả, và xin ngài giúp cho mỗi người chúng ta biết chấp nhận “công thức thánh thiện” ngài đã theo đuổi trong cuộc đời của ngài, đó là “hãy mong muốn tất cả những gì tôi mong muốn cho vinh quang của Thiên Chúa, như Thiên Chúa mong muốn cho vinh quang của Người tất cả những gì Người mong muốn”, nói cách khác, hãy luôn tuân hợp ý muốn của Thiên Chúa, để bao giờ cũng mong muốn và làm hết mọi sự chỉ hoàn toàn cho vinh quang của Người.
 
 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/audiences/2010/documents/hf_ben-xvi_aud_20100324_en.html

 


Thứ Năm

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 7, 22 - 8, 1

"Sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của uy quyền Thiên Chúa".

Trích sách Khôn Ngoan.

Trong sự khôn ngoan có tinh thần sáng suốt, thánh thiện, duy nhất, đa diện, tinh vi, lợi khẩu, linh động, tinh tuyền, chắc chắn, dịu dàng, phục thiện, sâu sắc, bất khuất, hào hiệp, nhân đạo, đại lượng, vững tâm, bền chí, vững chắc, bình thản, làm được mọi sự, kiểm soát hết thảy, thấu suốt mọi thần trí, những kẻ thông minh, những người thanh sạch và những người tế nhị. Sự khôn ngoan linh hoạt hơn mọi chuyển động, và vì trong sạch, nên thấu nhập mọi nơi.

Sự khôn ngoan là hơi thở của quyền năng Thiên Chúa, và là sự phát xuất tinh tuyền của vinh quang Thiên Chúa toàn năng; bởi thế không vật ô uế nào đụng tới được; sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của Uy quyền Thiên Chúa, và là hình ảnh lòng từ nhân của Người.

Tuy duy nhất, nhưng sự khôn ngoan có thể làm mọi sự, và dù bất biến, nhưng có thể canh tân mọi loài. Qua các thế hệ, sự khôn ngoan lan tràn trên các tâm hồn thánh thiện, làm cho các tâm hồn trở nên bạn hữu và tiên tri của Thiên Chúa.

Vì Chúa không yêu mến ai nếu không phải là kẻ ở với sự khôn ngoan. Khôn ngoan xinh đẹp hơn mặt trời, trổi vượt mọi tinh tú, và so với ánh sáng, nó còn trổi vượt hơn, vì ánh sáng có lúc phải nhường chỗ cho bóng tối, nhưng ngay cả gian ác cũng không thắng nổi sự khôn ngoan.

Vậy sự khôn ngoan đã lan tràn mạnh mẽ từ bờ cõi này đến bờ cõi kia, và hướng dẫn mọi loài cách khôn khéo.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 118, 89. 90. 91. 130. 135. 175

Ðáp: Thân lạy Chúa, cho tới đời đời, lời Chúa vẫn còn đó (c. 89a).

Xướng: 1) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao. - Ðáp.

2) Ðời nọ sang đời kia, còn mãi lòng trung thành của Chúa, Ngài đã kiến tạo địa cầu, nó còn đứng vững trơ trơ. - Ðáp.

3) Theo chỉ dụ Chúa, vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Ðáp.

4) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.

5) Xin tỏ cho tôi tớ Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tx 2, 14

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 17, 20-25

"Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".

Ðó là lời Chúa.



Suy Nghiệm Lời Chúa


Nước Trời là một thực tại thần linh,  không theo chiều kích thời gian và không gian mà là chiều kích hiện thực đức tin


Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XXXII Thường Niên, thuật lại cho chúng ta lời Chúa Giêsu trả lời cho "những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu 'Khi nào nước Thiên Chúa đến'".

Trong khi c
âu hỏi liên quan đến thời điểm "khi nào Nước Thiên Chúa đến", câu trả lời của Chúa Giêsu lại nói đến địa điểm hay nơi chốn có tính cách hiện thực "Nước Chúa đến" như thế này: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: 'Này nước trời ở đây hay ở kia'. Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông".

Ở đây, qua câu trả lời này, Chúa Giêsu dường như muốn xác định bản chất của Nước Thiên Chúa, để rồi, nếu biết được thực chất của Nước Thiên Chúa là gì và như thế nào thì sẽ biết Nước Thiên Chúa này địa điểm ở đâu và thời điểm bao giờ đến. Đó là lý do ngay khi bắt đầu trả lời Người đã minh định: "
Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát". 

Lời đầu tiên trong câu trả lời này của Chúa Giêsu như thể Người muốn nói rằng Nước Thiên Chúa là một thực tại vô hình, chứ không phải hữu hình, là 
một thực tại thần linh chứ không phải trần thế. Và chính vì thế, vì bản chất thiêng liêng và thần linh của một thực tại như thế mới có thể xẩy ra chuyện "nước Thiên Chúa ở giữa các ông". 

Ch
úa Giêsu như muốn nói với hay muốn nhắn nhủ những người biệt phái hỏi người bấy giờ rằng: quí vị khỏi tìm đâu xa mất công, chỉ cần có được một nhận thức đức tin siêu nhiên là sẽ thấy Nước Trời ở ngay giữa quí vị, không cần phải tìm ở đâu xa xôi, và vì thế, Nước Trời lúc nào cũng hiện hữu ở giữa quí vị, không cần phải chờ đợi làm chi.

Đúng thế, nếu "ở đâu có hai ba người hợp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ" (Mathêu 18:20), thì Nước Trời đây không phải là chính Chúa Kitô hay sao? Bởi thế, khi trả lời cho những người biệt phái hỏi Người về thời điểm khi nào Nước Trời đến thì thay vì Người trả lời là Nước Trời đã đến rồi (xem Marcô 1:15) Người lại trả lời về địa điểm có tính cách hiện thực của Nước Trời, vì ngay lúc bấy giờ Người chính là Nước Trời đang ở trước mặt họ và đang ở giữa họ, một Nước Trời đã đến với họ và ở cùng họ mà họ không nhận ra, chưa nhận thấy, dù Người luôn tỏ mình ra cho họ.


Vì Nước Trời chính là Chúa Kitô mà ngay sau khi trả lời cho những người biệt phái hỏi Người về Nước Trời 
bấy giờ, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về chính bản thân Người như sau:

"
Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: 'Này Người ở đây và này Người ở kia', các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".

Qua c
âu căn dặn có tính cách cảnh báo này, Chúa Giêsu như muốn nói với các môn đệ của Người rằng: các con không thể nào hiểu được Thày đâu, chính vì thế mà "các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy", vì "nơi Thày đi các con không thể đến được" (Gioan 13:33). 

Thày là Đấng không phải như những gì người ta tưởng đâu các con à, đừng có mà nghe theo óc tưởng tượng giả tạo của họ: "
Người ta sẽ bảo các con: 'Này Người ở đây và này Người ở kia', các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm". Các con chỉ có thể nhận biết Thày thực sự là ai khi Thày "bị treo lên" (Gioan 8:28), nghĩa là chỉ sau khi "Thày đi để dọn chỗ cho các con" trên thập tự giá "để Thày ở đâu các con cũng được ở đó với Thày" (xem Gioan 14:3): "Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".

Th
ế nhưng, con đường tử nạn tràn đầy sự dữ và tận cùng sự dữ này của Chúa Kitô mới thật sự chứng tỏ sự khôn ngoan vô cùng và bất diệt của Thiên Chúa trong việc Ngài nhờ đó mới được dịp và mới có thể tỏ hết bản tính toàn thiện vô cùng từ bi thương xót của Ngài ra, như Ngài thực sự là, cho nhân loại nhận biết mà được cứu độ, mà được hiệp thông thần linh với Ngài.

Đúng vậy, con người nào khôn ngoan nhất trên đời này cũng không thể nào hiểu được sự khôn ngoan siêu việt của Thiên Chúa, một sự khôn ngoan chẳng những vượt lên trên mọi lập luận trần gian mà còn hoàn toàn trái ngược với chọn lựa trần gian. Bởi vì, như Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay cho biết:

"Sự khôn ngoan là hơi thở của quyền năng Thiên Chúa, và là sự phát xuất tinh tuyền của vinh quang Thiên Chúa toàn năng; bởi thế không vật ô uế nào đụng tới được; sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của Uy quyền Thiên Chúa, và là hình ảnh lòng từ nhân của Người. Tuy duy nhất, nhưng sự khôn ngoan có thể làm mọi sự, và dù bất biến, nhưng có thể canh tân mọi loài. Qua các thế hệ, sự khôn ngoan lan tràn trên các tâm hồn thánh thiện, làm cho các tâm hồn trở nên bạn hữu và tiên tri của Thiên Chúa".


