-4-
Điềm Trời 3
về Ngày Tận Thế:
Sự Kiện Giáo Hội
Canh Tân
Tại sao hiện tượng Giáo Hội canh tân lại được
kể là một trong ba điềm trời báo hiệu cho
ngày tận thế? Phải chăng, v́ Giáo Hội là
hiền thê cần phải sửa soạn để càng
ngày càng nên đúng như Chúa Kitô muốn, mà mức độ
tột đỉnh "nên đúng như Chúa Kitô
muốn" này là Giáo Hội phải làm sao nên giống như
Chúa Kitô là, nhờ đó, qua h́nh ảnh đích thực
của Giáo Hội, thế giới mới có thể
nhận biết Chúa Kitô, "Đấng Cứu Tinh Nhân
Thế", để rồi được Giáo Hội
dẫn đến nghênh đón vị hôn phu của ḿnh là
Chúa Kitô tái giáng!
Trước hết, Giáo Hội
canh tân là để càng ngày càng nên đúng như Chúa Kitô
muốn. Thật ra, theo tinh thần gắn bó với Đấng
ở cùng ḿnh "cho đến tận thế" (Mt
28:20), lúc nào Giáo Hội cũng như một trinh nữ khôn
ngoan tỉnh thức để nghênh đón vị hôn phu chí
ái của ḿnh. Tuy nhiên, v́ Giáo Hội là một thực
thể vừa vô h́nh vừa hữu h́nh trong thế giới
nhân sinh, như "một thành tŕ ở trên núi không thể
bị che khuất" (Mt 5:14), mà Giáo Hội phải luôn
luôn ở trong một vị thế vừa linh thiêng cao
cả ("ở trên núi") lại vừa tầm mắt
mọi người ("không thể bị che
khuất"), nhờ đó, Giáo Hội "là ánh sáng
thế gian" (Mt 5:14) mới có thể "chiếu sáng trước
con người" (Mt 5:16), để làm cho thế gian
nhận biết Đấng đă sai ḿnh là Chúa Kitô.
Đó là ư nghĩa của Hiến
Chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) nói về "Giáo Hội
Trong Thế Giới Ngày Nay", một văn kiện có
thể nói là tiêu biểu cho tinh thần của Công Đồng
Chung Vaticanô II (1962-1965), một công đồng chung thiên
về mục vụ hơn là tuyên tín như 20 công đồng
chung trước kia thường làm. Trong tông thư
Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba, Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II, một nghị phụ đă góp phần
viết lên hiến chế chính yếu trên đây, nhận định
và xác định về Công Đồng Chung Vatican II như
thế này:
"Đó là một công đồng
giống như những công đồng trước kia song
lại rất khác biệt' đó là một công đồng
chú trọng đến mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo
Hội đồng thời lại cởi mở đối
với thế giới. Việc cởi mở này là một đáp
ứng phúc âm trước những đổi thay trong
một thế giới đang cảm nghiệm thấy
những bấn loạn sâu xa của thế kỷ 20,
một thế kỷ ghê sợ bởi Thế Chiến I và
II, bởi kinh nghiệm về những trại tập trung
và những cuộc sát hại kinh hoàng. Tất cả
những biến cố này biểu hiện sống động
hơn bao giờ hết một thế giới cần được
thanh tẩy' nó cần phải được hoán cải.
Công Đồng Chung Vaticanô II thường được
coi là mở màn cho một kỷ nguyên mới trong cuộc
sống của Giáo Hội". (số 17)
"Theo diễn tiến của
Công Đồng, thật sự phát xuất từ tấm
ḷng ước ao hoàn toàn trung thành với vị tôn sư
của ḿnh, Giáo Hội đă tự hỏi ḿnh về cá
vị của ḿnh và đă nhận thức một cách mới
mẻ về mầu nhiệm của ḿnh là thân thể và là
hôn thê của Chúa Kitô. Khiêm tốn lắng nghe lời của
Thiên Chúa, Giáo Hội đă tái xác nhận ơn gọi nên
thánh phổ quát' đă soạn ra dự khoản về
việc canh tân phụng vụ, nguồn gốc và thượng
đỉnh sự sống của Giáo Hội' đă khởi
xướng nên việc canh tân về nhiều phương
diện trong sinh hoạt của ḿnh ở lănh vực hoàn
vũ cũng như tại các Giáo Hội địa phương...
