-7-
Thời Điểm
Tận Cùng Thế Giới:
Thời Kỳ Bại
Hoại Cuối Cùng
"Điềm Trời" về ngày tận thế khó có
thể phủ nhận này đă thực sự xuất
hiện để báo động cho con người
biết mà sửa soạn dọn ḿnh sẵn sàng. Như đă
được diễn chứng, những "điềm
trời" về ngày tận thế này là hiện tượng
thế giới hấp hối, hiện tượng
Rạng Đông Cứu Rỗi, sự kiện Giáo Hội
canh tân, sự việc mừng đón Năm 2000 và t́nh h́nh Đại
Kết nên một.
Thế nhưng, giai đoạn
giữa thập niên 1990 trước ngưỡng cửa
năm 2000 của chung loài người này, cũng là giai đoạn
thứ nhất (1994-1996) trong hai giai đoạn gồm 6
năm sửa soạn Mừng Đại Thể Năm
Thánh 2000 của riêng Giáo Hội Công Giáo được Đức
Thánh Cha Gioan-Phaolô II phác họa trong thông điệp
"Tiến Đến Thiên Niên Thứ Ba", th́ lịch
sử thế giới, một lịch sử đă biến
thành lịch sử cứu độ, đang ở vào thời
điểm nào của thời tận thế?
Về vấn đề ngày giờ
chính xác của ngày tận thế và thể thức của
tạo vật sau ngày tận thế, Công Đồng Chung
Vaticanô II, trong hiến chế Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay, đă xác nhận như sau:
"Chúng ta không biết lúc nào là lúc
tận cùng của trái đất và của con người,
cũng như không biết cách nào vũ trụ này sẽ được
biến đổi. Thể thức của thế giới
này, bị bại hoại bởi tội lỗi, đang qua
đi, và chúng ta được dạy cho biết rằng
Thiên Chúa đang sửa soạn một nơi cư ngụ
mới và một trái đất mới có công chính ngự
trị, nơi mà hạnh phúc sẽ tràn ngập vượt
hết mọi ước vọng phát xuất từ tâm can
của con người mong được hưởng an
b́nh. Để rồi, khi sự chết bị chế
ngự, con cái Thiên Chúa sẽ được làm cho phục
sinh trong Chúa Kitô, và những ǵ gieo trong yếu đuối
hèn hạ sẽ trở nên bất hủ: đó là đức
bác ái và các việc làm của nó sẽ tồn tại, và
tất cả mọi tạo vật mà Thiên Chúa đă
dựng nên cho con người sẽ được
giải thoát khỏi cảnh nô lệ hư vong" (LG
số 39)
Tuy nhiên, theo mạc khải của
chính Chúa Giêsu trong bộ ba Phúc Âm nhất lăm, th́ thời điểm
tận cùng thế giới, cũng có thể gọi là
"thời tận thế" cho gọn, được
chia làm 4 thời kỳ rơ rệt: thời kỳ biến chứng
khởi đầu, thời kỳ quặn đau diễn
tiến, thời kỳ bại hoại cuối cùng, và thời
kỳ chung thẩm kết thúc.
Thời kỳ thứ nhất của
thời tận thế là thời kỳ biến chứng khởi
đầu:
"Các con hăy coi chừng! Đừng
để cho ai đánh lừa các con. Nhiều người
sẽ cố mạo danh Thày. Họ sẽ xưng ḿnh 'Ta là Đức
Kitô' và lừa đảo nhiều người. Các con
sẽ nghe thấy chiến tranh và tin đồn về
giặc giă. Đừng bị chấn động.
Những điều này cần phải xẩy ra, song chưa
phải là cùng tận đâu. Dân nước này sẽ nổi
lên chống lại dân nước kia, vương quốc
này chống lại vương quốc nọ. Rồi
sẽ có đói kém, dịch tễ và động đất
xẩy ra ở nhiều nơi. Những diễn biến
này mới là giai đoạn đầu của những
cơn đau chuyển bụng để sinh nở" (Mt
24:4-8).
Về thời kỳ thứ
nhất với những biến chứng khởi đầu
này, theo lịch sử, có thể kể đến thời
kỳ của Bí Mật La Salette, một thời kư mà chính Đức
Thánh Cha Gioan-Phaolô II, trong bài ngỏ lời với hội
nghị hồng y nhóm họp lần thứ năm, ngày
13-6-1994, cũng đă phải công nhận là:
"Tất cả chúng ta được
tuôn đổ xuống liên tục hết sứ điệp
của Đức Mẹ Lộ-Đức là huấn dụ
về cầu nguyện và cải thiện, đến nước
mắt của Đức Mẹ La Salette lúc chúng ta chạm
trán với hiểm họa cả thể về tinh thần
của thời đại chúng ta" (TPS 11-12/1994, trang 376).
Thật ra, xét toàn diện, Bí
Mật La Salette nói đến hầu như đầy đủ
tất cả những ǵ xảy ra, trong lịch sử
thế giới nói chung và Giáo Hội nói riêng, mà Chúa Kitô đă
nói cho các môn đệ biết trước và được
Phúc Âm Nhất Lăm ghi lại về ngày tận thế. Tuy
nhiên, ở đây chỉ trích lại những ǵ liên quan đến
thời kỳ biến chứng khởi sự theo Phúc Âm, trùng
hợp và ăn khớp với thời kỳ Đức
Mẹ hiện ra ở La Salette vào giữa thế kỷ 19,
năm 1846, thời điểm ngay trước những cuộc
cách mạng ở Âu Châu, 1848-1849.
