-6-

Điềm Trời 5 về Ngày Tận Thế:

T́nh H́nh Đại Kết Nên Một

 

            Tại sao t́nh h́nh đại kết nên một lại là một trong những điềm trời báo hiệu ngày tận thế? Không phải hay sao, là v́ "trời đất này qua đi song những lời của (Chúa) không qua đi" (Mt 24:35), lời mà Chúa nói về Giáo Hội của Chúa là: "sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên" (Gn 10:16), một lời phán không thể sai lầm nên sẽ không thể nào không xẩy ra trước khi "trời đất này qua đi".

 

Thật ra, "một đàn chiên và một chủ chiên" mà Chúa Giêsu nói đến ở đây không phải chỉ có nội trong thành phần Kitô hữu, mà c̣n áp dụng cho chung cả loài người, những người chưa nhận biết Chúa. Đó là lư do  trước khi nói đến "một đàn chiên và một chủ chiên", Chúa Giêsu đă xác nhận: "Ta c̣n chiên khác không thuộc về đàn này. Ta phải dẫn dắt chúng nữa, và chúng sẽ nghe tiếng Ta" (Gn 10:16). Đó cũng là lư do mà "tin mừng về vương quốc cứu độ này sẽ được rao giảng khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân tộc. Chỉ sau đó mới đến tận thế" (Mt 24:14).

 

Tuy nhiên, theo văn từ, danh từ "chiên" ở đây là số ít, biểu tượng cho một thực thể hay một thành phần tiêu biểu nào đó. Phải chăng h́nh ảnh "chiên" ở số ít này được Chúa Giêsu ám chỉ về dân Do Thái, một thành phần mà Chúa đă than trách: "Các ngươi không phải là chiên của Ta" (Gn 10:26), một thành phần mà chính thánh tông đồ Phaolô đă quả quyết với dân ngoại như sau:

"Anh em ơi, tôi không muốn anh em mù mờ về mầu nhiệm này, kẻo anh em bị lầm tưởng' (đó là) sự mù tối xẩy ra nơi thân phận của dân Do Thái cho đến khi đủ số Dân Ngoại được mời gọi, th́ bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu" (Rm 11:25-26)

 

Phải, việc dân Do Thái cứng ḷng trước mạc khải của Thiên Chúa, không chịu chấp nhận Chúa Kitô thiên sai, như lời thánh Phaolô nói, đúng là một "mầu nhiệm". Bởi v́, sự kiện cứng ḷng "mù tối" của một dân mà Chúa Giêsu đă xác nhận là từ họ mà "phát xuất công cuộc cứu chuộc" (Gn 4:22), chẳng những trở nên cớ cho Thiên Chúa thương đến dân ngoại, trên thực tế, lại c̣n là bằng cớ hùng hồn và sống động nhất để chứng minh cho thế giới dân ngoại thấy rằng quả thật Thiên Chúa đă sai Con Một Ngài xuống thế gian, "đến với dân riêng của Ngài, nhưng họ không chấp nhận Người" (Gn 1:11). Con Thiên Chúa mà dân riêng của Ngài là Do Thái không chấp nhận đó chính là Đức Giêsu Kitô tử giá, một "Đấng Cứu Tinh nhân thế" không được đúng như ḷng họ mong ước và đợi trông... Thế nhưng, cuối cùng, theo lời tiên tri của thánh Phaolô: "tất cả dân Do Thái sẽ được cứu", tức họ cũng sẽ chấp nhận Đấng Thiên Sai đích thực này. Tuy nhiên, việc này chỉ xẩy ra, cũng theo lời vị tông đồ dân ngoại, "cho đến khi đủ số Dân Ngoại được mời gọi".