Chính vì "sự khôn ngoan đã lan tràn mạnh mẽ từ bờ cõi này đến bờ cõi kia, và hướng dẫn mọi loài cách khôn khéo", như Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay còn khẳng định, mà những ai được hướng dẫn bởi khôn ngoan mới có được những tâm thức đầy tin tưởng của Thánh Vịnh 118 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

1) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao.

2) Ðời nọ sang đời kia, còn mãi lòng trung thành của Chúa, Ngài đã kiến tạo địa cầu, nó còn đứng vững trơ trơ.

3) Theo chỉ dụ Chúa, vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài.

4) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.

5) Xin tỏ cho tôi tớ Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.

6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con.

 

16-11

 

THÁNH MARGARITA SCOTLAND / Tô Cách Lan

(1045-1093)

A Clerk of Oxford: St Margaret of Scotland

 

Toàn lãnh thổ Anh Quốc xôn xao náo động khi hay tin nhà vua tử trận, ngai vàng rơi vào tay quân xâm lăng! Hoàng tử Edgar tuyên bố lên ngôi thế quyền vua cha chống giặc xâm lăng. Ðể tránh đổ máu, hoàng hậu Agatha và công chúa Margaret trốn sang Tô Cách Lan. Họ được vua Malcolm niềm nở tiếp đón. Sự đón nhận thân thiện và ấm cúng hơn khi vua Tô Cách Lan “phải lòng” Margaret, công chúa Anh Quốc.

Nàng công Chúa Margaret nhan sắc tuyệt vời; tính tình thùy mỵ, đoan trang và trầm lặng. Chính những tư cách đó đã “thu hồn” nhà lãnh đạo Tô Cách Lan, vốn bẩm tính nóng nẩy bồng bột. Tuy nhiên, Margaret đã khám phá nơi Malcolm sự chân thành đạo hạnh như những kho tàng quí giá ẩn sâu dưới bề mặt gập ghềnh như vùng đồi núi xứ Tô. Hai người yêu nhau. Lễ thành hôn cử hành năm 1070 vừa khi Margaret tròn 24 tuổi đời. Thật là ngày trọng đại cho toàn dân Tô Cách Lan nói chung và cho vua Malcolm nói riêng. Margaret trở thành Hoàng Hậu Tô Cách Lan.

Là người Công Giáo chân chính, ngay từ khởi đầu cuộc đời hôn nhân, Margaret đã hướng tâm trí chồng vào công cuộc từ thiện bác ái. Tay nàng luôn mở rộng, đón nghe lời van nài của người nghèo khổ. Chẳng bao lâu, Margaret nhận thấy “quê hương thứ hai” của nàng cần phải đổi thay. Vì trong nhiều trường hợp, Linh Mục cũng như giáo dân lơ là việc thực hành Ðức Tin. Sự giáo dục trẻ em bị bỏ rơi. Việc giữ chay và mừng kính các ngày lễ đã dần rơi vào quên lãng.

Ngoài sắc đẹp duyên dáng và lòng đạo hạnh đáng yêu của vợ, vua Malcolm còn thấy Margaret có một trí thông minh xuất chúng, biết nhìn xa trông rộng. Bởi đó, nhiều lần Malcolm đã tham khảo ý kiến nàng về việc nước và trao đặt công cuộc ích quốc lợi dân nơi tay nàng.

Công việc đầu tiên nhân danh quyền bính của chồng, Margaret kêu gọi họp công đồng toàn quốc. Các vị Giám Mục và Linh Mục trong nước hội họp và bàn luận để chấn chỉnh cách sống đạo của Giáo Hội Tô Cách Lan. Kết quả trông thấy! Giáo Hội Tô Cách Lan ngày một cải tiến. Người ta xây nhà thờ mới, sửa chữa nhà thờ cũ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc được mời đến truyền đạo. Nhiều tu viện được thành lập, trong đó có đan viện Dunfermline do chính hoàng hậu Margaret và vua Malcolm thiết lập. Con em được giáo dục chu đáo.

Thánh Margarita ở Tô Cách Lan quả thật là một phụ nữ đã được giải phóng nghĩa là ngài hoàn toàn tự do để trở thành chính bản thân mình theo đúng nghĩa. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Margarita không phải sinh ra là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và Thái Tử Edward Atheling của xứ Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều đình của người bác là vua thánh Edward, vua nước Anh. Khi bị William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margarita. Và họ đã kết hôn ở lâu đài Dunfermline năm 1070.

Vua Malcolm là người tốt bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì tình yêu của Malcolm dành cho Margarita mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức. Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.

Margarita là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.

Dù bận rộn với đại cuộc nhưng Margaret không hề bê trễ việc gia đình. Nàng luôn thiết tha sủng ái và phục vụ chồng. Thêm vào đó nàng phải nuôi nấng và giáo gục 8 người con: 6 hoàng tử và 2 công chúa. Ngày ngày cung điện hoàng gia vang dội lời cầu kinh hai buổi sáng chiều. Nàng dậy các con yêu thương người nghèo khổ, chăm lo việc học hành, dậy chúng học lịch sử hai nước tổ tiên.

Vừa bước ra khỏi lâu đài, hoàng hậu Margaret liền được bọn nghèo khổ, kẻ túng đói, người tật nguyền vây quanh. Họ biết rõ lòng từ ái của nàng. Ai ai cũng được nàng tận tình giúp đỡ. Nàng đến từng căn nhà tồi tàn săn sóc bệnh nhân, thăm nom người nghèo. Giữa những công việc bề bộn hầu như không ngừng đó, Margaret luôn xếp giờ dự lễ, cầu nguyện và đọc Thánh Kinh hằng ngày.

Lúc này hoàng hậu Margaret đã 47 tuổi. Công việc nàng làm đã bằng cả chục người đàn bà khác. Sức nàng yếu kém dần. Thánh giá lần lượt đè trên vai. Vua Malcolm, chồng nàng, và hai hoàng tử phải xuất chinh bảo vệ giang sơn, chống giặc ngoại xâm. Quân ngoại bang quá lớn mạnh, lại thêm giặc nội công, nhà vua và quân đội Tô Cách Lan thật vất vả để chống đỡ giang sơn.

Tại hoàng cung, hoàng hậu Margaret đang bệnh nặng. Nàng thiết tha cầu cho chồng và hai con. Nàng dâng mọi nỗi thương đau bệnh tật, nguyện cầu cho cuộc trở về an toàn của chồng con, cách riêng cho phúc lợi tinh thần của họ.

Một hôm, một thân hình xác xơ, thiểu não, mình đầy thương tích, xuất hiện trước cửa phòng hoàng hậu. Ðó chính là hoàng tử Edgar, con nàng. Với bộ mặt rướm máu, phủ bụi đường, Edgar tiến đến bên giường mẹ, gối quì trong trầm mặc thương đau! Margaret đã cảm biết sự thật phũ phàng, nhẹ nhàng hỏi con:

-Cha con thế nào?

-Mẹ ơi, cha và Edward đã tử trận!

Nói xong, hoàng tử Edgar vùi mặt khóc thảm thương. Hoàng hậu Margaret thều thào trong hơi thở:

-Chúa ơi, còn đau thương nào lớn hơn đau thương này!?Cầu mong thánh giá này thanh tẩy con khỏi mọi tội nhơ!

Sau khi an ủi Edgar và gọi đầy tớ băng bó vết thương cho chàng, Margaret cho mời cha tuyên úy đến.

-Hai điều tôi xin cha, bao lâu cha còn sống, xin vui lòng nhớ cầu cho linh hồn hai vợ chồng tôi qua Thánh Lễ và kinh nguyện hằng ngày; đồng thời trông nom các con tôi, dậy chúng biết Chúa và thực hiện Thánh Ý Ngài.

Sau khi cha tuyên úy hứa thi hành các điều hoàng hậu xin, Margaret xưng tội và rước Mình Thánh Chúa lần sau hết. Thế rồi linh hồn nàng an bình giã từ vương quốc bé nhỏ vừa bị xé rách nơi trần gian, để bay về vương quốc vĩnh cửu thần tiên trên trời. Hôm đó là ngày 16 tháng 11 năm 1093, bốn ngày sau khi vua Malcolm và hoàng tử Edward tử trận.

