SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Lời Chúa
Bài Ðọc I: Kn 6, 13-17 (Hl 12-16)
"Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó".
Trích sách Khôn Ngoan.
Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước.
Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình, vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết sức ân cần đón tiếp họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa (c. 2b).
Xướng: 1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.- Ðáp.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ. - Ðáp.
4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Tx 4, 13-14 {hoặc 13-18}
"Nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.
{Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi. Vì thế, anh em hãy dùng những lời đó mà an ủi nhau.}
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 25, 1-13
"Kia chàng rể đến, hãy ra đón người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng Người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi".
"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Cây Đèn Đức Tin Sáng Lửa Đức Mến Bằng Dầu Đức Cậy
Chiều hướng phụng vụ Lời Chúa càng về cuối phụng niên bao gồm 34 tuần lễ
của Mùa Thường Niên càng cho thấy chiều hướng cánh chung. Mà
cánh chung, cho dù đã được mở đầu ngay từ “thời điểm viên trọn”
(Galata 4:4), "thời điểm sau cùng" (Do Thái 1:2), thời điểm “Thiên Chúa đã sai Con Mình đến hạ sinh
bởi một người nữ” (Galata 4:4), nhưng chỉ kết thúc vào thời điểm
tái giáng của Chúa Kitô mà thôi.
Ở đây, trong chu kỳ Năm A theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu, một
Thánh Ký giành gần nguyên đoạn 24, trước đoạn 25 của Bài Phúc Âm
hôm nay, để nói về tận thế bao gồm các hiện tượng và dấu báo về
ngày cùng tháng tận này. Nhưng lại không phải là đoạn được Giáo
Hội chọn đọc vào thời điểm kết thúc phụng niên hướng về việc
Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà Giáo Hội lại chọn dọc và chỉ chọn
đọc ba bài Phúc Âm cuối cùng của phụng niên, đều ở trong cùng
đoạn 25, về giáo huấn của Chúa Kitô liên quan đến tinh thần và
thái độ sống đức tin của chung Kitô hữu.
Tinh thần và thái độ sống đức tin của Kitô môn đệ của Chúa Kitô
phải hoàn toàn khác với và vượt trên thành phần biệt phái và
luật sĩ cũng như thành phần trưởng tế và kỳ lão trong dân Do
Thái, thành phần duy luật chỉ thiên đã được Người đề cập đến
trong suốt 7 Bài Phúc Âm Chúa Nhật, từ Chúa Nhật XXV đến Chúa
Nhật XXXI. Như thể Người ngầm răn dạy thành phần môn đệ Do
Thái, không nhiều thì ít, sẵn mang tâm thức lề luật, bị ảnh
hưởng men giả hình của họ, rằng đừng sống như họ mà là sống như
giáo huấn Phúc Âm của Người là đức tin cứu độ hơn công trạng cứu
độ, là lòng nhân hậu hơn là hy tế.
Trong Bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn 10 trinh nữ hay 10 phù dâu
(ám chỉ Kitô hữu) khôn ngoan cầm đèn kèm theo dầu chờ đón chàng
rể và nghênh đón chàng rể đến muộn là một huấn dụ Kitô hữu hãy
luôn tin tưởng cậy trông vào Chúa Kitô, (dụ ngôn về nén bạc đối
với người đầy tớ không sinh lợi ở Bài Phúc Âm 33 tuần tới cũng
thế), chứ đừng tin vào mình, như năm cô trinh nữ phù dâu cầm đèn
mà không mang theo dầu, để rồi khi chàng rể xuất hiện thì chẳng
còn kịp trở tay nghênh đón chàng mà vào dự tiệc cưới với chàng
trong mối hiệp thông thần linh.
Sở dĩ chàng rể là Chúa Kitô đến muộn (late), hay đúng hơn là Người trì hoãn (was delayed), không phải gây ra bởi tính nết vốn chậm trễ của Người là Đấng luôn đúng giờ: "giờ Tôi chưa tới" (Gioan 2:4), mà chính vì và chỉ vì phần rỗi của các trinh nữ nói chung, nhất là các cô khờ dại không mang theo dầu nói riêng: "Anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ" (2Phêrô 3:15). Nhưng thời giờ của Người không thể cứ bị tội lỗi loài người không bao giờ cùng và càng ngày càng kinh khủng chưa bao giờ thấy ngăn cản, đến độ sẽ phải đình trệ vô thời hạn, mà là, trái lại, vào chính lúc "nửa đêm", lúc con người mê ngủ nhất về tâm lý và tối tăm nhất về thể lý, nghĩa là vào lúc con người hoàn toàn bất lực và tội lỗi nhất, thì "Người sẽ xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28).
Vậy thì dầu cần được mang theo đây là gì, nếu không phải là
chính lòng "thiết tha trông đợi Người", nghĩa là đức cậy của
ngọn đèn đức tin để thắp sáng ngón lửa đức mến, vì theo dụ ngôn
chung thẩm của Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật XXXIV là Chúa Nhật Lễ
Chúa Kitô Vua, kết thúc riêng Mùa Thường Niên và chung Phụng
Niên cho chu kỳ Năm A theo Thánh ký Mathêu, thì không có đức mến
không được thừa hưởng Nước Trời, một đức mến lại chỉ xuất phát
từ đức tin: “Đức tin thể hiện qua đức mến” (Galata
5:6) cũng là một đức tin sống
động nhờ đức cậy và tồn tại với đức cậy.
Đó là lý do Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong Thư gửi Giáo đoàn Do Thái
đã khẳng định rằng Chúa Kitô “sẽ
xuất hiện lần thứ hai không phải để cứu độ mà là để mang ơn cứu
độ đến cho những ai thiết tha (eagerly) trông đợi Người” (Do
Thái 9:28), như trường hợp của những cô trinh nữ phù dâu khôn
ngoan, chẳng những mang đèn đức tin cháy lửa đức mến, mà còn
mang theo cả dầu đức cậy, để giữ cho lửa đức mến tiếp tục cháy
sáng cho tới khi chàng rể tới, hay cho tới khi họ gặp được chàng
rể, bất chấp mọi thử thách, bao gồm cả việc chàng rể cố ý đến
muộn để thử thách đức tin của những ai đón chờ Người, hay nói
đúng hơn, để khiến cho thành phần nghênh đón chàng càng tỏ ra
“thiết tha” hơn, xứng với tư cách đáng yêu trên hết mọi sự của
họ, thành phần không còn tha thiết gì hơn ngoài chàng, một khát
vọng thiên đường ngay trên trần thế, một tình trạng hiệp thông
thần linh bất diệt ngay trong thời gian hữu hạn.
Những ai tin vào Chúa Kitô bằng tất cả niềm trông đợi ở Người,
trong tất cả mọi sự, với bất cứ giá nào, là thành phần khôn
ngoan nhất trên trần gian này. Bởi vì, làm sao để đạt được cùng
đích của mình mới là khôn ngoan, bằng không, chỉ là khờ dại, khi
đánh mất cái chính yếu để bám vào và tìm kiếm những gì là tạm
bợ, là phụ thuộc, là phù du mau qua chóng hết, những thứ chỉ làm cho mình
bất an, chán chường, tuyệt vọng v.v.
Đó là lý do, Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khôn Ngoan, mới
chí lý bày tỏ cảm nhận đầy xác tín về những gì khôn ngoan, cho
khôn ngoan như là một ngọn đèn “sáng tỏ” hướng dẫn cho “những ai
yêu mến nó”, “tìm kiếm nó”, “tỉnh thức tiến lại gần nó”, “tỉnh
thức vì nó”, như sau:
“Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến
nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó.
Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ
trước. Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao
nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó
là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng
được an tâm. Vì nó chu du tìm kiếm những kẻ xứng đáng với mình,
vui vẻ tỏ mình ra cho những kẻ ấy trong các đường lối, và hết
sức ân cần đón tiếp họ”.
Nếu những ai tin vào Chúa Kitô bằng tất cả niềm trông đợi ở
Người, trong tất cả mọi sự, với bất cứ giá nào, là thành phần
khôn ngoan nhất trên trần gian này, thì ngược lại, những ai được
khôn ngoan dẫn dắt cũng chỉ biết tìm kiếm Thiên Chúa, khao khát
Thiên Chúa và trông đợi ở nơi Người mà thôi, đúng như tâm tình
đầy cảm thức siêu nhiên của vị tác giả Thánh Vịnh trong Thánh
Vịnh 62 ở Bài Đáp Ca hôm nay.
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy
kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa
con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để
nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài
đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay
kêu cầu danh Chúa. Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao
lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ.
4) Trên giường ngủ, khi con nhớ Chúa, con ngẫm suy về Chúa suốt
năm canh. Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp
trong bóng cánh của Ngài.
Nếu Chúa Kitô “sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để cứu độ mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha (eagerly) trông đợi Người” (Do Thái 9:28), thì chính niềm tin tưởng trông đợi Người nơi tâm hồn của Kitô hữu sẽ đưa họ đến tận cuộc hội ngộ tối hậu với Chúa Kitô, như năm cô trinh nữ phù dâu khôn ngoan trong Bài Phúc Âm hôm nay, và như Thánh Phaolô khẳng định cùng trấn an Kitô hữu Giáo đoàn Thessalonica trong Thư Thứ Nhất ngài gửi họ ở Bài Đọc 2 hôm nay (những chỗ in nghiêng do người viết tự ý nhấn mạnh và chứng thực những gì đang được diễn giải):
“Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì
về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như
những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì
nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì
cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem
họ đến làm một với Người”.
Ngày 12 tháng 11
Thánh Giô-sa-phát, giám mục, tử đạo
Thánh nhân sinh khoảng năm 1580 tại U-cơ-rai-na, trong một gia đình theo Chính Thống Giáo. Nhưng người lại sớm gắn bó với giáo hội U-cơ-rai-na hợp nhất với Rô-ma. Năm 1617, người làm tổng giám mục Pô-lốc và dấn thân phục vụ dân tộc mình không so đo tính toán, nhất là cố gắng lo cho việc hợp nhất Hội Thánh. Thành công trong hoạt động tông đồ của người đã khiến cho các kẻ thù của Hội Thánh Công Giáo căm ghét người. Người bị giết ở Vi-tép trong lúc đang viếng thăm các tín hữu, năm 1623.
Gương Thánh nhân: Thánh Gio-sa-phát sinh tại Vla-đi-mia, nước Ba-lan, năm 1581, trong một gia đình quí phái làm nghề thương mại.
Lớn lên thánh nhân làm phụ giúp một thương gia ở Quin-na. Nhưng ngài cảm thấy lý tưởng đời ngài là phục vụ Chúa và cứu vớt các linh hồn, vì mọi sự ở đời đều mau qua chóng mất, chỉ có Chúa mới tồn tại, chỉ có phần rỗi linh hồn mới xứng đáng mọi người kiếm tìm hơn hết. Ngài cầu xin Chúa soi sáng cho ngài phải chọn đường nào, và sau cùng đã xin gia nhập dòng thánh Ba-si-li-ô.
Nhờ nhân đức và đời sống thánh thiện, năm 1614, thánh nhân được chọn làm bề trên nhà dòng. Ngài tận tụy đào luyện các tu sĩ và luôn nêu gương khắc khổ cầu nguyện cho họ. Nhờ đó, nhà dòng ngày càng phát triển, các tu sĩ ngày càng thêm nhân đức trọn lành.
Danh tiếng thánh nhân lan rộng nên năm 1617, ngài được Đức Giáo Hoàng tấn phong Giám mục phụ tá cho Tổng Giám mục ở Pô-lô, và năm sau lên kế vị.