 

Ngày 30-12-1993, một "điềm trời" hy vọng đă hiện lên trên nền trời lịch sử Giáo Hội nói riêng và thế giới nói chung. Đó là bản hiệp ước "Vatican và Do Thái" đă được đại diện hai bên chính thức kư kết tại thánh đô Giêrusalem. Việc Do Thái chủ động và tích cực vận động để thiết lập bang giao với Toà Thánh Công Giáo là một nỗ lực của họ kéo dài từ năm họ tái lập quốc 1948, nhất là từ năm 1992. Tuy nhiên, việc thiết lập bang giao giữa dân Cựu Ước (Do Thái) và dân Tân Ước (Giáo Hội) này mới chỉ là mối giao hảo về phương diện trần thế, có tính cách liên hệ chính trị mà thôi. Muốn cho họ, dân Do Thái, hoàn toàn chấp nhận một "Đấng Cứu Tinh nhân thế" như Giáo Hội Công Giáo tin tưởng, Giáo Hội phải làm sao để có "đủ số Dân Ngoại được mời gọi" đă.

 

Trên thực tế, để có "đủ số Dân Ngoại được mời gọi" này, một điều kiện tiên quyết và giải quyết dứt khoát cho việc dân Do Thái trở lại, cần Giáo Hội phải hết sức nỗ lực thực hiện việc truyền giáo. Trong tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba", Đức Gioan-Phaolô II đă xác nhận việc Giáo Hội càng ư thức và đẩy mạnh nỗ lực truyền giáo của ḿnh như sau:

"Một phần trong việc sửa soạn tiến đến năm 2000 là những đợt nghị hội bắt đầu từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, bao gồm những thượng nghị hội cùng với các nghị hội lục địa, nghị hội miền, nghị hội quốc gia và nghị hội giáo phận. Chủ đề chủ yếu của tất cả các nghị hội này là vấn đề truyền bá phúc âm, hay rơ hơn, là việc tái phúc âm hoá, mà nền tảng của nó đă được đặt nền móng trên tông huấn 'Evangelii Nuntiandi' (phụ chú: nội dung về việc truyền bá phúc âm trong thế giới ngày nay) của Đức Phaolô VI, ban hành năm 1975 sau công nghị thứ ba của Thượng Hội Đồng Các Giám Mục. Những nghị hội này tự ḿnh là một phần của việc tái phúc âm hóa: Chúng được sinh ra từ viễn tượng của Công Đồng Chung Vaticanô II về Giáo Hội" (số 21)

 

Thế nhưng, Giáo Hội có thể nào thực hiện "việc truyền bá phúc âm trong thế giới ngày nay" thành đạt mỹ măn, nếu chính ḿnh lại là một trở ngại lớn lao, đúng như Công Đồng Chung Vaticanô II đă nhận xét và khẳng định:

"Việc truyền giáo giữa các dân tộc khác với việc chăm sóc về mục vụ cho các tín hữu cũng như khác với những nỗ lực nhắm đến việc phục hồi hiệp nhất Kitô hữu. Tuy nhiên, hai việc sau lại gắn thật chặt với nỗ lực truyền giáo của Giáo Hội, bởi t́nh trạng phân rẽ của Kitô hữu gây tổn hại đến công việc thánh là rao truyền Phúc Âm cho mọi tạo vật, và làm ngăn trở nhiều người tiến đến với đức tin. V́ việc truyền giáo của Giáo Hội, tất cả mọi người được rửa tội được kêu gọi t́m đến với nhau trong cùng một đàn chiên để có thể nhất loạt làm chứng cho Chúa Kitô trước các dân tộc" (số 6)

 

Nhất định đi theo chiều hướng này của Công Đồng Chung Vaticanô II, trong thông điệp "Ut Unum Sint" (Cho Tất Cả Được Nên Một) ban hành ngày 25-5-1995, Đức Gioan-Phaolô II đă minh định về bản chất đích thực của việc Đại Kết có một tính cách tác dụng đối ngoại, như sau:

"Đại kết không phải chỉ là vấn đề nội tại của các cộng đồng Kitô hữu. Nó là một vấn đề của t́nh yêu mà Thiên Chúa bộc lộ trong Đức Giêsu Kitô đối với toàn thể loài người' chặn đứng đường lối của t́nh yêu này là xúc phạm đến Ngài cũng như đến dự án của Ngài trong việc kết nạp mọi dân nước trong Chúa Kitô" (số 99)

 

Như thế, thực hiện việc Đại Kết là một việc làm hết sức then chốt và quyết liệt, của riêng Giáo Hội Công Giáo Rôma cũng như của chung Giáo Hội Kitô Giáo hoàn vũ, "hướng đến một thiên niên mới" (UUS số 101),  trong việc truyền bá Phúc Âm, làm cho "đủ số Dân Ngoại được mời gọi", nhờ đó, cũng làm cho "tất cả dân Do Thái sẽ được cứu", để lời Chúa Giêsu, "Đấng Cứu Tinh nhân thế" được nên trọn là "sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên". Thật vậy:

"Cùng với tất cả các môn đệ khác của Chúa Kitô, Giáo Hội Công Giáo đặt trong dự án của Thiên Chúa việc dấn thân đại kết của ḿnh để qui tụ tất cả mọi Kitô hữu vào một mối. Thật vậy, 'Giáo Hội không phải là một thực thể đóng khung vào ḿnh. Mà là một Giáo Hội vĩnh viễn tung ḿnh vào việc truyền giáo và nỗ lực đại kết, v́ Giáo Hội được sai vào thế gian để loan truyền và làm chứng, để hiện thực và lan tỏa mầu nhiệm hiệp thông thiết yếu đối với Giáo Hội, cũng như để qui tụ mọi dân nước và mọi sự nơi Chúa Kitô, nhờ đó mà đối với tất cả, Giáo Hội là một bí tích hiệp nhất không thể phân chia'" (UUS số 5)

 

Thế nhưng, lời quả quyết bất diệt là "sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên" của Chúa Giêsu này đă xẩy ra chưa, nếu có th́ đă diễn tiến như thế nào và tới mức nào? Trong tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Thứ Hai", cũng như trong thông điệp "Ut Unum Sint", Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă nhận thấy là:

"Đặc biệt từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II đă có nhiều công cuộc khởi xướng về đại kết được thực hiện một cách nhiệt thành và tận lực: có thể nói rằng tất cả hoạt động của các Giáo Hội điạ phương cũng như của Toà Thánh đă gắn liền với chiều kích đại kết vào những năm gần đây" (UUS số 34)

"Hầu hết mọi người, dù theo những cách thức khác nhau, đều mong mỏi có được một Giáo Hội hữu h́nh của Thiên Chúa, một Giáo Hội thật sự phổ quát và được sai đến với toàn thể thế giới, để thế giới có thể trở về với Phúc Âm mà được cứu rỗi, cho vinh quang của Thiên Chúa" (UUS số 7)

"Ngày nay Ta măn nguyện thấy rằng công cuộc vốn lớn lao của việc cộng tác đại kết đang liên tục phát triển. Cũng nhờ có ảnh hưởng của Hội Đồng Các Giáo Hội Hoàn Vũ (phụ chú: của Tin Lành như ĐTC nói đến ở số 65 dưới đây) mà nhiều sự đă được hoàn tất trong lănh vực này" (UUS số 44)

"Phong trào đại kết thực sự được bắt đầu từ trong các Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội bên Cải Cách" (UUS số 65) (phụ chú: thật ra, tư tưởng đại kết được bắt đầu từ Đức Giáo Hoàng Piô XI, khi ngài mời Giáo Hội Chính Thống Đông Phương và các giáo phái Tin Lành tham dự Công Đồng Chung Vaticanô I năm 1870, nhưng lời mời của ngài đă không được hưởng ứng. Có lẽ sáng kiến này của Đức Piô XI  c̣n quá sớm đối với thời điểm đại kết, một trào lưu cần phải được bắt nguồn từ "bên Cải Cách" mới hợp t́nh và hợp lư hơn hay chăng?)