Hoàng hậu Margaret được chôn cất tại nguyện đường đan viện Dunfermline, và được phong thánh năm 1250.

Lời Bàn

Có hai cách thi hành việc bác ái: cách “sạch sẽ” và cách “bẩn thỉu.” Cách “sạch sẽ” là tặng tiền bạc, quần áo cho các tổ chức phục vụ người nghèo. Cách “bẩn thỉu” là dùng chính bàn tay của mình để phục vụ mà không sợ dơ bẩn. Nhân đức trổi vượt của Thánh Margarita là lòng thương người nghèo. Mặc dù rất giầu sang, nhưng ngài đã đích thân thăm viếng người bệnh hoạn và chăm sóc họ với chính đôi tay của mình. Trong mùa Vọng và mùa Chay, hai ông bà đã quỳ xuống để phục vụ các trẻ em mồ côi và người nghèo hèn. Giống như Ðức Kitô, bà đã thi hành bác ái trong phương cách “bẩn thỉu.”

Lời Trích

“Khi bà lên tiếng, trong lời nói đầy sự khôn ngoan ấy có sức thay đổi lòng người. Khi bà im lặng, sự thinh lặng đầy suy tư. Toàn thể bề ngoài của bà phù hợp với tính tình trầm lặng mà dường như bà được sinh ra với một cuộc đời nhân đức” (Turgot, cha giải tội của Thánh Margarita).


Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp từ 2 vị linh mục: Cha Raymond Nguyễn Mạnh Thư, CRM và Cha Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB

 

St. Gertrude the Great - Saints & Angels - Catholic Online

Thánh Giêtruđê, “Người Nữ duy nhất gốc Đức quốc được gọi là ‘Cả’”

(ĐTC Biển Đức XVI)

 

 

 

Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 13, 1-9

"Nếu họ đã có thể truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy Chúa tể Càn khôn".

Trích sách Khôn Ngoan.

Khờ dại thay tất cả những người không chịu nhận biết Chúa, và cả những người không biết căn cứ vào các sự vật hữu hình để tìm hiểu Ðấng Tự Hữu, và không chú ý đến các công trình để biết ai là Ðấng Hoá công. Nhưng họ kể lửa, gió, khí thiêng, bầu trời đầy tinh tú, nước lũ, mặt trời, mặt trăng là những thần minh bá chủ hoàn cầu. Nếu họ say mê vẻ đẹp của các vật đó mà kể chúng là chúa tể, thì phải biết rằng: Ðấng quản trị các vật đó còn tốt đẹp hơn bội phần, vì chính Ðấng tác sinh thiện mỹ, đã tạo thành mọi vật đó. Hoặc nếu họ ngạc nhiên về năng lực và kỳ công của những tạo vật đó, thì do đó họ phải hiểu rằng Ðấng đã tạo thành các vật đó, còn có quyền lực hơn nhiều, vì do sự cao sang tốt đẹp của tạo vật mà người ta có thể nhìn biết Ðấng tạo dựng mọi loài.

Dầu sao họ cũng không đáng trách mấy, vì chưng, có lẽ họ lầm trong khi tìm kiếm Chúa, và muốn gặp Người. Họ tìm kiếm, khi sống giữa các kỳ công của Chúa, nhưng họ ngộ nhận khi thấy các vật kia tốt đẹp.

Tuy vậy, chính họ cũng không đáng được tha thứ, vì nếu họ có khả năng nhận thức để truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy cách dễ dàng hơn chính Chúa tể càn khôn?

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5

Ðáp: Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.

2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.

Alleluia: 1 Ga 2, 5

Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 17, 26-37

"Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.

"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.

"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.

"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại".

Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó".

Ðó là lời Chúa.



 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Bị mang đi hay được mang đi? - được phúc cứu rỗi hay bị họa hư đi?


Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên, Bài Phúc Âm vẫn tiếp tục với lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, từ dấu chỉ Nước Trời ở bài Phúc Âm hôm qua đến sự kiện Nước Trời trong bài Phúc Âm hôm nay, theo chiều hướng của câu những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu về thời điểm Nước Trời đến trong bài Phúc Âm hôm qua.

Trong b
ài Phúc Âm hôm nay, những lời của Chúa Giêsu nói về ngày tận thế, một thời điểm cho ngày cùng tháng tận của thế giới này, đã xẩy ra như thế nào, được Thánh ký Luca ghi lại những lời Chúa Giêsu cho biết một cách tổng quan liên quan đến dấu hiệu của nó, đến việc cần phải đối phó với nó, và đến hiện tượng của nó thứ tự như sau:

Ngày tận thế - 
Dấu hiệu: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người. Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".

Ng
ày tận thế - Đối phó: "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó".

Ng
ày tận thế - Hiện tượng: "Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người đàn ông nằm trên một giường, thì một người b đem đi, và người kia sẽ được để lại. Có hai người phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ b đem đi, còn người kia sẽ được để lại".

Trước hết, về dấu hiệu của mình thì 
ngày tận thế "xẩy ra như thời Noe" và như "thời ông Lót". Nghĩa là bấy giờ, vào những thời được Chúa Giêsu nêu lên đây, "thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng", "người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất". Tức trong khi con người ta chẳng để ý gì hết, cứ vui vẻ hưởng thụ và làm ăn sinh sống, thì "cũng sẽ xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện". 

Như thế thì quả thực "ngày Con Người xuất hiện" xẩy ra đùng một cái, chứ không từ từ hay được báo trước về ngày giờ chính xác của nó: "Như chớp lóe ra từ đông sang tây thế nào thì Con Người đến cũng như vậy" (Mathêu 24:27), hoàn toàn ngoài dự tưởng của con người, vào chính lúc con người không ngờ và chẳng kịp sửa soạn gì hết, ngoại trừ việc duy nhất là họ cần phải liên lỉ tỉnh thức: "Hãy tỉnh thức vì các con không biết được ngày giờ nào" (Mathêu 25:13).

N
ếu vào "thời ông Noe" người ta cùng mọi sinh vật trên mặt đất bị đại hồng thủy hủy diệt (xem Khởi Nguyên 7:4), và vào "thời ông Lót" người ta bị mưa lửa từ trời đổ xuống thiêu hủy (xem Khởi Nguyên 19:24), chỉ vì con người bấy giờ quá ư là hư hỏng tội lỗi, toàn là nhục dục vào "thời ông Noe(xem Khởi Nguyên 6:3,5), thậm chí còn nhục dục đồng tính nữa vào "thời ông Lót" (xem Khởi Nguyên 19:4-14), thì hiện nay, con người càng văn minh về vật chất lại càng phá sản về luân lý, chắc chẳng cần bị Thiên Chúa ra tay, chính họ sẽ tự hủy diệt mình bằng quyền tự do được phép phá thai thoải mái và đồng tính hôn nhân lăng loàn của họ, chưa kể đến tình trạng con người bị tiêu diệt bởi chiến tranh và khủng bố cùng tai nạn nhân tạo liên tục xẩy ra chưa từng có trong lịch sử loài người.

Sau nữa, về cách đối phó với ngày tận thế, đối phó với những gì "xảy ra trong ngày Con Người xuất hiện" thì dù bất chợt xẩy ra vẫn còn có thể thoát nạn, vẫn còn có thể cứu vãn. Ở chỗ, đừng tiếc xót gì hết, như "trường hợp vợ ông Lót" trong lúc chạy trốn mà vẫn ngoảnh lại như còn tiếc xót những gì bị mất mát nên đã bị trở thành tượng muối (xem Khởi Nguyên 19:26). Lúc bấy giờ chỉ còn một cách duy nhất là "bỏ của mà chạy lấy người", đúng như lời Chúa căn dặn trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về".

Kh
ông biết ở đây có phải Chúa Giêsu muốn nói đến những thành phần Kitô hữu chứng nhân vào thời bấy giờ hay chăng, thành phần "ở trên mái nhà", tức là những con người loan truyền những gì được nói cho biết một cách riêng tư (xem Mathêu 10:27; Luca 12:3), và thành phần "ở ngoài đồng", tức là những người đang gieo rắc hạt giống đức tin hay đang gặt hái mùa màng (xem Gioan 4:35-38). Vì chính lúc "sự dữ gia tăng mà lòng con người hầu hết ra nguội lạnh" (Mathêu 24:12) thì "Tin Mừng về Nước Trời được rao giảng khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới ngày cùng tận" (Mathêu 24:14).