Trên căn bản canh tân sâu xa này, Công Đồng tự cởi
mở với các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác, với
các tín đồ của các tôn giáo khác cũng như với
tất cả mọi dân tộc đương thời.
Không một Công Đồng nào đă từng nói thật minh
nhiên về vấn đề hiệp nhất Kitô giáo,
về việc đối thoại với các tôn giáo ngoài
Kitô giáo, về ư nghĩa đặc biệt của cựu ước
với dân -ch Diên, về phẩm giá của lương tri
mỗi một người, về nguyên tắc tự do tôn
giáo, về những truyền thống văn hoá liên quan đến
vấn đề Giáo Hội cần phải thực
hiện việc truyền giáo, và về những phương
tiện truyền thông xă hội" (số 19)
Thực tế cũng cho thấy,
vào ngày lễ Hiển Linh ngay đầu năm 1964, mà
cuối năm này (21-11-1964) Hiến Chế Lumen Gentium,
"Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay", được
biểu quyết và ban bố, th́ chính Đức Thánh Cha
Phaolô VI, vị "than rằng chính Satan đă đột
nhập vào Giáo Hội cách nào đó 'để làm tắc
nghẽn những hoa trái của Công Đồng Vatican'"
(TP trang 480), lần đầu tiên trong lịch sử Giáo
Hội Công Giáo, đă thực hiện 10 cuộc tông du
thế giới, khởi đầu từ Thánh Địa.
Theo Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đề cập đến
trong tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ
Ba" th́ ư nghĩa và sứ mệnh của các chuyến
tông du này ở tại:
"Các cuộc hành tŕnh của giáo
hoàng đă trở nên một yếu tố quan trọng trong
việc thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô"
(số 24)
Như thế, hiện tượng
Giáo Hội canh tân có hai tác dụng: vừa đối
nội lại đối ngoại. Đối nội, Giáo
Hội canh tân là Giáo Hội sửa soạn bản thân ḿnh
trong việc nghênh đón Chúa Kitô lang quân của ḿnh, Đấng
đă tự hiến để thánh hoá Giáo hội (x. Gn
17:19' Êph 5:25-27). Đối ngoại, Giáo Hội canh tân là
Giáo Hội làm cho thế gian dễ nhận biết Chúa Kitô
hơn, qua dung nhan của Giáo Hội đă được
canh tân cho càng nên đúng như ư Chúa Kitô muốn và càng nên
giống như Chúa Kitô là, Đấng "đă đến
không phải để được phục dịch mà là
để phục vụ, để hiến mạng
sống ḿnh làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt
20:28).
Hiện tượng Giáo Hội
canh tân để nên đúng như Chúa Kitô muốn, như
thực tế cho thấy, đă và đang được
thực hiện qua Công Đồng Chung Vaticanô II và từ
Công Đồng Chung Vaticanô II đến nay. Thế nhưng,
hiện tượng Giáo Hội canh tân để nên
giống như Chúa Kitô là phu quân lư tưởng của ḿnh
sẽ xẩy ra như thế nào?
V́ Giáo Hội đích thực là
Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội cũng phải được
làm cho nên giống Chúa Kitô mới thật sự chiếu
tỏa ánh sáng của Người trên thế giới, nhờ
đó thế giới mới nhận biết Đấng
sai phái Giáo Hội. Nói như thế có nghĩa là, nếu
Chúa Kitô xưa kia, trước khi phục sinh vinh hiển đúng
như bản vị thần linh của ḿnh, "đă
bị tàn tạ mất hết vẻ người, dung nhan
cũng không c̣n" (Is 52:14) thế nào, th́ trước khi trở
thành "một tân đô Giêrusalem từ trời xuống
nghênh đón phu quân của ḿnh" (KH 21:2), Giáo Hội
cũng không thể nào "hơn được
chủ" (Gn 15:20) và "hơn được Thày"
(Mt 10:24) của ḿnh!