 

Tuy nhiên, để thực hiện việc "Đại Kết" (ecumenism), trong thông điệp "Ut Unum Sint", Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă xác định những điểm trọng yếu làm nên thực chất trọn vẹn, mục tiêu tối hậu và điều kiện tiên quyết cho việc Đại Kết này như sau:

"Đại kết thực sự được nhắm vào việc làm cho t́nh trạng thông hiệp chưa trọn đang xẩy ra giữa các Kitô hữu phát triển cho đến t́nh trạng hoàn toàn thông hiệp trong chân lư và bác ái" (số 14).

"Mục tiêu tối hậu của phong trào đại kết đó là tái thiết lập mối hiệp nhất hữu h́nh giữa tất cả mọi người lănh nhận bí tích thánh tẩy" (số 77)

"Việc hiệp nhất trọn vẹn sẽ thực hiện khi tất cả cùng thông phần đầy đủ vào những phương tiện cứu rỗi mà Chúa Kitô đă trao phó cho Giáo Hội của Người" (số 86)

"Giáo Hội Công Giáo, cả trong lề lối tác hành cũng như trong các văn kiện hệ trọng của ḿnh, đều chủ trương rằng việc thông hiệp của các Giáo Hội biệt lập với Giáo Hội Rôma, giữa các vị giám mục của họ với Giám Mục Rôma, theo dự án của Thiên Chúa, là một điều kiện tiên quyết trong việc hiệp thông toàn vẹn và hữu h́nh" (số 97)

 

Theo giáo sử, Giáo Hội Chúa Kitô "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" ngay từ ban đầu, như "chiếc áo chùng được dệt liền bằng một tấm vải không có đường khâu" (Gn 19:23), qua gịng thời gian, đă hai lần bị rách toạc ra, làm hai mảnh, rồi ba mảnh. Lần rách thứ nhất xẩy ra vào thế kỷ 11, năm 1054, giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma (Tây Phương) và Giáo Hội Chính Thống Constantinôpôli (Đông Phương). Và lần rách thứ hai xẩy ra hai lần liền vào tiền bán thế kỷ 16, giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với các giáo phái Cải Cách Tây Phương, một vào năm 1519 với nhà cải cách Luthêrô ở Đức và một vào năm 1534 với vua Henry VIII ở Anh.

 

Tiến tŕnh đại kết đă diễn tiến ra sao, trong thông điệp "Ut Unum Sint", Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă liệt kê những biến chuyển tốt lành đối với cả Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cũng như đối với các giáo phái Cải Cách Tây Phương, như sau.

 

Đại Kết với

Giáo Hội Chính Thống Đông Phương:

 

Thứ nhất là hủy bỏ vạ tuyệt thông cho nhau:

"Dấu vết của những vạ tuyệt thông xẩy ra 900 năm trước, năm 1054, là biệu hiệu phân chia giáo phái giữa Rôma và Constantinôpôli, 'đă được hủy bỏ khỏi kư ức cũng như khỏi ḷng Giáo Hội'... Biến cố có tính cách giáo hội đầy những dấn thân đại kết này đă xẩy ra vào những ngày cuối cùng của công đồng, ngày 7-12-1965" (số 52)

"Cử chỉ này đă được dẫn mở bằng cuộc gặp gỡ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI với Đức Thượng Phụ Athenagoras I ở Giêrusalem vào tháng 1/1964, trong chuyến hành hương thánh địa của vị giáo hoàng" (số 52)

 

Thứ hai là bắt đầu đối thoại với nhau về thần học:

"Ngày 29-11-1979, trong chuyến tông du Phanar, đức thượng phụ (phụ chú: thượng phụ này đây là Đức Dimitrios kế vị thượng phụ Athenagoras I) đă đi đến quyết định mở cuộc đối thoại thần học giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội Chính Thống thuộc hội thánh Constantinôpôli" (số 52)