Biến chứng khởi đầu
thứ nhất là mạo danh Chúa Kitô lừa đảo:
"Những sách xấu sẽ lan
tràn khắp mặt đất (phụ chú: tiêu biểu là
những cuốn 'Nguồn Gốc các Giống Loại' của
Charles Darwin, diễn giải về hiện tượng
tiến hoá trong thiên nhiên, càng gây hứng khởi cho trào lưu
tự nhiên, duy vật và vô thần, xuất bản cuối
năm 1959' và bộ 'Das Kapital' của Karl Marx, áp dụng
hiện tượng tiến hoá vào lịch sử loài người,
phân chia giai cấp xă hội và bắt đầu khởi xướng
đấu tranh giai cấp xă hội, mà hiện thân của
chủ thuyết này là chế độ cộng sản,
cuốn 1 được xuất bản năm 1867,
cuốn 2 và 3 vào năm 1894-1895) thần tối tăm
sẽ lan truyền khắp mọi nơi t́nh trạng
lơ là chểnh mảng toàn diện trong tất cả
những ǵ liên quan đến việc phụng tôn Thiên Chúa"
(LA trang 12)
Biến chứng khởi đầu
thứ hai là t́nh h́nh chiến tranh giặc giă:
"Pháp, Ư, Tây Ban Nha và Anh Quốc
sẽ có chiến tranh. Máu sẽ chảy ngoài đường.
Dân Pháp sẽ đánh nhau với dân Pháp, dân Ư sẽ đánh
nhau với dânƯ. Một cuộc chiến chung tiếp theo sau
đó sẽ rùng rợn" (LA trang 15) (Phụ chú: Công Đồng
Chung Vaticanô I năm 1870 đang họp chưa xong th́ đă
bị hoăn lại vô thời hạn cũng v́ chiến tranh
liên quan đến "Lănh Địa của Ṭa Thánh")
Biến chứng khởi đầu
thứ ba là các thiên tai xẩy ra như đói kém, dịch
tễ, động đất:
"Trái đất sẽ bị điêu
linh bởi mọi thứ tai ương (thêm vào với
dịch hạch và đói khát lan rộng)... Nước và
lửa sẽ làm cho bầu trái đất những cuộc
rung chuyển và những trận động đất kinh
hồn nuốt tiêu đi các núi đồi và thành phố
v.v." (LA trang 16, 18)
Thời kỳ thứ hai của thời
tận thế là thời kỳ quặn đau diễn
tiến:
"Họ sẽ nộp các con để
hành hạ và sát hại các con. Thật thế, v́ Thày mà các
con sẽ bị mọi dân nước thù ghét. Bấy giờ
nhiều người sẽ sa ngă vấp phạm, phản bội
lại nhau và ghen ghét lẫn nhau. Nhiều tiên tri giả
sẽ nổi lên đông đảo để lừa
dối nhiều người. V́ sự dữ tăng lên mà
t́nh yêu của hầu hết sẽ trở lên nguội lạnh.
Thế nhưng, người nào bền vững đến
cùng sẽ được thấy ơn cứu độ.
Tin mừng về vương quốc cứu rỗi này
sẽ được loan truyền khắp thế giới
như một chứng từ cho mọi dân nước.
Chỉ sau đó mới tới cùng tận" (Mt 24:9-14)
Về những sự kiện được
kể đến trong thời kỳ quặn đau
diễn tiến này, thật ra, trong Bí Mật La Salette cũng
đă nói đến. Đúng như đă nói, Bí Mật La
Salette có thể bao gồm hầu như tất cả
những biến cố về ngày tận thế mà Chúa Giêsu
đă nói đến và được Phúc Âm Nhất Lăm
thuật lại. Thế nhưng, theo thời điểm của
ḿnh, như lịch sử hạ bán thế kỷ 19 đă
chứng minh, thời điểm La Salette là thời kỳ
biến chứng khởi đầu của thời tận
thế mà thôi. Sang đến thời kỳ quặn đau
diễn tiến của thời tận thế này th́
phải kể đến thời điểm Fatima, thời
điểm kể từ đầu thế kỷ 20, một
thời điểm, theo nội dung của Bí Mật Fatima,
cũng có thể kéo dài đến ngày tận thế. Bí
Mật Fatima đă đề cập đến những
biến cố lịch sử trùng hợp với thời
kỳ quặn đau diễn tiến như sau.
