Trích Hận Thù Quyết Thắng của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

-11-
 

Hai Mănh Thú



Bấy giờ tôi thấy một con mănh thú từ biển tiến lên có 10 xừng và 7 đầu' trên các xừng của nó có 10 vương miện và trên các đầu của nó có các danh hiệu lộng ngôn. Con mănh thú mà tôi thấy đó giống như một con beo, nhưng chân có móng giống như con gấu và có miệng như sư tử. Con rồng đă ban cho nó năng lực và ngai ṭa của ḿnh cùng với quyền bính cả thể. Tôi để ư thấy rằng một trong những đầu của con mănh thú h́nh như bị thương trầm trọng, nhưng vết thương này đă được chữa lành. Lạ lùng bỡ ngỡ, cả thế giới đă đi theo con mănh thú này. Loài người thờ phượng con rồng v́ nó đă ban quyền bính của nó cho con mănh thú' họ cũng sùng bái con mănh thú mà nói: "Ai có thể bằng con mănh thú, hay có thể tiến lên đối chọi với nó?"

Con mănh thú được ban cho một cái miệng để thốt ra những kiêu hănh và những lời lộng ngôn, nhưng quyền năng mà nó nhận được chỉ tồn tại có 42 tháng. Nó bắt đầu phun ra những lời lộng ngôn phạm đến Thiên Chúa, bằng cách chửi rủa Ngài cũng như các phần tử trong thiên gia của Ngài. Con mănh thú được phép nổi lên chống lại dân của Thiên Chúa và thắng được họ. Cũng thế, nó được ban quyền bính trên mọi chủng tộc và mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ và mọi quốc gia. Con mănh thú sẽ được tôn thờ bởi mọi cư dân trên mặt đất, những kẻ không có tên được ghi trong cuốn sổ hằng sống từ khởi nguyên thế giới, cuốn sổ thuộc về Con Chiên đă bị sát hại...

Đoạn tôi thấy có một con mănh thú khác từ đất mà tiến lên' nó có hai xừng như con chiên đực chưa thiến và nói năng như con rồng. Nó dùng quyền bính của con mănh thú thứ nhất để khơi dậy những lợi lộc cho ḿnh, bằng cách làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất, con mănh thú mà vết tử thương của nó đă được chữa lành. Nó thực hiện những điều kỳ diệu' đến nỗi nó có thể làm cho lửa từ trời xuống trái đất trước mặt người ta. Quyền bính của con mănh thú thứ nhất ban cho nó để thực hiện những điều kỳ diệu này, nó đă lừa đảo những dân cư trên mặt đất, bằng cách bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú đă bị thương tích v́ lưỡi gươm mà vẫn c̣n sống. Thế rồi con mănh thú thứ hai được phép ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú, để h́nh ảnh này có quyền năng phát ngôn và hạ thủ bất cứ ai từ chối không chịu tôn thờ ḿnh. Nó buộc tất cả mọi người, nhỏ cũng như lớn, giầu cũng như nghèo, nô lệ cũng như tự do, phải chấp nhận để bàn tay phải của ḿnh hay trên trán của ḿnh mang một ấn ảnh. Hơn nữa, nó cũng không để cho một người nào mua bán bất cứ một sự ǵ, trừ phi, trước hết, họ được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú. (KH 13:1-8'11-17)

Nếu "con cựu xà" là "con khổng long" biến dạng sau khi "bị hất nhào xuống đất" (KH 12:9,13) th́ hai mănh thú cũng có một liên hệ mật thiết với "con khổng long". Bởi v́, theo thị kiến của thánh kư Gioan thấy tiếp th́, sau khi sát hại hụt người nữ, bằng "gịng nước phun ra từ miệng con rắn" (KH 12:15) cũng chính là trận lụt phun ra từ miệng của hắn" (KH 12:16), "con rồng liền đi giao chiến với phần miêu duệ c̣n lại của người nữ" (KH 12:17).

Cũng theo đoạn 12 của sách Khải Huyền th́ đây là trận chiến thứ ba của "con khổng long", sau hai trận chiến mà hắn đă hoàn toàn bị thảm bại. Trận chiến thứ nhất khi hắn c̣n nguyên h́nh là "một con khổng long ở trên bầu trời" (KH 12:3) chống lại chính Thiên Chúa, qua việc "ŕnh nuốt con trẻ được sinh ra" (KH 12:4), và hắn đă thảm bại ở chỗ "bị hất nhào xuống đất" (KH 12:9,13). Trận chiến thứ hai khi hắn "săn đuổi người nữ" (KH 12:13) trong h́nh dạng là một "con rắn" (KH 12:15) phun ra "những sự giả dối" (Gn.8:44), và hắn đă bị thảm bại ở chỗ không làm ǵ được trước "việc thoát thân của người nữ" (KH 12:17).

Và, trong trận chiến thứ ba, đối tượng của hắn không phải là Thiên Chúa hay "người nữ" nữa, mà là "phần miêu duệ c̣n lại của người nữ". Cũng chỉ v́ không đối chọi thẳng với chính Thiên Chúa hay người nữ nữa, nên hắn không phải là "một con khổng long ở trên bầu trời" hay "con cựu xà" ở dưới đất, mà là dưới h́nh thù của hai con mănh thú "ở trên bờ biển" (KH 12:17). Đó là lư do thánh kư Gioan đă được tiếp tục thị kiến thấy hai con mănh thú, "một con mănh thú từ biển tiến lên" và "một con mănh thú khác từ đất mà tiến lên".

Như thế, theo nguyên gốc, như "con cựu xà", hai con mănh thú này cũng phát xuất từ chính "con khổng long". Nếu "con cựu xà" là "con khổng long" biến dạng trên đất để "săn đuổi người nữ" (KH 12:13), th́ hai con mănh thú chính là hiện thân của "con khổng long" "ở trên bờ biển" để "giao chiến với phần miêu duệ c̣n lại của người nữ". Nếu "con cựu xà", tức "con rắn là con vật tinh khôn nhất trong loài thú", là biểu hiệu cho đầu óc và mưu mô qủi quyệt của "con khổng long", th́ hai con mănh thú biểu hiệu cho sức mạnh và hoạt động của "con khổng long". Được kết nối bằng cùng một liên hệ với "con khổng long" như thế, và căn cứ theo thứ tự thời gian xuất hiện, có thể nói hai con mănh thú chính là miêu duệ của con cựu xà, thành phần mà, trong bản tuyên án phạt con rắn, Thiên Chúa đă tuyên bố là "Ta sẽ gây mối thù ... giữa miêu duệ ngươi và miêu duệ của người nữ" (KN 3:15).

Vậy, nếu hai con mănh thú thực sự là biểu hiệu cho sức mạnh và hoạt động của "con khổng long" đồng thời cũng là miêu duệ của "con cựu xà" th́ chân tướng đích thực của hai con mănh thú này chính là "tội lỗi cùng với sự chết đă lọt vào thế gian" (Rm.5:12).

Thật thế, hai con mănh thú không phải là ǵ khác ngoài "tội lỗi cùng với sự chết đă lọt vào thế gian", v́ "tội lỗi cùng với sự chết" là những ǵ mà "con cựu xà tức ma qủi hay Satan" (KH 12:9) đă hạ độc để "sát hại con người ngay từ ban đầu" (Gn.8:44), tức đă sát hại "miêu duệ người nữ". "Miêu duệ người nữ" ở đây, nói chung, là nhân tính của loài người, và v́ nhân tính của loài người "ngay từ ban đầu" đă bị "sát hại" mà cả loài người đă bị hạ độc: "Mọi người đă phạm tội" (Rm.5:12) là thế. Tất nhiên trừ chính "người nữ", một con người duy nhất đă "thoát thân" (KH 12:17), nhờ "đất bấy giờ đă đến để giải cứu người nữ, bằng cách mở miệng ra để nuốt lấy trận lụt mà con rồng phun ra" (KH 12:16).

