-14-
Chết Lần Hai
Đoạn tôi thấy một ngai
ṭa lớn mầu trắng, có Đấng ngự trên đó.
Trước nhan Ngài, đất và bầu trời
lướt đi, cho đến khi chúng không c̣n thấy ǵ
nữa. Tôi thấy kẻ chết, cao cả cũng như
thấp hèn, đều đứng trước ngai ṭa. Sau
hết, giữa những cuốn sách, có một cuốn
sổ sinh linh được mở sẵn. Kẻ chết
được phân xử theo việc làm của họ,
như được ghi trong những cuốn sách. Biển
thả ra kẻ chết của ḿnh' rồi sự chết
và âm phủ cũng buông ra kẻ chết của chúng.
Mỗi người được phán xét theo việc làm
của họ. Đoạn sự chết và âm phủ
bị hất nhào xuống hồ lửa, đó là cái
chết lần thứ hai' ai không có tên được ghi
trong cuốn sổ sinh linh cũng bị đẩy
xuống hồ lửa này.
(KH.20:11-15)
Theo ngôn ngữ của sách Khải
Huyền th́ để kết thúc của cuộc
"hận thù quyết thắng" sẽ có hai sự
kiện hoàn toàn tương phản nhau xẩy ra. Đó là
một "cuộc phục sinh lần thứ nhất"
(KH.20:5) và một "cái chết lần thứ hai"
(KH.20:6,15). Nếu "cuộc phục sinh lần thứ
nhất", như sách Khải Huyền đă khẳng định
là xẩy ra trong thời kỳ "một ngàn năm",
tức "là khoảng thời gian công cuộc cứu
chuộc của Thiên Chúa được hoàn tất nơi
Chúa Kitô tử giá" (trang 231), th́ "cái chết lần
thứ hai" phải xẩy ra vào ngày chung thẩm, ngày
"mỗi người được phán xét theo việc
làm của họ, như được ghi trong những
cuốn sách".
Tuy nhiên, Khải Huyền không
hề minh nhiên đề cập đến "cái chết
lần thứ nhất" hay "cuộc phục sinh
lần thứ hai". Khải Huyền chỉ xác nhận
dứt khoát về giao điểm giữa hai sự
kiện tương khắc này ở thân phận của
thành phần được cứu rỗi như sau:
"Hạnh phúc và thánh hảo cho những người được
thông phần vào cuộc phục sinh lần thứ nhất!
Cái chết lần thứ hai sẽ không làm ǵ được
họ" (KH.20:6). Vậy "cái chết lần thứ
hai" là "cái chết ... không làm ǵ được"
những ǵ sự sống đă cứu thoát, tức
"không làm ǵ được" những ǵ "đă
vượt qua sự chết mà vào sự sống"
(Gn.5:24), "thành phần được thông phần vào
cuộc phục sinh lần thứ nhất".
Thật vậy, "thành phần được
thông phần vào cuộc phục sinh lần thứ
nhất", sở dĩ "cái chết lần thứ hai
không làm ǵ được" họ, trước hết, là
v́ họ "có tên được ghi trong cuốn sổ
sinh linh"' sau nữa, là v́, bởi "có tên được
ghi trong cuốn sổ sinh linh", họ "đă
vượt qua sự chết mà vào sự sống"
(Gn.5:24). Như thế, trước khi được
"vào sự sống", thành phần "được
thông phần vào cuộc phục sinh thứ hai" đă là
một kẻ chết, của cái chết lần thứ
nhất, cái chết do "ma qủi... đă mang lại cho
con người ngay từ ban đầu" (Gn.8:44), cái
chết mà Thiên Chúa đă thận trọng cảnh giác con
người, song con người đă nghe ma qủi "đánh
lừa" và "nghe vợ ḿnh" hơn nên mới xẩy
ra t́nh trạng đáng tiếc như vậy (x.KN.2:16-17'
3:13,17).
V́ "đă nghe ma qủi đánh
lừa và nghe vợ ḿnh hơn" nên con người
mới bị chết lần thứ nhất như thế
mà, để có thể "vượt qua sự chết mà
vào sự sống", th́, khi "đến giờ, mà
thực sự đă đến" (Gn.5:25), con
người là thành phần "kẻ chết (cần
phải) nghe tiếng của Con Thiên Chúa" (Gn.5:25) nữa
mới được. Bởi v́, "những ai nghe
tiếng của Con Thiên Chúa th́ sẽ được
sống" (Gn.5:25)' bằng không, họ cũng chỉ là
thành phần "những người khác là những
kẻ chết nhưng không sống lại cho đến
khi một ngàn năm qua đi" (KH.20:5). Do đó, thành
phần "những sinh linh bị mất đầu v́
việc họ làm chứng cho Chúa Giêsu" (KH.20:4) chắc
chắn phải là thành phần đă "nghe tiếng
của Con Thiên Chúa", tức là thành phần "chiên
của Ta th́ nghe tiếng Ta" (Gn.10:27), nên cũng là thành
phần "được sống viên trọn hơn"
(Gn.10:10), nhờ chính sự sống mà "vị mục
tử tốt lành hiến mạng sống ḿnh v́ chiên"
(Gn.10:11).
Vào thời kỳ "một ngàn
năm", sách Khải Huyền đă cho biết số
phận của ba thành phần: thành phần "những đấng
ngồi trên ngai" (KH.20:4), thành phần "những sinh
linh bị mất đầu" (KH.20:4), và thành phần
"những kẻ khác là những kẻ chết"
(KH.20:5). Thế nhưng, vào ngày chung thẩm, sách Khải
Huyền rút lại c̣n có một tầng lớp chung, mà thánh
kư Gioan đă thị kiến thấy, đó là "kẻ
chết, cao cả cũng như thấp hèn, đều đứng
trước ngai ṭa".
Như thế, tầng lớp chung
của "kẻ chết" được sách Khải
Huyền kể đến trong ngày chung thẩm ở đây,
theo ư nghĩa của nó, không phải là thành phần
"kẻ chết" cần phải "vượt qua
sự chết mà vào sự sống" có liên quan đến
thời kỳ "một ngàn năm". Có thể nói,
thành phần "kẻ chết" trong ngày chung thẩm đây
là tất cả nhân loại, kể cả thành phần
"cao cả": "ngự trên ngai" (KH.20:4) và
"cai trị với Người cả 1000 năm"
(KH.20:6), lẫn thành phần "thấp hèn": "không
sống lại cho đến khi một ngàn năm qua đi"
(KH.20:5). Bởi v́, "tất cả chúng ta đều được
biến đổi, trong phút chốc, bằng một cái nháy
mắt, khi nghe thấy tiếng của hiệu kèn cuối
cùng" (1Cor.15:51-52).
Đúng thế, khi "hiệu kèn
thổi lên, kẻ chết sẽ sống lại không hư
nát, và chúng ta sẽ được biến đổi"
(1Cor.15:52). Nếu thế, cuộc sống lại trong ngày
chung thẩm không phải là, nên không được gọi
là, cuộc sống lại lần thứ hai, một
cuộc sống lại như cần phải có để
bổ túc hay làm hoàn tất cho "cuộc sống lại
lần thứ nhất". (Do đó, sách Khải Huyền,
cũng như toàn bộ Thánh Kinh được Giáo Hội
công nhận, không hề nói đến có một
"cuộc sống lại" mang ư nghĩa "lần
thứ hai"). Thật ra, cuộc sống lại trong ngày
chung thẩm không có tính cách thần linh, như "cuộc
sống lại lần thứ nhất", mà hoàn toàn
chỉ có tính cách tự nhiên, liên quan đến thể lư.