Nếu căn cứ theo Sấm
Truyền nổi tiếng (xuất bản từ năm
1559), mà người ta cho là của vị thánh tổng giám mục
người Ái Nhĩ Lan và gọi ngài là tiên tri Malachy
(1095-1148), th́ sẽ có tất cả là 112 vị giáo hoàng,
kể từ đời Đức Cêlestinô II (1143-1144).
Thật ra, chỉ có Lời Chúa, Thánh Truyền và Quyền
Giáo Huấn của Giáo Hội mới là những ǵ đáng
tin và buộc phải chấp nhận mà thôi. Tuy nhiên, người
ta cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy những lời
sấm Malachy không phải hoàn toàn là sai trệch cho đến
thời 33 ngày của Đức Gioan-Phaolô I mà lời
sấm ám chỉ như là hiện tượng "về
nửa vầng trăng" (De Medietate Lunae). Sau đó,
cũng theo lời sấm này, c̣n ba đời giáo hoàng
nữa thôi, được ám chỉ bởi ba biểu
hiệu chưa ứng nghiệm: "De Labore Solis",
"Gloria Olivae" và "Petrus Romanus".
"Gloria Olivae": nghĩa là
"vinh quang của cây Ô-Liu". Phải chăng câu này ám
chỉ về giáo triều tột đỉnh vinh quang
của Đức Gioan-Phaolô II trước lịch sử
thế giới trong một giai đoạn đầy
những biến động và đổi thay từ sau Công
Đồng Chung Vatican II. Điển h́nh là biến cố Đông
Âu xẩy ra vào cuối năm 1989 và khối Cộng Sản
Liên bang Sô Viết sụp đổ năm 1991, mà những hoạt
động trong phạm vi thuần túy tôn giáo của ngài
chẳng khác ǵ cành Ô-Liu ḥa b́nh được chim câu tha
về con tầu Noe cứu rỗi (x. KN 8:11). Nhờ đó,
như Chúa Giêsu từ trên núi Ô-Liu xuống (x. Lc 19:37) vinh
quang tiến vào thành Giêrusalem thế nào, vị lănh đạo
tối cao đương thời của Giáo Hội Công
Giáo cũng được toàn thể thế giới ngưỡng
mộ và ngênh đón như vậy.
"De Labore Solis": câu này có hai
nghĩa, một là "về cuộc nhật thực",
hai là "từ cuộc khổ ải của vầng dương".
Nếu sau khi Chúa Giêsu vinh quang tiến vào thành Giêrusalem là giai
đoạn Người bắt đầu đi vào
cuộc tử nạn vượt qua của Người
thế nào, vị lănh đạo của Giáo Hội sau thời
"vinh quang của cây Ô-Liu" cũng sẽ là vị lănh đạo
đối ngoại th́ chịu "khổ ải" bởi
quyền bính thế gian, và đối nội th́ bị
lấn át "nhật thực" bởi lực lượng
chống đối của thành phần Phản Kitô.
Biết đâu vị giáo hoàng áp cuối này sẽ mang danh
hiệu Phêrô-Phaolô: Phêrô biểu hiệu cho quyền bính Giáo
Hội (đối nội) bị "nhật thực"
bởi con cái phản bội, như Chúa Giêsu đối với
dân của Người và môn đệ của Người,
và Phaolô biểu hiệu cho sứ mệnh Giáo Hội (đối
ngoại) bị "khổ ải" bởi thế
lực "new world order" do dân ngoại và âm mưu
của nhóm Do Thái, như Chúa Giêsu và thánh Phaolô bị Do Thái
nộp cho quân Rôma hành quyết.