Từ ngày lên làm Tổng Giám mục, thánh nhân càng nổ lực sống khắc khổ nhiệm nhặt hơn, để nêu gương cho hàng giáo sĩ, các tu sĩ và đoàn chiên. Đặc biệt ngài dồn hết sức lực vào công việc hiệp nhất trong Hội thánh. Vì lúc đó các Ki-tô hữu phần đông theo nghi thức By-xăn-tin. Thánh nhân dùng sách vở và lời giảng dạy kêu gọi mọi người trung thành với Hội thánh Chúa sáng lập, tuân theo phụng vụ Rô-ma. Nhưng có số người phản đối. Ngài cương quyết giữ vững lập trường hiệp nhất, thế nên họ thù ghét ngài, tìm cách ám hại ngài.
Năm 1623, trên đường đi thăm mục vụ trong tổng giáo phận, thánh nhân bị một đám người thuộc nhóm ly khai giết chết cách dã man. Xác ngài được đưa về chôn cất tại Pô-lô. Và năm 1867, thánh nhân được tôn phong Hiển thánh với thành tích bảo vệ hiệp nhất trong Giáo hội. Chính Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 11 đã ngợi khen ngài: “Theo kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa thì Hội thánh đã được thiết lập để vào thời viên mãn sẽ trở thành như một đại gia đình bao gồm tất cả nhân loại. Và chúng ta biết rằng: cùng với các dấu hiệu khác nói lên đặc tính của mình, Hội thánh được nhận thức nhờ ở sự hiệp nhất đại kết”.
“Thật vậy, khi Đức Ki-tô phán bảo các tông đồ: Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta, vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân (Mt. 28, 18-19), thì không những Người trao cho họ sứ mạng Người đã lãnh nhận nơi Chúa Cha, mà hơn nữa, Người còn muốn cộng đoàn tông đồ hiệp nhất, các phần tử phải liên kết với nhau bằng một sợi dây đôi thật khắng khít; bên trong là nhờ một đức tin và nhờ đức ái mà Chúa Thánh Thần đổ tràn trong lòng chúng ta (Rm. 5,5), còn bên ngoài là nhờ quyền bính của một người duy nhất trên tất cả, vì Đức Ki-tô đã đặt Phê-rô làm thủ lãnh các tông đồ, làm như một nguyên lý vĩnh viễn và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất, nhưng để cho sự hiệp nhất và hòa hợp nầy được mãi mãi tồn tại. Thiên Chúa quan phòng đã hiến thánh chúng bằng dấu hiệu của sự thánh thiện và tử đạo”.
“Vinh dự đó cũng đã được ban cho thánh Gio-sa-phát, Tổng Giám mục Pô-lô-xơ, thuộc nghi lễ đông phương La-vô-ni-a, chúng ta thật có lý để coi ngài như cột trụ thời danh và cao cả, nhất là miền ấy. Quả vậy, khó tìm được người nào mang lại vinh dự cho dòng giống Xơ-la-vơ và đã tiếp tục làm được cho phần rỗi của dân Người hơn là Vị mục tử và là tông đồ của họ. Nhất là vì ngài đã đổ máu đào để hiệp nhất Hội thánh, ngài cảm thấy Chúa linh ứng thúc đẩy hoạt động để tái lập sự hiệp nhất của Hội thánh khắp hoàn cầu; ngài hiểu có thể cộng tác vào đó nhiều, nếu duy trì nghi thức Đông phương Xô-la-vơ và dòng thánh Ba-xi-li-ô trong sự hiệp nhất và Hội thánh phổ quát”.
Quyết tâm: Suốt đời sống trung thành với Hội thánh Chúa, và đem hết tài năng sức lực hiệp cùng mọi người thiện chí, cổ động và cầu nguyện cho mọi người hiệp nhất nên một ràn chiên và một chủ chăn, theo gương thánh Gio-sa-phát.
Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Thánh Giám mục Gio-sa-phát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng con hằng biết noi gương Người, không ngại xả thân vì anh em.
Lời Bàn
Mầm mống chia rẽ được bắt đầu vào thế kỷ thứ tư, khi Ðế Quốc La Mã bị chia cắt làm hai phần Ðông và Tây. Không một lý do nào có thể biện minh cho sự phân ly hiện nay trong Kitô Giáo, mà trong đó 64 phần trăm là Công Giáo Rôma, 13 phần trăm là các Giáo Hội Ðông Phương (hầu hết là Chính Thống Giáo) và 23 phần trăm Tin Lành, trong khi 71 phần trăm dân số thế giới chưa được biết đến Ðức Kitô, thì họ phải là những người được mục kích sự hợp nhất Kitô Giáo và đức bác ái của những người mệnh danh là Kitô hữu!
http://giaoxutanviet.com/ngay-12-thang-11-thanh-gio-sa-phat-giam-muc-tu-dao/
Người đã đổ máu mình
vì sự hợp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách ngày 12/11)
Trích thông điệp Hội Thánh của Thiên Chúa của đức giáo hoàng Pi-ô XI.
Hội Thánh của Thiên Chúa đã được thiết lập theo một kế hoạch kỳ diệu, để khi thời gian viên mãn, Hội Thánh nên như một đại gia đình bao gồm toàn thể nhân loại. Chúng ta biết rằng, người ta nhận ra Hội Thánh là của Thiên Chúa nhờ sự hợp nhất phổ quát cũng như nhờ một số đặc tính khác.
Chúa Ki-tô không những trao riêng cho các Tông Đồ sứ vụ Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha khi Người nói : Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất ; vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng Người còn muốn đoàn Tông Đồ hợp nhất hoàn toàn nhờ hai mối dây rất chặt chẽ : bên trong là lòng tin và lòng mến mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta ; còn bên ngoài là việc một người cai quản mọi người, vì Chúa đã trao quyền lãnh đạo các Tông Đồ cho ông Phê-rô, đặt ông làm nguyên lý vĩnh cửu và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất.
Và để mãi mãi duy trì sự hợp nhất và đồng tâm ấy, Thiên Chúa quan phòng đã lấy sự thánh thiện cùng với ơn tử đạo như một ấn tín mà thánh hiến Hội Thánh. Thánh Giô-sa-phát, tổng giám mục Pô-lốc, thuộc nghi lễ Xi-la-vô-ni-a trong Hội Thánh Đông Phương được cả hai vinh dự ấy. Chúng ta có đủ lý do để nhìn nhận người là vinh quang rực rỡ và là cột trụ của những người Xi-la-vô-ni-a theo nghi lễ Đông Phương. Bởi lẽ, khó có ai khác đã làm rạng danh họ hay đã góp phần vào ơn cứu độ cho họ hơn vị mục tử này và cũng là tông đồ của họ, nhất là do việc người đã đổ máu mình vì sự hợp nhất của Hội Thánh. Hơn thế nữa, khi cảm thấy mình được ơn trên thúc đẩy để tái lập sự hợp nhất phổ quát của Hội Thánh, người hiểu rằng mình có thể đóng góp nhiều hơn nữa, nếu duy trì được nghi lễ Xi-la-vô-ni-a Đông Phương và nếp sống đan viện theo thánh Ba-xi-li-ô, trong Hội Thánh duy nhất và phổ quát.
Trong khi đặc biệt quan tâm đến việc giúp cho những người đồng hương của mình liên kết với Toà Thánh Phê-rô, thánh Giô-sa-phát đã tìm mọi lý lẽ để cổ võ cũng như để củng cố mối liên kết ấy, nhất là người nghiên cứu những sách phụng vụ mà các tín hữu Đông Phương và cả chính những người ly khai cũng quen sử dụng, theo truyền thống của các giáo phụ. Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng như thế, người khởi công tái lập sự hợp nhất một cách vừa thật mạnh mẽ vừa thật êm dịu và rất hiệu quả, đến nỗi những kẻ đối nghịch đã gọi người là tên bắt cóc các linh hồn.
Lời nguyện (Phụng Vụ Giờ Kinh ngày 12/11)
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh giám mục Giô-sa-phát đầy tinh thần yêu mến, khiến người hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Xin Chúa thương nhậm lời thánh nhân chuyển cầu, mà ban cho Giáo Hội cũng được đầy tinh thần yêu mến, và cho chúng con hằng biết noi gương người, không ngại xả thân vì anh em. Chúng con cầu xin
Thứ Hai
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 1, 1-7
"Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu; Thánh Thần Chúa tràn ngập hoàn cầu".
Khởi đầu sách Khôn Ngoan.
Hỡi các vị lãnh đạo trần gian, hãy chuộng đức công chính. Hãy tưởng nghĩ về Chúa cách ngay lành, và hãy tìm kiếm Người với tâm hồn đơn sơ. Vì những ai không thử thách Chúa, sẽ gặp thấy Người, và Người sẽ tỏ mình cho những ai tin vào Người. Vì chưng, những tà ý làm xa cách Chúa, và quyền năng bị thử thách sẽ sửa phạt những kẻ ngu đần đó. Sự khôn ngoan sẽ không ngự vào tâm hồn gian ác, và không ở trong thân xác nô lệ tội lỗi. Vì Thánh Thần, Ðấng dạy dỗ chúng ta, sẽ xa tránh kẻ gian dối, lánh xa những tư tưởng ngông cuồng, và lui đi khi sự gian ác tới.
Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu, nhưng không tha thứ kẻ nói lộng ngôn. Vì Thiên Chúa thấu suốt tâm can kẻ ấy, Người thực sự kiểm soát lòng nó và nghe lời nó nói. Vì thần trí Chúa tràn ngập hoàn cầu. Người nắm giữ mọi sự, và thông biết mọi lời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 4-6. 7-8. 9-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.
2) Khi lời nói chưa lên tới đầu lưỡi, thì kìa, lạy Chúa, Ngài đã biết cả rồi; sau lưng hay trước mặt, Chúa bao bọc thân con, và trên mình con, Chúa đặt tay. Ðối với con, sự thông minh này quá ư huyền diệu, quá cao xa, con thực không thể hiểu ra. - Ðáp.
3) Con đi đâu xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được tới trời, thì cũng có Ngài ngự đó, nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài. - Ðáp.
4) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 1-6
"Dù một ngày bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: Tôi hối hận, thì con hãy tha cho nó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó".
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Không sống Đức Tin không thể tránh làm gương mù và có sống đức tin mới có uy tín sửa lỗi cho nhau
"Hỡi các vị lãnh đạo trần gian, hãy chuộng đức công chính. Hãy tưởng nghĩ về Chúa cách ngay lành, và hãy tìm kiếm Người với tâm hồn đơn sơ. Vì những ai không thử thách Chúa, sẽ gặp thấy Người, và Người sẽ tỏ mình cho những ai tin vào Người. Vì chưng, những tà ý làm xa cách Chúa, và quyền năng bị thử thách sẽ sửa phạt những kẻ ngu đần đó. Sự khôn ngoan sẽ không ngự vào tâm hồn gian ác, và không ở trong thân xác nô lệ tội lỗi. Vì Thánh Thần, Ðấng dạy dỗ chúng ta, sẽ xa tránh kẻ gian dối, lánh xa những tư tưởng ngông cuồng, và lui đi khi sự gian ác tới. Thần trí khôn ngoan thì nhân hậu, nhưng không tha thứ kẻ nói lộng ngôn. Vì Thiên Chúa thấu suốt tâm can kẻ ấy, Người thực sự kiểm soát lòng nó và nghe lời nó nói. Vì thần trí Chúa tràn ngập hoàn cầu. Người nắm giữ mọi sự, và thông biết mọi lời".