Sau hết
, về hiện tượng của ngày tận thế, một thời điểm liên quan đến chết chóc, một thời điểm được biểu hiệu bằng chết chóc, một thời điểm con người đã đi đến chỗ tột cùng băng hoại, như chính Chúa Giêsu đã ám chỉ trong lời cuối cùng của Bài Phúc Âm hôm nay: "Xác chết ở đâu thì diều hâu bâu lại đó". 

Như thế thì phải chăng thế giới ngày nay cũng sắp sửa tận thế hay thậm chí đang ở ngày vào thời tận thế, vì họ đang "sống"
 trong sự chết: trong trận lụt "văn hóa sự chết - culture of death" (thành ngữ của ĐTC Gioan Phaolô II), thậm chí càng ngày nó càng trở thành một "văn hóa tận số - terminal culture" (ĐTC Phanxicô).

Chính lúc con người tự hủy diệt và không thể nào cứu được mình như thế, như một "xác chết"
 mới lại là lúc xuất hiện của "diều hâu" là loài chim vốn nhậy cảm với mùi chết chóc và thích rúc rỉa những gì là thối rữa. Và vì thế những ai không bị "diều hâu" rúc rỉa là thành phần được cứu rỗi, như được Chúa Giêsu ám chỉ về số phận của kẻ "được" mang đi, tức "được" giải thoát, "được" cứu độ, cũng như của người "bị" để lại cho "diều hâu" xâu xé làm thịt trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: 

"Trong đêm ấy 
(đêm ám chỉ chết chóc và quyền lực hoành hành kinh khủng của sự dữ) sẽ có hai người đàn ông nằm trên một giường (hình như ở đây là hình ảnh ám chỉ đến tội đồng tính hôn nhân), thì một người được đem đi, và người kia sẽ b để lại. Có hai người phụ nữ xay cùng một cối (phải chăng đây là hình ảnh ám chỉ tội tạo sinh ngoại nhiên xẩy ra cho trường hợp của một người vợ son sẻ không con và một người nữ mang thai mướn thụ thai nhờ tinh trùng của người chồng có vợ không con?), thì một người sẽ được đem đi, còn người kia sẽ b để lại".

Theo chiều hướng ấy và ý nghĩa được suy diễn như vậy, ở đây người chia sẻ phụng vụ lời Chúa xin phép được tạm chuyển đổi chữ "bị" thành chữ "được" và chữ "được" thành chữ "bị" ở bản dịch của bài Phúc Âm hôm nay (xin so với nguyên văn câu này ở trong 
bài Phúc Âm của phần Lời Chúa trên đây).

Nếu trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho thấy những dấu chỉ thời đại về "ngày Con Người xuất hiện cũng xảy ra như thế", thì Bài Đọc 1 hôm nay, trích Sách Khôn Ngoan, nhấn mạnh đến trách nhiệm của con người về những gì họ nhận thấy và nhờ đó suy diễn mà nhận biết Thiên Chúa hầu được cứu thoát và được sự sống đời đời: "nếu họ có khả năng nhận thức để truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy cách dễ dàng hơn chính Chúa tể càn khôn?". Bởi thế nên: "chính họ cũng không đáng được tha thứ".

Bài Đáp Ca (Thánh Vịnh 18) hôm nay cũng đồng ý với Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay:

1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia.

2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.

 

 

Ngày 17 tháng 11

Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri

lễ nhớ bắt buộc

Why This Princess Chose the Poor, Service & Charity Over Wealth & Her Crown  | EWTN Ireland

Tiểu sử 
Thánh nữ sinh năm 1207. Năm lên mười bốn tuổi, thân phụ là An-rê, vua Hung-ga-ri, đem gả cho Lu-y miền Thu-rin-gi-a. Cả hai sống hạnh phúc được sáu năm, sinh được ba người con trai. Cả hai người đều nỗ lực sống lý tưởng của thánh Phan-xi-cô trong bậc gia đình. Năm 1227, Lu-y qua đời, chị đã nghe theo lời mời gọi sống đời nghèo khó, tận tâm phục vụ các bệnh nhân. Vì thế sức khoẻ chị sớm hao mòn và chị đã qua đời ở Mác-bua năm 1231.

 

Thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và yêu mến Đức Ki-tô nơi người nghèo

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 17/11)

 

Trích thư của cha Côn-rát thành Mác-bua, linh hướng của thánh nữ, gửi đức thánh cha Ghê-gô-ri-ô IX, năm 1232.

Bà Ê-li-sa-bét sớm bắt đầu trổi vượt về các nhân đức. Cũng như suốt đời, bà đã là người an ủi những người nghèo, thì bây giờ bà hoàn toàn trở nên vị cứu tinh của những người đói. Bà ra lệnh xây một nhà thương gần lâu đài của mình, đón về đó nhiều người đau yếu tàn tật. Đối với mọi người đến xin của bố thí, bà đã làm các việc từ thiện cách rộng rãi, ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộc quyền cai trị của chồng bà. Bà đã phân phát tất cả hoa lợi do bốn lãnh địa của chồng bà đem lại, thậm chí cuối cùng bà đã cho bán hết cả đồ trang sức và y phục quý giá để giúp người nghèo.

Bà có thói quen mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, đích thân thăm viếng tất cả các bệnh nhân của bà. Những người bị bệnh ghê tởm nhất thì bà trực tiếp săn sóc, cho người này ăn, đỡ người kia nằm xuống, vác kẻ khác trên vai, và còn làm nhiều việc từ thiện khác nữa. Chồng bà, một người mà ai cũng thương nhớ, không bao giờ tỏ ra khó chịu vì những việc bà làm. Sau khi ông qua đời, bà muốn hướng tới sự hoàn thiện cao nhất, nên đã khóc lóc nài van con cho phép bà được đi ăn xin từ nhà này qua nhà khác.

Một ngày thứ Sáu Tuần Thánh kia, sau khi người ta đã lột khăn các bàn thờ, bà đã đặt tay trên bàn thờ một nhà nguyện trong thành của bà, nơi bà đã cho các Anh Em Hèn Mọn ở, trước sự hiện diện của một số nhân chứng, bà đã nguyện từ bỏ ý riêng, từ bỏ mọi vinh hoa của thế gian và những gì mà trong Tin Mừng, Đấng Cứu Thế đã khuyên từ bỏ. Sau đó, vì bà thấy rằng mình có thể bị chi phối bởi cảnh huyên náo của thế gian và vinh quang trần thế, trong đó bà đã sống cách vẻ vang khi chồng bà còn sống, nên bà đã theo con đến Mác-bua mặc dầu con không muốn. Trong thành này, bà xây một nhà thương, đón về đó những người đau yếu tàn tật, và cho những người khốn khổ nhất, những người bị khinh rẻ nhất, ngồi ăn cùng bàn với bà.

Ngoài những hoạt động bác ái bà làm, con xin tuyên bố trước mặt Thiên Chúa rằng con hiếm thấy một người phụ nữ nào có đời sống chiêm niệm cao hơn. Một số tu sĩ nam nữ đã nhiều lần thấy rằng : khi bà cầu nguyện một mình xong và đi ra thì bộ mặt bà toả sáng lạ lùng, và từ mắt bà phát ra những tia sáng như tia sáng mặt trời.

Trước lúc bà qua đời, con đã giải tội cho bà ; khi hỏi bà phải định đoạt thế nào về của cải và đồ đạc bà để lại, bà trả lời rằng tất cả những gì bà xem ra còn sở hữu đều là của người nghèo. Bà xin con phân phát tất cả cho họ trừ chiếc áo cũ bà đang mặc, và bà muốn được chôn cất cùng với chiếc áo ấy. Nói xong, bà rước Mình Thánh Chúa. Từ đó đến chiều, bà năng nói về những điều hay nhất bà đã nghe trong các bài giảng. Sau đó, bà sốt sắng phó thác cho Thiên Chúa mọi người đang hiện diện, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng như thiếp ngủ vậy.

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và tôn kính Đức Ki-tô nơi người nghèo khổ, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà ban cho chúng con luôn hết lòng mến yêu phục vụ những ai đang lâm cảnh khốn cùng. Chúng con cầu xin

 

 Thánh Nữ Elisabeth thành Thüringen - Đức


- Ngày lễ kính hàng năm trong Giáo Hội: 17 tháng 11
- Ngày lễ kính tại Giáo Hội Đức: 19 tháng 11
- Sinh năm 1207 tại Sárospatak miền Bắc Hung Gia Lợi
- Qua đời ngày 17-11-1231 tại Marburg - Đức
- Tên Elisabeth có nghĩa theo tiếng Do Thái: Thiên Chúa là sự giàu có
- Phong thánh vào năm 1235 bởi ĐGH Gregor IX.