"Petrus Romanus": có nghiă là
"Phêrô người Rôma". Về vị lănh đạo
sau hết mang cùng danh với vị lănh đạo đầu
tiên này, theo Lời Sấm Truyền kết thúc th́:
"Trong cuộc bắt bớ
cuối cùng của Hội Thánh Rôma sẽ là triều đại
của Phêrô người Rôma, vị sẽ chăn nuôi đàn
chiên ḿnh giữa những tai biến' sau đó, thành đô có
7 ngọn đồi sẽ bị phá hủy và có Vị
Thẩm Phán đáng sợ sẽ xét xử dân gian" (PM
trang 96)
Đúng thế, theo Thánh Kinh, ngày
tận thế có một liên quan trực tiếp đến
số phận của Giáo Hội. Tiên tri Daniel đă được
thị kiến cho biết: "khi quyền lực của
kẻ phá hoại thuộc dân thánh bị kết liễu th́
tất cả những điều này được
chấm dứt" (Dan 12:7). Không phải hay sao, h́nh ảnh
đền thánh Giêrusalem mà Chúa Giêsu nói "sẽ không c̣n ḥn đá
nào chồng trên ḥn đá nào - tất cả sẽ bị tan
nát" (Mt 24:2) tức là "Người thực sự đang
nói về đền thờ thân thể của Người"
(Gn 2:21)? Thật ra, "không ai có thể lấy mạng Ta
(Chúa Kitô)" (Gn.10:18), nhưng thực tế lại cho
thấy "Ta tự bỏ mạng sống ḿnh. Ta có
quyền thí mạng sống ḿnh" (Gn.10:18). Cũng
thế, "cho dù cửa miệng sự chết cũng
không thắng nổi" (Mt.16:18) Giáo Hội, nhưng
thực tế lại xẩy ra là "khi Con Người đến
không biết có c̣n đức tin trên thế gian" (Lc.18:8).
Đó mới là lư do chính đáng khiến "Người đă
khóc" (Lc.19:41), khóc thương Giáo Hội bạn ḿnh
(x.Gn.15:15), như Người đă khóc Lazarô (x.Gn.11:35). Qua
Bí Mật La Salette, từ năm 1846 Mẹ Maria đă
tiết lộ cho con cái Giáo Hội biết:
"Vị Đại Diện Con
Mẹ sẽ chịu nhiều đau khổ, v́ Giáo Hội
sẽ chịu đựng bắt bớ lớn lao một
thời, thời tối tăm, và Giáo Hội sẽ chứng
kiến một cuộc khủng hoảng rùng rợn"
(LA trang 14)
"Rôma sẽ mất đức
tin và sẽ trở nên ngai ṭa của Phản Kitô" (LA
trang 18) ... "Giáo Hội sẽ ở trong t́nh trạng
bị khuất mờ, thế giới sẽ ở trong t́nh
trạng hoảng sợ" (LA trang 19)
Theo Bí Mật La Salette, cho dù
"Rôma sẽ mất đức tin" đi nữa, song
Giáo Hội bất tử như Chúa Kitô phục sinh, v́ tinh
thần của Giáo Hội là một "Đức Ái không
tàn" (1Cor 13:8). Nếu thánh Phêrô được tiêu
biểu cho Đức Tin của Giáo Hội, mà Chúa Giêsu đă
nói "sẽ phải chết cách nào" (Gn 21:19), th́ thánh
Gioan, "người môn đệ được Chúa Giêsu
yêu" (Gn 21:20), biểu hiệu cho Đức Ái của
Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đă úp mở "...Thày
muốn cho nó ở lại cho đến khi Thày đến..."
(Gn 20:22), tức cho tới khi Người trở lại
trong vinh quang!