Bởi v́, "thân xác hư nát này phải được
mặc lấy t́nh trạng không hư nát, thân xác chết
chóc này phải được mặc lấy t́nh trạng
không chết chóc" (1Cor.15:52).
V́ "cuộc sống lại
lần thứ nhất", "có tính cách thần linh",
nên được xẩy ra vào thời kỳ "một
ngàn năm", thời kỳ "Chúa Kitô hiến thân
một lần để xoá bỏ tội lỗi của
nhiều người" (DT.9:28). Cũng thế, cuộc
sống lại của con người "hoàn toàn chỉ
có tính cách tự nhiên, liên quan đến thể lư"
mới xẩy ra trong ngày chung thẩm, ngày "kẻ
chết được phân xử theo việc làm của
họ", "tùy ở cuộc sống của họ
trong thân xác" (2Cor.5:10), để "việc cứu độ
của thân xác" (Rm.8:23) cũng được thực
hiện.
Thật vậy, theo tiến tŕnh
của công cuộc cứu độ, trước hết,
v́ "nọc của sự chết là tội lỗi"
(1Cor.15:56), mà Chúa Kitô "đă xuất hiện vào lúc
tận cùng của các thời đại để xóa
bỏ tội lỗi một lần cho tất cả
mọi người bằng hy tế của
Người" (DT.9:26). Tuy nhiên, "tội lỗi có
sức hoành hành là do lề luật" (1Cor.15:56). Ở
chỗ, "con người nội tại của tôi th́
thuận hợp với lề luật của Thiên Chúa, song
tôi lại thấy nơi những phần thân thể
của tôi một thứ lề luật khác, chống
lại với lề luật nơi tâm trí của tôi, làm tôi
trở thành một tù nhân của lề luật tội
lỗi nơi các phần thể của ḿnh. Tôi là một
con người khốn khổ là chừng nào! Ai có thể
cứu tôi cho khỏi thân xác ở trong tay quyền lực sự
chết này?" (Rm.7:22-24). Bởi thế mà "Chúa Kitô
sẽ xuất hiện lần thứ hai, không phải để
xóa bỏ tội lỗi nữa, mà là để mang ơn
cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi
Người" (DT.9:28).
Thế nhưng, trong ngày chung
thẩm, sau khi cả loài người là một tầng
lớp chung trong thân phận của một "kẻ
chết" được phân xử, th́, theo thị
kiến của thánh kư Gioan, tầng lớp "kẻ
chết" chung này lại được chia làm hai thành
phần "kẻ chết" khác nhau. Một thành
phần "kẻ chết" được
"biển thả ra", và một thành phần
"kẻ chết" được "sự chết
và âm phủ buông ra". Hai thành phần "kẻ
chết" phát xuất từ hai nơi khác nhau này là ai?
"Biển thả ra kẻ
chết của ḿnh". Như đă được
diễn giải ở trang 117-118, "biển, tức
phần 'nước dưới bầu trời tụ
lại thành một cái hồ' biểu hiệu cho lănh
vực của sự sống đức tin, một sự
sống 'hiểu biết về Thiên Chúa như nước
bao phủ biển khơi'". Thế th́, "kẻ
chết" được "biển thả ra" không
ai khác hơn là "phần miêu duệ c̣n lại của
người nữ" (KH.12:17), "những người
không hề bị nhơ nhớp lăng loàn với phụ
nữ. Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đi mọi
nơi Con Chiên đi. Họ đă được hy hiến
như những hoa trái đầu mùa của nhân loại cho
Thiên Chúa và cho Con Chiên" (KH.14:4), thành phần "các
vị tiên tri, các thánh và tất cả những ai bị tàn
sát trên trái đất" (KH.18:24) "bởi bàn tay của
mụ đại điếm" (KH.19:2).
"Rồi sự chết và âm
phủ cũng buông ra kẻ chết của chúng". Không
cần diễn giải, thành phần "kẻ
chết" ở đây tức là thành phần bị đời
đời hư đi. Chẳng hạn như "con mănh
thú và tên tiên tri giả... cả hai bị hất sống
xuống hồ lửa diêm sinh" (KH.19:20), hay như
"ma qủi ... bị hất xuống hồ diêm sinh
bừng cháy, nơi con mănh thú cùng với tên tiên tri giả
cũng bị quăng xuống" (KH.20:10). Rơ ràng hơn
nữa là những "kẻ hèn nhát và những kẻ
phản bội đức tin, kẻ bại hoại và
những kẻ sát nhân, những kẻ dâm loạn và
những kẻ tà thuật, những kẻ tôn thờ
ngẫu tượng và những kẻ lừa đảo đủ
thứ - thân phận của họ là hồ lửa diêm sinh
bừng cháy, là cái chết lần thứ hai" (KH.21:8). Tóm
lại, đó là tất cả những thành phần
"không có tên được ghi trong cuốn sổ sinh linh
cũng bị đẩy xuống hồ lửa này".
Thành phần "kẻ chết" bất hạnh được
kể đến trên đây đều chịu chung
một số phận là "bị hất/quăng
xuống hồ lửa diêm sinh", một thực tại
mà sách Khải Huyền xác định là "cái chết
lần thứ hai" (KH.20:14' 21:8).
Theo thứ tự được
sách Khải Huyền sắp xếp, th́ "cái chết
lần thứ hai" này cuối cùng rồi mới
xuất hiện, tức sau cuộc chung thẩm mới có
"cái chết lần thứ hai". Tuy nhiên, trước
cuộc chung thẩm, như trên đă trích dẫn, "con
mănh thú cùng với tên tiên tri giả" và "ma
qủi" đă "bị đẩy xuống
hồ lửa diêm sinh" tức là "cái chết lần
thứ hai" này rồi. Như thế, "sự
chết" và "âm phủ" cũng không phải là
chính "cái chết lần thứ hai", v́ cả chúng cho
đến phút cuối cùng mới "bị hất nhào
xuống hồ lửa" được gọi là
"cái chết lần thứ hai". Vậy "sự
chết" và "âm phủ" (không phải "cái
chết lần thứ hai") là ǵ?
Theo ư nghĩa đă được
mạc khải, "âm phủ" ở đây là
"những hố tối tăm" (2Ph.2:4), một lănh
giới mà "các thần lỗi phạm bị canh giữ
cho đến ngày xét xử" (2Ph.2:4), hay cũng là chính
"tối tăm mù mịt" (Giu 6), một t́nh trạng
mà "các thần không chịu giữ phận của ḿnh,
các thần bỏ vị trí của ḿnh... vĩnh viễn
bị giam cầm cho đến cuộc phân xử trong ngày
trọng đại" (Giu.6). "Cho đến ngày được
xét xử" hay "cho đến cuộc phân xử"
là ǵ, nếu không phải là cho đến khi mọi sự được
sáng tỏ trong ánh sáng thần linh, tức cho đến khi
"ánh sáng chiếu trong tăm tối" (Gn.1:5) và hoàn toàn
xua tan tăm tối "trong ngày trọng đại"
(Giu.6), nghĩa là cho đến khi "không c̣n đêm"
(KH.21:25).