Và đó là lý do, vì vừa mù quáng vừa yếu đuối, họ cần phải nguyện cầu cùng Chúa như câu họa của Bài Đáp Ca trong Thánh Vịnh 138 (câu 24) hôm nay: "Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời".
13 Tháng Mười Một, Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong
thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của
Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng
cảm làm việc cho Ðức Kitô.
Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý.
Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng. Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.
Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.
Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến
thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu
tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về
Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của
đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.
Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để
chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận
thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức
tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý người lớn.
Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12 năm
1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển về nhà
thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ sáng lập.
Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban
Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.
Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ
Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến một
phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu của Đấng
Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.
Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances
Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên
quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và đặt
Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.
Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII
tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài
được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó
là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà
những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ.”
Lời Bàn
Lòng thương người và sự tận tụy của Mẹ Cabrini vẫn còn được nhận
thấy qua hàng trăm ngàn nữ tu của ngài, họ chăm sóc bệnh nhân ở bệnh
viện, viện dưỡng lão và các trung tâm quốc gia. Chúng ta than phiền
về sự tốn kém y tế trong một xã hội giầu có, nhưng tin tức hàng ngày
cho thấy hàng triệu người khác trên thế giới không có một chút gì
được gọi là y tế, và họ đang mời gọi những người noi gương Mẹ
Cabrini đến, để phục vụ người dân trên đất nước của họ.
https://www.songtinmungtinhyeu.org/index.php?open=contents&display=1&id=564 (trừ lời bàn cuối cùng)
Thứ Ba
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 2, 23 - 3, 9
"Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, nhưng thật ra các ngài sống trong bình an".
Trích sách Khôn Ngoan.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.
Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết, và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra, các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết.
Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao, vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời.
Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 16-17. 18-19
Ðáp: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc (c. 2a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần gian. - Ðáp.
3) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát. - Ðáp.
Alleluia: Cl 3, 16a và 17c
Alleluia, alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ Ðức Kitô mà tạ ơn Chúa Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 7-10
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Không thật vô dụng không thể hữu dụng
Họ là thành phần có thể vang lên tâm tình như Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 33 ở Bài Đáp Ca hôm nay rằng:
1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2) Thiên Chúa để mắt coi người hiền đức, và tai Người lắng nghe tiếng họ cầu. Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần gian.
3) Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát.
Ngày 09 tháng 11
CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LA-TÊ-RA-NÔ
lễ kính
Bài Ðọc I: Ed 47, 1-2. 8-9. 12
"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9
Ðáp: Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c. 5).
Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.
2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.
3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 9b-11. 16-17
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.
Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 2 Sb 7, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 2, 13-22
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
Ðó là lời Chúa.
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 6, 2-12
"Hỡi các vua chúa, hãy lắng nghe và học biết sự khôn ngoan".
Trích sách Khôn Ngoan.
Hỡi các vua chúa, hãy nghe và hãy hiểu. Hỡi các thủ lãnh trần gian, hãy học biết. Hỡi các vị lãnh đạo quần chúng, các ngươi kiêu hãnh, vì dân các ngươi đông đảo, xin lắng nghe: Quyền bính của các ngươi là do Chúa ban, và uy lực của các ngươi cũng do Ðấng Tối Cao. Người sẽ chất vấn mọi hành động và kiểm soát những tư tưởng các ngươi. Vì nếu các ngươi là những quản lý nước Chúa mà không xét xử công minh, không giữ luật công bình, không sống theo thánh ý Thiên Chúa, thì Người sẽ xuất hiện trên các ngươi cách kinh hoàng mau lẹ. Vì đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 81, 3-4. 6-7
Ðáp: Ôi Thiên Chúa, xin Chúa đứng lên xét xử địa cầu (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy bầu chữa kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn. Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác. - Ðáp.
2) Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi sẽ té nhào. - Ðáp.
Alleluia: 1 Tx 2, 13
Alleluia, alleluia! - Anh em hãy đón nhận lời Chúa, không phải như lời của loài người, mà là như lời của Thiên Chúa và đích thực là thế. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 11-19
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch. Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Vô ơn là thái độ lạm dụng Thiên Chúa và coi Ngài như một phương tiện sử dụng của mình hơn là cùng đích nhắm đến
"Đối với những kẻ cầm quyền, Người sẽ xét xử nghiêm nhặt. Ðối với những kẻ thấp hèn, thì Người sẽ thương xót, còn những người quyền thế, Người sẽ lấy quyền thế mà trừng trị. Thiên Chúa không lùi bước trước mặt ai, chẳng sợ chức bậc nào, vì kẻ hèn người sang đều do chính Người tác tạo, và Người săn sóc tất cả đồng đều. Nhưng Người sẽ xét xử nghiêm nhặt hạng quyền thế. Vậy hỡi các vua chúa, đây là lời ta nói với các ngươi, để các ngươi học biết sự khôn ngoan và khỏi sa ngã. Vì chưng, những ai kính cẩn nắm giữ những điều công chính, sẽ nên người công chính, và những ai học hỏi các điều này, sẽ biết cách trả lời. Vậy các ngươi hãy say mến lời ta, thì các ngươi sẽ được giáo huấn.
Nếu Bài Đọc 1 hôm nay liên quan đến 9 người cùi vô ơn, thì Bài Đáp Ca (trích Thánh Vịnh 81) hôm nay liên quan đến người cùi biết ơn, như sau:
1) Hãy bầu chữa kẻ bị ức và người phận nhỏ; hãy bênh vực quyền lợi người khốn khó và kẻ cơ hàn. Hãy cứu chữa người bị áp bức và kẻ bần cùng; hãy giải thoát họ khỏi bàn tay đứa ác.
2) Ta đã nói: các ngươi là những bậc chúa tể, và hết thảy các ngươi là con Ðấng Tối Cao. Tuy nhiên, cũng như người ta, các ngươi sẽ chết, cũng như một quân vương nào đó, các ngươi sẽ té nhào.
15/11
Thánh Albertô Cả, Giám mục Tiến sĩ Hội thánh
I. ĐÔI HÀNG LỊCH SỬ
Thánh Albert Cả là linh mục Ða Minh người Ðức có ảnh hưởng đến lập trường dứt khoát của Giáo Hội đối với triết lý của Aristote được du nhập vào Âu Châu do sự phát triển của Hồi Giáo.
Các sinh viên triết biết đến ngài như vị thầy của Thánh Tôma Aquinas. Sự hiểu biết về triết Aristote của Thánh Albert tạo môi trường thích hợp cho Thánh Tôma Aquinas phát triển cái nhìn tổng hợp của ngài về văn hóa Hy Lạp và thần học Kitô Giáo. Nhưng Thánh Albert vẫn xứng đáng là một học giả am tường, trung thực và cần cù.
Ngài sinh năm 1206 tại Lauingen (Bavaria). Là con cả của một lãnh chúa quyền thế và giàu có ở Ðức. Ngay từ nhỏ ngài đã nổi tiếng thông minh. Lớn lên, ngài vào trường đại học ở Padua, nước Ý, và chính ở đây ngài gia nhập dòng Ða Minh khiến gia đình thật khó chịu.
Sự lưu tâm vô bờ của ngài đến các lãnh vực khác nhau đã thúc giục ngài viết các tổng lược về: khoa học tự nhiên, hùng biện, toán học, thiên văn, luân lý, kinh tế, chính trị và siêu hình học. Công trình này phải mất 20 năm mới hoàn tất. Ngài nói, “Mục đích của chúng tôi là đưa ra tất cả những học thuật trước đây để Giáo Hội Tây Phương có thể lĩnh hội được.”
Ngài đạt được mục đích ấy trong khi vừa giảng dạy tại Paris và Cologne, khi làm bề trên dòng Ða Minh và ngay cả khi là giám mục của Regensburg từ năm 1260 đến 1262.
Ngài bảo vệ
các dòng Ða Minh và Phanxicô chống lại sự tấn công của William ở
Thành Amour, và giúp Thánh Tôma chống lại với tà thuyết
Averroi.Thánh
Thánh Albert
là vị tiến sĩ uyên bác về mọi phương diện (Universal Doctor), một
nhà học giả, một quản trị gia, một nhà triết gia, vạn vật học, và
một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức tính của một nhà thông
thái ngày nay.
Ngài qua đời ngày 15 tháng 11 năm 1280 tại Cologne, Prussia (modern Germany) và được mai táng trong nhà thờ Thánh Andrea, Cologne.
Ngài được Đức Giáo Hoàng Gregory XV tôn phong Chân Phước năm 1622 và Đức Giáo Hoàng Pius XI phong thánh và tuyên xưng Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 16 tháng 12 năm 1931. Đức Pius XII đặt làm quan thầy những nhà chuyên môn tự nhiên học năm 1941.
II. SỰ NGHIỆP.
Nhìn lại cuộc đời của thánh Albertô, chúng ta thấy Ngài quả thực là một thiên tài Chúa ban cho Giáo Hội, là vị tiến sĩ uyên bác về mọi phương diện (Universal Doctor), một nhà học giả, một quản trị gia, một nhà triết gia, vạn vật học, và một nhà thần học siêu đẳng, nêu gương các đức tính của một nhà thông thái ngày nay, thế nhưng sau những đức tính nổi bất đó, tôi còn thấy một đức tính tuy không nổi bất nhưng lại rất sáng chói cho rất nhiều người ngày hôm nay. Đó là biết rút lui đúng thời đúng lúc nhường GHẾ cho những người có khả năng hơn.
Lịch sử ghi lại: “ Khi đã hoàn thành công cuộc hết sức có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản.”
Tấm gương của Ngài phải nói là một bài học cho nhiều người hôm nay.
Cụ thể nhất là việc Đức Thánh Cha Bênêđictô Ngày 11 tháng 2 năm 2013, tuyên bố sẽ từ chức Giám mục Rôma, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2013.
Trong công nghị lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2 năm 2013, trước sự hiện diện của các hồng y và giám mục, ngài tuyên bố:
“Anh em rất thân mến.
Tôi triệu tập anh em đến dự Công nghị này không phải để chỉ nói về 3 cuộc phong thánh, nhưng còn để thông báo cho anh em một quyết định rất quan trọng đối với đời sống Giáo hội. Sau khi nhiều lần xét mình trước mặt Thiên Chúa, tôi đã đi tới sự chắc chắn rằng sức lực của tôi, vì tuổi cao, không còn thích hợp nữa để thi hành sứ vụ Phêrô một cách thích đáng nữa. Tôi ý thức rõ sứ vụ này, do yếu tính thiêng liêng, phải được chu toàn không những bằng hoạt động và bằng lời nói, những còn bằng đau khổ và cầu nguyện. Tuy nhiên, trong thế giới ngày nay, đang chịu những biến chuyển mau lẹ và bị dao động vì những vấn đề có tầm quan trọng lớn đối với đời sống đức tin, để cai quản con thuyền của Thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, cần có nghị lực cả thể xác lẫn tâm hồn, nghị lực mà trong những tháng gần đây bị suy giảm nơi tôi đến độ tôi phải nhìn nhận mình không có khả năng thi hành tốt sứ mạng đã được trao phó cho tôi. Vì thế, với ý thức rõ ràng về hành vi hệ trọng này, với tự do hoàn toàn, tôi tuyên bố từ bỏ sứ vụ Giám mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, được ủy thác cho tôi do tay các hồng y ngày 19 tháng 4 năm 2005, để từ ngày 28 tháng 2 năm 2013 sắp tới, Tòa Roma, Tòa Thánh Phêrô sẽ trống tòa từ lúc 20 giờ và những ai có thẩm quyền cần phải triệu tập Mật Nghị Hồng y để bầu vị giáo hoàng mới.