Vào ngày 13-10-1884, ngay sau Thánh Lễ, Đức
Thánh Cha Lêô XIII được thị kiến thấy
rằng, trong ṿng một thế kỷ, lực lượng
sự dữ sẽ tấn công Giáo Hội dữ dội, đến
nỗi, Giáo Hội chỉ được Thiên Chúa dùng
tổng thần Micae cứu vào giây phút cuối cùng mà thôi.
Sau đó, trong văn kiện "Motu Proprio" ban hành ngày
25-9-1888, Đức Thánh Cha đă đặt ra kinh cầu
khẩn với tổng thần Micae cho Giáo Hội và
truyền phải đọc sau các Thánh Lễ thường,
tục này được áp dụng từ ngày đó cho tới
khi Công Đồng Chung Vaticanô II canh tân phụng vụ.
Phần kết thúc của kinh tổng thần Micae này như
sau:
"Những kẻ thù xảo
quyệt này của loài người đă làm cho Giáo Hội đầy
những ung nhọt và rữa nát, một Giáo Hội là
Hiền Thê vô t́ tích của Con Chiên' bàn tay tục hoá của
chúng đă chạm đến những kho tàng thánh hảo
nhất của Giáo Hội. Bởi thế, Ôi Vị Hoàng Vương
vô địch, xin hăy mau đến cứu giúp dân của
Thiên Chúa chống lại những cuộc xâm nhập
của các thần hư vong này và ban chiến thắng cho
chúng tôi. Amen" (HTIS trang 86)
Phải chăng thị kiến
của Đức Lêô XIII về cuộc tấn công của
thần dữ muốn tàn phá Giáo Hội và đoạn kinh
cầu với tổng thần của Giáo Hội trên đây
đă chứng thực những ǵ Mẹ Maria đă nói đến
ở La Salette từ năm 1846 và được ghi lại
trong Bí Mật La Salette như sau:
"Vào năm 1864 (phụ chú:
năm nay là năm Đức Piô IX ban hành thông điệp
"Quanta Cura" và một Bản Liệt Kê 80 chủ trương
sai lầm, luận bác một số thành phần phóng khoáng
như Montalambert ở Pháp, và Dechamps ở Bỉ' cùng năm
nay Karl Marx cũng bắt đầu thành lập Hiệp
Hội Lao Nhân Quốc Tế ở Luân Đôn và Nữu Ước),
Luxiphe cùng với một số lớn qủi ma sẽ được
thả ra khỏi hỏa ngục' chúng sẽ dần
dần làm mất Đức Tin ngay cả ở nơi thành
phần tận hiến cho Thiên Chúa" (LA trang 12)
"Vào năm 1865 (phụ chú: đúng
100 năm trước khi Công Đồng Chung Vatican II ban
bố sắc lệnh 'Perfectae Caritatis' về Việc
Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Tu Tŕ vào ngày 28-10-1965),
sẽ có một cuộc tục hoá các nơi thánh. Trong các
viện tu, những bông hoa của Giáo Hội sẽ tàn lụi,
và ma qủi sẽ làm vua cai trị mọi con tim" (LA
trang 14-15)
"Giờ đây đă đến
thời điểm' hố thẳm đang mở ra. Ḱa Vua
các Vua tăm tối, ḱa con mănh thú với bọn lâu la
của hắn, xưng ḿnh là Đấng Cứu Thế.
Hắn sẽ nghênh ngang vươn ḿnh trên không trung, lên đến
tận Trời. Hắn sẽ bị hạ bởi hơi
thở của Thánh tổng thần Micae (phụ chú: đúng
như tiên tri Daniel trong đoạn 12 câu 1 đă tiên báo: 'Lúc
bấy giờ Micae, hoàng vương cao cả, vị
bảo hộ dân ngươi sẽ đứng lên', vị
bảo hộ mà Giáo Hội từ thời Đức Lêô
XIII năm 1888 đă nhận biết và kêu cầu 'đứng
lên' như một 'vị hoàng vương vô địch mau đến
cứu giúp dân của Thiên Chúa')" (LA trang 20)