Quặn đau diễn tiến thứ
nhất là môn đệ Chúa Kitô bị thù ghét, bắt bớ
và sát hại:
"Nước Nga sẽ gieo
rắc lầm lạc khắp thế giới, gây chiến
và bắt bớ Giáo Hội. Kẻ lành sẽ tử đạo'
Đức Thánh Cha sẽ phải chịu nhiều đau khổ"
(FILOW trang 162)
Quặn đau diễn tiến thứ
hai là t́nh trạng loài người phạm đến Chúa và
ghen ghét nhau:
"Nếu dân chúng không thôi xúc
phạm đến Thiên Chúa, th́ một cuộc chiến
khốc liệt hơn nữa sẽ xẩy ra trong giáo
triều Đức Piô XI. (Phụ chú: ngài băng hà ngày
10-2-1939, dẫn dắt Giáo Hội 17 năm, trong khi đó,
theo lịch sử, thế chiến thứ hai thực
sự bùng nổ khi phe trục, gồm có Ư xâm chiếm
Ethiopia năm 1935, Nhật tấn công Trung Hoa năm 1937, rồi
từ từ chiếm đất vào năm 1938, và Đức
cũng bắt đầu xâm chiếm Áo từ tháng 3 năm
1938)" (FILOW trang 162)
Quặn đau diễn tiến thứ
ba là t́nh trạng ḷng người nguội lạnh, không
bền đỗ đến cùng nên hư đi, cần
phải được cứu rỗi bằng việc
truyền bá tin mừng về vương quốc cứu độ:
"Các con đă thấy hỏa ngục,
nơi mà các linh hồn tội nhân đáng thương
rơi vào. Để cứu họ (Phụ chú: là thành
phần tội nhân đáng thương cho khỏi sa
hỏa ngục, v́ họ nguội lạnh không bền đỗ
đến cùng), Thiên Chúa muốn thiết lập trên
thế giới việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ. Nếu điều Mẹ nói với các con được
thực hiện (Phụ chú: tức thực hiện
việc tôn sùng Trái Tim Mẹ, như Thiên Chúa tỏ ư
muốn dùng để làm phương tiện cứu rỗi
loài người trong thời kỳ thứ hai của thời
tận thế này, phải được truyền bá 'trên
thế giới' như một tin mừng về vương
quốc cứu rỗi), nhiều linh hồn sẽ được
cứu rỗi và sẽ có ḥa b́nh" (FILOW trang 162)
Thời kỳ thứ ba của thời
tận thế là thời kỳ bại hoại cuối cùng:
"Khi các con thấy sự ô
uế và tàn lụi mà tiên tri Daniel đă nói đến (ai đọc
th́ hiểu lấy) đứng trên nơi thánh, th́ những
kẻ ở Giuđea phải trốn lên núi. Ai ở trên mái
nhà th́ đừng có xuống mà lấy đồ ǵ trong nhà.
Ai ở ngoài đồng th́ chớ có về nhà mà lấy áo
khoác. Trong những ngày ấy, các người mẹ cưu
mang và nuối con thơ sẽ bị cực nhọc. Hăy
cố cầu nguyện để các con không phải
trốn chạy trong mùa đông hay vào ngày hưu lễ, v́
những ngày đó sẽ đầy những thảm
khốc hơn bao giờ hết từ tạo thiên lập địa
cho đến bây giờ hay cho đến cả mọi
thế hệ sau này nữa. Thật vậy, nếu thời
kỳ này không được rút ngắn lại th́ không một
người nào sẽ được cứu thoát. Tuy nhiên,
v́ kẻ được chọn mà những ngày này sẽ được
rút ngắn lại. Bấy giờ, nếu bất cứ ai
nói với các con rằng 'Kià, Đức Kitô ở đây',
hay 'Người ở kia' cũng đừng có tin.
Nhiều Kitô giả và tiên tri giả sẽ xuất
hiện, làm được những dấu lạ và sự
lạ lớn lao, đến nỗi có thể c̣n đánh lừa
được cả kẻ tuyển chọn. Hăy nhớ là
Thày đă nói với tất cả các con về điều
này trước rồi đó' vậy nếu họ nói với
các con 'Kià, người ở trong sa mạc', th́ đừng
đến đó' hay 'Người ở trong pḥng kín' cũng
đừng có tin. Như chớp sáng từ đông sang tây
thế nào, th́ việc Con Người cũng sẽ xẩy
đến như vậy. Xác chết ở đâu, diều
hâu bâu lại ở đó" (Mt 24:15-28)
Về thời kỳ thứ ba cũng
là thời kỳ bại hoại cuối cùng của thời
tận thế này, ngay thế kỷ thứ nhất, thánh
tông đồ dân ngoại là Phaolô đă quảng diễn rơ
ràng hơn cho giáo đoàn Thessalonica, trong thư thứ hai của
ngài, biết về t́nh trạng bại hoại cuối cùng
"đứng trong nơi thánh", từ đó mới
xẩy ra hiện tượng "nhiều Kitô giả và
tiên tri giả xuất hiện, làm được những
dấu lạ và sự lạ cả thể, đến nỗi
c̣n có thể đánh lừa được cả kẻ
tuyển chọn", như sau:
"Đừng để cho ai dụ
dỗ anh em, dù thế nào đi nữa. V́ t́nh trạng chối
đạo tập thể chưa xẩy ra, và con người
vô loài cũng chưa lộ diện - đó là đứa con
hư vong và thù nghịch, kẻ nâng ḿnh lên trên mọi đấng
mang danh thần linh đáng được tôn thờ,
hắn là kẻ đặt ḿnh vào trong đền thờ của
Thiên Chúa và c̣n tuyên bố ḿnh là Thiên Chúa - anh em không nhớ
rằng tôi đă thường nói với anh em về
những điều này khi tôi c̣n ở với anh em hay sao?