"Đất mở miệng ra để nuốt lấy trận lụt mà con rồng phun ra" đây là ǵ, nếu không phải là nhân tính của loài người đă bị hạ độc bởi "những sự giả dối" (Gn.8:44) như "một gịng nước phun ra từ miệng của con rắn" (KH 12:15). Và, hậu quả của việc "mở miệng ra để nuốt lấy" "những sự giả dối" này, qua việc "nuốt lấy" trái cây Thiên Chúa cấm, mà con người đă lănh đủ lời của Thiên Chúa đă cảnh giác con người và chính con người cũng vẫn tự ư thức được: "Các ngươi không được ăn hay chạm đến nó kẻo các ngươi sẽ bị chết đấy" (KN 3:3'2:17). Như thế, "sự chết" chính là "một con mănh thú khác từ đất tiến lên". Tuy nhiên, v́ "muốn được khôn ngoan" (KN 3:6), chứ không phải "sự chết" mà "đất mở miệng ra để nuốt lấy" "những sự giả dối". Do đó, "sự chết" chỉ là hậu quả của "tội lỗi" và đến sau tội lỗi. Vậy, nếu "sự chết" là "một con mănh thú khác từ đất mà tiến lên" sau này th́ trước đó "tội lỗi" phải là "một con mănh thú tiến lên từ biển", "biển (là) biểu hiệu cho lănh vực của sự sống đức tin, một sự sống hiểu biết về Thiên Chúa..." (trang 118) mà con người ngay từ ban đầu đă ham thích, qua việc "muốn nên khôn ngoan" (KN 3:6), và tự động muốn chiếm hưởng, bằng việc "hái ít trái mà ăn" (KN 3:6).

Thế nhưng, dù "tội lỗi" là "con mănh thú tiến lên từ biển", tức từ ḷng ham "muốn nên khôn ngoan", nó cũng chỉ xuất hiện thực sự vào thời điểm của nó mà thôi. Thời điểm xuất hiện của "con mănh thú tiến lên từ biển" này là chính là lúc, và chỉ ngay sau lúc, con người, hiện thân nơi nam nhân Adong, với tư cách là "chồng" (KN 3:6) của người nữ, v́ "nghe lời vợ ḿnh mà ăn cây Ta cấm ngươi không được ăn" (KN 3:17) thôi. Bởi thế, lúc một ḿnh người nữ hái ăn cây Thiên Chúa cấm th́ chưa có ǵ xẩy ra hết, song đến khi cả người chồng ăn nữa, lời Thánh Kinh Khởi Nguyên mới kết luận: "Bấy giờ mắt của cả hai mở ra và họ thấy ḿnh trần truồng" (KN 3:7).

Cũng thế, dù "sự chết" là "một con mănh thú khác từ đất mà tiến lên", tức từ nhân tính đă bị sát hại của con người mà có, có như hậu quả của "tội lỗi" là "con mănh thú từ biển tiến lên", cũng chỉ xuất hiện vào thời điểm của nó thôi. Thời điểm mà "con mănh thú khác từ đất mà tiến lên" này xuất hiện vào lúc "Cain tấn công Abel em ḿnh mà giết đi" (KN 4:8). Thật ra, cái chết xuất hiện đầu tiên nơi bản thân của con người "Abel lành thánh" (Mt.23:35) chỉ là phản ảnh của "sự chết" chất chứa trong con người của Cain "không yêu thương th́ ở trong sự chết" (1Gn.3:14) mà thôi. "Sự chết" đă chiếm lấy Cain và biến Cain, như "con cựu xà", trở thành một thừa tác viên thông truyền "sự chết", trước hết bằng ḷng ghen ghét của Cain đối với em ḿnh (x.KN 4:5-6), sau đó bằng âm mưu ám muội và hành động bất nhân (x.KN 4:8) mà Cain đă thực hiện để ra tay sát hại ngay cả ruột thịt của ḿnh nữa: "Ai ghét anh em ḿnh là kẻ sát nhân" (1Gn.3:15).

Với những tác hại của ḿnh ngay từ ban đầu gây ra nơi bản tính của con người nói chung, mà "miêu duệ người nữ", cho đến tận thế, ai ai cũng đều tự cảm nghiệm thấy, như thánh tông đồ dân ngoại Phaolô đă tự thú và diễn tả, về một thảm trạng con người hoàn toàn bị kềm kẹp, giằng co và quằn quại (Rm.7:14-23), th́ quả thực đúng là hai con mănh thú biểu hiệu cho sức mạnh và hoạt động của "con khổng long".

Tuy nhiên, trong hai con mănh thú, nếu xét về chân tướng giống "con khổng long" nhất, và xét về cả quyền năng lẫn vị thế cũng gần "con khổng long" nhất, th́ phải là "con mănh thú từ biển tiến lên". Chân tướng của "con mănh thú từ biển tiến lên" giống "con khổng long" nhất là v́ con mănh thú này cũng "có 10 xừng và 7 đầu", như "con khổng long" có "7 đầu và 10 xừng". Quyền năng và vị thế của "con mănh thú từ biển tiến lên" cũng gần "con khổng long" nhất, bởi v́, chính "con rồng đă ban cho nó năng lực và ngai ṭa của ḿnh cùng với quyền bính cả thể". Có thể nói, "con mănh thú từ biển tiến lên" là hiện thân đích thực vương quyền của "con khổng long" thống trị trên thế gian nói chung và trong mỗi tâm hồn nói riêng, đến nỗi, nếu "loài người thờ phượng con rồng v́ nó đă ban quyền bính của nó cho con mănh thú' họ cũng sùng bái con mănh thú".

Phần "con mănh thú từ biển tiến lên", ngoài những ǵ được con rồng ban cho, tự ḿnh, nó c̣n có thể dùng chính vết thương ở trên một trong bẩy cái đầu của nó đă được chữa lành để lôi kéo "cả thế giới đi theo (ḿnh)". Bẩy cái đầu của con mănh thú, cũng là của con rồng đây là ǵ, nếu không phải là "biểu hiệu cho những mưu đồ vô cùng gian trá và hiểm độc của hắn để làm cho con người chiều theo 7 mối tội đầu" (trang 139).

Vậy "một trong những đầu của con mănh thú h́nh như bị thương trầm trọng" đây phải là "những ư nghĩ kiêu căng của (hắn)" (Lc.1:51) đă bị "Thiên Chúa ra tay uy quyền đánh tan" (Lc.1:51), bằng "thanh gươm" (KH 13:14) Lời Ngài, "Lời đă hoá thành nhục thể" (Gn 1:14), "sắc hơn một thanh gươm hai lưỡi sắc bén" (DT 4:12' x.KH 2:12) vô cùng lợi hại, một thanh gươm có thể "thấu nhập và phân chia linh hồn cùng tâm linh lẫn xương và tủy' phán xét những suy nghĩ và tâm tưởng của chànhi ḷng" (DT 4:12).

"Nhưng vết thương này đă được chữa lành", không phải bởi con rồng hay bởi tự "con mănh thú" này có khả năng phục hồi, mà là bởi tự "thanh gươm hai lưỡi" gây cho nó bị trọng thương, tuy vô cùng sắc bén và lợi hại, nhưng tự bản chất của ḿnh, không độc hại như những ǵ phun ra từ miệng của con rắn hay con rồng. Do đó, "con mănh thú từ biển tiến lên" mới có cơ hội "được ban cho một cái miệng để thốt ra những kiêu hănh và những lời lộng ngôn", một nghệ thuật hăo huyền mà con mănh thú biết chắc chắn rất thuận hợp và hết sức thực tế với xu hướng muốn tự nâng ḿnh lên của con người ngay từ ban đầu, nhất là sau khi bản tính của họ đă v́ thế mà bị hư đi. Nắm được yếu điểm nơi bản tính hoàn toàn bị băng hoại này của con người, "con mănh thú từ biển tiến lên" nắm trọn "quyền bính trên mọi chủng tộc và mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ và mọi quốc gia", để rồi, nó sẽ là chúa tể thống trị tâm trí cũng như mọi tác hành của con người, và "con mănh thú sẽ được tôn thờ bởi mọi cư dân trên mặt đất".

Có thể nói, "con mănh thú từ biển tiến lên" là đối thủ của "Con Chiên", "Người miêu duệ của người nữ" (KN 3:15). "Vết tử thương của nó" ở một trong bẩy đầu gây ra là do Người, Lời nhập thể và tử giá, đạp nát đầu con rắn khi con rắn đớp hại Người. Bởi thế, thành phần tôn sùng con mănh thú chỉ là "những kẻ không có tên được ghi trong cuốn sổ hằng sống từ khởi nguyên thế giới, cuốn sổ thuộc về Con Chiên đă bị sát hại". "Con Chiên đă bị sát hại" cũng lấy chính các vết thương "hiền lành và khiêm nhượng trong ḷng" (Mt.11:29) của ḿnh, nhất là vết thương từ cạnh sườn của Người, để thu hút các tâm hồn có tên trong sổ hằng sống, tương tự như "con mănh thú từ biển tiến lên" thu hút cả thế giới theo ḿnh bằng vết thương trên đầu đă được chữa lành của nó.