"Đức tổng thượng phụ này đă quyết định đáp lễ cuộc viếng thăm của Ta, nên trong tháng 12/1987, Ta đă hân hoan tiếp đón ngài đến Rôma với ḷng cảm mến sâu xa và với lễ nghi tôn nghiêm xứng hợp với ngài" (số 52)

 

Thứ ba là công nhận quan điểm thần học chung:

"Từ ngày Ủy Ban Quốc Tế Liên Hiệp để Đối Thoại Về Thần Học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống được thành lập năm 1979... ủy ban đă lập được những tiến triển quan yếu mà Ta đă có thể cùng với người anh em đáng kính của Ta, Đức Dimitrios I, vị tổng thượng phụ, tuyên bố, đó là kết luận 'rằng Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Chính Thống đă có thể cùng nhau tuyên xưng cùng một đức tin vào mầu nhiệm Giáo Hội cũng như vào mối liên kết giữa đức tin với các bí tích'. Thế rồi ủy ban cũng đă có thể công nhận với nhau là: 'trong Giáo Hội của chúng ta, việc thừa kế tông truyền là căn bản cho việc thánh hoá cũng như việc hiệp nhất của  dân Thiên Chúa' (phụ chú: về "việc thừa kế tông truyền" này cũng đă được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II và Đức Tổng Thượng Phụ Bartholomew I kư nhận trong một Bản Tuyên Ngôn chung vào ngày 29-6-1995)" (số 59)

 

Thứ bốn là việc hiệp thông với Các Giáo Hội Đông Phương cổ kính:

"Trong giai đoạn sau Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo Hội Công Giáo, không nhanh th́ chậm, bằng những đường lối khác nhau, cũng đă phục hồi những liên hệ huynh đệ với Các Giáo Hội Đồng Phương cổ kính là những giáo hội phủ nhận những tuyên tín của các Công Đồng Chung Êphêsô & Chalcedon...

Khi thượng phụ đáng kính của Giáo Hội Êthiôpia, Abuna Paulos, đến thăm Ta ở Rôma ngày 11-6-1993, chúng tôi đă cùng nhau nhấn mạnh đến việc hiệp thông sâu xa hiện hữu giữa hai Giáo Hội của chúng tôi: 'Chúng tôi thông phần cùng một đức tin được truyền dạy từ các tông đồ, cũng như cùng những bí tích và cùng thừa tác vụ được đâm rễ từ truyền thống tông đồ... Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng tôi có thể xác nhận rằng chúng tôi có cùng một đức tin trong Chúa Kitô, mặc dù qua một thời gian dài điều này đă là căn gốc phân rẽ chúng tôi" (số 62).

"Gần đây hơn nữa, Chúa đă để cho Ta được hưởng một niềm vui lớn lao trong việc kư nhận bản tuyên bố chung về Kitô thuyết với thượng phụ Assyria Đông Phương, Đức Mar Dinkha IV, vị đă đến thăm Ta ở Rôma vào tháng 11 năm 1994 để thực hiện việc này" (số 62)

 

Đại kết với các giáo phái Cải Cách Tây Phương

 

Thứ nhất là việc đối thoại và gặp gờ:

"Chúng ta cũng phải dâng lời tạ ơn việc quan pḥng thần linh đă để diễn ra tất cả những biến cố chứng tỏ về việc tiến triển trên con đường hiệp nhất. Không kể đến việc đối thoại về thần học, (phụ chú: ở đây ĐTC đề cập đến "ngay từ năm 1964 đă có Nhóm Hiệp Tác với Hội Đồng Các Giáo Hội Hoàn Vũ, và từ năm 1968, các nhà thần học Công Giáo đă hoàn toàn tham dự như là những thành phần của chi nhánh thần học của hội đồng, đó là Ủy Ban về Đức Tin và Cấp Trật" - số 69), phải kể đến những h́nh thức khác, như gặp gỡ trao đổi, cùng nhau cầu nguyện và cộng tác thực tế. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đă mạnh mẽ thúc đẩy tiến tŕnh này, bằng việc ngài viếng thăm trung ương của Hội Đồng Các Giáo Hội Hoàn Vũ ở Geneva ngày 10-6-1969, cũng như bằng nhiều cuộc gặp gỡ với các đại diện của nhiều Giáo Hội và các cộng đoàn giáo hội khác nhau" (số 71)