Elisabeth là con gái đức vua Andreas II của Hung Gia Lợi. Trong năm sinh của Elisabeth có một cuộc giao lưu thi hòa nhạc nổi tiếng trong thành Wartburg gần thành phố Eisenach thuộc miền Thüringen. Tương truyền trong thơ phú và huyền thoại cho rằng lúc đó có mặt của các tài danh Hung Gia Lợi và nơi đây nói về tương lai của công chúa Elisabeth.

Vào năm 4 tuổi Elisabeth đã được hứa hôn với quận chúa Herman lúc đó 11 tuổi. Từ đó Elisabeth được giáo dục theo lối người Đức và sau đó Elisabeth được gửi đến Thüringen dưới sự dẫn dắt của mẹ chồng tương lai là bà Sophie. Cách thế này đã có người dì ruột (em của mẹ) của Elisabeth đã làm gương, đó là quận chúa Hedwig của Schlesien (sinh năm 1174 và qua đời ngày 15.10.1243, sau này được phong thánh và là vị nữ thánh nổi tiếng của người Đức, Thánh Hedwig được kính vào ngày 16 tháng 10). Nhưng vào năm 1216 Herman chết sớm khi Elisabeth mới được 9 tuổi. Năm sau cha của Herman cũng qua đời. Việc nối ngôi cai trị vùng Thüringen được trao cho người em là Ludwig lúc đó còn là vị thiếu niên. Đến lúc trưởng thành Ludwig lên ngôi và lấy danh hiệu Ludwig IV. Elisabeth khi ấy còn nhỏ và vẫn sống trong dinh quận chúa. Elisabeth sống đời đạo hạnh, hiền từ và có vẻ đẹp nhu mì. Điều này làm cho quận vương Ludwig để ý đến chị. Từ khi Herman qua đời cho đến lúc này thì có sự quyết định đưa Elisabeth trở về Hung Gia lợi. Nhưng Ludwig nhung nhớ yêu thương Elisabeth và tỏ ý cầu hôn giữ chị lại trong thành Wartburg. Năm 1221 Ludwig cưới Elisabeth lúc đó đúng 14 tuổi.

Một gia đình trẻ hạnh phúc và Elisabeth sinh được 3 người con. Vào năm 1225 các cha dòng Phanxicô đến Eisanach giảng dạy. Elisabeth thích đường lối nhà dòng là sống không cần của cải. Từ đó chị Elisabeth chăm sóc đến người bệnh hoạn, nghèo khó, thăm viếng các khu nhà ổ chuột. Việc này được chồng chị ủng hộ, nhưng họ hàng bên chồng chê bai cho là hoang phí tiền của. Họ nhà chồng vu oan chị lan ra những vùng xung quanh, nhưng chị luôn can đảm xác tín việc mình làm.

Truyền thuyết tường truyền rằng khi chị chăm sóc một người bệnh cùi và bị người nhà bắt gặp. Chị dấu người cùi trong chiếc mền đắp, người nhà lật tung lên và lúc đó chỉ thấy một cây thánh giá Chúa Giêsu bị đóng đinh trong chiếc mền ấy. Khi nạn đói vào năm 1226 xảy ra trong vùng, chị Elisabeth đã lấy hết thóc gạo và tiền của trong quỹ trợ giúp người nghèo. Lúc này nhà chồng khắc nghiệt lên án chị, thì chính lúc đó tự nhiên trong sân rơi đầy và phủ kín những hạt lúa mì. Người ta chất chứa vừa đủ vào các kho nẫm như cũ. Khi vua Friedrich II đến thăm Wartburg và quận chúa Ludwig tổ chức tiệc đón chào nhà vua thì lúc đó Elisabeth không còn chiếc áo đẹp nào cả để mặc chào đón đức vua, khi ấy có một thiên thần hiện đến trang điểm cho chị Eliasabeth lộng lẫy nhất trong bữa tiệc.

Phép lạ giỏ hoa hồng nổi tiếng nhất được truyền tụng cho đến ngày nay khi nói về Thánh Nữ Elisabeth. Người chồng Ludwig bị họ hàng lung lạc và reo vãi sự nghi kỵ về sự hoang phí nơi chị Elisabeth. Một hôm Elisabeth từ trên thành đi xuống với chiếc giỏ được cất dấu bánh mì vào trong đó. Bỗng chị nghe được tiếng của chồng: “Em đang mang gì vậy?”. Ludwig vội vàng đến bên chi hất tung tấm khăn che chiếc giỏ và chỉ thấy những cánh hồng đẹp nằm gọn trong đó. Tương truyền này được vẽ thành những bức họa chiếc giỏ bông hồng tượng trưng cho Thánh Nữ Elisabeth.

Vào năm 1227 Quận chúa Ludwig tham dự vào đoàn quân thứ 5 của Thập Tự Quân tại vùng Brindisi của Ý. Nơi đây ông ngã bệnh và qua đời sau 6 năm thành hôn với Elisabeth. Chị thật đau khổ thổn thức: „Với người chồng thương yêu một thế giới đã chết trong tôi”. Đau khổ hơn nữa, khi chưa đón được xác chồng từ mặt trận thì chị Elisabeth bị em chồng là Heinrich Raspe xua đuổi khỏi thành Wartburg với lý do phung phí tài sản chung vì người nghèo. Xuống phố Eisenach không tìm được chỗ nương náu, chị và 3 đứa con phải tá túc trong một chuồng nuôi heo. Sau một thời gian đoàn quân viễn chinh trở về với hài cốt của chồng cũng như chiếc nhẫn cưới được bảo quản trao lại cho Elisabeth. Sau khi chôn cất và qua sự can thiệp của ĐGH Gregror IX chị Elisabeth và 3 con được hưởng một phần gia tài.

Năm 1229 theo lời khuyên của cha linh hướng dòng Phanxicô là linh mục Konrad, chị Elisabeth rời Eisanach đến Marburg sinh sống theo tinh thần khó nghèo dòng Ba Phanxicô và hãm mình theo luật dòng. Chị đi gõ cửa từng nhà để xin ăn. Chị từ chối tất cả của cải mình được hưởng. Tuy nhiên theo sự hướng dẫn của cha linh hướng chị Elisabeth dùng gia sản này xây dựng một nhà thương lớn phục vụ người nghèo tại Marburg vào năm 1229 và đặt tên là nhà thương Thánh Phanxicô. Nơi đây chị phục vụ người nghèo như là một y tá cho đến khi qua đời.

Vào tháng 11 năm 1231 sức khỏe của Elisabeth yếu đuối và sa sút. Vài ngày trước khi qua đời chị được nhìn thấy một viễn tượng: một con chim bay đến gần chị hót vang như muốn mời gọi chị cùng hát lên. Khuôn mặt chị trở nên tươi sáng và trút hơi thở cuối cùng lúc 24 tuổi. Một cuộc sống kết thúc vì hy sinh tận tụy vì người nghèo, vì lo lắng cho người khác. Chị Elisabeth được chôn cất ngay trong nhà thương Thánh Phanxicô tại Marburg.

Chỉ 4 năm sau, vào năm 1235 công cuộc phong thánh đã được thực hiện nhanh chóng cho chị Elisabeth bởi ĐGH Gregor IX vì những nhân đức tuyệt vời phục vụ tha nhân. Người cùng thời là thánh nữ Mechthild von Magdeburg (von Helfta) - sinh năm 1208 và mất năm 1282 đã nhận định về chị Elisabeth như sau: “Đây là một sứ giả cho giới phụ nữ với cuộc sống tiết hạnh, tránh xa được lối cuốn xa hoa, diệt trừ các ích kỷ nhỏ nhen. Elisabeth được sinh ra như thế. Chị là gương mẫu cho những người nữ, là mẫu đo về sức mạnh và ý muốn”.