Ngoài ra, "tội lỗi" là "con mănh thú từ biển tiến lên" c̣n được hỗ trợ hữu hiệu từ hạ tầng cơ sở của nó, đó là "một con mănh thú khác từ đất mà tiến lên", "con mănh thú" có sứ mạng "làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới sùng bái con mănh thú thứ nhất, con mănh thú mà vết tử thương của nó đă được chữa lành". Để hoàn tất sứ mạng này của ḿnh, "con mănh thú từ đất mà tiến lên" chẳng những đă "dùng quyền bính của con mănh thú thứ nhất", mà c̣n nhờ biết "nói năng như con rồng", nó "đă lừa đảo những dân cư trên mặt đất, bằng cách bảo họ làm một ngẫu tượng để tôn kính con mănh thú đă bị thương tích v́ lưỡi gươm mà vẫn c̣n sống".

"Ngẫu tượng" mà "sự chết" là "con mănh thú từ đất tiến lên" "bảo" "những dân cư trên mặt đất làm để tôn kính con mănh thú đă bị thương tích v́ lưỡi gươm mà vẫn c̣n sống" đây là ǵ? Nếu không phải là "h́nh ảnh của con mănh thú" thứ nhất, một h́nh ảnh mà thực tế là "những ư nghĩ kiêu căng của (con người)" (Lc.1:51), hoàn toàn là một ngẫu tượng do con người tạo ra, đúng là phản ảnh bản chất kiêu căng của "con khổng long" và tính chất giả dối của "con cựu xà".

V́ "những ư nghĩ kiêu căng của (con người)" phát xuất từ bản tính đă hư đi của họ, tức từ bản tính của con người đă bị "làm tôi cho tội lỗi" (Gn.8:34' Rm.6:17), cũng là làm tôi cho sự chết, v́ "tội lỗi cai trị bằng sự chết" (Rm.5:21), mà "sự chết" là "con mănh thú thứ hai được phép ban sự sống cho h́nh ảnh của con mănh thú". Đến nỗi, "tất cả mọi người, nhỏ cũng như lớn, giầu cũng như nghèo, nô lệ cũng như tự do, phải chấp nhận" ngẫu tượng là "những ư nghĩ kiêu căng của (ḿnh)", được thể hiện qua việc làm cũng như trong tâm tưởng của ḿnh, như "để bàn tay phải của ḿnh hay trán của ḿnh mang một ấn ảnh". Bằng không, v́ "h́nh ảnh này có quyền năng phát ngôn và hạ thủ bất cứ ai từ chối không chịu tôn thờ ḿnh", con người sẽ "mất sự sống ḿnh" (Gn.12:25' Mt.16:25) trong việc "mua bán bất cứ sự ǵ".

Như thế, "h́nh ảnh" của "con mănh thú thứ nhất", được "con mănh thú thứ hai" là "sự chết" làm cho sống động và có quyền năng phát ngôn cũng như có quyền sát thủ đây, theo nguồn gốc, được phát xuất từ con người là "những ư nghĩ kiêu căng" của họ. Thế nhưng, theo tính chất, "những ư nghĩ kiêu căng" phát xuất từ con người được bộc lộ qua việc làm hay trong tâm tưởng của họ này, lại có tác dụng làm vinh danh hay để tiêu biểu cho "con mănh thú thứ nhất", qua việc "họ được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú", "những danh hiệu lộng ngôn ở trên các đầu của nó".

Vậy, nếu "con mănh thú từ biển tiến lên" là hiện thân đích thực vương quyền của "con khổng long" thống trị trên thế gian nói chung và trong mỗi tâm hồn nói riêng, th́ "con mănh thú từ đất mà tiến lên" là hiện thân sống động năng quyền của "hoàng vương sự chết" (DT.2:14) trong việc triển dương vương quốc của ḿnh nơi thành phần thuộc hạ.

Đúng thế, trong trận chiến thứ ba, "con rồng đi giao chiến với phần miêu duệ c̣n lại của người nữ, (tức là) với những ai giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu" (KH 12:17). Thế nhưng, để giao chiến trong trận chiến thứ ba này, hắn sử dụng "miêu duệ của con rắn" (KH 3:15) là "tội lỗi cùng với sự chết lọt vào thế gian" (Rm.5:12), mà hai con mănh thú là biểu hiệu, và thành phần mang ấn dấu danh hiệu của hắn hay con số biểu hiệu cho danh xưng của hắn là lực lượng. Nếu "con khổng long ở trên bầu trời" lên mặt chống lại Thiên Chúa, "con cựu xà" ở dưới đất ra tay hạ độc "người nữ", th́ thành phần "miêu duệ của con rắn" "được đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú" này, trên thực tế, sẽ thay cho "con khổng long" để giao chiến với "miêu duệ của người nữ", tức "với những ai giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu".

Chính v́ "đi giao chiến" chống lại "với những ai giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu" như thế mà, tự bản chất của ḿnh, thành phần "miêu duệ của con rắn" chiến đấu cho "con khổng long" chính là thành phần "phản Kitô" (1Gn.2:22), tức là thành phần mang "tinh thần của tên phản Kitô" (1Gn.4:3). "Phản Kitô" là ai? Nếu không phải là "kẻ chối bỏ Chúa Giêsu là Đức Kitô" (1Gn.2:22), "kẻ không công nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt" (2Gn.7). V́ "chối bỏ" sự thật, tức là "không nhận biết sự thật" (1Gn.2:21) như thế, nên "tên phản Kitô" cũng chính là "tên gian trá" (1Gn.2:22).

Như thế, "tên phản Kitô" đầu tiên và là đầu đảng chính là "con khổng long ở trên bầu trời... đứng trước người nữ sắp sinh con, ŕnh nuốt con bà khi con trẻ được hạ sinh" (KH 12:4). "Con khổng long, tức con cựu xà, đó là ma qủi hay Satan" (KH 12:9), "hắn là một tên gian trá và là cha của những sự giả dối" (Gn.8:44) cũng chính là "tên phản Kitô" hạng nặng. V́ bản tính của nhân loại đă bị "con cựu xà" hạ độc "phản Kitô", bằng một tinh thần "phản Kitô", một tinh thần tự nâng ḿnh lên, do đó mà "những kẻ phản Kitô (cũng) từ hàng ngũ của chúng ta mà phát xuất" (1Gn.2:19). Chẳng hạn như những trường hợp điển h́nh sau đây.

Trước hết, tinh thần "phản Kitô" được tỏ ra qua việc chối bỏ. Riêng thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng, sau khi "được Cha trên trời tỏ ra cho" (Mt.16:17) để có thể và mới có thể tuyên xưng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt.16:16), th́ liền bị chính Thày ḿnh trách móc thậm tệ: "Hỡi Satan, hăy đi cho khuất mắt Ta!..." Tại sao thế? Không phải hay sao, là v́ ngài chỉ có thể chấp nhận Thày ḿnh là một "Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" mà thôi, chứ ngài, lúc bấy giờ, theo tự nhiên, không thể nào hiểu được, nên cũng không thể nào chấp nhận được, Thày ḿnh cao cả như vậy lại là một Đức Kitô phải chịu khổ nạn và tử giá, như được Thày tỏ cho biết ngay trước đó. Để rồi, cuối cùng, đúng như lời Thày tiên báo (x.Mt.26:34), ngài đă "chối Thày 3 lần" (Mt.27:70,72,74,75).

Sau nữa, tinh thần "phản Kitô" c̣n được tỏ ra qua việc tự nâng ḿnh lên. V́ không hoàn toàn hiểu được Thày của ḿnh, Đấng thực sự là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", song cũng là "Đấng đến không để được phục dịch mà là để phục dịch, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt.20:28), mà các tông đồ, cho tới chính thời điểm cử hành lễ Vượt Qua cuối cùng với Thày ḿnh, vẫn cứ ôm mộng và vẫn c̣n tỏ ra tranh nhau "làm kẻ lớn nhất" (Lc.22:24) "trong vương quốc của Người" (Mt.20:21). Bởi thế mà, đúng như lời ca vịnh "Ngợi Khen" của Mẹ Maria, "Thiên Chúa đă hạ kẻ quyền uy xuống khỏi ngai ṭa của họ" (Lc.1:52), nên không lạ ǵ việc "tất cả các môn đệ đều bỏ Người mà tẩu thoát" (Mt.26:56), khi Người vừa tự nộp ḿnh để bị bắt điệu đi, một việc phũ phàng nhất và hiển nhiên nhất đă tố cáo tâm tưởng chối bỏ Đức Kitô khổ nạn là Thày của các ngài.