Anh em biết điều giữ hắn lại cho tới lúc
hắn sẽ được tỏ ra vào thời điểm
của hắn. Anh em hăy coi chừng, một quyền
lực kín đáo vô loài đang hoạt động, thế
nhưng có người giữ hắn lại cho đến
khi vị nắm giữ này đóng hết vai tṛ của
ḿnh. Bấy giờ tên vô loài sẽ lộ diện, và Chúa
Giêsu sẽ hủy diệt hắn bằng hơi thở
miệng Người, rồi làm tiêu tan hắn bằng
việc Người tỏ ḿnh hiện diện. Tên vô loài
này sẽ xuất hiện như phần việc của
Satan, được trang bị bằng mọi quyền
lực cùng với dấu lạ và sự lạ theo bản
chất dối trá - bằng mọi lừa đảo mà tên
gian ác có thể nghĩ ra cho các kẻ bị hư đi v́
những người này không cởi mở ḷng ḿnh trước
chân lư để được cứu rỗi" (2Thes
2:3-10)
Thời kỳ thứ bốn của
thời tận thế là thời kỳ chung thẩm
kết thúc:
"Ngày sau cơn hoạn nạn của
thời kỳ này, 'mặt trời sẽ bị tối
tăm, mặt trăng sẽ không c̣n chiếu sáng, các tinh tú
từ trời rơi xuống, và các lực lượng
tầng trời sẽ bị lay chuyển'. Bấy giờ
dấu hiệu Con Người sẽ xuất hiện trên
trời, và 'mọi sắc tộc trên mặt đất
sẽ đấm ngực ḿnh' khi họ thấy 'Con Người
uy quyền và đầy vinh hiển đến trên mây trời'.
Người sẽ phân tán các thiên thần của ḿnh đi để
'bằng tiếng kèn vang vọng triệu tập kẻ Người
tuyển chọn ở bốn hướng, từ vùng trời
này đến phương trời kia" (Mt 24:29-31)
Về thời kỳ chung thẩm
kết thúc này, cũng ngay thế kỷ thứ nhất,
thánh Phêrô, tông đồ trưởng kiêm giáo hoàng tiên khởi
của Giáo Hội Chúa Kitô, đă quảng diễn thêm, trong
bức thứ hai của ngài, đặc biệt về
hiện tượng cùng cách thức thiên nhiên sẽ bị
hủy hoại trước khi Chúa đến, như sau:
"Trước hết hăy để
ư là: vào những ngày sau hết, sẽ có những con người
khinh chê, nhạo báng theo đam mê của ḿnh xuất
hiện. Họ sẽ đặt vấn đề là: 'Nào lời
hứa lại đến của Người ra sao rồi?
Các vị cha ông của chúng ta đă qua đi, song mọi
sự vẫn c̣n nguyên như khi thế giới được
tạo thành. Tin tưởng như thế, họ không xét đến
quá khứ, khi mà các tầng trời và trái đất từ
nước mà phát xuất và ở giữa nước,
tất cả mọi sự được hiện hữu
nhờ lời của Thiên Chúa. Thế rồi cũng bởi
nước mà thế giới đă bị hủy diệt'
nó đă bị ngập lụt bởi hồng thủy. Các
tầng trời và trái đất hiện nay được
lời của Thiên Chúa bảo tŕ để dành cho lửa'
chúng được ǵn giữ cho đến ngày xét xử,
ngày mà các kẻ vô thần sẽ bị tiêu trừ... Ngày của
Chúa sẽ đến như kẻ trộm, và vào ngày đó,
các tầng trời sẽ rống lên biến mất' các
yếu tố sẽ bị lửa tiêu hủy, và trái đất
cùng với tất cả mọi việc làm của nó
sẽ bị lộ ra. V́ mọi sự sẽ bị hủy
diệt theo kiểu cách như thế th́ anh em không được
sống như những loại người nào! Hành vi
cử chỉ và ḷng sùng mộ của anh em phải thánh
hảo biết bao, trông chờ ngày Thiên Chúa mau đến.
V́ ngày này, các tầng trời sẽ bị tiêu hủy trong
những ngọn lửa và các yếu tố sẽ tiêu tan
chan ḥa. Điều chúng ta trông đợi là trời mới
và đất mới, nơi mà theo lời Ngài hứa, đức
công chính của Thiên Chúa sẽ ngự trị" (2Ph 3:3-13)
Trong câu kết thúc của bản
văn Bí Mật La Salette, người ta c̣n đọc được
những tiết lộ rất ăn khớp với các lời
Thánh Kinh qua đoạn thư của thánh Phêrô trên đây:
"Đoạn nước và
lửa sẽ tẩy rửa trái đất và sẽ tiêu hủy
tất cả những công tŕnh h́nh thành do sự kiêu
ngạo của con người, rồi tất cả
sẽ được đổi mới. Thiên Chúa sẽ được
phụng thờ và tôn vinh" (LA trang 20)
Về những ǵ xẩy ra sau
cơn khủng hoảng trên các tầng trời và trước
khi "tất cả được đổi mới",
th́ từ thập niên 1930, Chúa Giêsu đă tiết lộ cho
chân phước Faustina biết những sự lạ như
sau:
"Trước ngày công thẳng
xẩy đến, dân chúng sẽ được thấy một
dấu hiệu trên các tầng trời như thế này:
Tất cả ánh sáng trên các tầng trời sẽ bị
tắt hết, và bóng tối khủng khiếp sẽ bao trùm
cả trái đất. Đoạn trên bầu trời
sẽ xuất hiện h́nh bóng cây thánh giá, và từ những
kẽ hở của các bàn tay chân bị đóng đanh của
Chúa Cứu Thế, sẽ phát ra những ánh sáng cả
thể, chiếu soi mặt đất, trong một
khoảng thời gian. Điều này sẽ xẩy ra không
lâu trước ngày cùng tận" (DM, số 83)
Qua tất cả những phân tách
và suy diễn Lời Chúa Giêsu nói về thời tận
thế trên đây, có hai điều cần chú ư. Điều
cần chú ư thứ nhất là Chúa nói với các môn đệ
của Người, thành phần sẽ lănh đạo Giáo
Hội. Chính v́ thế, Người đă nói đến
sự kiện "nhiều người sẽ mạo danh
Thày", "nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên đông
đảo", "v́ Thày các con sẽ bị mọi dân tộc
thù ghét", và t́nh trạng nguội lạnh của con người,
v́ không bền đỗ đến cùng mà phải bị hư
đi, nên tin mừng về vương quốc cứu rỗi
cần phải được truyền bá v.v.