Thế nhưng, xét theo nguyên
tắc cũng như theo nguồn gốc, trước khi
có "âm phủ" phải có "sự chết", đúng
như thứ tự theo sách Khải Huyền liệt kê:
"sự chết và âm phủ", chứ không phải
"âm phủ và sự chết", (như thực tế
vẫn xẩy ra, theo chiều hướng sẽ được
phân giải dưới đây). "Sự chết" đây
tất nhiên không phải là một chủ thể trong
số tạo vật, kể cả Satan là "tên sát nhân
ngay từ ban đầu" (Gn.8:44). Nếu "âm
phủ" là lănh giới vong tồn có tính cách ngoại
tại của thành phần "kẻ chết" ở
trong một t́nh trạng "tối tăm" bất
hạnh, th́ "sự chết" là một hiện
tượng có tính cách nội tại, ở ngay trong và được
bộc phát từ chính thành phần chủ thể có tự
do, hoặc thuần linh như thiên thần, hay hồn linh
như loài người, v́ thành phần chủ thể
tự do này ở trong một t́nh trạng "tối
tăm" nên không đạt được cùng đích
chân thật cùng với đối tượng toàn thiện
của ḿnh là Thiên Chúa. (Ở đây, như đă nói,
thực tế cho thấy "âm phủ", được
biểu hiệu nơi "tối tăm", là nguyên nhân điều
kiện xẩy ra "sự chết" hay mang lại
"sự chết", một "hiện
tượng" không đạt được Thiên Chúa
nơi tạo vật).
Đúng thế, "Thiên Chúa đă
ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự
sống này ở nơi Con của Ngài. Ai có Con cũng có
sự sống' ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự
sống" (1Gn.5:11-12). Nhưng, để loài tạo
vật được ban cho khả năng nhận
thức tự nhiên, theo bản tính tự do mang tính cách
thần linh của ḿnh, có thể "chấp nhận"
(Gn.1:11) "sự sống đời đời" được
Thiên Chúa ban qua Con Ngài và nơi Con Ngài, th́ chính "sự
sống đời đời này là sự sống ở
nơi Cha đă trở nên hữu h́nh cho chúng ta" (1Gn.1:2).
"Sự sống ở nơi Cha đă trở nên hữu
h́nh cho chúng ta", tức là "Con Thiên Chúa đă tỏ
ḿnh ra" (1Gn.3:8), chẳng khác ǵ như "sự sống
là ánh sáng chiếu soi con người" (Gn.1:4).
Do đó, ai không có Con, trước
hết, họ không có "ánh sáng ban sự sống"
(Gn.8:12), tức họ là thành phần "ở trong tối
tăm và trong bóng tối sự chết" (Lc.1:79), đúng
hơn, họ là thành phần không được "kêu
gọi từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng"
(1Ph.2:9), hay dù có được chăng nữa, thực
tế th́ họ vẫn giống như "một cái xác
không hồn" (Gia.2:26). Thế nhưng, để
biết ḿnh thực sự "có sự sống đời
đời" hay không, tức muốn "biết ḿnh đă
vượt qua sự chết mà vào sự sống"
(1Gn.3:14) hay chưa, th́ lại phải xét xem "chúng ta yêu
thương anh em" (1Gn.3:14) chưa? Bởi v́,
"kẻ nào không yêu thương th́ ở trong sự
chết. Ai ghét anh em ḿnh là kẻ sát nhân, và sự sống đời
đời không có ở trong ḷng của một kẻ sát nhân"
(1Gn.3:14-15).
Như thế, qua câu Thánh Kinh
vừa được trích dẫn này, nếu "ở
trong ḷng", tức về phương diện nội
tại, của một chủ thể nào không có "sự
sống đời đời", th́ chủ thể
ấy là "một kẻ sát nhân", như trường
hợp ma qủi "là tên sát nhân ngay từ ban đầu"
(Gn.8:44), tức là một kẻ, về phương
diện ngoại tại, "ở trong sự
chết". "Ở trong sự chết" v́ "không
yêu thương" đây cũng đồng nghĩa
với "ở trong tối tăm", như lời
Thánh Kinh Tân Ước đă xác nhận: "Kẻ nào cho
ḿnh ở trong ánh sáng mà lại cứ ghét anh em ḿnh th́ cho đến
giờ vẫn ở trong tối tăm. Kẻ nào c̣n ở
trong ánh sáng là kẻ yêu thương anh em ḿnh' nơi họ
không có dịp tội. Thế nhưng, người ghét anh
em ḿnh th́ ở trong tối tăm. Người ấy
bước đi trong bóng tối, không biết là ḿnh đi đâu,
bởi cái tối đă làm mù mắt của họ"
(1Gn.2:11). Ngược lại, "nếu chúng ta
bước đi trong ánh sáng, chúng ta có thân t́nh với
nhau" (1Gn.1:7), cũng là "thân t́nh với Thiên Chúa"
(1Gn.1:6).
Qua tất cả những chi
tiết được diễn giải trên đây, có
thể kết luận như sau: "Âm phủ" là
một t́nh trạng hoàn toàn "ở trong tối
tăm", hay "ở trong sự chết", tức
ở trong một t́nh trạng "không yêu
thương", một t́nh trạng không "thân t́nh
với Thiên Chúa", "Thiên Chúa là t́nh yêu" (1Gn.4:8,16).
Vậy, sau cuộc chung thẩm, cả "sự chết
và âm phủ bị hất nhào xuống hồ lửa, đó
là cái chết lần thứ hai" nghĩa là ǵ, nếu
không phải là cả hai đều bị hất nhào
xuống "lửa đời đời đă được
dọn sẵn cho ma qủi và chư thần của
hắn" (Mt.25:41), thứ lửa cũng dành cho thành
phần con người "bị luận phạt"
(Mt.25:41) v́ "không yêu thương" (Mt.25:42-44).
Thế nhưng, để
"luận phạt" trong "lửa đời đời"
thành phần con người "không yêu thương"
này, Con Người đến trong vinh quang... ngự trên
vương ṭa của Người" (Mt.25:31) phải đuổi
họ đi trước đă: "Hăy xéo cho khỏi nhan Ta!"
(Mt.25:41). Như thế, "bị luận phạt"
trong "lửa đời đời", hay "bị
luận phạt" trong "cái chết lần thứ
hai" đây chỉ là vĩnh viễn không được
hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa! Nếu "thời gian chính
là thực tại mạc khải của Thiên Chúa" (trang
106) c̣n, th́ bấy giờ "sự chết" mới
chỉ là t́nh trạng "không yêu thương". Thế
nhưng, sau cuộc chung thẩm, tức vào lúc hết
thời gian, lúc mà mọi sự đă "nên trọn"
(Mt.5:18), lúc "đất và bầu trời lướt đi,
cho đến khi chúng không c̣n thấy nữa trước
nhan Ngài", th́ "cái chết lần thứ hai" chính
là "vĩnh viễn không được hưởng Thánh
Nhan Thiên Chúa" vậy.
Thế nhưng, loài tạo vật
có tự do, mang tính cách thần linh, như thành phần
thần dữ "bị hất nhào xuống hồ diêm
sinh bừng cháy" (KH.20:10), cũng như thành phần con
người "bị luận phạt" (Mt.25:41)
sống lại, mà "vĩnh viễn không được
hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa", th́ qủa thật,
về phương diện ân sủng, họ phải
chịu "cái chết lần thứ hai", song về
phương diện hiện hữu, họ vẫn là
những kẻ sống, giống như "bụi gai có
lửa cháy mà không bị thiêu rụi" (XH.3:2). Bởi v́,
khi c̣n thời gian, dù họ có "không nhận biết (và)
không chấp nhận" (GN.1:10,11) Lời nhập thể
của Ngài đi nữa, kết thúc, Thiên Chúa thượng
trí vô cùng khôn ngoan và toàn năng vẫn hoàn thành được
tất cả những ǵ Ngài muốn, đó là Ngài vẫn
thực hiện được trọn vẹn mạc
khải của Ngài trên thế gian. Ở chỗ,
"cuối cùng, tất cả đă lụy thuộc Con,
rồi Con lụy thuộc Đấng đă làm cho tất
cả mọi sự lụy thuộc ḿnh, để Thiên
Chúa là tất cả trong mọi sự" (1Cor.15:28).