Anh em rất thân mến, tôi chân thành cảm ơn anh em vì tất cả lòng quý mến và công việc mà anh em đã cùng mang gánh nặng sứ vụ của tôi, và tôi xin lỗi vì tất cả những thiếu sót của tôi. Giờ đây, chúng ta hãy phó thác Hội Thánh cho vị Mục Tử Tối cao, là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, và cầu xin Mẹ Maria của Ngài, với lòng từ mẫu xin Mẹ trợ giúp các Hồng y trong việc bầu vị giáo hoàng mới. Về phần tôi, cả trong tương lai, tôi muốn hết lòng phục vụ Hội Thánh của Thiên Chúa bằng cuộc sống dành trọn cho việc cầu nguyện.”
Thật là tấm gương sáng chói cho tất cả những ai đang sống trong Giáo hội của Chúa.
Một câu chuyện khác cũng thật cảm động: “Ngày 28/8/2020, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố từ chức. Ông nói trong cuộc họp báo:
“Tôi đã quyết định từ chức Thủ tướng”. “Tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”.
“Tôi xin lỗi từ tận đáy lòng mình rằng mặc dù được sự ủng hộ của người dân Nhật Bản, nhưng tôi vẫn quyết định từ chức dù vẫn còn 1 năm nhiệm kỳ. Tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”
Ngày 03/9/2021, người kế nhiệm ông Shinzo Abe là đương kim Thủ tướng Nhật Bản Yoshihide Suga lại tuyên bố từ chức. Ông Suga cho biết:
“Như tôi đã nhiều lần nói với mọi người, bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng. Đó là những gì mà bản thân tôi cống hiến”.
“Tôi nhận ra tôi cần nguồn năng lượng rất lớn. Tôi không thể làm cả hai việc (tái tranh cử và xử lý đại dịch). Tôi phải chọn một việc thôi”
Các Thủ tướng Shinzo Abe và Yoshihide Suga đã đặt quyền lợi nhân dân Nhật Bản lên trên quyền lợi cá nhân và đảng phái chính trị. Tuy còn sức khoẻ, còn rất minh mẫn, được nhân dân ủng hộ, nhưng ông Shinzo Abe từ chức trước nhiệm kỳ 1 năm vì “tôi không muốn bệnh tật dẫn tới những sai lầm trong các quyết sách quan trọng”, “tôi không thể làm Thủ tướng nếu tôi không thể đưa ra những quyết định tốt nhất cho người dân”. Còn ông Yoshihide Suga thì “bảo vệ mạng sống và sức khỏe của người dân là trách nhiệm của tôi với tư cách thủ tướng”, “tôi cần nguồn năng lượng rất lớn”, “tôi không thể làm cả hai việc”, “tôi phải chọn một việc thôi”.
Nước Nhật hùng mạnh là bởi họ có những nhà lãnh đạo như thế. Họ không tranh luận về chủ thuyết. Họ không hô khẩu hiệu. Họ hành động. Họ biết tuy họ vĩ đại, nhưng còn có nhiều người vĩ đại hơn - nên phải nhường bước. Nếu họ là người vĩ đại nhất thì nước Nhật hết đường tiến.”
ĐTC Biển Đức XVI về Thánh Albertô Cả
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 7, 22 - 8, 1
"Sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của uy quyền Thiên Chúa".
Trích sách Khôn Ngoan.
Trong sự khôn ngoan có tinh thần sáng suốt, thánh thiện, duy nhất, đa diện, tinh vi, lợi khẩu, linh động, tinh tuyền, chắc chắn, dịu dàng, phục thiện, sâu sắc, bất khuất, hào hiệp, nhân đạo, đại lượng, vững tâm, bền chí, vững chắc, bình thản, làm được mọi sự, kiểm soát hết thảy, thấu suốt mọi thần trí, những kẻ thông minh, những người thanh sạch và những người tế nhị. Sự khôn ngoan linh hoạt hơn mọi chuyển động, và vì trong sạch, nên thấu nhập mọi nơi.
Sự khôn ngoan là hơi thở của quyền năng Thiên Chúa, và là sự phát xuất tinh tuyền của vinh quang Thiên Chúa toàn năng; bởi thế không vật ô uế nào đụng tới được; sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của Uy quyền Thiên Chúa, và là hình ảnh lòng từ nhân của Người.
Tuy duy nhất, nhưng sự khôn ngoan có thể làm mọi sự, và dù bất biến, nhưng có thể canh tân mọi loài. Qua các thế hệ, sự khôn ngoan lan tràn trên các tâm hồn thánh thiện, làm cho các tâm hồn trở nên bạn hữu và tiên tri của Thiên Chúa.
Vì Chúa không yêu mến ai nếu không phải là kẻ ở với sự khôn ngoan. Khôn ngoan xinh đẹp hơn mặt trời, trổi vượt mọi tinh tú, và so với ánh sáng, nó còn trổi vượt hơn, vì ánh sáng có lúc phải nhường chỗ cho bóng tối, nhưng ngay cả gian ác cũng không thắng nổi sự khôn ngoan.
Vậy sự khôn ngoan đã lan tràn mạnh mẽ từ bờ cõi này đến bờ cõi kia, và hướng dẫn mọi loài cách khôn khéo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 89. 90. 91. 130. 135. 175
Ðáp: Thân lạy Chúa, cho tới đời đời, lời Chúa vẫn còn đó (c. 89a).
Xướng: 1) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao. - Ðáp.
2) Ðời nọ sang đời kia, còn mãi lòng trung thành của Chúa, Ngài đã kiến tạo địa cầu, nó còn đứng vững trơ trơ. - Ðáp.
3) Theo chỉ dụ Chúa, vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Ðáp.
4) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
5) Xin tỏ cho tôi tớ Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tx 2, 14
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 20-25
"Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Nước
Trời là một thực tại thần linh, không theo chiều kích thời gian và
không gian mà là chiều kích hiện thực đức tin
"Sự khôn ngoan là hơi thở của quyền năng Thiên Chúa, và là sự phát xuất tinh tuyền của vinh quang Thiên Chúa toàn năng; bởi thế không vật ô uế nào đụng tới được; sự khôn ngoan là phản ảnh của ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương vẹn tuyền của Uy quyền Thiên Chúa, và là hình ảnh lòng từ nhân của Người. Tuy duy nhất, nhưng sự khôn ngoan có thể làm mọi sự, và dù bất biến, nhưng có thể canh tân mọi loài. Qua các thế hệ, sự khôn ngoan lan tràn trên các tâm hồn thánh thiện, làm cho các tâm hồn trở nên bạn hữu và tiên tri của Thiên Chúa".
1) Thân lạy Chúa, cho tới đời đời kiếp kiếp, lời Chúa vẫn còn đó như cõi trời cao.
2) Ðời nọ sang đời kia, còn mãi lòng trung thành của Chúa, Ngài đã kiến tạo địa cầu, nó còn đứng vững trơ trơ.
3) Theo chỉ dụ Chúa, vũ trụ luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài.
4) Sự mạc khải lời Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm.
5) Xin tỏ cho tôi tớ Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài.
6) Nguyện cho hồn con được sống để khen ngợi Chúa, và xin các sắc dụ của Chúa phù trợ cho con.
16-11
(1045-1093)
Toàn lãnh thổ Anh Quốc xôn xao náo động khi hay tin nhà vua tử trận, ngai vàng rơi vào tay quân xâm lăng! Hoàng tử Edgar tuyên bố lên ngôi thế quyền vua cha chống giặc xâm lăng. Ðể tránh đổ máu, hoàng hậu Agatha và công chúa Margaret trốn sang Tô Cách Lan. Họ được vua Malcolm niềm nở tiếp đón. Sự đón nhận thân thiện và ấm cúng hơn khi vua Tô Cách Lan “phải lòng” Margaret, công chúa Anh Quốc.
Nàng công Chúa Margaret nhan sắc tuyệt vời; tính tình thùy mỵ, đoan trang và trầm lặng. Chính những tư cách đó đã “thu hồn” nhà lãnh đạo Tô Cách Lan, vốn bẩm tính nóng nẩy bồng bột. Tuy nhiên, Margaret đã khám phá nơi Malcolm sự chân thành đạo hạnh như những kho tàng quí giá ẩn sâu dưới bề mặt gập ghềnh như vùng đồi núi xứ Tô. Hai người yêu nhau. Lễ thành hôn cử hành năm 1070 vừa khi Margaret tròn 24 tuổi đời. Thật là ngày trọng đại cho toàn dân Tô Cách Lan nói chung và cho vua Malcolm nói riêng. Margaret trở thành Hoàng Hậu Tô Cách Lan.
Là người Công Giáo chân chính, ngay từ khởi đầu cuộc đời hôn nhân, Margaret đã hướng tâm trí chồng vào công cuộc từ thiện bác ái. Tay nàng luôn mở rộng, đón nghe lời van nài của người nghèo khổ. Chẳng bao lâu, Margaret nhận thấy “quê hương thứ hai” của nàng cần phải đổi thay. Vì trong nhiều trường hợp, Linh Mục cũng như giáo dân lơ là việc thực hành Ðức Tin. Sự giáo dục trẻ em bị bỏ rơi. Việc giữ chay và mừng kính các ngày lễ đã dần rơi vào quên lãng.
Ngoài sắc đẹp duyên dáng và lòng đạo hạnh đáng yêu của vợ, vua Malcolm còn thấy Margaret có một trí thông minh xuất chúng, biết nhìn xa trông rộng. Bởi đó, nhiều lần Malcolm đã tham khảo ý kiến nàng về việc nước và trao đặt công cuộc ích quốc lợi dân nơi tay nàng.
Công việc đầu tiên nhân danh quyền bính của chồng, Margaret kêu gọi họp công đồng toàn quốc. Các vị Giám Mục và Linh Mục trong nước hội họp và bàn luận để chấn chỉnh cách sống đạo của Giáo Hội Tô Cách Lan. Kết quả trông thấy! Giáo Hội Tô Cách Lan ngày một cải tiến. Người ta xây nhà thờ mới, sửa chữa nhà thờ cũ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc được mời đến truyền đạo. Nhiều tu viện được thành lập, trong đó có đan viện Dunfermline do chính hoàng hậu Margaret và vua Malcolm thiết lập. Con em được giáo dục chu đáo.
Thánh Margarita ở Tô Cách Lan quả thật là một phụ nữ đã được giải phóng nghĩa là ngài hoàn toàn tự do để trở thành chính bản thân mình theo đúng nghĩa. Ðối với ngài, điều đó có nghĩa được tự do để yêu mến Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
Margarita không phải sinh ra là người Tô Cách Lan. Ngài là con gái của Công Chúa Agatha Hung Gia Lợi và Thái Tử Edward Atheling của xứ Anglo-Saxon. Thời niên thiếu, ngài sống trong triều đình của người bác là vua thánh Edward, vua nước Anh. Khi bị William xâm chiếm, trên đường chạy trốn, gia tộc ngài bị đắm tầu ở bờ biển Tô Cách Lan. Vua Malcolm của Tô Cách Lan làm quen với hoàng tộc này và ông đã say mê sự duyên dáng cũng như vẻ đẹp của Margarita. Và họ đã kết hôn ở lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm là người tốt bụng, nhưng cộc cằn và không có học thức, cũng giống như quê hương của ông. Vì tình yêu của Malcolm dành cho Margarita mà bà có thể thay đổi tính tình nóng nẩy của ông, cũng như chỉ bảo cách đối xử và giúp ông trở nên một vị vua nhân đức. Bà đã biến triều đình thành một nơi lịch thiệp và mỹ miều. Ông đã để mọi việc trong nước cho bà quản trị và thường hỏi ý của bà khi có vấn đề quốc sự.