Điều cần chú ư thứ hai
là những sự kiện Người đề cập đến
có liên hệ trực tiếp đến vận mệnh của
Giáo Hội, h́nh ảnh của một thành thánh Giêrusalem, lúc
bấy giờ, trước mắt các môn đệ, nguy nga
đồ sộ, song trước đôi mắt thần
linh của Chúa Giêsu, vị sáng lập Giáo Hội, th́ một
ngày kia nó sẽ bị hủy hoại tan tành. Chính v́
thế, Người đă so sánh việc Giáo Hội
chịu hoạn nạn như là chịu một cuộc
chuyển bụng đớn đau để mà sinh nở,
và cơn đau này đă thấu đến tận nội
tâm của Giáo Hội, khu vực mà Chúa Giêsu ám chỉ như
một nơi thánh v.v.
Thật vậy, theo tự nhiên, để
có thể chuyển bụng sinh con, người mẹ
cần phải bị người con chủ động
gây ra t́nh trạng đau đớn này cho ḿnh. Cũng
thế, sự kiện Giáo Hội bị chính con cái của
ḿnh, nhất là thành phần con cái ưu tú của ḿnh trong
hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo phẩm đang gây ra khủng
hoảng, nhất là từ thời Công Đồng đến
nay, là một hiện tượng Giáo Hội đang
quằn quại để chuyển bụng sinh con. Trong
Thông Điệp T́nh Yêu Nhân Hậu gửi Các Hồn
Nhỏ, Chúa Giêsu đă nói đến hiện trạng Giáo Hội
chuyển bụng liên quan đến ư nghĩa sinh nở này
như sau:
"Giáo Hội đang trải qua
một cơn khủng hoảng trầm trọng. Không
phải các linh mục của Cha đă trở nên những
con người thiếu tin tưởng rồi hay sao? Đức
tin tinh tuyền và đơn thuần không c̣n đủ cho
các ngài nữa. Giữa ḷng Giáo Hội có một biến
loạn cả thể vẫn cứ diễn ra. Kết
quả là những thái quá đáng tiếc" (MML 1965)
"Hôm nay đây là thời điểm
khốn khó, thời Hội Thánh đớn đau sinh con. Tổ
chức Các Hồn Nhỏ của Trái Tim Nhân Hậu Cha
sẽ làm cho việc sinh con này mau đến, tuy nhiên
vẫn không làm giảm bớt được hoàn toàn khổ
đau" (MML 10-2-1974)
"Giữa ḷng Giáo Hội" mà
Chúa Giêsu nói đến trên đây là ǵ, nếu không phải
là "nơi thánh" đă được tiên tri Daniel đề
cập đến. "Biến loạn cả thể"
xẩy ra "giữa ḷng Giáo Hội" đây là ǵ,
nếu không phải, theo thư thứ hai của thánh Phaolô
gửi cho giáo đoàn Thessalonica, đó là hiện tượng
"đứa con hư vong và thù nghịch... đặt
ḿnh vào trong đền thờ của Thiên Chúa và c̣n tuyên
bố ḿnh là Thiên Chúa". Thực tế đă cho thấy
rơ điều này qua việc con người ngày nay,
chẳng những đă từng cắt nghĩa Thánh Kinh theo
ư ḿnh, giờ đây lại c̣n chính thức nhúng tay vào
việc sửa đổi Lời Chúa vô cùng chân thật, như
cho rằng mạc khải thần linh của Thiên Chúa chứa
đựng toàn là những điều sai lầm và bất
toàn, cần phải được con người văn
minh ngày nay sửa lại cho đúng và cho hợp với ư thức
hệ của họ.