Tuy đă được "Thày chọn" (Gn.15:16), song về việc nhận biết chân tướng đích thực của Thày ḿnh "LÀ" (Gn.8:28), các tông đồ cũng không hơn ǵ dân Do Thái, như chính Chúa Kitô đă khẳng định với các ngài ngay trong bữa tiệc ly: "Hỡi các con, Thày không c̣n ở với các con bao lâu nữa. Các con sẽ t́m kiếm Thày, nhưng giờ đây Thày nói cho các con hay điều mà Thày đă có lần nói với dân Do Thái là: 'Nơi Ta đi các ngươi không sao đến được'" (Gn.13:33'7:34'8:21).

Phải, như các tông đồ, môn đệ tiên khởi của Chúa Kitô, cũng chỉ v́ theo "phán đoán của loài người chứ không phải của Thiên Chúa" (Mt.16:23) mà lịch sử mới xẩy ra những đáng tiếc như sau.

Đáng tiếc thứ nhất là trường hợp dân Do Thái đă phủ nhận và giật tay dân ngoại để "đóng đanh" (Gn.19:15) Đấng "là đường, là sự thật và là sự sống" (Gn.14:6), rồi tiếp tục trông đợi cho bằng được một Đức Kitô theo ư ḿnh, một Đức Kitô có thể "cứu được ḿnh...xuống khỏi thập giá" (Mt.27:42). Phải chăng, v́ thế mà, theo tài liệu liên quan đến Hội Tam Điểm cho biết (x.MFU trang 198-201), một số phần tử "tự xưng ḿnh là Do Thái chính hiệu, song không ai khác hơn là những phần tử của hội đồng Satan" (KH 1:9), cũng đang âm mưu trong công cuộc vận động và thực hiện một trật tự thế giới mới (New World Order), một thế giới sẽ được và phải được lănh đạo bởi một thượng quyền duy nhất, như Giáo Hội Công Giáo Rôma?

Thế nhưng, biết đâu, theo nhiệm ư vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Thiên Chúa, chính lúc mà trật tự thế giới này hoàn thành cũng là lúc cả thế giới sẽ mở mắt ra để thấy rằng: "Ta có ư làm cho một số trong hội đồng Satan, đó là những người Do Thái tự xưng ḿnh chính hiệu là Do Thái, song thực sự không phải là những người Do Thái, mà là giả hiệu, đến phục xuống dưới chân ngươi' họ sẽ thấy được t́nh yêu của Ta đối với ngươi được tỏ ra qua cách thức như thế" (KH 3:9).

Đáng tiếc thứ hai là vấn đề Phong Trào Thần Học Giải Phóng, một chủ trương thần học đ̣i Giáo Hội phải tỏ ra uy lực trong việc ra tay cứu vớt dân chúng cho khỏi cảnh lầm than khổ cực về vật chất gây ra do xă hội áp bức. Mong muốn giải quyết "theo phán đoán con người hơn là Thiên Chúa" (Mt.16:23) như thế, chủ trương thần học giải phóng đă không thể nào chấp nhận được một Đức Kitô làm vua của một "vương quốc không thuộc về thế gian này, (tức vua của một vương quốc không có) các thuộc hạ tranh đấu để giải cứu Người cho khỏi bị trao nộp vào tay những người Do Thái" (Gn.18:36).

Thế nhưng, thực tế đă cho thấy, không phải là uy quyền hay giầu sang là vị cứu tinh đích thực của con người và cho con người, (bằng không những kẻ có đầy quyền uy và phương tiện vật chất trong tay, tức may mắn được giải phóng trước, đă không áp bức anh em xấu số đáng thương c̣n lại của ḿnh), mà chính là "chân lư" (Gn.8:32), tức Đức Kitô, Đấng chính "là chân lư" (Gn.14:6) và "đến để làm chứng cho chân lư" (Gn.18:37), bằng cách "tự bỏ mạng sống ḿnh đi" (Gn.10:18) trên thập giá, Đấng mà tất cả những ai theo Người đều phải chấp nhận thân phận "họ (thế gian) sẽ bắt bớ các con như họ đă bắt bớ Thày" (Gn.15:20), nhưng Người cũng là Đấng "ban b́nh an không như thế gian ban" (Gn.14:27), và Người sẽ là Đấng làm cho chính "buồn khổ của các con trở thành niềm vui cho các con" (Gn.16:20).

Đáng tiếc thứ ba là trào lưu luân lư nhân tạo, một ư thức duy nhân bản, chỉ "theo phán đoán của loài người chứ không phải của Thiên Chúa" (Mt.16:23), trong việc cho phép ly dị người phối ngẫu không c̣n thích hợp với ḿnh nữa, cho phép hủy hoại sự sống các thai nhi được thụ thai bất đắc dĩ nếu sinh ra chỉ bất lợi, cũng như cho phép sát hại các bệnh nhân vô phương cứu chữa nếu để sống chỉ thêm nặng gánh mà thôi v.v. Trào lưu luân lư nhân tạo trong giai đoạn của lịch sử loài người này, kể từ thập niên 1960 thuộc hậu bán thế kỷ 20 sau Chúa Kitô giáng sinh đây, là ǵ, nếu không phải là một trào lưu "phản Kitô" kinh niên đă đến hồi quyết liệt nhất, đă đạt đến tột cùng của thách thức cần phải được bung thoát.

Thật vậy, từ thập niên 1960, đúng hơn từ thế kỷ 18 và 19, đối với con người, Thiên Chúa h́nh như và quả thực "đă chết" (xin xem lại trang 26-27). Bằng không, tại sao lại có những sự dữ xẩy ra, mà Thiên Chúa, nếu c̣n sống, là Đấng vô cùng toàn thiện và toàn năng lại không hề can thiệp ǵ hết? Thế mà, những sự dữ này xẩy ra hết sức trái với ư muốn tự nhiên của con người, nhất là lúc con người đang ở ngay vào thời điểm ư thức được quyền năng vĩ đại và phẩm giá cao cả của ḿnh, ở vào thời điểm (cũng kể từ thập niên 1960) con người bắt đầu khám phá không gian để làm chủ cả không gian, và cũng là thời điểm con người bắt đầu đi sâu vào lănh vực kỹ thuật điện tử (electronics), phát minh đủ mọi phương tiện truyền thông tối tân, đến nỗi, có thể kiểm soát được nhân sinh bằng hệ thống siêu điện toán (computer). Bởi đó, con người văn minh, sau khi đă đạt đến một tầm mức ư thức nhân bản thực danh cũng như quyền năng hoạt động vượt bực của ḿnh như thế, làm sao có thể "hiền lành và khiêm nhượng trong ḷng" (Mt.11:29) để chịu cúi ḿnh trước "gánh" nặng đè và bó tay trước "ách" cầm buộc ḿnh mà không tự động vùng lên cho đến khi được hoàn toàn vượt thoát.

Quả thực "con mănh thú (thứ nhất) được phép nổi lên chống lại dân của Thiên Chúa và thắng được họ" là như thế. Và, nhờ "quyền bính của con mănh thú thứ nhất ban cho nó để thực hiện những điều kỳ diệu này, nó (con mănh thú thứ hai) đă lừa đảo những dân cư trên mặt đất" cũng là như vậy. Thế nhưng, tầm mức hoạt động "phản Kitô" của "con mănh thú thứ nhất", cũng như năng lực khuynh đảo của "con mănh thú thứ hai", chỉ có một giới hạn nào đó thôi. V́ có tính cách "được phép", nên chúng "chỉ tồn tại có 42 tháng" mà thôi, một thời gian dài tương đương với giai đoạn "thoát thân của người nữ" là "1260 ngày" (KH 12:6) hay "một năm, hai năm và nửa năm nữa" (KH 12:14). Để rồi, sau thời gian "cho phép" được Thiên Chúa ấn định này, "thời gian thử thách xẩy ra trên toàn thế giới để thử thách tất cả mọi người trên trần gian này" (KH 3:10), sẽ đến "thời kỳ gặt hái: mùa màng trên thế gian hoàn toàn chín mùi" (KH 14:15).