Margarita là một ơn huệ Chúa ban cho người dân Tô Cách Lan. Trước khi bà đến đây, có rất nhiều người dốt nát và nhiều hủ tục trong nước. Bà tìm cách cải tiến quê hương chồng bằng cách cổ võ việc giáo dục và nghệ thuật. Về cải cách tôn giáo, bà khích lệ tổ chức các thượng hội đồng và đích thân tham dự các buổi thảo luận nhằm chấn chỉnh những tệ đoan tôn giáo rất phổ thông thời ấy của tu sĩ cũng như giáo dân, tỉ như vấn đề buôn thần bán thánh, cho vay lời cắt cổ và loạn luân. Cùng với đức lang quân, bà xây dựng nhiều nhà thờ trong nước và chính tay bà thêu áo lễ cho các linh mục.
Dù bận rộn với đại cuộc nhưng Margaret không hề bê trễ việc gia đình. Nàng luôn thiết tha sủng ái và phục vụ chồng. Thêm vào đó nàng phải nuôi nấng và giáo gục 8 người con: 6 hoàng tử và 2 công chúa. Ngày ngày cung điện hoàng gia vang dội lời cầu kinh hai buổi sáng chiều. Nàng dậy các con yêu thương người nghèo khổ, chăm lo việc học hành, dậy chúng học lịch sử hai nước tổ tiên.
Vừa bước ra khỏi lâu đài, hoàng hậu Margaret liền được bọn nghèo khổ, kẻ túng đói, người tật nguyền vây quanh. Họ biết rõ lòng từ ái của nàng. Ai ai cũng được nàng tận tình giúp đỡ. Nàng đến từng căn nhà tồi tàn săn sóc bệnh nhân, thăm nom người nghèo. Giữa những công việc bề bộn hầu như không ngừng đó, Margaret luôn xếp giờ dự lễ, cầu nguyện và đọc Thánh Kinh hằng ngày.
Lúc này hoàng hậu Margaret đã 47 tuổi. Công việc nàng làm đã bằng cả chục người đàn bà khác. Sức nàng yếu kém dần. Thánh giá lần lượt đè trên vai. Vua Malcolm, chồng nàng, và hai hoàng tử phải xuất chinh bảo vệ giang sơn, chống giặc ngoại xâm. Quân ngoại bang quá lớn mạnh, lại thêm giặc nội công, nhà vua và quân đội Tô Cách Lan thật vất vả để chống đỡ giang sơn.
Tại hoàng cung, hoàng hậu Margaret đang bệnh nặng. Nàng thiết tha cầu cho chồng và hai con. Nàng dâng mọi nỗi thương đau bệnh tật, nguyện cầu cho cuộc trở về an toàn của chồng con, cách riêng cho phúc lợi tinh thần của họ.
Một hôm, một thân hình xác xơ, thiểu não, mình đầy thương tích, xuất hiện trước cửa phòng hoàng hậu. Ðó chính là hoàng tử Edgar, con nàng. Với bộ mặt rướm máu, phủ bụi đường, Edgar tiến đến bên giường mẹ, gối quì trong trầm mặc thương đau! Margaret đã cảm biết sự thật phũ phàng, nhẹ nhàng hỏi con:
-Cha con thế nào?
-Mẹ ơi, cha và Edward đã tử trận!
Nói xong, hoàng tử Edgar vùi mặt khóc thảm thương. Hoàng hậu Margaret thều thào trong hơi thở:
-Chúa ơi, còn đau thương nào lớn hơn đau thương này!?Cầu mong thánh giá này thanh tẩy con khỏi mọi tội nhơ!
Sau khi an ủi Edgar và gọi đầy tớ băng bó vết thương cho chàng, Margaret cho mời cha tuyên úy đến.
-Hai điều tôi xin cha, bao lâu cha còn sống, xin vui lòng nhớ cầu cho linh hồn hai vợ chồng tôi qua Thánh Lễ và kinh nguyện hằng ngày; đồng thời trông nom các con tôi, dậy chúng biết Chúa và thực hiện Thánh Ý Ngài.
Sau khi cha tuyên úy hứa thi hành các điều hoàng hậu xin, Margaret xưng tội và rước Mình Thánh Chúa lần sau hết. Thế rồi linh hồn nàng an bình giã từ vương quốc bé nhỏ vừa bị xé rách nơi trần gian, để bay về vương quốc vĩnh cửu thần tiên trên trời. Hôm đó là ngày 16 tháng 11 năm 1093, bốn ngày sau khi vua Malcolm và hoàng tử Edward tử trận.
Hoàng hậu Margaret được chôn cất tại nguyện đường đan viện Dunfermline, và được phong thánh năm 1250.
Lời Bàn
Có hai cách thi hành việc bác ái: cách “sạch sẽ” và cách “bẩn thỉu.” Cách “sạch sẽ” là tặng tiền bạc, quần áo cho các tổ chức phục vụ người nghèo. Cách “bẩn thỉu” là dùng chính bàn tay của mình để phục vụ mà không sợ dơ bẩn. Nhân đức trổi vượt của Thánh Margarita là lòng thương người nghèo. Mặc dù rất giầu sang, nhưng ngài đã đích thân thăm viếng người bệnh hoạn và chăm sóc họ với chính đôi tay của mình. Trong mùa Vọng và mùa Chay, hai ông bà đã quỳ xuống để phục vụ các trẻ em mồ côi và người nghèo hèn. Giống như Ðức Kitô, bà đã thi hành bác ái trong phương cách “bẩn thỉu.”
Lời Trích
“Khi bà lên tiếng, trong lời nói đầy sự khôn ngoan ấy có sức thay đổi lòng người. Khi bà im lặng, sự thinh lặng đầy suy tư. Toàn thể bề ngoài của bà phù hợp với tính tình trầm lặng mà dường như bà được sinh ra với một cuộc đời nhân đức” (Turgot, cha giải tội của Thánh Margarita).
Đaminh Maria
cao tấn tĩnh, tổng hợp từ 2 vị linh mục: Cha Raymond Nguyễn Mạnh Thư,
CRM và
Cha Đaminh Phạm Xuân Uyển, SDB
Thánh Giêtruđê, “Người Nữ duy nhất gốc Đức quốc được gọi là ‘Cả’”
(ĐTC Biển Đức XVI)
Thứ Sáu
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 13, 1-9
"Nếu họ đã có thể truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy Chúa tể Càn khôn".
Trích sách Khôn Ngoan.
Khờ dại thay tất cả những người không chịu nhận biết Chúa, và cả những người không biết căn cứ vào các sự vật hữu hình để tìm hiểu Ðấng Tự Hữu, và không chú ý đến các công trình để biết ai là Ðấng Hoá công. Nhưng họ kể lửa, gió, khí thiêng, bầu trời đầy tinh tú, nước lũ, mặt trời, mặt trăng là những thần minh bá chủ hoàn cầu. Nếu họ say mê vẻ đẹp của các vật đó mà kể chúng là chúa tể, thì phải biết rằng: Ðấng quản trị các vật đó còn tốt đẹp hơn bội phần, vì chính Ðấng tác sinh thiện mỹ, đã tạo thành mọi vật đó. Hoặc nếu họ ngạc nhiên về năng lực và kỳ công của những tạo vật đó, thì do đó họ phải hiểu rằng Ðấng đã tạo thành các vật đó, còn có quyền lực hơn nhiều, vì do sự cao sang tốt đẹp của tạo vật mà người ta có thể nhìn biết Ðấng tạo dựng mọi loài.
Dầu sao họ cũng không đáng trách mấy, vì chưng, có lẽ họ lầm trong khi tìm kiếm Chúa, và muốn gặp Người. Họ tìm kiếm, khi sống giữa các kỳ công của Chúa, nhưng họ ngộ nhận khi thấy các vật kia tốt đẹp.
Tuy vậy, chính họ cũng không đáng được tha thứ, vì nếu họ có khả năng nhận thức để truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy cách dễ dàng hơn chính Chúa tể càn khôn?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. - Ðáp.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. - Ðáp.
Alleluia: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia! - Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 26-37
"Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.
"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.
"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.
"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại".
Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó".
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Bị mang đi hay được mang đi? - được phúc cứu rỗi hay bị họa hư đi?
1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia.
2) Ðây không phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.
Ngày 17 tháng 11
Thánh nữ Ê-li-sa-bét Hung-ga-ri
lễ nhớ bắt buộc
Thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và yêu mến Đức Ki-tô nơi người nghèo
(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 17/11)
Trích thư của cha Côn-rát thành Mác-bua, linh hướng của thánh nữ, gửi đức thánh cha Ghê-gô-ri-ô IX, năm 1232.
Bà Ê-li-sa-bét sớm bắt đầu trổi vượt về các nhân đức. Cũng như suốt đời, bà đã là người an ủi những người nghèo, thì bây giờ bà hoàn toàn trở nên vị cứu tinh của những người đói. Bà ra lệnh xây một nhà thương gần lâu đài của mình, đón về đó nhiều người đau yếu tàn tật. Đối với mọi người đến xin của bố thí, bà đã làm các việc từ thiện cách rộng rãi, ở đây cũng như trong toàn lãnh thổ thuộc quyền cai trị của chồng bà. Bà đã phân phát tất cả hoa lợi do bốn lãnh địa của chồng bà đem lại, thậm chí cuối cùng bà đã cho bán hết cả đồ trang sức và y phục quý giá để giúp người nghèo.
Bà có thói quen mỗi ngày hai lần, sáng và chiều, đích thân thăm viếng tất cả các bệnh nhân của bà. Những người bị bệnh ghê tởm nhất thì bà trực tiếp săn sóc, cho người này ăn, đỡ người kia nằm xuống, vác kẻ khác trên vai, và còn làm nhiều việc từ thiện khác nữa. Chồng bà, một người mà ai cũng thương nhớ, không bao giờ tỏ ra khó chịu vì những việc bà làm. Sau khi ông qua đời, bà muốn hướng tới sự hoàn thiện cao nhất, nên đã khóc lóc nài van con cho phép bà được đi ăn xin từ nhà này qua nhà khác.
Một ngày thứ Sáu Tuần Thánh kia, sau khi người ta đã lột khăn các bàn thờ, bà đã đặt tay trên bàn thờ một nhà nguyện trong thành của bà, nơi bà đã cho các Anh Em Hèn Mọn ở, trước sự hiện diện của một số nhân chứng, bà đã nguyện từ bỏ ý riêng, từ bỏ mọi vinh hoa của thế gian và những gì mà trong Tin Mừng, Đấng Cứu Thế đã khuyên từ bỏ. Sau đó, vì bà thấy rằng mình có thể bị chi phối bởi cảnh huyên náo của thế gian và vinh quang trần thế, trong đó bà đã sống cách vẻ vang khi chồng bà còn sống, nên bà đã theo con đến Mác-bua mặc dầu con không muốn. Trong thành này, bà xây một nhà thương, đón về đó những người đau yếu tàn tật, và cho những người khốn khổ nhất, những người bị khinh rẻ nhất, ngồi ăn cùng bàn với bà.
Ngoài những hoạt động bác ái bà làm, con xin tuyên bố trước mặt Thiên Chúa rằng con hiếm thấy một người phụ nữ nào có đời sống chiêm niệm cao hơn. Một số tu sĩ nam nữ đã nhiều lần thấy rằng : khi bà cầu nguyện một mình xong và đi ra thì bộ mặt bà toả sáng lạ lùng, và từ mắt bà phát ra những tia sáng như tia sáng mặt trời.