Nếu "nghe thấy danh Chúa Giêsu, trên các tầng
trời, ở dưới trái đất cũng như
cả trong ḷng đất, mọi đầu gối
phải qùi xuống và mọi miệng lưỡi phải
tuyên xưng Giêsu Kitô là Chúa, cho vinh quang Thiên Chúa Ngôi Cha"
(Phil.2:10-11), th́ đúng Thiên Chúa là "Thiên Chúa của kẻ
sống, chứ không phải của kẻ chết"
(Mt.22:32).
Tuy nhiên, sau cuộc chung thẩm là
thời điểm mọi sự đă được hoàn
toàn sáng tỏ nhờ mạc khải thần linh, thành
phần "kẻ sống" "thừa hưởng
vương quốc" (Mt.25:34) được hoan
hưởng nhận biết Thiên Chúa một cách
"diện đối diện" (1Cor.13:12), bằng
"linh hồn ngợi khen Chúa và thần trí hoan lạc
trong Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ" (Lc.1:46-47).
C̣n thành phần "kẻ sống" "bị luận
phạt", họ cũng nhận biết Thiên Chúa, v́
mạc khải của Thiên Chúa, vào cuộc chung thẩm, đă
hoàn toàn sáng tỏ trước tất cả mọi tạo
vật cũng như đối với từng vật.
Thế nhưng, thành phần "kẻ sống" này
lại nhận biết Thiên Chúa bằng một tâm trí
tận cùng hận tiếc, một tâm trạng được
chính Chúa Giêsu diễn tả rơ ràng bằng h́nh ảnh
"khóc lóc nghiến răng" (Mt.8:12'13:42,50' 22:13'24:51'25:30).
Bấy giờ, trong cơi đời đời,
họ tuy cũng nhận biết Thiên Chúa song vẫn
"không yêu thương" Thiên Chúa như Ngài xứng đáng,
v́ họ không có tư cách cũng như không có khả
năng để thực hiện tác động diễm
phúc mà chỉ được "Thiên Chúa đổ vào ḷng
nhờ Thánh Linh là Đấng được ban cho"
(Rm.5:8) mới có này. Ngoài ra, thêm vào đó, họ lại c̣n
bị chính T́nh Yêu vô cùng toàn thiện của Thiên Chúa thiêu đốt,
T́nh Yêu mà họ, "khi c̣n sống trong thân xác (của
ḿnh)" (2Cor.5:6,10), đă "lộng ngôn phạm đến
Thánh Linh" (Mt.12:32). Đó là t́nh trạng vô cùng bất
hạnh và tuyệt đối vô phúc của thành phần
sống trong "cái chết lần thứ hai mà sách
Khải Huyền diễn tả qua h́nh ảnh của
một "hồ lửa".
Như thế th́ "hồ
lửa, đó là cái chết lần thứ hai" ở đây,
đối với thành phần "kẻ sống" song
"bị luận phạt" chính là T́nh Yêu vô cùng toàn
thiện của Thiên Chúa, một T́nh Yêu mà cá nhân họ,
kể cả thần thiêng cũng như loài người,
khi được Ngài mạc khải cho biết qua Lời
nhập thể, đă phũ phàng phủ nhận, nên trong
cơi đời đời, họ chẳng những không được
tham hưởng lại c̣n bị chính T́nh Yêu Thần Linh này
thiêu đốt trong ảnh hưởng vô cùng mănh liệt
của nó nữa.
Thật thế, "T́nh Yêu của
Thiên Chúa được tỏ ra (mạc khải) giữa
chúng ta ở chỗ: Ngài đă sai Con duy nhất của Ngài đến
thế gian để chúng ta nhờ Người mà có sự
sống" (1Gn.4:9) không phải là một "thứ
lửa thiêu đốt" (Is.33:14) hay sao? Và T́nh Yêu của
"Đấng đă không tiếc Con riêng của ḿnh song đă
trao nộp Người v́ tất cả chúng ta" (Rm.8:32)
cũng không phải là "những ngọn lửa đời
đời" (Is.33:14) hay sao? Sự thật th́ chính
"Thiên Chúa là một ngọn lửa thiêu đốt"
(DT.12:29). "Là phản ảnh vinh quang của Cha, là
hiện thân đích thực của hữu thể của
Cha" (DT.1:3), Con Thiên Chúa làm Người đến
thế gian chính là để "rửa trong Thánh Linh và trong
lửa" (Lc.3:16), tức là để "thắp lên trên
thế gian một ngọn lửa (và) muốn cho nó được
bùng cháy" (Lc.12:49).
Phải, chỉ có "lửa
từ trời xuống (này mới có thể) nuốt được"
(KH.20:9) các đạo quân "đông như cát biển"
(KH.20:8) của con rồng "đỏ chói" (KH.12:3) đầy
"uất hận" (KH.12:17), trong hồi kết thúc
cuộc "hận thù quyết thắng" mà thôi. Cũng
chính thứ lửa được Con Thiên Chúa mang từ
trời xuống này, sau khi thế gian, được
biểu hiệu qua h́nh ảnh "đại đô
Babylon" (trang 207-208), bị "hất nhào xuống
biển" (KH.18:21) là lănh vực biểu hiệu cho đức
tin (trang 117-118), tức là bị mănh lực của đức
tin khống chế (x.1Gn.5:4), th́ theo như sách Khải
Huyền cho biết, nó "sẽ bị thiêu đốt
bằng lửa" (KH.18:8) nữa, hay nói cách khác, tội
lỗi của thế gian sẽ được T́nh Yêu Thiên
Chúa thứ tha.
Phải chăng v́ thế mà "đại
đô Babylon" cũng như "các đạo quân Gog và
Magog" (KH.20:9) do con rồng "triệu tập"
(KH.20:8) từ thành phần loài người sa đọa
chạy theo đam mê trong việc làm tôi cho thế gian
(x.Lc.15:15), như đă được diễn giải
ở trang 244, chỉ bị (đúng hơn là được)
thiêu đốt trong lửa hay bằng lửa mà thôi
(x.KH.18:8'20:9), chứ không bị hất nhào xuống hồ
lửa diêm sinh bừng cháy như ma qủi, cùng với con
mănh thú và tên tiên tri giả (x.KH.19:20'20:10) là những ǵ
trực xuất từ hay trực hệ với "con
khổng long, tức con cựu xà, đó là ma qủi hay
Satan, tên cám dỗ cả thế gian" (KH.12:9).
Thế nhưng, tại sao Thiên Chúa
vô cùng toàn thiện, toàn tri và toàn năng lại có thể đang
tâm dựng nên một thành phần mà Ngài biết
trước và biết chắc là "thà nó đừng sinh
ra th́ hơn" (Mt.26:24)?
Chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng khôn
ngoan thượng trí không c̣n cách nào khác hay sao để,
một đàng cứ việc thử thách loài tạo
vật được dựng nên có tự do, mang tính cách
thần linh như Ngài, đó là thần thiêng và phàm nhân, song
cuối cùng vẫn có thể làm cho cả hai thành phần
này nhận biết Ngài và được đời đời
tham hưởng Ngài, mà không ngộ nhận là do công lao
của họ??