 

Thứ hai là việc viếng thăm nhau và cảm nhận nhau:

"Một vài cuộc hành tŕnh của Ta dành ưu tiên đặc biệt cho việc đại kết, nhất là ở những xứ sở mà các cộng đồng Công Giáo chỉ là thiểu số so với những cộng đồng hậu Cải Cách, hay ở những nơi mà những cộng đồng hậu Cải Cách này chiếm một phần đáng kể số tín đồ  Chúa Kitô trong một tổ chức nào đó" (số 71)

"Điều này xẩy ra đúng như thế, nhất là ở những quốc gia Âu Châu, nơi mà những phân rẽ đầu tiên xuất phát, và ở miền Bắc Mỹ Châu. Về điều này, Ta muốn đặc biệt đề cập đến, mà không có ư làm suy giảm đi giá trị của các cuộc viềng thăm khác, những cuộc viếng thăm ở Âu Châu, hai lần ở Đức, vào tháng 11/1980 và vào tháng 4-5/1987' ở Hiệp Vương Quốc (Anh, Tô Cách Lan và Wales) vào tháng 5-6/1982' ở Thụy Điển vào tháng 6/1984' và ở các xứ sở Scandinavian cũng như Nordic (Phần Lan, Thụy Điển, Na-Uy, Đan-Mạch và Iceland) vào tháng 6/1989" (số 72)

"Ta cũng gặp được những cảm t́nh tương tự (phụ chú: ở đây, cũng trong số 72 này, ĐTC đề cập đến cử chỉ của các giám mục giáo phái Luther ở Phần Lan và Thụy Điển khi hiệp lễ muốn nhận phép lành của ĐTC) ở bên kia đại dương: tại Canada vào tháng 9/1984' nhất là tại Hiệp Chủng Quốc vào tháng 9/1987, nơi mà người ta nhận thấy có một bầu không khí đại kết rất cởi mở. Đó là trường hợp, chẳng hạn, xẩy ra tại Columbia, South Corolina, vào ngày 11-9-1987" (số 72)

 

Thứ ba là việc tạ lỗi về các tổn thương trong quá khứ:

"Trong tất cả các Giáo Hội và các cộng đồng giáo hội, th́ Giáo Hội Công Giáo nhận thức rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn c̣n nắm giữ  tác vụ thừa kế tông đồ Phêrô, Giám Mục Rôma, vị mà Thiên Chúa thiết lập như 'yếu tố vĩnh viễn và hữu h́nh cũng là nền tảng hiệp nhất' (hiến chế "Ánh Sáng Muôn Dân" số 23) của Giáo Hội... Như Ta đă công nhận vào một dịp quan trọng khi đến thăm Hội Đồng Các Giáo Hội Hoàn Vũ ở Geneva ngày 12-6-1984, về niềm xác tín của Giáo Hội Công Giáo là, theo sứ vụ của vị Giám Mục Rôma mà Giáo Hội Công Giáo nắm giữ, trung thành với truyền thống tông đồ và đức tin của các giáo phụ, dấu hiệu hữu h́nh và bảo đảm hiệp nhất tạo nên t́nh trạng khó khăn cho hầu hết các Kitô hữu khác, những người mang một kư ức hằn lên những gợi nhớ thương đau nào đó. Khi cảm thấy có trách nhiệm đối với những người này, Ta hợp với vị tiền nhiệm của Ta Phaolô VI để xin lỗi" (số 88)

Thứ bốn là phong trào một số Anh Giáo trở lại.