Tôn Kính Chị Thánh Elisabeth tại Đức:

- Năm 1245 trên hộp đựng xương thánh của Elisabeth được khắc ghi các dòng chữ “Gloria Teutonia” (Vinh danh nước Đức)
- Năm 1283 một đại thánh đường kiểu Gotik đầu tiên tại Đức thuộc thành phố Marburg được xây dựng kính Thánh Nữ Elisabeth.
- Vào thế kỷ 13 những dòng thác hành hương đến Marburg kính Thánh Elisabeth rất đông, người ta ví tầm quan trọng như nơi hành hương nổi tiếng Santiago de Compostela, vì ảnh hưởng của Thánh Elisabeth thời đó rất rộng lớn.
- 1907 sự tôn kính Thánh Nữ Elisabeth được lan rộng trong vùng Đức và Áo vào dịp mừng sinh nhật thứ 700 của chị Thánh.
- 2007 toàn nước Đức tổ chức năm hành hương Thánh Elisabeth tại giáo phận Erfurt dịp mừng sinh nhật thứ 800 của chị Thánh.
- Thành phố Kosice, phiá bắc nơi Elisabeth sinh ra đã trở thành một trung tâm tôn kính chị Thánh.
- Tại Đức hoa hồng là biểu tượng của Thánh Nữ Elisabeth
- Tại Đức nhiều địa danh và các hội đoàn nhận Thánh Nữ Elisabeth làm bổn mạng bảo trợ: Tiểu bang Thüringen và Hessen, Caritas Đức, các lò bánh mì, trẻ em mồ côi, người xin ăn, người bệnh nhân, người đau khổ, những người vô tội bị bắt bớ.
- Caritas Đức mỗi năm đều tổ chức cho hàng trăm ngàn thành viên thiện nguyện mừng lễ quan thày kính Thánh Nữ Elisabeth vào ngày 19 tháng 11.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn

 

http://dongcong.net/CacThanh/GuongCacThanh/Thang11/Nov17.htm

 

 


Thứ Bảy

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 18, 14-16; 19, 6-9

"Giữa biển đỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và họ nhảy mừng như đoàn chiên".

Trích sách Khôn Ngoan.

Ðang lúc yên tĩnh bao trùm vạn vật, và đêm đã tới nửa vòng xoay: từ vương toà trên trời cao, lời toàn năng của Chúa tựa như một dũng sĩ rắn rỏi xông tới giữa miền đất bị tiêu diệt, tựa như gươm bén mang mệnh lệnh cố định của Chúa, đứng sừng sững, đầu chạm trời, chân đạp đất, gieo chết chóc khắp muôn loài.

Và muôn loài được tác tạo như thuở ban đầu, phụng lệnh Chúa để gìn giữ thần dân Chúa được an toàn, vì Chúa đã khiến mây bao phủ trại binh họ, và từ nơi trước kia đầy nước, đã xuất hiện vùng đất ráo khô. Và giữa Biển Ðỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và từ vực sâu xuất hiện một cánh đồng xanh tươi. Toàn dân được tay Chúa che chở, đi qua nơi ấy và chiêm ngưỡng những diệu kỳ phi thường của Chúa. Lạy Chúa, họ như đàn ngựa giữa bãi cỏ, như đoàn chiên nhảy mừng, họ tán dương Chúa, là Ðấng đã giải thoát họ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 36-37. 42-43

Ðáp: Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người; hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Chúa sát phạt mọi con đầu lòng trong lãnh thổ, của đầu mùa do sức lực cường tráng chúng sinh ra. Người dẫn họ ra đi cùng với bạc với vàng, và trong các bộ lạc của họ, không một ai đau yếu. - Ðáp.

3) Vì Người đã nhớ lời thánh thiện của Người, lời Người đã ban bố cùng Abraham là tôi tớ Người. Người đã đưa dân tộc Người ra đi trong niềm vui vẻ, đưa những kẻ Người kén chọn ra đi trong tiếng hân hoan. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 1, 10b

Alleluia, alleluia! - Ðấng Cứu Chuộc chúng ta là Ðức Giêsu Kitô đã dùng Tin Mừng mà tiêu diệt sự chết, và chiếu soi sự sống. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 18, 1-8

"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng:

"Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: "Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù". Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: "Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc".

Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

Ðó là lời Chúa.


 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

Đức tin cánh chung - thời điểm minh oan  


Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XXXII Thường Niên hôm nay liên quan đến những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ về "một dụ ngôn dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng".

Nguyên văn dụ ngôn này như sau: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'".

Ph
ải chăng đây là dụ ngôn liên quan đến ngày tận thế nói chung và cuộc chung thẩm nói riêng? Bởi vì, nếu tất cả mọi sự xẩy ra trên trần gian này, mà thực tế phũ phàng cho thấy, sự dữ dường như lấn át sự lành, kẻ lành bị thua kẻ mạnh. Kẻ dữ lại được may lành hơn người công chính. Người lành thường gian nan khốn khó lận đận. Kẻ cô đơn yếu thế (mà bà góa trong Bài Phúc Âm hôm nay tiêu biểu) bị đàn áp bất công. Bởi thế, nếu không có đời sau, không có vấn đề thưởng phạt công minh thì sống đức tin và tin vào Chúa thật là vô lý và vô cùng dại dột. Mất cả 2 đời.

Đó là lý do, sau khi đã nói với các môn đệ về dụ ngôn bà góa kêu oan, hay cũng có thể nói là dụ ngôn quan tòa nể xử, Chúa Giêsu đã kết thúc bằng một câu vừa để trấn an và phấn khích các môn đệ của Người vừa có tính cách cảnh báo liên quan đến ngày tận thế như sau:

"Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ có ý khuyên các môn đệ của Người, không phải chỉ cho thành phần môn đệ đang ở bên Người bấy giờ, mà cho mọi thế hệ môn đệ của Người, phải "bền đỗ đến cùng mới được cứu độ" (Mathêu 24:13). Nhất là thế hệ môn đệ cuối cùng ở vào thời tận thế, thời Người đến lần thứ hai, đến lần cuối cùng, thời điểm mà như Người cảnh báo: "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?

Đó là lý do Thánh Phaolô đã khẳng định rất chính xác về thời cánh chung liên quan đến tận thế, hay đến mục đích lần đến cuối cùng của Chúa Kitô đó là để cứu độ những ai tin tưởng Người cho đến cùng, cho đến khi Ngưi tái giáng: 

"Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa tội trần gian mà là để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28). Chẳng hạn như trường hợp của 5 cô trinh nữ / phú dâu khôn ngoan cầm đèn đức tin cháy lửa đức mến bằng dầu đức cậy vậy (xem Mathêu 25:1-12).

Thật ra, thời cánh chung đã được mở màn từ khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), tức là "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), "thời sau hết - final age" (Do Thái 1:2), thời Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con Một của Ngài là Đấng Thiên Sai Cứu Thế đúng như lời Ngài đã hứa với nguyên tổ sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15). 

Nếu thời cánh chung được bắt đầu từ lần đến thứ nhất của Chúa Kitô thì thời cánh chung này cũng kết thúc vào lần đến thứ hai của Người, một lần đến quyết liệt cho phần rỗi của chung nhân loại cũng như của riêng từng người, liên quan đến đức tin cứu độ, một đức tin sẽ bị khủng hoảng đến tận gốc... và bị bật gốc nơi nhiều tâm hồn yếu dại! 

Đúng thế, thời tận thế là thời kinh hoàng khủng khiếp đến độ đối với loài người về cả thể xác lẫn linh hồn của họ, như Chúa Giêsu còn thẳng thắn tiết lộ không giấu diếm như sau: "vì những ngày ấy tràn đầy những gì là thống khổ hơn bất cứ thời nào từ khi hiện hữu thế giới này... Thật vậy, nếu giai đoạn này không được rút ngắn lại thì không một ai được cứu độ..." (Mathêu 24:21-22).

Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo ở khoản 675 cũng đã phải công nhận cuộc thử thách cuối cùng Giáo Hội phải trải qua đầy nguy hiểm đến đức tin của Kitô hữu là phần tử của mình vào thời điểm trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai cũng là lần cuối như sau:

"Trước khi Ðức Kitô quang lâm, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng khiến nhiều tín hữu bị lung lạc đức tin (x. Lc 18, 8; Mt 14, 12). Những cuộc bách hại mà Hội Thánh phải chịu trong suốt cuộc lữ hành trên trần thế (x. Lc 21, 12; Ga 15, 19-20) sẽ vạch trần 'mầu nhiệm sự dữ' dưới hình thức bịp bợm tôn giáo; hình thức này chỉ đem lại cho con người một giải đáp giả tạo cho các vấn đề của họ để rồi họ phải xa rời chân lý. Sự bịp bợm tôn giáo nham hiểm nhất là sự bịp bợm của tên Phản Kitô, nghĩa là của một thuyết Mêsia giả hiệu: trong đó, con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Ðấng Mêsia của Người đã đến trong xác phàm (x. 2Th 2, 4-12; 1Th 5, 2-3; 2Ga 7; 1Ga 2, 18. 22)".