"Thời kỳ gặt hái" sẽ là lúc để "các thợ gặt hái là các thiên thần" (Mt.13:39) "dùng lưỡi hái của ḿnh mà cắt mùa màng" (KH 14:15), trong "thửa ruộng là thế gian (là nơi có cả) hạt giống tốt là những công dân nước trời (lẫn) cỏ lùng là những đồ đệ của tên ác ôn" (Mt.13:38) "cùng phát triển với nhau" (Mt.13:30). "Những công dân nước trời" đây chính là "những ai giữ mệnh lệnh Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu" (KH 12:17), v́ "tinh tuyền và theo Con Chiên đi bất cứ nơi nào (nên) đă bị hy hiến (để có thể trở nên) như những hoa trái đầu mùa cho Thiên Chúa và Con Chiên" (KH 14:4). Trong khi đó, "cỏ lùng là những đồ đệ của tên ác ôn" "đi tôn thờ con mănh thú hay h́nh ảnh của nó, hoặc chấp nhận dấu ấn của nó trên trán ḿnh hay trên bàn tay ḿnh, sẽ uống loại rượu thịnh nộ của Thiên Chúa, được đổ tràn đầy trong chén giận dữ của Ngài. Sẽ bị khổ h́nh trong diêm sinh bừng bừng trước mặt các thánh thiên thần cũng như trước mặt Con Chiên, và khói của cuộc khổ h́nh này sẽ bốc lên cho đến muôn đời bất tận. Sẽ không c̣n ngày đêm nhẹ ḿnh cho những kẻ tôn thờ con mănh thú hay h́nh ảnh của nó hoặc chấp nhận dấu ấn danh hiệu của nó nữa" (KH 14:9-11).


Phụ Bản 4:


Duy Nhân Bản


Như đă đề cập đến ở ngay trong chương 11 bàn về "Hai Mănh Thú" này (trang 188-189), "trào lưu luân lư nhân tạo" là một triệu chứng hiển nhiên nhất, cũng là một hiện tượng sôi nổi nhất trong thế giới tân tiến hiện nay, nói lên một thảm trạng có thể nói là duy nhân bản. Thật ra, nhân bản tự bản chất vốn tốt lành, như chính phẩm giá của con người, yếu tố nền tảng làm nên những ǵ gọi là nhân bản (nhân tính và nhân vị), hay làm nên những ǵ liên quan đến nhân bản (nhân quyền và nhân cách).

Bởi thế, nếu bỏ nhân bản đi, không đặt con người làm trọng tâm của và là cùng đích cho mọi hoạt động trần thế của ḿnh, xă hội loài người, một là sẽ trở về thời bán khai sống theo luật rừng, mạnh được yếu thua, không hơn ǵ loài thú, hai là sẽ duy vật, như chủ trương của cộng sản thuyết, dùng con người như một sở vật vô sản, chẳng khác ǵ một bộ phận trong guồng máy chế độ để quay cuồng sản xuất một cách vô hồn và vô vọng...

Tuy nhiên, nhân bản đáng giá và đáng tôn trọng không phải là chỉ v́ mối liên hệ xă hội giữa loài người với nhau mà thôi. Nếu nhân bản chỉ dựa trên cảm thức và cảm nghiệm là: tôi cần phải tôn trọng anh v́ nếu không anh sẽ không tôn trọng tôi, th́ thứ nhân bản này vẫn c̣n quá tiêu cực và thiếu sót, không có tính cách đại đồng và siêu việt đúng như nguồn gốc có tính cách thần linh của nó. Và v́ thế mà, cuối cùng, thứ duy nhân bản này cũng sẽ lại đưa con người trở về với luật "mắt đền mắt, răng đền răng", mà kết cục là "khôn sống mống chết", không hơn luật rừng là bao nhiêu, hay ai mạnh th́ sống, như chủ trương đấu tranh giai cấp theo chủ thuyết cộng sản vô thần.

Bởi thế, duy nhân bản là chủ thuyết hay khuynh hướng tôn sùng con người thái quá, đến nỗi, coi con người là chủ tể duy nhất, ngoài ra không c̣n thượng đế, không c̣n thần linh, không c̣n Thiên Chúa nào khác. Từ đó và bởi đó, tất cả những ǵ con người nghĩ là đúng, muốn là tốt. Điển h́nh nhất là trào lưu luân lư nhân tạo ngày nay, một trào lưu luân lư chủ quan, bất chấp những nguyên tắc luân lư phổ quát, một trào lưu sống theo lương tâm của ḿnh, tự "biết lành biết dữ" (KN. 3:5), ở chỗ cái ǵ ḿnh cho là tội mới có tội.

Như thế, có thể nói, nếu "phản Kitô" là tinh thần của thần dữ, thành phần chống đối, không chấp nhận Thiên Chúa như Ngài là và từ đó muốn nên bằng hay hơn Thiên Chúa, th́ "duy nhân bản" là tinh thần trần tục của con người là loài cũng muốn chẳng những nên giống như mà c̣n thay Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, theo thời gian, chủ nghĩa duy nhân bản có sau tinh thần "phản Kitô", vả lại, theo nguồn gốc, lại do chính tên "phản Kitô" đầu đảng trá h́nh trong "con cựu xà" mà có. Thế nên, theo tính cách của ḿnh, chủ thuyết duy nhân bản chính là "h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất" (KH 13:15). Và, theo tiến tŕnh, chủ nghĩa duy nhân bản phát triển là nhờ "con mănh thú thứ hai ban sự sống cho" (KH 13:15). Để rồi, nhờ môi trường hết sức béo bở ngày nay, như đă đề cập đến ở trang 189, là ư thức nhân quyền cao độ và quyền năng kỳ diệu nơi khoa học và kỹ thuật của con người, chủ nghĩa duy nhân bản hầu như đă đạt đến tầm vóc viên trọn quá cỡ, thậm chí quá ư là kệch cỡm, của ḿnh.

Thế nhưng, theo bản chất, duy nhân bản là tự thần linh hoá bản thân, mà ai cũng cho ḿnh và muốn ḿnh là Chúa, là đầu của nhau và muốn làm đầu nhau. Bởi vậy, không lạ ǵ xă hội loài người đă mọc lên vô số đầu mục, như "con khổng long" hay "con mănh thú từ biển tiến lên" cả hai đều "có 7 đầu" (KH 12:3' 13:1). Mà bởi v́ "không ai có thể làm tôi hai chủ" (Mt.6:24), nên kể từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay là thời điểm lịch sử loài người đang ở vào giữa thập niên 1990 trước khi kết thúc kỷ nguyên thứ hai, thế giới đă, đang và c̣n trở thành một băi chiến trường, để các đầu mục giành nhau ngôi báu, bằng cách tàn sát lẫn nhau. Và cuộc chiến duy nhân bản này sẽ kéo dài cho đến khi, theo quan điểm trần gian và đà hướng chính trị, sẽ có và phải có một trật tự thế giới mới (New World Order), được lănh đạo bởi một đầu óc độc tài chuyên chế nhất và bằng một bàn tay sắt máu nhất.