Điển h́nh là các bản
dịch theo ngôn ngữ bao hàm (inclusive language), chủ trương
cố ư loại trừ đi những từ ngữ, theo
họ, Lời Chúa có tính cách kỳ thị nữ giới. Đầu
tiên là cuốn Thánh Kinh NRSV (New Revised Standard Version) dành cho 26 nước
nói tiếng Anh để sử dụng trong việc phụng
vụ, (ở Mỹ được Hội Đồng Giám
Mục Hoa Kỳ chấp nhận năm 1991), vào ngày 27-7-1994
đă nhận được lệnh của Thánh Bộ Phương
Tự đ́nh chỉ việc sử dụng. Tiếp theo là
bản dịch cuốn Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, v́ đă
trích dẫn Lời Chúa từ bản Thánh Kinh NRSV trên đây,
nên theo ư Thánh Bộ Đức Tin, nó cũng phải điều
chỉnh lại cho đúng, do đó đă làm chậm đi
dự trù phát hành15 tháng (3/1993-6/1994). Rồi đến
bản dịch Anh ngữ khác mang danh "The New Testament and
Psalms: An Inclusive Version", do Oxford University Press xuất
bản, một bản dịch đă làm cho vị giám mục
chủ tịch ủy ban phụng tự của Hội Đồng
Giám Mục Hoa Kỳ là Donald W. Trautman lần đầu tiên
đă phải chính thức lên tiếng, qua bức thư
ngày 5-9-1995 gửi các giám mục Hoa Kỳ, với những
nhận xét và thẩm định như sau:
"Nó àá một bản dịch vô
trách nhiệm nhất, xúc phạm đến giáo lư của
Giáo Hội và sự thật mạc khải về Chúa Cha,
Chúa Con và Thánh Linh. Bản dịch Anh ngữ mới này
loại bỏ tất cả những ǵ liên quan đến
Thiên Chúa là Cha. Kinh Chúa Dạy được bắt đầu
bằng lời 'Lạy Cha-Mẹ ở trên trời'... Trong
một số trường hợp, bản dịch không
dựa vào bản văn được mạc khải,
lại c̣n thêm thắt những lời không có trong nguyên
bản. Theo ư nghĩ của tôi, đây không phải là một
bản dịch hơn là một bản viết lại theo
những ư hệ chính trị và xă hội hiện đại.
Bản dịch mới này tiêu biểu cho một phản ứng
cấp tiến cực đoan đối với nhu cầu
sử dụng cân bằng ngôn ngữ bao hàm. Nó quả
thực bóp méo Lời linh ứng của Thiên Chúa" (CWR
10/1995, trang 22-23)
Nếu căn cứ vào những
suy đoán và dẫn giải trên đây về thời
tận thế, th́ kể từ sau Công Đồng Chung
Vaticanô II, nhất là ở giữa thập niên 1990 trước
ngưỡng cửa năm 2000 này, loài người thực
sự là đang sống trong thời kỳ bại hoại
cuối cùng của thời tận thế, mà theo t́nh h́nh
tự nhiên cũng cho linh cảm thấy rằng, thời
kỳ chung thẩm kết thúc của thời tận
thế chắc không c̣n bao lâu nữa: "Này, Ta đến
ngay đây!" (KH 22:12). Thế nhưng, trong thời
kỳ bại hoại cuối cùng này liệu thế
chiến thứ ba có xẩy ra hay chăng?
Thấy tội lỗi tràn lan, người
ta vẫn lo nghĩ đến thế chiến thứ ba có
thể sẽ xẩy ra trước tận thế.
Thật ra, như đă phân tích và suy diễn, mạc
khải Thánh Kinh không hề nói đến chiến tranh trong
ba thời kỳ cuối của thời tận thế, đó
là thời kỳ quặn đau diễn tiến
(x.Mt.24:9-14), thời kỳ bại hoại cuối cùng
(x.Mt.24:15-28) cũng như thời kỳ chung thẩm
kết thúc (x.Mt.24:29-31).
Tuy nhiên, không phải là hễ
những ǵ không được kể đến trong thời
kỳ sau, (chỉ v́ trong thời kỳ trước đó
chúng đă được kể đến rồi), th́ có
thể kết luận là chúng sẽ không xẩy ra nữa.
Mỗi thời kỳ thật sự là có những đặc
điểm riêng của ḿnh mà các thời kỳ khác không có.
Thế nhưng, thời kỳ sau cũng có thể có
những triệu chứng của thời kỳ trước,
mà triệu chứng được tái diễn và kéo dài sang
thời kỳ sau này lại c̣n xẩy ra ở một mức
độ trầm trọng hơn trước nữa là đàng
khác.
Chẳng hạn, thực tế đă
cho thấy những dấu hiệu về tiên tri giả,
chiến tranh và thiên tai là dấu hiệu riêng của thời
kỳ thứ nhất, thời kỳ liên quan đến Bí
Mật La Salette, tuy nhiên, sang thời kỳ thứ hai, thời
kỳ liên quan đến Bí Mật Fatima, tiên tri giả,
chiến tranh và thiên tai lại càng tái diễn một cách
nguy hiểm và tệ hại hơn nữa.
Tuy nhiên, một trong các dấu
hiệu về thời tận thế là hiện tượng
tiên tri giả đều được nhắc đến
cả trong ba thời kỳ, (mà theo mạc khải Chúa Giêsu
cho biết th́ nặng nhất là thời kỳ bại
hoại cuối cùng), bởi v́, dấu hiệu này là
dấu hiệu tiêu biểu cho thời tận thế,
dấu hiệu tỏ ra t́nh trạng lầm lạc và
mất đức tin của con người, đến độ,
đức tin càng mất th́ lại càng là dấu báo
hiệu Chúa Kitô đến, đúng như lời Chúa nói:
"Không biết khi Con Người
đến có c̣n đức tin trên trái đất này nữa
hay chăng?" (Lc 18:8)
Về t́nh h́nh chiến tranh th́, theo
Bí Mật Fatima, trong phần thứ hai, chiến tranh là h́nh
phạt Thiên Chúa dùng để trừng trị tội lỗi
loài người, đúng như Mẹ Maria đă báo trước
về biến cố Thế Chiến thứ II sẽ
xẩy ra vào thời của Đức Piô XI (x. FILOW trang
162). Thế mà, tội lỗi của loài người ngày
nay c̣n kinh khủng hơn cả tội lỗi của
họ vào thời kỳ thế chiến I và II nữa,
vậy th́ tại sao thế chiến III vẫn chưa
xẩy ra?