Nếu thực sự "Ngài
muốn cho mọi người nhận biết chân lư và được
cứu rỗi" (1Tim.2:4), mà thực tế lại để
mặc cho một số, cả thần thiêng lẫn phàm
nhân, bị đời đời vô phúc trầm luân trong
"cái chết lần thứ hai" (KH.20:14'21:8), th́
không phải là Thiên Chúa không hoàn toàn làm chủ được
cuộc "hận thù quyết thắng" rồi hay
sao???
Những vấn nạn phải
nhận là hết sức khúc mắc vừa được
nêu ra ở trên đều thuộc về "những
mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cor.4:1). Tuy nhiên, ở
đây, v́ cuộc "hận thù quyết thắng"
mới được kết thúc trong cuộc chung thẩm
mà thôi, như "mầu nhiệm Chúa Kitô" (Êph.3:4'
Col.4:3) nơi cuộc Tử Giá chứ chưa đến
hồi Phục Sinh th́ chưa hoàn toàn hạ màn. Bởi
thế mà "những mầu nhiệm của Thiên Chúa, đó
là Đức Kitô, nơi Người tàng ẩn mọi kho
tàng khôn ngoan và kiến thức" (Col.2:2), cũng chưa hoàn
toàn được sáng tỏ. "Những mầu nhiêm
của Thiên Chúa" chỉ thực sự được
sáng tỏ khi Ngài chính thức tuyên bố: "Này đây, Ta
canh tân lại tất cả mọi sự" (KH.21:5),
như sẽ được tŕnh bày trong phần
tổng kết "Maria: Mùa Xuân Muôn Thuở", ở
tiết mục "Mùa Xuân Trời Đất
Mới".
Phụ bản 7
Bí Mật La Salette
Biến cố La Salette xẩy ra vào
ngày Thứ Bảy 19-9-1846, (áp lễ Mẹ Bảy Sự
hồi ấy), tại giáo phận Grenoble nước Pháp,
với 2 thiếu niên mục đồng làm thuê, một nam
và một nữ. Thiếu nam là Maximin Giraud, 11 tuổi, măi đến
năm 15 tuổi mới thuộc kinh Lạy Cha. Thiếu
nữ là Melanie Mathieu, 14 tuổi, măi đến năm 17
tuổi mới được xưng tội rước
lễ lần đầu.
Sau
biến cố La Salette 5 năm, Đức Piô IX ngỏ ư
muốn biết về Bí Mật La Salette. Hai sứ giả
La Salette đồng ư viết, miễn là những ǵ được
viết ra phải để trong bao thư dán kín và phải
được đưa trực tiếp đến
tận tay Đức Thánh Cha. Maximin viết ra bốn hay
năm đoạn về bí mật Mẹ Maria nói với
riêng em, xong trưóc Melanie. Đang khi viết phần Bí
Mật La Salette của ḿnh, Melanie đă phải hỏi
về ư nghĩa của chữ "vô ngộ" và cách
viết chữ "phản Kitô".
Hai cha
Rousselot và Gerin đă đem hai phong thư dán kín đến
tận Toà Thánh Rôma năm 1851. Ngày 16-11-1851, một văn
thư của Toà Thánh đă chính thức công nhận
biến cố La Salette:
"Tự nó mang tất cả
những dấu hiệu chân thật... V́ thế, để
tỏ ra ḷng tri ân sống động của chúng ta đối
với Thiên Chúa cũng như với Trinh Nữ Maria vinh
hiển, Ta ban phép tôn sùng Đức Mẹ La Salette".
Tháng 5
năm sau, chính giám mục giáo phận Bruilla, vị đă
thừa lệnh Đức Piô IX phác văn thư công
nhận biến cố La Salette, đă lên núi La Salette để
đặt viên đá đầu tiên tại chính nơi
Mẹ Maria hiện ra, khởi công xây cất một đại
vương cung thánh đường.
Năm
1946, kỷ niệm bách chu niên biến cố La Salette, Đức
Piô XII đă gọi biến cố này là:
"Một buổi chiều
hồng phúc của ngày 19-9-1846, khi Đức Mẹ Châu
Lệ đến để van nài con cái ḿnh dứt khoát đi
vào con đường trở về với Người Con
Thần Linh của Mẹ và vào con đường đền
tạ tội lỗi rất nhiều đă xúc phạm đến
Đấng Uy Linh Cao Cả".
Biến cố La Salette được chính Melanie
quyết định viết ra năm 1878, trong đó dĩ
nhiên có phần chính yếu là Bí Mật La Salette. Tập
viết ngắn gọn này được phát hành đầu
tiên ở Lecce ngày 15-11-1879, với phép in của giám mục
Zola. Sau đó, nó lại được tái bản ở Lyon
năm 1904, trước khi Melanie chết mấy tháng.
Trong tập
tường thuật nhỏ này, bắt đầu phần
Bí Mật La Salette mà Mẹ Maria tỏ cho riêng ḿnh biết,
Melanie đă dẫn nhập như sau:
"Đoạn, hướng
về phía tôi, Rât Thánh Trinh Nữ đă nói với tôi
bằng tiếng Pháp. Đây là bí mật trọn vẹn
như Mẹ đă tỏ cho tôi biết"
Melanie con, điều Mẹ sắp sửa nói với con lúc
này đây sẽ không phải là một điều bí
mật măi măi. Con có thể phổ biến chung vào năm
1858.
Những linh mục, những thừa tác viên của Con
Mẹ, những linh mục mà, với cuộc sống
tội lỗi, với việc cử hành những mầu
nhiệm thánh cách bất kính và khô đạo, với ḷng ham
mê tiền bạc, ḷng yêu chuộng danh vọng cũng
như khoái lạc, những vị linh mục đă trở
nên những hố phân ô uế. Phải, những linh
mục đang đ̣i báo oán và sự báo oán đang treo trên đầu
các vị. Khốn thay những linh mục và những tâm
hồn tận hiến cho Thiên Chúa, Đấng đang đóng
đanh Con Mẹ một lần nữa v́ sự bất
trung và đời sống tội lỗi của họ!
Tội lỗi của những tâm hồn tận hiến
cho Thiên Chúa đă kêu đến tận Trời và đ̣i báo oán,
nay sự báo oán đă kề ngay bên họ, v́ không c̣n ai kêu
xin ḷng thương xót và sự thứ tha cho chúng sinh
nữa. Không c̣n những linh hồn quảng đại,
không c̣n ai xứng đáng dâng hy lễ vô t́ tích lên Đấng
Hằng Sống cho thế giới nữa.
Thiên Chúa sẽ ra tay không thể nào lường được.
Khốn thay những dân cư trên mặt đất! Thiên
Chúa sẽ trút xuống trên họ cơn phẫn nộ
của Ngài, và không ai sẽ có thể thoát khỏi bao nhiêu
khốn khổ dồn dập.
Những vị làm đầu, những nhà lănh đạo
dân Thiên Chúa đă bỏ bê việc cầu nguyện và
khổ hạnh, ma qủi đă làm cho trí tuệ của
họ mù tối. Họ trở nên những v́ tinh tú lang thang
sẽ bị lôi kéo làm cho hư đi bởi cái đuôi
của ma qủi xưa kia. Thiên Chúa sẽ cho phép con cựu
xà gây chia rẽ giữa những người chủ
trị trong mỗi xă hội và nơi từng gia đ́nh.