Sau đây là một bản hiến chương tiêu biểu nhất về chủ thuyết duy nhân bản (humanism) trong "Humanist Manifesto I", chủ trương 15 tuyên ngôn đă được một triết gia người Hoa Kỳ là John Dewey (1859-1952) và các đồng chí của ông ta kư kết vào năm 1933.
1. "Những nhà nhân bản về tôn giáo coi vũ trụ này như tự ḿnh hiện hữu chứ không phải là được dựng nên.
2. "Chủ thuyết nhân bản tin rằng con người là thành phần của thiên nhiên và xuất thân như thành quả của một tiến tŕnh liên tục.
3. "Theo quan niệm cấu trúc về sự sống, những nhà nhân bản thấy rằng cần phải phủ nhận quan niệm truyền thống chủ trương có hai phần là tâm trí và thể xác.
4. "Chủ thuyết nhân bản nhận thức rằng văn hóa và văn minh hữu thần của con người... là một sản phẩm tiệm tiến gây ra do cuộc tiếp xúc của con người với hoàn cảnh thiên nhiên cũng như với gia sản xă hội của ḿnh...
5. "Chủ thuyết nhân bản cho rằng bản chất của vũ trụ được khoa học tân tiến phác họa làm cho những bảo toàn về siêu nhiên hay vũ trụ nơi các giá trị nhân bản không thể nào chấp nhận được... đường lối để ấn định sự hiện hữu và giá trị của bất cứ hay tất cả mọi thực tại là nhờ ở việc thăm ḍ sáng suốt ... tôn giáo phải h́nh thành các hy vọng cũng như những dự án của ḿnh trong ánh sáng của tinh thần và phương pháp khoa học.
6. "Chúng tôi xác tín rằng chủ trương hữu thần, chủ trương thần linh đă hết thời rồi.
7. "Tôn giáo bao gồm những hành động, những mục đích và những kinh nghiệm có một ư nghĩa nhân bản... Việc phân biệt giữa linh thánh với trần tục không c̣n nữa.
8. "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo coi việc nhận thức trọn vẹn về nhân vị con người là cùng đích (mục tiêu) của đời sống con người, rồi t́m cách phát triển và hoàn trọn nó ở trên đời hiện tại này. Đây là... nhiệt tính xă hội (của chúng ta).
9. "Thay cho những thái độ cổ hủ liên quan đến việc phụng thờ và cầu nguyện, nhà nhân bản t́m thấy những xúc động đạo đức của ḿnh được diễn đạt nơi cảm thức cao vời về cuộc sống cá nhân cũng như trong nỗ lực hợp tác để cổ vhành cho nền an sinh xă hội.
10. "Thế nên, cho đến nay, sẽ không c̣n những cảm xúc và thái độ đạo đức đặc thù nào liên hệ đến niềm tin vào siêu nhiên.
11. "Con người sẽ học biết cách đối đầu với những khủng hoảng của cuộc sống bằng kiến thức của ḿnh... Những thái độ nhân bản và hợp với lư lẽ sẽ được bồi dưỡng bằng việc giáo dục... chủ thuyết nhân bản sẽ chọn con đường lành mạnh về tâm thần cũng như về xă hội, và sẽ ngăn chặn những niềm hy vọng có tính cách cảm t́nh, không thật và mộng tưởng.
12. "... Những nhà nhân bản về tôn giáo nhắm đến việc bồi dưỡng tính cách sáng tạo nơi con người
13. "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo chủ trương rằng tất cả mọi hiệp hội hay cơ cấu hiện hữu là để thực hiện việc làm cho đời sống của con người được viên trọn.. Tất nhiên, những tổ chức về tôn giáo (như Giáo Hội Kitô Giáo), những thể thức về lễ nghi của họ, những phương pháp của giáo hội và những hoạt động cộng đồng phải được tái tạo cấp thời theo như kinh nghiệm cho phép...
14. "Những nhà nhân bản mạnh mẽ xác tín rằng cái xă hội tham hưởng và thiên lợi hiện tại vẫn tỏ ra chưa trọn đủ, cần phải thiết lập một cuộc thay đổi tận gốc nơi việc kiểm soát, nơi các phương pháp cũng như nơi các động lực. Cần phải thiết định một trật tự kinh tế hỗ tương được xă hội hoá.
15. "Chúng tôi nỗ lực để thiết định những điều kiện cho tất cả mọi người có được một cuộc sống thoải mái..." (NWO trang 43-44)

Ngày 19-11-1995, Tổ chức "Wir sind Kirche" (Chúng Ta là Giáo Hội) ở Đức cho biết là họ đă nhận được hai tấn giấy tờ, mang chữ kư của 1 triệu 8 trăm ngàn người, trong đó có gần 1 triệu rưỡi là Công Giáo Rôma ở Đức, kêu gọi thực hiện một giáo hội dân chủ mới mẻ hơn, theo 5 điểm chính yếu sau đây:
1. Một giáo hội anh chị em' (như kiểu Hội Nghị Nữ Tu trang 201-203)
2. Quyền b́nh đẳng cho giới phụ nữ' (như cho phụ nữ làm linh mục)
3. Độc thân tùy ư' (như cho linh mục được phép lập gia đ́nh)
4. Một thẩm giá tích cực hơn về t́nh dục' (như đồng tính/nữ luyến ái)
5. Một sứ điệp vui tươi hơn là dọa nạt. (Quyền Giáo Huấn để làm cảnh)

Bản văn có tính cách thuần túy dân chủ hợp thời này và mang tinh thần "bỏ đạo tập thể" (1Thes.2:3) cuối thời như thế c̣n được thêm 500 ngàn chữ kư ở Áo quốc. Ngoài ra, nó cũng đă được hai nhà thần học vừa nổi tiếng vừa cấp tiến là Hans Kung và Bernard Haring nhiệt liệt ủng hộ.

Ngày 24-11-1995, tức 5 ngày sau khi bản tin trên đây được phổ biến, ĐTC Gioan-Phaolô II đă chia sẻ nhận định và ư định của ḿnh với hội đồng Thánh Bộ Đức Tin như sau:

"Ngày nay chúng ta phải ghi nhận là có một sự hiểu lầm lan rộng về ư nghĩa và vai tṛ nơi Quyền Giáo Hội Giáo Huấn.
"Đây là căn gốc của những b́nh phẩm và chống đối trước những công bố của Quyên Giáo Huấn của Giáo Hội, như qúi huynh đă đặc biệt vạch ra liên quan đến các phản ứng đối với không ít những vấn đề thần học và giáo hội cho đến những văn kiện mới nhất của Quyền Giáo Hoàng Giáo Huấn: Thông điệp 'Veritatis Splendor' về những nguyên tắc của tín điều luân lư và sự sống' thông điệp 'Evangelium Vitae' về giá trị bất khả phạm của sự sống con người' Tông thư 'Ordinatio Sacerdotalis" về việc không thể phong chức linh mục cho nữ giới' và Văn Thư của Thánh Bộ phụ trách Tín Điều Đức Tin về việc hiệp lễ đối với tín hữu ly dị rồi tái hôn... (số 4)
"Trong các Thông Điệp 'Veritatis Splendor' và 'Evangelium Vitae' cũng như trong Tông Thư 'Ordinatio Sacerdotalis', Ta muốn nêu lên, một lần nữa, tính cách liên tục của tín điều nơi niềm tin của Giáo Hội, bằng việc xác nhận những chân lư hiển nhiên đối với Thánh Kinh, với Tông Truyền và với giáo huấn đồng nhất của các Vị Chủ Chăn. Bởi vậy, những tuyên ngôn này, bằng quyền bính được truyền ban cho Vị Thừa Kế thánh Phêrô để làm cho anh em ḿnh vững vàng' (Lk.22:32), nói lên tính cách chắc chắn chung hiện diện trong đời sống cũng như giáo huấn của Giáo Hội.
"Do đó, thật là khẩn thiét trong việc phải làm sao để phục hồi được quan niệm chuyên chính về quyền bính, không những ở lănh vực khi được thẩm quyền long trọng công bố, mà c̣n, sâu xa hơn nữa, ở cả lănh vực nó được dùng để bảo đảm, an toàn và hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo được liên tục trung thành với Thánh Truyền, nhờ đó, các tín hữu có thể gắn bó với giáo huấn của các Tông Đồ và với nguồn mạch của chính thực tại Kitô giáo này". (số 6) (ITV 1/1996, tr.13)

Từ ngày 8-12-1964, Đức Thánh Cha Piô IX đă lên án, trong Bản Liệt Kê 80 Điều Sai Lầm, những chủ trương duy nhân bản sặc mùi vô thần này, chẳng hạn ngài đă lên án các điều sau đây:
4. "Tất cả những sự thật về tôn giáo phát xuất từ khả năng tự nhiên của lư trí con người' bởi thế, lư trí là luật chính yếu nhờ đó con người có thể chiếm được và phải chiếm được kiến thức về tất cả những chân lư trong đủ mọi phương diện..
5. "Mạc khải thần linh bất toàn, bởi đó, phải trải qua một tiến triển liên tục vô hạn định, xứng hợp với bước tiến của lư trí con người.
6. "Đức tin vào Đức Kitô phản lại với lư trí con người' và mạc khải thần linh chẳng những chẳng có lợi ǵ mà c̣n làm hại cả đến tầm mức toàn vẹn của con người nữa.
40. "Tín điều của Giáo Hội Công Giáo phản lại với phúc lợi của xă hội loài người.
42. "Trong trường hợp có những tương phản luật lệ giữa hai thẩm quyền, th́ luật dân sự vẫn hơn.
56. "Những luật lệ về luân lư không cần đến tính cách chế tài thần linh, và các luật lệ nhân tạo cũng không cần phải am hợp với luật tự nhiên hay không cần phải nhận được hiệu lực từ Thien Chúa.
80. "Giáo hoàng Rôma có thể và phải tự dung hợp với đà tiến triển, với khuynh hướng giải phóng cũng như với nền văn minh tân tiến.. (RCH trang 992-996)