Tương đối mà nói, có
thể là nhờ số kẻ lành c̣n đủ để
chống đỡ phép công thẳng của Thiên Chúa, thế
nhưng, tuyệt đối mà nói, chính là v́ chưa tới
giờ trừng phạt của Thiên Chúa. Theo Bí Mật Fatima
th́ Nước Nga đă được Mẹ Maria làm cho trở
lại, không c̣n "gây chiến" nguy hại cho vận
mạng của toàn thể thế giới nữa, do đó
mà, hiện nay "thế giới được ban cho một
thời gian hoà b́nh" (FILOW trang 162)? Phải chăng
"thời gian ḥa b́nh" này, tự thế giới không
thể nào tự tạo lấy cho ḿnh, nên thế giới đă
"được ban cho"? Thế nhưng, "thời
gian hoà b́nh được ban cho thế giới" này
sẽ kéo dài bao lâu?
Thực tế cho thấy, tuy không
c̣n khối cộng sản Liên Sô là mầm mống đe
dọa cho chung vận mạng thế giới nữa,
thế giới vẫn cứ sống trong viễn tượng
Thế Chiến thứ III. Nếu thế chiến thứ
ba xẩy ra th́ phải là một chiến tranh nguyên tử.
Vậy mà, vào ngày 20-5-1994, Cơ Quan Nguyên Tử Lực
Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc đă cảnh cáo
cộng sản Bắc Hàn về vụ Bắc Hàn đă làm ở
ḷ nguyên tử Younbyon, gây nguy hiểm đến những qui
định về mối an toàn chung. Thế rồi đến
lượt Trung Cộng tuyên bố sẽ có 5 cuộc thí
nghiệm bom nguyên tử trong năm 1995 và 1996, và Pháp cũng
tuyên bố sẽ thử 8 cuộc từ tháng 9-1995 đến
5-1996. Quả nhiên, Trung Cộng đă mở màn thử bom
nguyên tử dưới ḷng đất từ tháng 10-1994, rồi
một cuộc khác ở vùng Tân Cương vào mùa hè 1995. C̣n
Pháp, trong ṿng một tháng của mùa hè 1995, đă cho thí
nghiệm hai lần ở vùng nam Thái B́nh Dương.
Về hiểm họa thế
chiến thứ ba liên quan đến việc xây dựng một
nền hoà b́nh đích thực cho chung thế giới, Công Đồng
Chung Vaticanô II đă nhận định như sau:
"Trừ phi dẹp bỏ tinh
thần thù hằn và ghen ghét, rồi cương quyết tôn
trọng nắm giữ những thoả ước về
ḥa b́nh thế giới, bằng không, bất chấp
những kỳ công của khoa học tân tiến, nhân
loại vẫn có thể đi từ cuộc khủng
hoảng trầm trọng ngày nay cho đến giờ phút
liệt bại, lúc mà t́nh trạng ḥa b́nh duy nhất họ
cảm nghiệm được chỉ là một t́nh
trạng ḥa b́nh ghê rợn của sự chết" (LG
số 82)
"V́ con người không thể
chịu đựng được một t́nh trạng
biến loạn như thế, do đó mà hậu quả
phải xẩy đến là, cho dù không có chiến tranh,
thế giới vẫn cứ liên tục bị bủa vây bởi
giằng co và xâm lấn giữa con người với
nhau" (LG số 83)
Tuy nhiên, để trừng
phạt tội lỗi của thế giới, Thiên Chúa không
nhất thiết phải sử dụng đến thế
chiến thứ ba. Có thể v́ tội lỗi của loài người
quá nặng, mà theo quan điểm trần gian, cần
phải chịu một h́nh phạt khác mới đủ đền
tội lỗi của họ, và theo quan điểm siêu
nhiên, h́nh phạt nặng hơn này mới có thể làm cho
họ nhận biết Thiên Chúa th́ sao. Chẳng hạn Thiên
Chúa có thể để xẩy ra hiện tượng
tối tăm ba ngày ba đêm như chân phước
Anna-Maria Taigi nói đến từ thế kỷ 19:
"Sẽ xẩy ra trên toàn trái đất
một cơn tối tăm mù mịt kéo dài ba ngày ba đêm.
Không thể thấy được ǵ cả, không khí đầy
những bệnh hoạn chết chóc lan truyền, tác
hại đặc biệt là các kẻ thù ghét đạo
nghĩa. Không một ánh sáng nhân tạo nào có thể tỏ
rạng trong cơn tăm tối này, ngoại trừ
những cây nến phép. Kẻ nào v́ ṭ ṃ mà dám mở cửa
sổ nh́n ra ngoài, hay rời nhà của ḿnh, sẽ chết
ngay tức th́. Trong thời gian ba ngày này, người ta
phải ở lại trong nhà của ḿnh, cầu kinh Mân Côi
và van xin Thiên Chúa xót thương. Tất cả các thù địch
của Giáo Hội trên khắp mặt đất, ra mặt
hay kín ẩn, sẽ bị hủy diệt trong thời gian
tối tăm khắp cả hoàn cầu, chỉ trừ một
số ít mà Thiên Chúa chẳng bao lâu sẽ làm cho trở
lại. Không khí sẽ bị tiêm nhiễm bởi các ma qủi
xuất hiện dưới mọi loại h́nh thù quái gở...