Đúng thế, ngày Kitô quang lâm sẽ là ngày "Chúa sẽ kíp giải oan cho họ", một sự thật được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 diễn tả một cách bóng bẩy về Lời Nhập Thể xuất hiện như "ánh sáng chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) để giải thoát những ai tin tưởng vào Người khỏi quyền lực tối tăm như sau:
 

"Ðang lúc yên tĩnh bao trùm vạn vật, và đêm đã tới nửa vòng xoay: từ vương toà trên trời cao, lời toàn năng của Chúa tựa như một dũng sĩ rắn rỏi xông tới giữa miền đất bị tiêu diệt, tựa như gươm bén mang mệnh lệnh cố định của Chúa, đứng sừng sững, đầu chạm trời, chân đạp đất, gieo chết chóc khắp muôn loài.... Và giữa Biển Ðỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và từ vực sâu xuất hiện một cánh đồng xanh tươi. Toàn dân được tay Chúa che chở, đi qua nơi ấy và chiêm ngưỡng những diệu kỳ phi thường của Chúa. Lạy Chúa, họ như đàn ngựa giữa bãi cỏ, như đoàn chiên nhảy mừng, họ tán dương Chúa, là Ðấng đã giải thoát họ".

 

Và đó là lý do mới có Bài Đáp Ca hôm nay thúc giục những ai được "Chúa kíp giải oan" "hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm", với những câu Thánh Vịnh 104 như thế này:

 

1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người; hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. .

2) Chúa sát phạt mọi con đầu lòng trong lãnh thổ, của đầu mùa do sức lực cường tráng chúng sinh ra. Người dẫn họ ra đi cùng với bạc với vàng, và trong các bộ lạc của họ, không một ai đau yếu.

3) Vì Người đã nhớ lời thánh thiện của Người, lời Người đã ban bố cùng Abraham là tôi tớ Người. Người đã đưa dân tộc Người ra đi trong niềm vui vẻ, đưa những kẻ Người kén chọn ra đi trong tiếng hân hoan.

 

Ngày 18/11

 

 Cung hiến Đền thờ Thánh Phêrô và Phaolô Tông Ðồ

 

12813 Den tho Phero va Phaolo

I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ

Ngày kỷ niệm cung hiến giáo đường thánh Phêrô (khoảng 350) và thánh Phaolô trên đường Ostia (khoảng 390), cử hành vào ngày 18 tháng 11, đã được nhắc đến ngay từ thế kỷ XI trong một quyển sách viết về cuộc tử đạo của thánh Phêrô. Năm 1568, Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho ghi vào lịch phụng vụ Rôma ngày mừng lễ cung hiến này chung cho cả hai thánh đường.

Truyền thống kể rằng vương cung thánh đường thánh Phêrô nguyên thuỷ được hoàng đế Constantinô và các người kế vị xây dựng, được hoàn thành và cung hiến khoảng năm 350. Thánh đường này xây trên mộ của thánh tông đồ Phêrô ở Vaticanô, nằm trên khu nghĩa trang cổ (thế kỷ I và II) của người ngoại giáo và Kitô giáo, tại đây vào cuối thế kỷ II, người ta đã đào xuống thành ba tầng kế tiếp nhau. Một linh mục người Rôma tên là Caius, dưới thời Đức giáo hoàng Zéphirin († 217), đã để lại một chứng từ về tầng thứ ba của khu nghĩa trang, và được giám mục sử gia Eusèbe thành Césarê thuật lại: “Phần tôi, tôi có thể chỉ cho bạn thấy những chứng tích (phần mộ hay hài cốt) của các tông đồ. Nếu bạn đến Vatican hay trên đường Ostia, bạn sẽ thấy chứng tích của các vị đã sáng lập Hội Thánh.” (Lịch Sử Hội Thánh II, 25-7). Những cuộc khai quật ở thánh đường thánh Phêrô (1940-1949), dưới thời Đức Piô XII, đã khám phá ra khu nghĩa trang này, và có vẻ như đã khám phá ra phần mộ của thánh Phêrô.

Vào thế kỷ XV, dưới thời Đức Giáo Hoàng Nicolas V, người ta phá ngôi thánh đường cổ lúc đó đã đổ nát, nhưng việc xây dựng lại ngôi thánh đường này chỉ bắt đầu dưới thời Đức Giáo Hoàng Jules II (1503-1513). Đức giáo hoàng đã chọn mẫu thiết kế hình chữ thập Hy lạp của Bramante (1506). Công trình được kiến trúc sư Maderna thực hiện từ 1606 đến 1617. Theo lệnh Đức Giáo Hoàng Phaolô V, ông Maderna nối dài lòng nhà thờ thành hình chữ thập la-tinh và vẽ thiết kế phần mặt tiền. Michel-Angelo (1546) vẽ phần vòm thánh đường và phần này đã hoàn tất năm 1590. Bên dưới vòm là khu Thánh Phê-rô tuyên xưng, gồm nhà hầm mộ thánh tông đồ và bàn thờ chính đặt trên một phương du bằng đồng, tác phẩm của Bernin (1624). Công trường thánh Phê-rô, với hai hàng cột đặt theo hình bán bầu dục, cũng là tác phẩm của Bernin. Thánh đường thánh Phêrô được Đức Đức Giáo Hoàng Urbain VIII cung hiến lại năm 1626.

Vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoài thành, theo truyền thống, cũng do hoàng đế Constantin và các người kế vị xây dựng trên mộ thánh Tông đồ. Được Đức Giáo Hoàng Sirice cung hiến vào cuối thế kỷ IV; một cuộc hỏa hoạn đã tàn phá thánh đường vào năm 1823 và được xây dựng lại theo cùng mẫu thiết kế cũ. Thánh đường được Đức Giáo Hoàng Piô IX cung hiến lại ngày 10 tháng 12 năm 1854, với sự tham dự của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới qui tụ về nhân dịp công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, vì việc mừng kính thánh Phaolô trong phụng vụ không thể tách rời việc mừng lễ thánh Phêrô, nên lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường này (ngày 10 tháng 12) cũng được gộp chung vào ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường thánh Phêrô (18 tháng 11).

https://www.tonggiaophanhanoi.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/12813-ngay-18-11-cung-hien-den-tho-thanh-phero-va-den-tho-thanh-phaolo-o-roma.html

 

Hoàng đế Roma Constantino năm 323, sau khi công nhận đạo Công Giáo, mở ra kỷ nguyên chấm dứt thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị bắt bớ bách hại trong toàn đế quốc Roma, đã cho xây dựng Vương cung thánh đường trên ngôi mộ Thánh Phêrô ở chân đồi Vatican. Phần phía Nam của thánh đường nằm ở bên phần sân diễn trò xiếc giải trí của vua chúa Roma, nơi đây Thánh Phêrô dưới thời Hoàng đế Nero đã bị hành quyết đóng đinh ngược tử vì đạo năm 67 sau Chúa giáng sinh.

 

Ngôi mộ của Thánh Phêrô nằm ngay dưới bàn thờ chính của đền thờ. Dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio XII. vào thế kỷ 20. đã có cuộc khai quật khảo cổ, và tìm thấy ngôi mộ cùng dấu tích sùng kính Thánh Phêrô của giáo hữu thời xa xưa hồi thế kỷ thứ nhất và thứ hai.

 

Theo truyền thuyết kể lại, ngôi đền thờ thời Constantino được Đức Giáo Hoàng Silvester I thánh hiến ngày 18.11.326, và ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành vào giữa thế kỷ thứ 4 sau khi hoàng đế Constantino qua đời.

 

Trong thời kỳ các Đức Giáo Hoàng sống lưu vong ở Avignon bên Pháp từ 1309 – 1377, đền thờ bị xuống cấp hư hại. Nhưng sau đó từ năm 1450 đền thờ được sửa chữa lại. Sau cùng dười thời Đức Giáo Hoàng Julius II. năm 1506 ngôi đền thờ cũ có tuổi thọ 1200 năm bị phá hủy hoàn toàn. Và ngài đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi đền thờ mới như đang thấy ngày nay.

 

Công trình xây dựng đền thờ mới do Kỹ sư Bramente vẽ họa đồ và Kỹ sư Michelangelo thực hiện. Công việc xây dựng kéo dài trên 100 năm. Ngôi đền thờ mới cũng được xây ngay trên ngôi mộ của Thánh tông đồ Phêrô, và là thánh đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Urbano VIII. đã làm phép thánh hiến khánh thành ngôi đền thờ mới cũng vào ngày 18.11.1626, mà trước đó 1300 năm ngôi đền thờ cũ thời vua Constantino ngày 18.11.326 cũng đã được làm phép thánh hiến.