Trước lúc bà qua đời, con đã giải tội cho bà ; khi hỏi bà phải định đoạt thế nào về của cải và đồ đạc bà để lại, bà trả lời rằng tất cả những gì bà xem ra còn sở hữu đều là của người nghèo. Bà xin con phân phát tất cả cho họ trừ chiếc áo cũ bà đang mặc, và bà muốn được chôn cất cùng với chiếc áo ấy. Nói xong, bà rước Mình Thánh Chúa. Từ đó đến chiều, bà năng nói về những điều hay nhất bà đã nghe trong các bài giảng. Sau đó, bà sốt sắng phó thác cho Thiên Chúa mọi người đang hiện diện, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng như thiếp ngủ vậy.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh nữ Ê-li-sa-bét nhận ra và tôn kính Đức Ki-tô nơi người nghèo khổ, xin nhậm lời thánh nữ chuyển cầu, mà ban cho chúng con luôn hết lòng mến yêu phục vụ những ai đang lâm cảnh khốn cùng. Chúng con cầu xin
Thánh Nữ Elisabeth thành Thüringen - Đức
- Ngày lễ kính hàng năm trong Giáo Hội: 17 tháng 11
- Ngày lễ kính tại Giáo Hội Đức: 19 tháng 11
- Sinh năm 1207 tại Sárospatak miền Bắc Hung Gia Lợi
- Qua đời ngày 17-11-1231 tại Marburg - Đức
- Tên Elisabeth có nghĩa theo tiếng Do Thái: Thiên Chúa là sự giàu
có
- Phong thánh vào năm 1235 bởi ĐGH Gregor IX.
Elisabeth là con gái đức vua Andreas II của Hung Gia Lợi. Trong năm
sinh của Elisabeth có một cuộc giao lưu thi hòa nhạc nổi tiếng trong
thành Wartburg gần thành phố Eisenach thuộc miền Thüringen. Tương
truyền trong thơ phú và huyền thoại cho rằng lúc đó có mặt của các
tài danh Hung Gia Lợi và nơi đây nói về tương lai của công chúa
Elisabeth.
Vào năm 4 tuổi Elisabeth đã được hứa hôn với quận chúa Herman lúc đó
11 tuổi. Từ đó Elisabeth được giáo dục theo lối người Đức và sau đó
Elisabeth được gửi đến Thüringen dưới sự dẫn dắt của mẹ chồng tương
lai là bà Sophie. Cách thế này đã có người dì ruột (em của mẹ) của
Elisabeth đã làm gương, đó là quận chúa Hedwig của Schlesien (sinh
năm 1174 và qua đời ngày 15.10.1243, sau này được phong thánh và là
vị nữ thánh nổi tiếng của người Đức, Thánh Hedwig được kính vào ngày
16 tháng 10). Nhưng vào năm 1216 Herman chết sớm khi Elisabeth mới
được 9 tuổi. Năm sau cha của Herman cũng qua đời. Việc nối ngôi cai
trị vùng Thüringen được trao cho người em là Ludwig lúc đó còn là vị
thiếu niên. Đến lúc trưởng thành Ludwig lên ngôi và lấy danh hiệu
Ludwig IV. Elisabeth khi ấy còn nhỏ và vẫn sống trong dinh quận
chúa. Elisabeth sống đời đạo hạnh, hiền từ và có vẻ đẹp nhu mì. Điều
này làm cho quận vương Ludwig để ý đến chị. Từ khi Herman qua đời
cho đến lúc này thì có sự quyết định đưa Elisabeth trở về Hung Gia
lợi. Nhưng Ludwig nhung nhớ yêu thương Elisabeth và tỏ ý cầu hôn giữ
chị lại trong thành Wartburg. Năm 1221 Ludwig cưới Elisabeth lúc đó
đúng 14 tuổi.
Một gia đình trẻ hạnh phúc và Elisabeth sinh được 3 người con. Vào
năm 1225 các cha dòng Phanxicô đến Eisanach giảng dạy. Elisabeth
thích đường lối nhà dòng là sống không cần của cải. Từ đó chị
Elisabeth chăm sóc đến người bệnh hoạn, nghèo khó, thăm viếng các
khu nhà ổ chuột. Việc này được chồng chị ủng hộ, nhưng họ hàng bên
chồng chê bai cho là hoang phí tiền của. Họ nhà chồng vu oan chị lan
ra những vùng xung quanh, nhưng chị luôn can đảm xác tín việc mình
làm.
Truyền thuyết tường truyền rằng khi chị chăm sóc một người bệnh cùi
và bị người nhà bắt gặp. Chị dấu người cùi trong chiếc mền đắp,
người nhà lật tung lên và lúc đó chỉ thấy một cây thánh giá Chúa
Giêsu bị đóng đinh trong chiếc mền ấy. Khi nạn đói vào năm 1226 xảy
ra trong vùng, chị Elisabeth đã lấy hết thóc gạo và tiền của trong
quỹ trợ giúp người nghèo. Lúc này nhà chồng khắc nghiệt lên án chị,
thì chính lúc đó tự nhiên trong sân rơi đầy và phủ kín những hạt lúa
mì. Người ta chất chứa vừa đủ vào các kho nẫm như cũ. Khi vua
Friedrich II đến thăm Wartburg và quận chúa Ludwig tổ chức tiệc đón
chào nhà vua thì lúc đó Elisabeth không còn chiếc áo đẹp nào cả để
mặc chào đón đức vua, khi ấy có một thiên thần hiện đến trang điểm
cho chị Eliasabeth lộng lẫy nhất trong bữa tiệc.
Phép lạ giỏ hoa hồng nổi tiếng nhất được truyền tụng cho đến ngày
nay khi nói về Thánh Nữ Elisabeth. Người chồng Ludwig bị họ hàng
lung lạc và reo vãi sự nghi kỵ về sự hoang phí nơi chị Elisabeth.
Một hôm Elisabeth từ trên thành đi xuống với chiếc giỏ được cất dấu
bánh mì vào trong đó. Bỗng chị nghe được tiếng của chồng: “Em đang
mang gì vậy?”. Ludwig vội vàng đến bên chi hất tung tấm khăn che
chiếc giỏ và chỉ thấy những cánh hồng đẹp nằm gọn trong đó. Tương
truyền này được vẽ thành những bức họa chiếc giỏ bông hồng tượng
trưng cho Thánh Nữ Elisabeth.
Vào năm 1227 Quận chúa Ludwig tham dự vào đoàn quân thứ 5 của Thập
Tự Quân tại vùng Brindisi của Ý. Nơi đây ông ngã bệnh và qua đời sau
6 năm thành hôn với Elisabeth. Chị thật đau khổ thổn thức: „Với
người chồng thương yêu một thế giới đã chết trong tôi”. Đau khổ hơn
nữa, khi chưa đón được xác chồng từ mặt trận thì chị Elisabeth bị em
chồng là Heinrich Raspe xua đuổi khỏi thành Wartburg với lý do phung
phí tài sản chung vì người nghèo. Xuống phố Eisenach không tìm được
chỗ nương náu, chị và 3 đứa con phải tá túc trong một chuồng nuôi
heo. Sau một thời gian đoàn quân viễn chinh trở về với hài cốt của
chồng cũng như chiếc nhẫn cưới được bảo quản trao lại cho Elisabeth.
Sau khi chôn cất và qua sự can thiệp của ĐGH Gregror IX chị
Elisabeth và 3 con được hưởng một phần gia tài.
Năm 1229 theo lời khuyên của cha linh hướng dòng Phanxicô là linh
mục Konrad, chị Elisabeth rời Eisanach đến Marburg sinh sống theo
tinh thần khó nghèo dòng Ba Phanxicô và hãm mình theo luật dòng. Chị
đi gõ cửa từng nhà để xin ăn. Chị từ chối tất cả của cải mình được
hưởng. Tuy nhiên theo sự hướng dẫn của cha linh hướng chị Elisabeth
dùng gia sản này xây dựng một nhà thương lớn phục vụ người nghèo tại
Marburg vào năm 1229 và đặt tên là nhà thương Thánh Phanxicô. Nơi
đây chị phục vụ người nghèo như là một y tá cho đến khi qua đời.
Vào tháng 11 năm 1231 sức khỏe của Elisabeth yếu đuối và sa sút. Vài
ngày trước khi qua đời chị được nhìn thấy một viễn tượng: một con
chim bay đến gần chị hót vang như muốn mời gọi chị cùng hát lên.
Khuôn mặt chị trở nên tươi sáng và trút hơi thở cuối cùng lúc 24
tuổi. Một cuộc sống kết thúc vì hy sinh tận tụy vì người nghèo, vì
lo lắng cho người khác. Chị Elisabeth được chôn cất ngay trong nhà
thương Thánh Phanxicô tại Marburg.
Chỉ 4 năm sau, vào năm 1235 công cuộc phong thánh đã được thực hiện
nhanh chóng cho chị Elisabeth bởi ĐGH Gregor IX vì những nhân đức
tuyệt vời phục vụ tha nhân. Người cùng thời là thánh nữ Mechthild
von Magdeburg (von Helfta) - sinh năm 1208 và mất năm 1282 đã nhận
định về chị Elisabeth như sau: “Đây là một sứ giả cho giới phụ nữ
với cuộc sống tiết hạnh, tránh xa được lối cuốn xa hoa, diệt trừ các
ích kỷ nhỏ nhen. Elisabeth được sinh ra như thế. Chị là gương mẫu
cho những người nữ, là mẫu đo về sức mạnh và ý muốn”.
Tôn Kính Chị Thánh Elisabeth tại Đức:
- Năm 1245 trên hộp đựng xương thánh của Elisabeth được khắc ghi các
dòng chữ “Gloria Teutonia” (Vinh danh nước Đức)
- Năm 1283 một đại thánh đường kiểu Gotik đầu tiên tại Đức thuộc
thành phố Marburg được xây dựng kính Thánh Nữ Elisabeth.
- Vào thế kỷ 13 những dòng thác hành hương đến Marburg kính Thánh
Elisabeth rất đông, người ta ví tầm quan trọng như nơi hành hương
nổi tiếng Santiago de Compostela, vì ảnh hưởng của Thánh Elisabeth
thời đó rất rộng lớn.
- 1907 sự tôn kính Thánh Nữ Elisabeth được lan rộng trong vùng Đức
và Áo vào dịp mừng sinh nhật thứ 700 của chị Thánh.
- 2007 toàn nước Đức tổ chức năm hành hương Thánh Elisabeth tại giáo
phận Erfurt dịp mừng sinh nhật thứ 800 của chị Thánh.
- Thành phố Kosice, phiá bắc nơi Elisabeth sinh ra đã trở thành một
trung tâm tôn kính chị Thánh.
- Tại Đức hoa hồng là biểu tượng của Thánh Nữ Elisabeth
- Tại Đức nhiều địa danh và các hội đoàn nhận Thánh Nữ Elisabeth làm
bổn mạng bảo trợ: Tiểu bang Thüringen và Hessen, Caritas Đức, các lò
bánh mì, trẻ em mồ côi, người xin ăn, người bệnh nhân, người đau
khổ, những người vô tội bị bắt bớ.
- Caritas Đức mỗi năm đều tổ chức cho hàng trăm ngàn thành viên
thiện nguyện mừng lễ quan thày kính Thánh Nữ Elisabeth vào ngày 19
tháng 11.
Lm. Paul Phạm Văn Tuấn
http://dongcong.net/CacThanh/GuongCacThanh/Thang11/Nov17.htm
Thứ Bảy
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Kn 18, 14-16; 19, 6-9
"Giữa biển đỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và họ nhảy mừng như đoàn chiên".