Những đớn đau về thể lư cũng như
luân lư phải gánh chịu. Thiên Chúa sẽ bỏ mặc
kệ loài người và sẽ gửi đến trên 35
năm hết h́nh phạt này đến h́nh phạt khác.
Xă hội của con người đang ở vào cận điểm
của những cực h́nh khủng khiếp nhất và
của những biến cố trầm trọng nhất.
Nhân loại cứ chờ mà bị cai trị bằng
chiếc roi sắt và uống chén thịnh nộ của
Thiên Chúa.
Mong vị đại diện Con của Mẹ là Đức
Giáo Hoàng Piô IX đừng bao giờ ra khỏi Rôma nữa
sau năm 1859' tuy nhiên, cần ngài phải vững mạnh
và nổi vượt, phải dùng khí giới Đức Tin
và Đức Mến mà chiến đấu. Mẹ sẽ
ở bên cạnh ngài. Ngài cần để ư đề pḥng
Napoleon: ông ta là người hai mặt, và khi ông ta muốn
vừa làm Giáo Hoàng vừa làm hoàng đế, Thiên Chúa sẽ
sớm cho ông biết tay. Là một tay trí lược, ông
luôn muốn vươn ḿnh lên cao hơn nữa, song sẽ
ngă trên lưỡi gươm mà ông dùng để áp lực
dân chúng phải nổi dậy.
Nước Ư sẽ bị phạt v́ tham vọng của
ḿnh trong việc muốn trút bỏ cái ách của Chúa các Chúa.
Ư sẽ bị rơi vào cuộc chiến tranh' máu sẽ lan
tràn khắp mọi phiá. Các thánh đường sẽ
bị đóng kín và bỏ hoang. Các linh mục và các ḍng tu
sẽ bị lùng giết và bị chết thảm
thương. Một số sẽ chối bỏ Đức
Tin, và một số lớn linh mục cũng như
những phần tử của các ḍng tu sẽ phá giới
cuộc sống tu tŕ chân thật' trong số đó có
cả các giám mục.
Đức Giáo Hoàng hăy coi chừng các kẻ làm những phép
lạ. V́ đă đến lúc mà những sự lạ lùng
nhất sẽ xẩy ra trên mặt đất cũng
như trên không trung.
Vào năm 1864, Luxiphe cùng với một số lớn
qủi ma sẽ được thả ra khỏi hoả
ngục' chúng sẽ dần dần làm mất Đức Tin
ngay cả nơi thành phần tận hiến cho Thiên Chúa.
Chúng sẽ làm cho họ mù quáng đến nỗi, trừ
khi nhận được một ơn đặc
biệt, những người này sẽ mặc lấy tinh
thần của những thần dữ trong hoả
ngục' một số ḍng tu sẽ mất Đức Tin và
nhiều linh hồn. ở đó sẽ hư đi.
Những sách xấu sẽ lan tràn khắp mặt đất
và thần tối tăm sẽ lan truyền khắp nơi
một sự lơ là chểnh mảng toàn diện trong
tất cả những ǵ liên quan đến việc
phụng tôn Thiên Chúa. Chúng sẽ có quyền hạn lớn
lao thuộc lănh vực tự nhiên: sẽ có những nhà
thờ được xây lên để phụng tôn
những thần dữ này. Người ta sẽ được
mang từ nơi này đến nơi kia bởi những
thần dữ này, kể cả các linh mục, v́ họ
sẽ không c̣n được hướng dẫn bởi
tinh thần Phúc Âm, một tinh thần khiêm hạ, bác ái và
nhiệt thành cho vinh quang của Thiên Chúa. Có những
trường hợp, kẻ chết và kẻ lành được
làm cho hồi sinh. (Nói như vậy có nghĩa là, những
kẻ chết này sẽ mặc thể thức của các linh
hồn lành thánh đang sống trên mặt đất để
dẫn dụ con người càng đi sai đường
lạc lối' những kẻ chết được
hồi sinh kiểu này chẳng ai khác ngoài ma qủi mặc
h́nh thức này, sẽ rao giảng một Phúc Âm khác trái
ngược với Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô chân thật,
chối bỏ sự hiện hữu của Nước
Trời' cũng có thể nói đó là những linh hồn
bị hư trầm. Tất cả những linh hồn này
sẽ xuất hiện như gắn liền với thân
thể của họ). Đoạn ở trong ngoặc trên đây
đă được Melanie đính chính một chút trong
bức thư gửi cho cha Combe ngày 7-10-1899, trong đó có hai
đoạn đáng chú ư như sau: (Nói như vậy có
nghĩa là vào những ngày ấy... có một số
người hư hỏng hiến ḿnh cho việc tôn sùng ma
qủi của tà thuật... Những sự việc xẩy
ra dị thường này có thể được coi
như những kiểu cách chiêu linh, cùng với những
việc có tính cách tà ma qủi thuật linh thiêng, những
thứ mà, một ngày nào đó, mới biết được
là do chủ mưu của Hội Tam Điểm
hoạch định theo tinh thần Luxiphe".
Khắp nơi sẽ có những sự lạ lùng phi
thường, khi mà Đức Tin đă bị lu mờ đi
dần dần và ánh sáng giả tạo soi dẫn
người ta. Khốn thay những vị Hoàng Gia của
Giáo Hội chỉ nghĩ đến giầu có chất
chồng trên giầu có để bảo vệ quyền
lực và để ngênh ngang trị v́.
Vị Đại Diện Con Mẹ sẽ chịu nhiều
đau khổ, v́ Giáo Hội sẽ chịu đựng
bắt bớ lớn lao một thời, thời tối
tăm và Giáo Hội sẽ chứng kiến một cuộc
khủng hoảng rùng rợn.
Đức Tin chân thật đối với Chúa đang
bị quên lăng mất rồi, mỗi người sẽ
muốn làm chủ lấy ḿnh và nắm đầu
người cùng lứa với ḿnh, họ sẽ hủy
bỏ dân quyền cũng như giáo quyền, tất
cả mọi trật tự và mọi công chính sẽ
bị chà đạp dưới chân, chỉ c̣n tàn sát,
giận hờn, ghen ghét, dối trá và nổi loạn là được
thấy, không c̣n ǵ là t́nh yêu tổ quốc và gia đ́nh.
Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ.
Mẹ sẽ ở với ngài cho đến cùng để
nhận lấy sự hy sinh của ngài.
Kẻ phá hoại sẽ cố sát ngài một đôi lần
để hăm hại và rút ngắn những ngày của ngài
lại, thế nhưng, ngài và đấng kế vị ngài
sẽ không được thấy cuộc chiến
thắng của Giáo Hội Chúa.
Tất cả những chính quyền dân sự sẽ có cùng
một dự định giống nhau, đó là hủy
bỏ và loại trừ mọi nguyên tắc đạo
giáo, thay vào đó là khuynh hướng duy vật, vô thần,
duy linh và lầm lỗi đủ thứ.
Vào năm 1865 sẽ có một cuộc tục hoá các nơi
thánh. Trong các viện tu, những bông hoa của Giáo Hội
sẽ tàn lụi và ma qủi sẽ làm vua cai trị mọi
con tim. Những ai mang trách nhiệm ở các viện tu hăy cẩn
trọng đối với những người mà họ
phải nhận vào, v́ ma qủi sẽ vận dụng
tất cả những mưu mô gian trá của hắn để
đưa các tội nhân vào tu viện, v́ sự lệch
lạc và v́ t́nh yêu khoái cảm nhục dục sẽ lan tràn
khắp nơi trên mặt đất.