 

Điều này đă thực sự xẩy ra cho mọi thành phần cấp trật Anh giáo, kể từ tháng 11 năm 1992, thời điểm mà Đại Hội Đồng Anh Giáo quyết định cho phép phụ nữ làm linh mục, để rồi, theo chiều đó, trong tương lai, c̣n có thể, theo 1 vị tổng giám mục Canterbury, làm cả giám mục nữa, như thực sự đă có hai vị nữ giám mục Anh Giáo trên thế giới, một vị là Mary Adella Mcleod được thụ phong tại Mỹ ngày 1-11-1993. Hôm 23-2-1994, tổ chức "Forward in Faith" ở Anh giáo cho biết có 712 mục sư cùng với 7 vị giám mục kư vào bản tuyên ngôn chung để công nhận Giáo Hoàng Rôma là chủ chăn tối cao của chung Giáo Hội Kitô trên hoàn vũ, và c̣n cho biết là họ sẽ xin gia nhập Công Giáo.

 

Mở màn là nhân vật đặc biệt nhất trở lại vào ngày 6-4-1994, đó là cựu giám mục lănh tụ Graham Leonard, 72 tuổi, và ngài đă được thụ phong làm linh mục Công Giáo ngày 23-4-1994 tại ṭa tổng giám mục Westminster. Tiếp theo là 195 vị mục sư thỉnh nguyện xin trở lại Công Giáo trong tháng 5-1995. Vào Chúa Nhật 12-6-1994, có cả một giáo xứ Anh giáo với 150 giáo dân cùng với cha sở Alan Hawkins ở thành phố Arlington, Texas trở lại và đă được đức giám mục Fort Worth là Joseph Delaney tiếp nhận. Ngoài ra, vào tháng 9-1994, có cựu giám mục Richard Rutt, 69 tuổi, xin từ chức 3 năm trước, cũng đă gia nhập Giáo Hội Công Giáo trong một thánh lễ tại thành phố Cornwall, song không xin thụ phong làm linh mục Công Giáo. Tháng 1-1995, tại Hoa Kỳ, có thêm giám mục Clarence Pope ở giáo phận Fort Worth, Texas trở lại khi vừa tới hạn tuổi về hưu. Tại Ái Nhĩ Lan, vị nữ linh mục đầu tiên tên là Phyllis Fleury cũng đă trở lại Giáo Hội Công Giáo do giám mục Philip Boyce cử hành lễ nghi tại một tu viện thánh Phanxicô ở Rossnowlagh.

 

T́nh h́nh Đại Kết Nên Một trong thế giới Kitô giáo nói riêng diễn tiến một cách hết sức tốt đẹp và khả quan như thế th́ chắc chắn sẽ gây nên một tác dụng hiệu nghiệm tối đa và cấp thời trong việc truyền bá phúc âm cho thế giới để "có đủ số Dân Ngoại được mời gọi", nhờ đó "bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu". Như thế, không phải hay sao, Giáo Hội đang về nguồn theo đúng như Giáo Hội phải là, một thực tại mà Đấng Sáng Lập của Giáo Hội đă nguyện ước đó là "cho tất cả được nên một" (Gn 17:21), để Giáo Hội có thể xứng đáng sửa soạn nghênh đón phu quân của ḿnh đến trong vinh quang:

"Không c̣n nghi ngờ là Chúa Thánh Linh đang hoạt động trong nỗ lực (đại kết) này và Ngài đang dẫn đưa Giáo Hội đến t́nh trạng hiện thực hoàn toàn dự án của Chúa Cha hợp với ư muốn của Chúa Kitô" (UUS số 100)

"Được Thần Linh của Người khởi động và lôi kéo, chúng ta cùng nhau mạnh tiến trên cuộc hành tŕnh cho đến chót đỉnh lịch sử là mức độ đáp ứng trọn vẹn dự án của t́nh Người yêu thương: đó là 'hiệp nhất tất cả mọi sự nơi Người, những sự trên trời và những sự dưới đất' (Êph 1:10)" (LG số 45)