Trích sách Khôn Ngoan.
Ðang lúc yên tĩnh bao trùm vạn vật, và đêm đã tới nửa vòng xoay: từ vương toà trên trời cao, lời toàn năng của Chúa tựa như một dũng sĩ rắn rỏi xông tới giữa miền đất bị tiêu diệt, tựa như gươm bén mang mệnh lệnh cố định của Chúa, đứng sừng sững, đầu chạm trời, chân đạp đất, gieo chết chóc khắp muôn loài.
Và muôn loài được tác tạo như thuở ban đầu, phụng lệnh Chúa để gìn giữ thần dân Chúa được an toàn, vì Chúa đã khiến mây bao phủ trại binh họ, và từ nơi trước kia đầy nước, đã xuất hiện vùng đất ráo khô. Và giữa Biển Ðỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và từ vực sâu xuất hiện một cánh đồng xanh tươi. Toàn dân được tay Chúa che chở, đi qua nơi ấy và chiêm ngưỡng những diệu kỳ phi thường của Chúa. Lạy Chúa, họ như đàn ngựa giữa bãi cỏ, như đoàn chiên nhảy mừng, họ tán dương Chúa, là Ðấng đã giải thoát họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 2-3. 36-37. 42-43
Ðáp: Hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm (c. 5a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người; hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Chúa sát phạt mọi con đầu lòng trong lãnh thổ, của đầu mùa do sức lực cường tráng chúng sinh ra. Người dẫn họ ra đi cùng với bạc với vàng, và trong các bộ lạc của họ, không một ai đau yếu. - Ðáp.
3) Vì Người đã nhớ lời thánh thiện của Người, lời Người đã ban bố cùng Abraham là tôi tớ Người. Người đã đưa dân tộc Người ra đi trong niềm vui vẻ, đưa những kẻ Người kén chọn ra đi trong tiếng hân hoan. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tm 1, 10b
Alleluia, alleluia! - Ðấng Cứu Chuộc chúng ta là Ðức Giêsu Kitô đã dùng Tin Mừng mà tiêu diệt sự chết, và chiếu soi sự sống. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 1-8
"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng:
"Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: "Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù". Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: "Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc".
Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Ðó là lời Chúa.
Suy Nghiệm Lời Chúa
Đức tin cánh chung - thời điểm minh oan
"Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Qua câu này, Chúa Giêsu chỉ có ý khuyên các môn đệ của Người, không phải chỉ cho thành phần môn đệ đang ở bên Người bấy giờ, mà cho mọi thế hệ môn đệ của Người, phải "bền đỗ đến cùng mới được cứu độ" (Mathêu 24:13). Nhất là thế hệ môn đệ cuối cùng ở vào thời tận thế, thời Người đến lần thứ hai, đến lần cuối cùng, thời điểm mà như Người cảnh báo: "không biết có còn đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?"
Đó là lý do Thánh Phaolô đã khẳng định rất chính xác về thời cánh chung liên quan đến tận thế, hay đến mục đích lần đến cuối cùng của Chúa Kitô đó là để cứu độ những ai tin tưởng Người cho đến cùng, cho đến khi Người tái giáng:
"Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa tội trần gian mà là để mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28). Chẳng hạn như trường hợp của 5 cô trinh nữ / phú dâu khôn ngoan cầm đèn đức tin cháy lửa đức mến bằng dầu đức cậy vậy (xem Mathêu 25:1-12).
Thật ra, thời cánh chung đã được mở màn từ khi "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), tức là "vào thời điểm viên trọn" (Galata 4:4), "thời sau hết - final age" (Do Thái 1:2), thời Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con Một của Ngài là Đấng Thiên Sai Cứu Thế đúng như lời Ngài đã hứa với nguyên tổ sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15).
Nếu thời cánh chung được bắt đầu từ lần đến thứ nhất của Chúa Kitô thì thời cánh chung này cũng kết thúc vào lần đến thứ hai của Người, một lần đến quyết liệt cho phần rỗi của chung nhân loại cũng như của riêng từng người, liên quan đến đức tin cứu độ, một đức tin sẽ bị khủng hoảng đến tận gốc... và bị bật gốc nơi nhiều tâm hồn yếu dại!
Đúng thế, thời tận thế là thời kinh hoàng khủng khiếp đến độ đối với loài người về cả thể xác lẫn linh hồn của họ, như Chúa Giêsu còn thẳng thắn tiết lộ không giấu diếm như sau: "vì những ngày ấy tràn đầy những gì là thống khổ hơn bất cứ thời nào từ khi hiện hữu thế giới này... Thật vậy, nếu giai đoạn này không được rút ngắn lại thì không một ai được cứu độ..." (Mathêu 24:21-22).
Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo ở khoản 675 cũng đã phải công nhận cuộc thử thách cuối cùng Giáo Hội phải trải qua đầy nguy hiểm đến đức tin của Kitô hữu là phần tử của mình vào thời điểm trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai cũng là lần cuối như sau:
"Trước khi Ðức Kitô quang lâm, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng khiến nhiều tín hữu bị lung lạc đức tin (x. Lc 18, 8; Mt 14, 12). Những cuộc bách hại mà Hội Thánh phải chịu trong suốt cuộc lữ hành trên trần thế (x. Lc 21, 12; Ga 15, 19-20) sẽ vạch trần 'mầu nhiệm sự dữ' dưới hình thức bịp bợm tôn giáo; hình thức này chỉ đem lại cho con người một giải đáp giả tạo cho các vấn đề của họ để rồi họ phải xa rời chân lý. Sự bịp bợm tôn giáo nham hiểm nhất là sự bịp bợm của tên Phản Kitô, nghĩa là của một thuyết Mêsia giả hiệu: trong đó, con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Ðấng Mêsia của Người đã đến trong xác phàm (x. 2Th 2, 4-12; 1Th 5, 2-3; 2Ga 7; 1Ga 2, 18. 22)".
Đúng
thế, ngày Kitô quang lâm sẽ là ngày "Chúa sẽ kíp giải oan
cho họ", một sự thật được Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 diễn
tả một cách bóng bẩy về Lời Nhập Thể xuất hiện như "ánh sáng
chiếu soi trong tăm tối" (Gioan 1:5) để giải thoát những ai
tin tưởng vào Người khỏi quyền lực tối tăm như sau:
"Ðang lúc yên tĩnh bao trùm vạn vật, và đêm đã tới nửa vòng xoay: từ vương toà trên trời cao, lời toàn năng của Chúa tựa như một dũng sĩ rắn rỏi xông tới giữa miền đất bị tiêu diệt, tựa như gươm bén mang mệnh lệnh cố định của Chúa, đứng sừng sững, đầu chạm trời, chân đạp đất, gieo chết chóc khắp muôn loài.... Và giữa Biển Ðỏ đã xuất hiện một lối đi không có chướng ngại, và từ vực sâu xuất hiện một cánh đồng xanh tươi. Toàn dân được tay Chúa che chở, đi qua nơi ấy và chiêm ngưỡng những diệu kỳ phi thường của Chúa. Lạy Chúa, họ như đàn ngựa giữa bãi cỏ, như đoàn chiên nhảy mừng, họ tán dương Chúa, là Ðấng đã giải thoát họ".
Và đó là lý do mới có Bài Đáp Ca hôm nay thúc giục những ai được "Chúa kíp giải oan" "hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm", với những câu Thánh Vịnh 104 như thế này:
1) Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người; hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. Hãy tự hào vì danh thánh của Người; tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. .
2) Chúa sát phạt mọi con đầu lòng trong lãnh thổ, của đầu mùa do sức lực cường tráng chúng sinh ra. Người dẫn họ ra đi cùng với bạc với vàng, và trong các bộ lạc của họ, không một ai đau yếu.
3) Vì Người đã nhớ lời thánh thiện của Người, lời Người đã ban bố cùng Abraham là tôi tớ Người. Người đã đưa dân tộc Người ra đi trong niềm vui vẻ, đưa những kẻ Người kén chọn ra đi trong tiếng hân hoan.
I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Ngày kỷ niệm cung hiến giáo đường thánh Phêrô (khoảng 350) và thánh Phaolô trên đường Ostia (khoảng 390), cử hành vào ngày 18 tháng 11, đã được nhắc đến ngay từ thế kỷ XI trong một quyển sách viết về cuộc tử đạo của thánh Phêrô. Năm 1568, Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho ghi vào lịch phụng vụ Rôma ngày mừng lễ cung hiến này chung cho cả hai thánh đường.
Truyền thống kể rằng vương cung thánh đường thánh Phêrô nguyên thuỷ được hoàng đế Constantinô và các người kế vị xây dựng, được hoàn thành và cung hiến khoảng năm 350. Thánh đường này xây trên mộ của thánh tông đồ Phêrô ở Vaticanô, nằm trên khu nghĩa trang cổ (thế kỷ I và II) của người ngoại giáo và Kitô giáo, tại đây vào cuối thế kỷ II, người ta đã đào xuống thành ba tầng kế tiếp nhau. Một linh mục người Rôma tên là Caius, dưới thời Đức giáo hoàng Zéphirin († 217), đã để lại một chứng từ về tầng thứ ba của khu nghĩa trang, và được giám mục sử gia Eusèbe thành Césarê thuật lại: “Phần tôi, tôi có thể chỉ cho bạn thấy những chứng tích (phần mộ hay hài cốt) của các tông đồ. Nếu bạn đến Vatican hay trên đường Ostia, bạn sẽ thấy chứng tích của các vị đã sáng lập Hội Thánh.” (Lịch Sử Hội Thánh II, 25-7). Những cuộc khai quật ở thánh đường thánh Phêrô (1940-1949), dưới thời Đức Piô XII, đã khám phá ra khu nghĩa trang này, và có vẻ như đã khám phá ra phần mộ của thánh Phêrô.
Vào thế kỷ XV, dưới thời Đức Giáo Hoàng Nicolas V, người ta phá ngôi thánh đường cổ lúc đó đã đổ nát, nhưng việc xây dựng lại ngôi thánh đường này chỉ bắt đầu dưới thời Đức Giáo Hoàng Jules II (1503-1513). Đức giáo hoàng đã chọn mẫu thiết kế hình chữ thập Hy lạp của Bramante (1506). Công trình được kiến trúc sư Maderna thực hiện từ 1606 đến 1617. Theo lệnh Đức Giáo Hoàng Phaolô V, ông Maderna nối dài lòng nhà thờ thành hình chữ thập la-tinh và vẽ thiết kế phần mặt tiền. Michel-Angelo (1546) vẽ phần vòm thánh đường và phần này đã hoàn tất năm 1590. Bên dưới vòm là khu Thánh Phê-rô tuyên xưng, gồm nhà hầm mộ thánh tông đồ và bàn thờ chính đặt trên một phương du bằng đồng, tác phẩm của Bernin (1624). Công trường thánh Phê-rô, với hai hàng cột đặt theo hình bán bầu dục, cũng là tác phẩm của Bernin. Thánh đường thánh Phêrô được Đức Đức Giáo Hoàng Urbain VIII cung hiến lại năm 1626.
Vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoài thành, theo truyền thống, cũng do hoàng đế Constantin và các người kế vị xây dựng trên mộ thánh Tông đồ. Được Đức Giáo Hoàng Sirice cung hiến vào cuối thế kỷ IV; một cuộc hỏa hoạn đã tàn phá thánh đường vào năm 1823 và được xây dựng lại theo cùng mẫu thiết kế cũ. Thánh đường được Đức Giáo Hoàng Piô IX cung hiến lại ngày 10 tháng 12 năm 1854, với sự tham dự của các giám mục từ khắp nơi trên thế giới qui tụ về nhân dịp công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, vì việc mừng kính thánh Phaolô trong phụng vụ không thể tách rời việc mừng lễ thánh Phêrô, nên lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường này (ngày 10 tháng 12) cũng được gộp chung vào ngày kỷ niệm cung hiến thánh đường thánh Phêrô (18 tháng 11).