Pháp, Ư, Tây Ban Nha và Anh quốc sẽ có chiến tranh. Máu
sẽ chảy ngoài đường. Dân Pháp sẽ đánh
nhau với dân Pháp, dân Ư sẽ đánh nhau với dân Ư.
Một cuộc chiến chung tiếp theo sau đó sẽ
rùng rợn. Có lúc Thiên Chúa sẽ không c̣n nhớ đến
Pháp và Ư nữa, v́ Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô đă bị quên lăng.
Tội nhân sẽ lợi dụng tất cả những đường
lối gian ác của ḿnh. Con người sẽ chém giết
lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, ngay cả trong nhà của ḿnh.
Ngay nhát gươm đầu tiên vụt xuống, những
núi non và tất cả thiên nhiên sẽ run sợ trong kinh hoàng,
v́ những lộn xộn và tội ác của con
người đă đâm thấu tận đỉnh các
tầng trời. Balê sẽ bị thiêu rụi và Marseille
sẽ bị ch́m ngập. Một số thành phố sẽ
bị rung xập và bị nuốt mất bởi những
trận động đất. Dân chúng sẽ tin rằng
tất cả đều bị tiêu tan. Không ǵ c̣n thấy ngoài
sát nhân, không ǵ c̣n nghe ngoài sự va chạm của những đối
chọi và lời lộng ngôn.
Kẻ công chính sẽ chịu khổ đau thật
nhiều. Những lời cầu nguyện của họ,
những việc đền tội của họ và
nước mắt của họ sẽ dâng lên đến
Trời, toàn thể dân Thiên Chúa sẽ kêu cầu ơn tha
thứ và t́nh thương cũng như sẽ van xin Mẹ
hộ phù và cầu bầu cho. Bấy giờ Chúa Giêsu Kitô,
theo tác động của sự công chính và t́nh thương
cao cả của Người, sẽ truyền lệnh cho
các thiên thần phạt chết hết các kẻ thù của
Người. Đột nhiên, những kẻ bắt bớ
Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô và tất cả những kẻ hiến
ḿnh cho tội lỗi sẽ chết và trái đất
sẽ trở nên như hoang địa. Lúc ấy hoà b́nh
sẽ được tạo lập, và con người
sẽ được làm hoà với Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô
sẽ được phụng sự, tôn thờ và tôn vinh. Đức
Ái sẽ nở hoa khắp nơi. Những vua mới
sẽ là cánh tay phải của một Hội Thánh vững
mạnh, khiêm hạ, đạo hạnh trong sự nghèo nàn
nhưng noi theo gương các nhân đức của Chúa
Giêsu Kitô. Phúc Âm sẽ được loan truyền khắp
nơi và loài người sẽ tiến triển rất
nhiều trong Đức Tin, v́ sẽ có một sự
hiệp nhất giữa các công nhân của Chúa Giêsu Kitô và con
người sẽ biết kính sợ Thiên Chúa.
Hoà b́nh giữa con người sẽ ngắn hạn. Hai
mươi lăm năm của những thu hoạch phong
phú sẽ làm cho họ quên đi tội lỗi của con
người là căn nguyên của tất cả mọi
rắc rối trên trái đất này.
Tên tiền hô của Phản Kitô cùng với các quân đoàn
triệu tập từ một số nước sẽ
chiến đấu chống lại Chúa Kitô đích
thực, Đấng Cứu Thế duy nhất của
thế giới. Hắn sẽ làm máu đổ nhiều và
muốn tận diệt sự tôn thờ Thiên Chúa để
tự làm cho ḿnh được chiêm ngưỡng giống
như một vị Thiên Chúa.
Trái đất sẽ bị điêu linh bởi đủ
mọi thứ tai ương (thêm vào với dịch
hạch và đói khát lan rộng). Sẽ có một chuỗi
chiến tranh cho đến trận chiến cuối cùng là
trận đánh giữa 10 vua của tên Phản Kitô, mà
tất cả có cùng một dự tính và sẽ là những
nhà lănh đạo duy nhất trên thế giới. Dân chúng
sẽ không nghĩ ǵ khác ngoài vui chơi xả láng. Tội
nhân sẽ đâm đầu vào đủ mọi thứ
tội lỗi. Nhưng con cái của Hội Thánh, con cái tin
tưởng vào Mẹ, những môn đệ đích
thực của Mẹ, họ sẽ lớn lên trong t́nh yêu
của họ đối với Thiên Chúa và trong tất
cả mọi nhân đức mà Mẹ qúi trọng. Phúc cho
những linh hồn khiêm hạ được Thánh Linh
hướng dẫn! Mẹ sẽ chiến đấu bên
họ cho đến khi họ tiến tới sự tṛn đầy
của năm tháng.
Thiên nhiên đang kêu cầu sự báo oán v́ tội lỗi
của con người, và nó run rẩy sợ hăi ở điều
xẩy đến cho thế giới nhuốm tội ác. Hăy
run sợ, hỡi trái đất, và các con là những
người tuyên bố chính ḿnh là môn đệ của Chúa
Giêsu Kitô mà trong thâm tâm chỉ tôn thờ ḿnh, hăy run sợ v́
Thiên Chúa sẽ trao ngươi cho kẻ thù của Ngài,
bởi những nơi thánh đang ở trong một t́nh
trạng băng hoại. Nhiều viện tu không c̣n là nhà
của Thiên Chúa nữa, mà là những mảnh đất
gặm nhấm của Asmodeas và đồng bọn của
hắn. Trong thời gian này tên Phản Kitô sẽ được
sinh ra bởi một nữ tu Do Thái, một trinh nữ
giả, người sẽ thông đồng với con
cựu xà, sư phụ của sự ô uế, cha hắn
sẽ là B (chữ B này có thể là Bishop, giám mục). Vừa
chào đời, hắn đă phun lời lộng ngôn'
hắn có răng, tóm lại, hắn sẽ là ma qủi
nhập thể. Hắn sẽ kêu gào khủng khiếp,
hắn sẽ làm nhiều sự lạ, hắn sẽ
chẳng ăn ǵ ngoài sự dơ bẩn. Hắn sẽ có
anh em, những kẻ không phải là qủi nhập thể
như hắn mà là con cái của sự dữ. Vào năm 12
tuổi, chúng sẽ lôi kéo chú ư quần chúng bằng
những thắng lợi lừng lẫy mà chúng đạt được'
mỗi tên trong chúng sẽ sớm lănh đạo các quân đoàn,
được trợ lực bởi các quân đoàn hoả
ngục.
Thời tiết sẽ bị đảo lộn, trái đất
sẽ không c̣n nẩy nở ǵ hơn ngoài trái xấu,
những tinh tú sẽ di động bất thường,
mặt trăng sẽ chỉ phản chiếu một
thứ ánh sáng đỏ mầu bạc nhược.
Nước và lửa sẽ làm cho bầu trái đất
những cuộc rung chuyển và những trận động
đất kinh hồn nuốt tiêu đi các núi đồi và
thành phố v.v.
Rôma sẽ mất Đức Tin và nên toá của tên Phản
Kitô.
Đám qủi trên không trung hợp với tên Phản Kitô
sẽ thực hiện những sự lạ lùng cả
thể trên mặt đất và trên không trung, và con
người sẽ càng ngày càng hư hỏng. Thiên Chúa
sẽ ǵn giữ những tôi trung của Ngài và thành phần
thiện chí. Phúc Âm sẽ được rao giảng
khắp nơi, và mọi dân nước sẽ nhận
biết chân lư.