Sau ba ngày tối tăm, Thánh Phêrô và Phaolô từ Trời
xuống sẽ rao giảng khắp thế giới và
chỉ định một vị tân Giáo Hoàng. (Phụ chú: phải
chăng ở đây ám chỉ đến vị giáo hoàng áp
cuối sẽ lấy danh hiệu là Phêrô-Phaolô, vị giáo hoàng
sẽ chịu khổ nạn, để rồi, từ thân
thể tử nạn của ngài sẽ xẩy ra một
hiện tượng là như sau). Từ thân thể của
các ngài sẽ có một chớp sáng vĩ đại và sẽ
đậu lại trên vị hồng y được trở
nên Giáo Hoàng. (Phụ chú: phải chăng đây là vị giáo
hoàng cuối cùng mang danh hiệu Phêrô, như sấm
truyền của Malachy đă đề cập đến).
Kitô giáo bấy giờ sẽ được truyền bá
khắp thế giới. Ngài là vị Giáo Hoàng Thánh Thiện,
được Thiên Chúa chọn để chống lại
băo tố. (Phụ chú: cũng theo sấm truyền Malachy,
vị giáo hoàng mang tên "Phêrô người Rôma" này
"sẽ chăn nuôi đàn chiên ḿnh giữa những tai
biến"). Về cuối ngài sẽ có cả ơn làm
phép lạ, và danh của ngài sẽ được chúc tụng
khắp cả thế giới. Toàn thể các dân tộc
sẽ trở lại với Giáo Hội, và bộ mặt
trái đất sẽ được canh tân" (CP trang
44-45)
Phải chăng, hiện tượng
tối tăm ba ngày ba đêm bao phủ cả trái đất,
tuy là một hiện tượng tự ḿnh mang tính cách
chết chóc bao trùm toàn thể thế giới con người,
song ư nghĩa của nó lại nói lên mầu nhiệm Vượt
Qua của Chúa Kitô, như hạt lúa miến trước
hết phải bị mục nát đi trong ḷng đất
trước khi trổ sinh muôn vàn hoa trái (x. Gn 12:24). Do đó,
tác dụng của hiện tượng tối tăm ba ngày
ba đêm này lại trở thành một dấu hy vọng,
báo hiệu sắp đến một Mùa Phục Sinh.
Đúng thế, "toàn thể
tạo vật quằn quại mong chờ ngày tỏ
hiện của con cái Thiên Chúa" (Rm 8:19), đó là Ngày Phục
Sinh của "tạo vật bị lụy phục hư
nát... được thoát khỏi t́nh trạng nộ lệ
cho hư hoại để được thông phần vào
niềm tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa" (Rm
8:21-22), Ngày Phục Sinh trong Đấng đă sống
lại từ cơi chết, "Đấng một lần đă
chết những nay vẫn sống muôn đời muôn thuở.
(Đấng) giữ trong tay ch́a khóa sự chết và âm phủ"
(KH 1:18).
Thế nhưng, ngay từ ban đầu,
nếu theo mạc khải: "Thiên Chúa nh́n mọi sự
Ngài đă thực hiện và Ngài thấy nó rất tốt
lành" (KN 1:31), th́ tại sao lại có chuyện hư
hỏng nơi tạo vật để chúng lại
phải được giải cứu và canh tân? Nói cách
khác, nếu Thiên Chúa vô cùng toàn thiện và những ǵ Ngài làm đều
"rất tốt lành", th́ sự chết, được
hiện thân nơi sự dữ, qua bộ mặt tội lỗi,
làm sao mà có được?? Nếu có th́ từ đâu mà đến??
Nếu quả thật có sự chết, như thực
tế cho thấy nơi lịch sử của con người
cũng như nơi cảm nghiệm bản thân mỗi người,
th́ phải chăng là do việc làm của Thiên Chúa, tức
việc của Ngài làm h́nh như c̣n chất chứa một
cái ǵ đó chưa trọn, và cái chưa trọn này nơi
tạo vật chỉ được nên trọn khi đến
thời điểm của nó???
Đó
là "những mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cor
4:1), những mầu nhiệm đă được mạc
khải qua lịch sử loài người, để làm cho
lịch sử này trở thành một lịch sử cứu
rỗi, một lịch sử cứu rỗi đă được
linh ứng để ghi chép lại thành một Bộ Thánh
Kinh, và được kết thúc trong cuốn cuối cùng
mang chính tựa đề là "Mạc Khải"
(Apokalypsis theo Hy Lạp), hay Khải Huyền, một
cuốn sách được Giáo Hội Chính Thống Đông
Phương mừng kỷ niệm 1900 năm ngày 25-26/9/1995
ngay tại Đảo Patmô, nơi thánh Gioan được
mạc khải, một cuốn sách như thể có tính cách
"Hận Thù Quyết Thắng".