Hoàng đế Roma Constantino năm 323, sau khi công nhận đạo Công Giáo, mở ra kỷ
nguyên chấm dứt thời kỳ Giáo Hội Công Giáo bị bắt bớ bách hại trong toàn đế
quốc Roma, đã cho xây dựng Vương cung thánh đường trên ngôi mộ Thánh Phêrô ở
chân đồi Vatican. Phần phía Nam của thánh đường nằm ở bên phần sân diễn trò
xiếc giải trí của vua chúa Roma, nơi đây Thánh Phêrô dưới thời Hoàng đế Nero
đã bị hành quyết đóng đinh ngược tử vì đạo năm 67 sau Chúa giáng sinh.
Ngôi mộ của Thánh Phêrô nằm ngay dưới bàn thờ chính của đền thờ. Dưới thời
Đức Giáo Hoàng Pio XII. vào thế kỷ 20. đã có cuộc khai quật khảo cổ, và tìm
thấy ngôi mộ cùng dấu tích sùng kính Thánh Phêrô của giáo hữu thời xa xưa
hồi thế kỷ thứ nhất và thứ hai.
Theo truyền thuyết kể lại, ngôi đền thờ thời Constantino được Đức Giáo Hoàng
Silvester I thánh hiến ngày 18.11.326, và ngôi đền thờ được xây dựng hoàn
thành vào giữa thế kỷ thứ 4 sau khi hoàng đế Constantino qua đời.
Trong thời kỳ các Đức Giáo Hoàng sống lưu vong ở Avignon bên Pháp từ 1309 –
1377, đền thờ bị xuống cấp hư hại. Nhưng sau đó từ năm 1450 đền thờ được sửa
chữa lại. Sau cùng dười thời Đức Giáo Hoàng Julius II. năm 1506 ngôi đền thờ
cũ có tuổi thọ 1200 năm bị phá hủy hoàn toàn. Và ngài đặt viên đá đầu tiên
xây dựng ngôi đền thờ mới như đang thấy ngày nay.
Công trình xây dựng đền thờ mới do Kỹ sư Bramente vẽ họa đồ và Kỹ sư
Michelangelo thực hiện. Công việc xây dựng kéo dài trên 100 năm. Ngôi đền
thờ mới cũng được xây ngay trên ngôi mộ của Thánh tông đồ Phêrô, và là thánh
đường lớn nhất của Giáo Hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Urbano VIII. đã làm
phép thánh hiến khánh thành ngôi đền thờ mới cũng vào ngày 18.11.1626, mà
trước đó 1300 năm ngôi đền thờ cũ thời vua Constantino ngày 18.11.326 cũng
đã được làm phép thánh hiến.
Đền thờ Thánh Phêrô là công trình xây dựng trổi vượt về hình thức nghệ
thuật, và mang ý nghĩa trung tâm điểm của Giáo Hội Công Giáo hoàn cầu.
Công trình này được các vị kỹ sư cùng điêu khắc danh họa góp công sức thực
hiện từ Bramante đến Raffael, Peruzzi, Michaelangelo, Giacomo della Porta,
phần trang trí nghệ thuật do những kiệt tác của danh họa thiên tài
Michaelangelo, Bernini và nhiều người khác nữa.
Thánh Phaolô là vị Tông đồ dân ngoại đã loan truyền tin mừng Chúa Giêsu Kitô
từ bên vùng Trung Đông nước Do Thái sang tận Âu châu. Đi tới đâu Ông thành
lập Giáo đoàn Kitô giáo, và viết 14 thư mục vụ, như nền tảng giáo lý, gửi
các Giáo đoàn Kitô giáo. Và sau cùng vào khoảng năm 64. chết chịu tử vì đạo
dưới thời hoàng đế Nero ở Roma.
Ngay từ năm 200 đã có bảng ghi nhớ tưởng niệm ngôi mộ Thánh Phaolô ở Via
Ostia. Hoàng đế Constantino theo dấu chứng đó đã cho xây ngôi đền thờ ở
ngoài thành Roma năm 324 để kính Thánh Phaolô, và được Đức Giáo Hoàng
Sylvester thánh hiến.
50 năm sau, năm 374 Hoàng đế Theodosius I. cho xây mở rộng ngôi đền thờ to
lớn thêm ra. Đến thời Đức Giáo Hoàng Leo I (trị vì từ 440-461) ngôi đền thờ
được xây dựng hoàn thành. Tháng Bảy 1823 ngôi đền thờ thời Constantino bị
trận hỏa hoạn thiêu hủy hư hại nặng, chỉ phần hậu cung thánh với những bức
tranh Mosaic từ thế kỷ thứ 5 và 13 còn nguyên vẹn không bị cháy.
Ngôi đền thờ mới kính thánh Phaolô ngoại thành được xây dựng lại ngày
10.12.1855 dưới thời Đức Giáo Hoàng Pio IX. được làm phép thánh hiến.
Trong vương cung thánh đường Thánh Phaolô ở trên phần đầu tường chung quanh
có hình vẽ khắc kiểu Mosaic các Đức Giáo Hoàng của Hội Thánh Công Giáo từ
Thánh Phêrô, vị giáo hoàng tiên khởi cho tới vị Giáo hoàng đương kim.
Ngày 25.01.1959, vào ngày lễ kính Thánh Phaolô tông đồ trở lại, Đức Giáo
Hoàng Gioan XXIII. trong đền thờ này đã tuyên bố mở Công đồng chung Vaticano
II 1960-1965. Đền thờ gọi là ngoại thành, vì nằm ở ngoài tường thành Roma do
hoàng đế Aureliano xây bức tường bao quanh Roma năm 271 để ngăn chống các
tấn công của các sắc dân từ bên ngoài vào trong thành Roma.
BIỂU TƯỢNG Ý NGHĨA THẦN HỌC:
Hai ngôi đền thờ vĩ đại Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma không chỉ to lớn
bề thế về công trình lối kiến trúc đồ sộ vững chắc, và những trang hoàng ấn
tượng mang dấu ấn rất nghệ thuật thời
trung cổ có một không hai từ xưa nay. Nhưng hai ngôi đền thờ còn là hình ảnh
nói lên dấu chỉ về Thiên Chúa vô hình đang hiện diện giữa con người, với
những hàng cột cao trong ngoài thán đường, những vòm chỏm tháp vươn cao lên
không trung giữa thiên nhiên, những mầu sắc hài hoà của những tảng đá cẩm
thạch cùng đường vân thiên nhiên hòa hợp với ánh sáng chiếu tỏa sự trong
sáng nét đẹp của thiên nhiên.
Có thể nói được những ý tưởng mà các vị Kỹ sư và các vị danh Họa điêu khắc
đã khắc ghi vào công trình gỗ đá xây dựng hai ngôi đền thờ này, bắt nguồn
như thức ăn gợi hứng cho họ là con người, là người có lòng tin vào Chúa, là
kỹ sư kiến trúc, là nhà danh hoạ chuyên môn, từ ba cuốn sách về thiên nhiên,
cuốn sách Kinh Thánh và cuốn sách về Phụng vụ.
Vì thế, hai ngôi đền thờ kết hợp được cả ba mặt kiến trúc trong thời đại
trần gian, về lịch sử ơn cứu độ của Chúa phần thiêng liêng, như Kinh thánh
thuật lại, và về phụng vụ, nơi con người trần thế cử hành lễ nghi thờ phượng
Thiên Chúa.
Hai ngôi đền thờ được xây dựng để kính hai Thánh tông đồ Phêrô và Phaolô,
nhưng họ không phải là nền tảng cho hai đền thờ này. Chính Chúa Giesu Kitô
mới là đá nền tảng niềm tin cho đền thờ (1 cor 3,10-11). Vì nơi hai đền thờ
này mỗi khi mọi tín hữu Chúa Kitô tụ họp đọc kinh cầu nguyện, cử hành nghi
lễ phụng vụ , là tưởng niệm sự sinh ra, chịu chết và sống lại của Chúa Kitô.
Đó là nền tảng đức tin của Kitô giáo.
Chúa Giêsu Kitô là đá tảng nâng đỡ cho ngôi đền thờ đức tin của Giáo Hội
được vững chắc. Nơi Chúa Giêsu chúng ta học và đọc được Lời của Chúa, cũng
như từ nơi Ngài Giáo Hội nhận được sức sống, giáo lý và sự sai đi đến với
con người.
Hai ngôi đền thờ này như hình ảnh biểu tượng cho Giáo Hội Công Giáo Roma,
cũng đã trải qua những lần bị hư hại xuống cấp, bị hỏa hoạn cháy thiêu rụi,
và được sửa chữa lại, xây dựng mới lại. Hai ngôi đền thờ kiến trúc công
trình nghệ thuật đứng vững từ hàng bao thế kỷ nay là do luôn được quyét dọn,
tân trang bảo trì sửa chữa liếp tục.
Đời sống trong Giáo Hội cũng vậy, có những giai đoạn thoái hóa lên xuống về
mặt tinh thần đạo giáo cũng như tổ chức điều hành quản lý. Những khúc ngoặt
hay bóng tối đó gây ra những tiếng tăm không tốt, hậu qủa tiêu cực.
Nhưng đồng thời đó cũng là dịp tốt để Giáo Hội nhìn ra biết mình mà điều
chỉnh sửa chữa làm mới lại cho tốt lành đúng như ý Chúa muốn, cùng là nhân
chứng cho Chúa giữa lòng xã hội con người trần thế. Có thế ngôi nhà đức tin
Giáo Hội mới đứng vững được.
_______________________
Hai ngôi đền thờ Thánh Phêrô và Thánh Phaolô ở Roma như cột trụ của Giáo Hội
Công Giáo vừa về mặt tinh thần vừa về mặt kiến trúc cùng bề thế.
Hai vị Thánh tông đồ này cùng được mừng kính chung trong một lễ mừng ngày 29
tháng 06 hằng năm. Và hai ngôi đền thờ kính hai vị Thánh cùng được mừng nhớ
đến ngày thánh hiến chung ngày 18.11. hằng năm.
Thánh Phaolô
viết nhắn nhủ về Giáo Hội Chúa Kitô: “Tôi muốn nói là trong anh em có những
luận điệu như: ”Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi
thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô.” (1 cor 1,12)...
“Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể. Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.” (1 cor 3,6-9).
http://conggiao.info/cung-hien-den-tho-thanh-phero-va-den-tho-thanh-phaolo-o-roma-d-52198
Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường (hình bên dưới) tới mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.
Cả Ðền Thờ cũ cũng như Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.
Nhưng hiện nay mộ của ngài đang ở ngay bên dưới Bàn Thờ Chính của Đền Thờ Thánh Phêrô.
Mộ Thánh Phêrô ngay bên dưới bàn thờ Thánh Phêrô ở tầng trên của Đền Thờ Thánh Phêrô
Khu vực xây Ðền Thờ Thánh Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên 1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958.
Hai hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa,
tranh khảm, cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968:
"Hài cốt thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý".
(4 tấm hình chụp trên đây ngày 18/11/2021 của TĐCTT cao tấn tĩnh trong chuyến Hành hương Đức tin Chứng tích Phục sinh 12 ngày 8-19/2021)