Chưa hết, ngày 3-7-1907, Thánh Giáo Hoàng Piô X, trong sắc lệnh "Lamentabili Sane", c̣n lên án 65 chủ trương của Tân Tiến Thuyết, ', chẳng hạn như những sai lầm tiêu biẻu sau đây:
4. "Ngay cả được định tín đi nữa, Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội cũng không thể nào xác định được ư nghĩa chuyên chính của các Sách Thánh.
11. "Linh ứng thần linh không áp dụng cho tất cả mọi Sách Thánh, để làm cho các phần của ḿnh, từng phần cũng như mọi phần, tránh khỏi sai lầm.
20. "Mạc khải chẳng có là ǵ khác ngoài ư thức con người có được về mạc khải của ḿnh đối với Thiên Chúa.
21. "Mạc khải làm nên đối tượng của Đức Tin Công Giáo chưa hoàn tất nơi các Tông Đồ.
22. "Tín điều mà Giáo Hội nắm giữ như được mạc khải không phải là những sự thật từ trời rơi xuống. Chúng là sự cắt nghĩa về những dữ kiện tôn giáo mà tâm trí loài người có được nhờ nỗ lực.
26. "Tín điều Đức Tin được nắm giữ chỉ theo ư nghĩa cụ thể mà thôi' tức là theo những tiêu chuẩn cảm nhận của việc làm, chứ không theo những tiêu chuẩn tin tưởng.
55. "Simon Phêrô cũng chưa hề đặt vấn đề là Đức Kitô đă trao quyền thủ lănh cho ḿnh trong Giáo Hội.
56. "Giáo Hội Rôma trở thành thủ lănh của mọi giáo hội không phải là do ấn lệnh của Sự Quan Pḥng Thần Linh, mà chỉ là nhờ những điều kiện chính trị.
57. "Giáo Hội đă tỏ ra thù địch với đà tiến triển của các khoa học tự nhiên cũng như thần học.
58. "Chân lư không c̣n bất biến hơn chính con người nữa, v́ nó xoay vần với, trong và qua con người. (PDG trang 71-77)

Hiện tượng duy nhân bản chuyên biệt và nổi bật nhất hiện nay, ngoài trào lưu luân lư nhân tạo, phải kể đến "phong trào nữ giới quá khích" (feminism), cả lănh vực đời cũng như đạo. Về đời, có luật pháp "pro-choice", cho phép người phụ nữ có quyền phá thai, và về đạo, có áp lực "inclusive language", sửa lại ngôn ngữ có vẻ mang tính cách kỳ thị phái tính trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, gần đây cho thấy mức độ quá khích của phong trào nữ giới đă được tỏ ra qua hai biến cố: thuộc lănh vực trần thế, có Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc (lần thứ 4) ở Bắc Kinh Trung Cộng nhóm họp từ 4 đến 15-9-1995, và thuộc lănh vực đạo giáo, có Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức (Women's Ordination Conference) nhóm họp vào cuối tuần lễ 10-12/11/1995 ở Washington D.C.

Trước hết là biến cố Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh. Một trong những điểm được tranh luận và tranh đáu quyết liệt nhất, bởi những nhân vật đại diện trí thức tiêu biểu của các quốc gia ở vào thời điểm loài người văn minh tuyệt vời ngày nay, có thể nói là phải kể đến ư niệm về nam tính và nữ tính của con người đă được phần đông không muốn gọi là phái tính (sex) xứng danh con người là loài "nhân linh ư vạn vật" nữa, mà là giống đực và giống cái ("gender") chẳng khác ǵ như loài vật. Tổng quan về "Quan Điểm Giống Tính" (Gender Perspective) của thành phần chủ trương nam tính và nữ tính theo giống đực và giống cái, đă được nguyệt san CWR, trong số báo tháng 5-1995 và số báo tháng 11-1995, tóm kết như sau:

1. Chủ trương phá thai là một nhân quyền, phổ biến rộng răi pháp quyền phá thai: "freedom of reproductive choice" (nguyên văn của tài liệu do INSTRAW phổ biến trong Hội Nghị), giáo dục phái tính và những quyền được phép liên hệ dục tính cho vị thành niên cũng như những ai chưa lập gia đ́nh. (INSTRAW là chữ viết tắt của International Research and Training Institute for the Advancement of Woman, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc được thành lập nhằm phục vụ việc thăng tiến cho những phúc lợi của giới phụ nữ)
2. Chủ trương quyền được đồng tính luyến ái (homosexual) và đồng nữ luyến ái (lesbian).
3. Chủ trương xác định giống tính như một cấu trúc xă hội và chống lại quan niệm 'sinh lư định mệnh' (biology is destiny).
4. Tin tưởng rằng t́nh trạng nghèo nàn của phụ nữ là do bởi phụ nữ thiếu tự lập về kinh tế.
5. Cổ vhành những nghề nghiệp không theo truyền thống và công việc ngoài gia đ́nh, và lên án những nghề nghiệp truyền thống và những khuôn mẫu.
6. Chống lại việc bạo hành phụ nữ, v́ tin rằng việc bạo hành như vậy là do quyền lực của phái nam và gia đ́nh.
7. Đề xướng đẳng số giống tính (gender quotas) 50-50 trong tất cả mọi cơ quan chính quyền, dù được bầu cử cũng như được bổ nhiệm: "political equality between women and men" (nguyên văn của tài liệu do INSTRAW phổ biến dịp Hội Nghị), trong tất cả mọi ngành nghề kinh tế, làm việc nhà cũng như coi con cái.
8. Muốn thay đổi định nghĩa về gia đ́nh, hay chữ 'gia đ́nh' (family) phải được thay thế bằng chữ 'gia cư' (household).
9. Tin tưởng rằng tôn giáo 'thủ cựu' (fundamentalist) phải chịu trách nhiệm về t́nh trạng nữ giới bị bạo hành và về việc chối bỏ những quyền b́nh đẳng của nữ giới.

Sau biến cố Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ thuộc lănh vực trần thế, tiếp đến là Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức trong lănh vực đạo giáo, một biến cố đă được nhen nhúm và sửa soạn từ năm 1993. Nguyệt san Catholic World Report, số tháng 1/1996, đă phổ biến một bài báo dưới tựa đề "Strange Sisters: Feminists are ready to abandon the hiearchy, the priesthood, the sacraments - but not their positions at Catholic institutions" (Những Nữ Tu Kỳ Lạ: Các Giới Nữ không ngần ngại băi bỏ hàng giáo phẩm, chức linh mục và các bí tích, nhưng vẫn giữ lấy chỗ đứng của ḿnh ở tại các học viện Công Giáo) đă tiết lộ như thế. Căn cứ vào những tường tŕnh của bài báo, diễn tiến và nội dung của biến cố có tính cách bùng nổ vô tiền khoáng hậu này có thể được phân tách và đúc kết như sau.:

Chủ đề của Hội Nghị là "A Discipleship of Equals" (Một Mối Liên Hệ Môn Đồ B́nh Đẳng), nhan đề của một cuốn sách đă gợi hứng cho Hội Nghị này. Bởi thế, những nhân vật điều hành chương tŕnh Hội Nghị mặc áo linh mục và cả bộ giám mục. Và cũng bởi thế, một đám đông cả gần 1000 nữ tu, toàn là các giáo chức hay các thần học gia, trong ánh sáng mờ ảo của một hội trường, đă có những mục cùng nhau cử hành các nghi thức tương tự như thánh lễ và giờ kinh.

Trong phần làm phép bánh, họ đồng thanh đọc lên sau đây:

Chúc tụng ngài, Thần Linh Tồn Dưỡng, v́ từ Hành Tinh của Trái Đất ngài mang lại nhiều hạt lúa miến. Chúng tôi nhận lấy, chúc tụng, bẻ ra và dùng bánh này, khi chúng tôi nhận thức được vẻ đẹp và quyền năng của sự khác biệt để thực hiện mối liên hệ môn đồ b́nh đẳng.