 

Đền thờ Thánh Phêrô là công trình xây dựng trổi vượt về hình thức nghệ thuật, và mang ý nghĩa trung tâm điểm của Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu.

 

Công trình này được các vị kỹ sư cùng điêu khắc danh họa góp công sức thực hiện từ Bramante đến Raffael, Peruzzi, Michaelangelo, Giacomo della Porta, phần trang trí nghệ thuật do những kiệt tác của danh họa thiên tài Michaelangelo, Bernini và nhiều người khác nữa.

 

Thánh Phaolô là vị Tông đồ dân ngoại đã loan truyền tin mừng Chúa Giêsu Kitô từ bên vùng Trung Đông nước Do Thái sang tận Âu châu. Đi tới đâu Ông thành lập Giáo đoàn Kitô giáo, và viết 14 thư mục vụ, như nền tảng giáo lý, gửi các Giáo đoàn Kitô giáo. Và sau cùng vào khoảng năm 64. chết chịu tử vì đạo dưới thời hoàng đế Nero ở Roma.

 

Ngay từ năm 200 đã có bảng ghi nhớ tưởng niệm ngôi mộ Thánh Phaolô ở Via Ostia. Hoàng đế Constantino theo dấu chứng đó đã cho xây ngôi đền thờ ở ngoài thành Roma năm 324 để kính Thánh Phaolô, và được Đức Giáo Hoàng Sylvester thánh hiến.

 

50 năm sau, năm 374 Hoàng đế Theodosius I. cho xây mở rộng ngôi đền thờ to lớn thêm ra. Đến thời Đức Giáo Hoàng Leo I (trị vì từ 440-461) ngôi đền thờ được xây dựng hoàn thành. Tháng Bảy 1823 ngôi đền thờ thời Constantino bị trận hỏa hoạn thiêu hủy hư hại nặng, chỉ phần hậu cung thánh với những bức tranh Mosaic từ thế kỷ thứ 5 và 13 còn nguyên vẹn không bị cháy.

 

Ngôi đền thờ mới kính thánh Phaolô ngoại thành được xây dựng lại ngày 10.12.1855 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio IX. được làm phép thánh hiến.

 

Trong vương cung thánh đường Thánh Phaolô ở trên phần đầu tường chung quanh có hình vẽ khắc kiểu Mosaic các Đức Giáo Hoàng của Hội Thánh Công Giáo từ Thánh Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi cho tới vị Giáo hoàng đương kim.

 

Ngày 25.01.1959, vào ngày lễ kính Thánh Phaolô tông đồ trở lại, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. trong đền thờ này đã tuyên bố mở Công đồng chung Vaticano II 1960-1965. Đền thờ gọi là ngoại thành, vì nằm ở ngoài tường thành Roma do hoàng đế Aureliano xây bức tường bao quanh Roma năm 271 để ngăn chống các tấn công của các sắc dân từ bên ngoài vào trong thành Roma.

 

BIỂU TƯỢNG Ý NGHĨA THẦN HỌC:

 

Hai ngôi đền thờ vĩ đại Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma không chỉ to lớn bề thế về công trình lối kiến trúc đồ sộ vững chắc, và những trang hoàng ấn tượng mang dấu ấn rất nghệ thuật  thời trung cổ có một không hai từ xưa nay. Nhưng hai ngôi đền thờ còn là hình ảnh nói lên dấu chỉ về Thiên Chúa vô hình đang hiện diện giữa con người, với những hàng cột cao trong ngoài thán đường, những vòm chỏm tháp vươn cao lên không trung giữa thiên nhiên, những mầu sắc hài hoà của những tảng đá cẩm thạch cùng đường vân thiên nhiên hòa hợp với ánh sáng chiếu tỏa sự trong sáng nét đẹp của thiên nhiên.

 

Có thể nói được những ý tưởng mà các vị Kỹ sư và các vị danh Họa điêu khắc đã khắc ghi vào công trình gỗ đá xây dựng hai ngôi đền thờ này, bắt nguồn như thức ăn gợi hứng cho họ là con người, là người có lòng tin vào Chúa, là kỹ sư kiến trúc, là nhà danh hoạ chuyên môn, từ ba cuốn sách về thiên nhiên, cuốn sách Kinh Thánh và cuốn sách về Phụng vụ.

 

Vì thế, hai ngôi đền thờ kết hợp được cả ba mặt kiến trúc trong thời đại trần gian, về lịch sử ơn cứu độ của Chúa phần thiêng liêng, như Kinh thánh thuật lại, và về phụng vụ, nơi con người trần thế cử hành lễ nghi thờ phượng Thiên Chúa.

 

Hai ngôi đền thờ được xây dựng để kính hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, nhưng họ không phải là nền tảng cho hai đền thờ này. Chính Chúa Giesu Kitô mới là đá nền tảng niềm tin cho đền thờ (1 cor 3,10-11). Vì nơi hai đền thờ này mỗi khi mọi tín hữu Chúa Kitô tụ họp đọc kinh cầu nguyện, cử hành nghi lễ phụng vụ , là tưởng niệm sự sinh ra, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô. Đó là nền tảng đức tin của Kitô giáo.

 

Chúa Giêsu Kitô là đá tảng nâng đỡ cho ngôi đền thờ đức tin của Giáo Hội được vững chắc. Nơi Chúa Giêsu chúng ta học và đọc được Lời của Chúa, cũng như từ nơi Ngài Giáo Hội nhận được sức sống, giáo lý và sự sai đi đến với con người.

 

Hai ngôi đền thờ này như hình ảnh biểu tượng cho Giáo Hội Công Giáo Roma, cũng đã trải qua những lần bị hư hại xuống cấp, bị hỏa hoạn cháy thiêu rụi, và được sửa chữa lại, xây dựng mới lại. Hai ngôi đền thờ kiến trúc công trình nghệ thuật đứng vững từ hàng bao thế kỷ nay là do luôn được quyét dọn, tân trang bảo trì sửa chữa liếp tục.

 

Đời sống trong Giáo Hội cũng vậy, có những giai đoạn thoái hóa lên xuống về mặt tinh thần đạo giáo cũng như tổ chức điều hành quản lý. Những khúc ngoặt hay bóng tối đó gây ra những tiếng tăm không tốt, hậu qủa tiêu cực.

 

Nhưng đồng thời đó cũng là dịp tốt để Giáo Hội nhìn ra biết mình mà điều chỉnh sửa chữa làm mới lại cho tốt lành đúng như ý Chúa muốn, cùng là nhân chứng cho Chúa giữa lòng xã hội con người trần thế. Có thế ngôi nhà đức tin Giáo Hội mới đứng vững được.

 _______________________

 

Hai ngôi đền thờ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma như cột trụ của Giáo Hội Công Giáo vừa về mặt tinh thần vừa về mặt kiến trúc cùng bề thế.

 

Hai vị Thánh tông đồ này cùng được mừng kính chung trong một lễ mừng ngày 29 tháng 06 hằng năm. Và hai ngôi đền thờ kính hai vị Thánh cùng được mừng nhớ đến ngày thánh hiến chung ngày 18.11. hằng năm.

 Thánh Phaolô viết nhắn nhủ về Giáo Hội Chúa Kitô: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ”Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.” (1 cor 1,12)...

 

“Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.” (1 cor 3,6-9).

 

http://conggiao.info/cung-hien-den-tho-thanh-phero-va-den-tho-thanh-phaolo-o-roma-d-52198

 

 

 

Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường (hình bên dưới) tới mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.

 

 

 

Cả Ðền Thờ cũ cũng như Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.

Nhưng hiện nay mộ của ngài đang ở ngay bên dưới Bàn Thờ Chính của Đền Thờ Thánh Phêrô.

 

 

Mộ Thánh Phêrô ngay bên dưới bàn thờ Thánh Phêrô ở tầng trên của Đền Thờ Thánh Phêrô

Khu vực xây Ðền Thờ Thánh Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958.

Hai hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa, tranh khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn. 

Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968:

"Hài cốt thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý".

 

(4 tấm hình chụp trên đây ngày 18/11/2021 của TĐCTT cao tấn tĩnh trong chuyến Hành hương Đức tin Chứng tích Phục sinh 12 ngày 8-19/2021)