Cũng thế, qua phần làm phép chén, họ cũng đồng thanh đọc:

Chúng tôi nhận lănh, chúc tụng và uống hoa trái này của cây nho, trong liên đới với tất cả những ai được Thần kêu gọi nhập cuộc cho một sứ vụ tư tế cải cách, đó là một mối liên hệ môn đồ b́nh đẳng. (Thế rồi, trên chén rượu của từng người, họ hát một bản nhạc trong đó có lời này:) "Chớ ǵ máu của tôi là một mầm mống cho việc giải phóng".

Sang phần Giờ Kinh Phụng Vụ, họ hát xướng như sau:

Chúc tụng Sophia. Chúc tụng danh thánh của bà. Chúc tụng tất cả mọi phụ nữ: được trẻ trung, phong phú và khôn ngoan. Chúc tụng những chị em của Sophia là những người làm tồn tại cho một mối liên hệ môn đồ b́nh đẳng. Chúc tụng tất cả mọi đứa con kể lại các truyện về những vị tiền mẫu của ḿnh..." (phụ chú: theo thuyết chủ đạo thức, Sophia là một Đại Mẫu, Nữ Chúa Trời Cao đă xuống thế giới vật chất và hạ sinh ra 7 quyền lực)

Qua những tŕnh diễn trên đây, mục tiêu của Hội Nghị là có ư lật đổ chế độ "phẩm trật" (Kyriarchy là chữ cố ư được dùng thay cho chữ Patriarchy, chữ ám chỉ phẩm trật), v́ Hội Nghị chủ trương: "Ordination means subordination" (Chịu Chức tức là lụy thuộc). Do đó, họ tỏ ra không thèm "phẩm trật" nữa. Trong một tờ phát hành của Hội Nghị, "Tân Nữ Giới, Tân Giáo Hội", Janet Kalven viết:

"Những nhà thần học của chúng ta vạch ra rằng chức linh mục là một quan niệm phẩm trật thừa kế, được Giáo Hội thiết lập theo ảnh hưởng của Do Thái cũng như theo những khuôn mẫu của người Rôma, mà hiện nay nó được gắn liền với những thể thức được giáo sĩ hoá có tính cách trịch thượng kỳ thị phụ nữ. Nó thật sự phản lại với những sứ vụ của nữ giới mà phụ nữ đang tạo lập nên... Chúng ta đang đi một bước rất tốt đẹp: một đàng nhấn mạnh rằng việc loại trừ không cho phụ nữ chịu chức là bất công. Đàng khác, đẩy mạnh một loại sứ vụ rất khác biệt trong một giáo hội cộng đồng chuyên nghiệp".

Sau đây là hai lời phát biểu của hai nhân vật chính trong nhóm họ, lời thứ nhất của Elisabeth Schussler Fiorenza, tác giả cuốn "Một Mối Liên Hệ Môn Đồ B́nh Đẳng" (A Discipleship of Equals), và lời thứ hai của Donna Steichen, tác giả cuốn "Cơn Hận Nộ Thách Trời: Dung Nhan Kín Nhiệm của Phong Trào Nữ Giới Công Giáo" (Ungodly Rage: the Hidden Face of Catholic Feminism).

1. "Cái mơ mộng c̣n cần phải được nhận thức là ǵ? Phải chăng, đó là phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo Rôma sau cùng rồi cũng có thể được gọi là 'Reverend', được mặc bộ giáo sĩ, được khoác những phẩm phục giáo sĩ hay là nhận được những đặc ân giáo sĩ, nhận được một ấn dấu không thể xoá bỏ của sự khác biệt chính yếu, của việc tiến lên một cấp trật cao hơn, chẳng những trong Giáo Hội mà c̣n trên cả thiên đàng nữa? Phải chăng đó là một mộng mơ cần phải chiếm lấy mẩu bánh giáo sĩ, cho dù có v́ thế mà chúng ta bị mắc nghẹn hay chăng?"
2. "Người ta khó mà tin được, song thực sự là giới lănh đạo của phong trào nữ tu giới đă lâu lắm rồi không hề chú trọng đến chức linh mục, một khi chúng ta hiểu được từ ngữ đó. Họ sẽ không tuyên hứa vâng phục một vị giám mục và họ chắc chắn cũng không thi hành đức vâng phục nếu họ có hứa."

Với tinh thần của Hội Nghị Nữ (Tu) Giới Công Giáo trên đây, một người b́nh thường tự nhiên cũng sẽ cảm thấy rằng, phong trào nữ giới quá khích Công Giáo tỏ ra không thèm phẩm trật là v́ biết rằng không đ̣i được nữa. Bởi v́, trước tháng 5-1994, thời điểm Đức Gioan-Phaolô II dứt khoát khẳng định trong tông thư "Ordinatio Sacerdotalis": "Ta tuyên bố là Giáo Hội không có quyền ǵ cả trong việc truyền chức linh mục cho nữ giới", th́ họ c̣n ham chức vị linh mục, như ấn bản "New Women, New Church" được phổ biến trong dịp Hội Nghị đă tiết lộ: "Vào một cuộc họp (sửa soạn cho Hội Nghị từ tháng 11-1993) có chừng 40 người, trong đó có một giám mục và một linh mục, chúng tôi đă ôm ấp tư tưởng là t́m kiếm một hay hai vị giám mục hưu trí Công Giáo để truyền chức các các phụ nữ vào lúc cao điểm nhất của hội nghị". Tuy nhiên, sau thời điểm bức tông thư oan nghiệt xuất hiện, họ rhành ràng là đă tỏ ra một thái độ "không thèm" hay "cóc cần" chức linh mục nữa, được phản ảnh qua Hội Nghị Nữ Giới về Truyền Chức vào cuối năm 1995.

Nếu thế, không phải hay sao, ư định muốn lănh chức linh mục của thành phần nữ giới Công Giáo quá khích chỉ là v́ địa vị hơn là thuần túy v́ "sứ vụ" (theo ư nghĩa của chữ "ministry") và để "phục vụ", một ư định như thế hoàn toàn ngược hẳn lại với tinh thần của Chúa Kitô là Đấng cũng "không tự vinh phong cho ḿnh chức vị thượng tế, mà là nhận lănh bởi Đấng đă phán: Con là Con Cha, hôm nay Cha đă sinh ra Con" (DT 5:5), cũng là Đấng "đă đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt.20:28).

Qua hai biến cố điển h́nh hết sức cập nhật hoá trên đây của phong trào nữ giới quá khích, nhất là của nữ (tu) giới Công Giáo, duy nhân bản quả thật, (như đầu phụ bản thứ 4 này đă nhận định ở trang 193), là một biểu hiệu cho tinh thần của phản Kitô và là phản ảnh của tinh thần phản Kitô rhành ràng. Có thể nói, bộ mặt thật của duy nhân bản không ǵ khác hơn là tinh thần "Pro-Self", tức là tinh thần "tôn sùng thần tôi" của ḿnh, được thể hiện qua thái độ và hành động "Pro-Choice". Đúng thế, theo lư, nếu con người đă tự nhận ḿnh là có quyền tự chọn và tự quyết (như tự do luyến ái), tự chọn cả những việc không thích hợp với thân phận của ḿnh, như chức linh mục nơi nữ tu giới, hay cả những điều không được phép, như phá thai nơi nữ trần giới, th́ tự nhiên họ cũng có quyền được tự quyết định hủy bỏ, kể cả những ǵ "loài người không được phép phân rẽ" (Mt.19:6), như ly dị, phá thai v.v.

Những hiện tượng duy nhân bản quá cỡ ngày nay, như đến thời điểm không thể nào không bùng nổ của nó, vữa có tính cách toàn cầu, như Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh hồi tháng 9-1995, lại vừa có tính cách trắng trợn, như Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức của Nữ Tu Công Giáo vào tháng 11-1995 trên đây. Phải chăng đó là những dấu hiệu báo động "mùa gặt trái đất đă chín mùi" (KH.14:18), cần phải nhổ đi cỏ lùng mà kẻ thù đă được phép gieo vào thế gian (x.Mt.13:29,38,39) để chẳng những không lấn át được mà lại c̣n làm lợi cho thành phần hạt giống tốt, những hạt giống được "chọn" (Gn.15:16) để "Pro-Christ", để "theo Con Chiên mọi nơi Con Chiên đi" (KH.14:4).