Mẹ khẩn thiết kêu gọi trái đất. Mẹ kêu
gọi những môn đệ đích thực của Thiên
Chúa hằng sống là Đấng ngự trên Trời'
Mẹ kêu gọi những môn đồ của Chúa Kitô làm
người, Vị Cứu Tinh chân thật duy nhất
của con người' Mẹ kêu gọi con cái của
Mẹ, những tín hữu đích thực, những
người đă hiến ḿnh cho Mẹ để Mẹ
dẫn dắt họ đến cùng Con Thần Linh của
Mẹ, những người mà Mẹ bồng trên tay, nói
cách khác, những người sống theo tinh thần
của Mẹ. Sau hết, Mẹ kêu gọi Những Tông Đồ
Cuối Thời, những môn đệ trung kiên của Chúa
Giêsu Kitô, những người sống trong sự khinh chê
thế gian và chính ḿnh, trong nghèo khó và khiêm hạ, trong lănh đạm
và thầm lặng, trong nguyện cầu và khổ chế,
trong tinh tuyền và thần hiệp, trong khổ đau và
ẩn khuất trước mắt thế gian. Đây là lúc
họ xuất thân làm cho thế gian tràn đầy ánh sáng.
Hăy đi mà tỏ ḿnh ra là các con cái dễ thương
nhất của Mẹ. Mẹ ở bên các con và ở trong
các con, nếu Đức Tin của các con là ánh sáng soi cho các
con trong những ngày bất hạnh này. Chớ ǵ ḷng
nhiệt thành của các con làm cho các con đói khát vinh quang và
vinh dự của Chúa Giêsu Kitô. Hăy chiến đấu,
hỡi các con cái của ánh sáng, các con là thành phần ít
ỏi. V́ đây là thời điểm của mọi
thời điểm, tận cùng của mọi cùng tận.
Giáo Hội sẽ ở trong t́nh trạng khuất mờ,
thế giới sẽ ở trong t́nh trạng hoảng
sợ. Thế nhưng bấy giờ Ênóc và Êlia sẽ đến,
đầy Thần Linh Thiên Chúa. Các vị sẽ dùng
quyền năng Thiên Chúa mà rao giảng, và con người
thiện tâm sẽ tin vào Thiên Chúa, nhiều linh hồn
sẽ được an ủi. Họ sẽ đạt được
những bước tiến cao nhờ nhân đức
của Thánh Linh và sẽ lên án những mưu mô qủi
quyệt của tên Phản Kitô. Khốn thay những dân
cư trên mặt đất! Sẽ có những trận
chiến đẫm máu và đói khát, dịch tễ và
những bệnh truyền nhiễm.. Sẽ có mưa đá
rùng rợn toàn là những thú vật. Sẽ có những
trận sấm sét làm rung chuyển cả những thành
phố, các trận động đất sẽ nuốt
trửng những xứ sở. Trên không trung có những
tiếng phát ra. Con người sẽ đập đầu
vào tường t́m kiếm cái chết, trong khi cái chết
lại là một cực h́nh của họ. Máu sẽ lênh
láng mọi phiá. Ai sẽ là kẻ thắng cuộc nếu
Thiên Chúa không rút ngắn cuộc thử thách lại? Tất
cả máu lệ và nguyện cầu của kẻ lành làm
Thiên Chúa nương tay. Ênóc và Êlia sẽ bị giết. Rôma
vô đạo sẽ biến mất. Lửa Trời sẽ đổ
xuống thiêu hủy 3 thành phố. Tất cả vũ
trụ sẽ bị một trận kinh hoàng và nhiều
người sẽ để ḿnh bị lừa đảo
lầm lạc v́ họ không tôn thờ Chúa Kitô đích
thực là Đấng ở giữa họ. Thời điểm
là đây' mặt trời đang mờ tối' chỉ c̣n Đức
Tin là sống sót.
Đây là thời điểm' hố thẳm đang mở
ra. Kià Vua các Vua tăm tối, kià Con Mănh Thú với bọn
lâu la của hắn, xưng ḿnh là Đấng Cứu
Thế. Hắn sẽ nghênh ngang vươn ḿnh trên không
trung, lên đến tận Trời. Hắn sẽ bị
hạ bởi hơi thở của Thánh Tổng Thần
Micae. Hắn sẽ rơi xuống, và trái đất,
nơi sẽ xẫy ra một loạt biến hoá liên
tục trong ba ngày, sẽ mở toang những bụng
lửa của ḿnh ra để đời đời
hắn cùng với bọn bộ hạ sẽ bị d́m
ngập trong hoả ngục muôn kiếp. Đoạn
nước và lửa sẽ tẩy rửa trái đất
và sẽ tiêu hủy tất cả những công tŕnh h́nh thành
do sự kiêu ngạo của con người, rồi tất
cả sẽ được đổi mói. Thiên Chúa sẽ được
phụng thờ và tôn vinh.
Maria Thánh Giá, Lễ Vật Hy Sinh
của Chúa Giêsu
Melanie Calvat, Nữ Mục Đồng
La Salette
Castellamare, 21-11-1878.
"Tôi rất sảng khoái thấy trước 'Bí Mật'
này sẽ lan truyền hết sức rộng răi' nó càng được
lan truyền càng khơi dậy một sự sợ hăi
bổ ích và nhiều người trở về cùng Thiên
Chúa. Mẹ Maria sẽ chúc lành cho những ai cộng tác vào
việc phổ biến, như Mẹ nhất định
muốn bí mật này được loan truyền cho
tất cả mọi người".
(Trích đoạn thư của
Melanie liên quan đến Bí Mật La Salette)
Phụ chú:
Tất cả những chi tiết về Bí Mật La Salette
và đoạn thư trên của Melanie, một trong hai
sứ giả La Salette, được trích dịch từ
bản Anh Ngữ: "Apparition of the Blessed Virgin on the Mountain
of La Salette the 19th of September, 1846". Bản dịch Anh
Ngữ này được chuyển ngữ hoàn toàn theo nguyên
bản gốc Pháp Ngữ, bản Pháp Ngữ đầu
tiên do Lecce xuất bản năm 1879 với phép in của
giám mục Zola.
Phụ Bản 8
Phong Trào Thời Mới
(New Age Movement)
Theo Bí Mật La Salette: "Vào
năm 1864, Luxiphe cùng với một số lớn qủi ma
sẽ được thả ra khỏi hỏa
ngục..." Chắc chắn bọn qủi cuối
thời này sẽ không hiện h́nh để dụ hoặc
người ta, mà hoạt động bằng "những
sự dối trá" (Gn.8:44) của chúng nơi con
người và qua con người. Chân tướng của
chúng, vào ngay năm 1864, đă bị Đức Piô IX
vạch trần ở Bản Liệt Kê 80 Sai Lầm, mà điều
1 là bộ mặt Phiếm Thần (Pantheísm), chủ
trương của Phong Trào Thời Mới:
"Không có một hữu thể
tối cao nào toàn tri và quan pḥng hết mọi sự tách
biệt khỏi vũ trụ này cả, Thiên Chúa cũng
giống như bản chất tự nhiên của các sự
vật, bởi thế cũng bị chuyển biến'
Thiên Chúa thực sự được tạo nên cả
ở nơi con người cũng như ở nơi
thế gian, nên tất cả mọi sự đều là
Thiên Chúa và có cùng một bản thể của Thiên Chúa' Thiên
Chúa cũng chỉ là một sự vật giống như
thế gian, do đó mà tinh thần cũng giống như
vật chất, tất yếu cũng giống như
tự do, sự thật cũng giống như giả
tạo, sự thiện cũng giống như sự
dữ, và công chính cũng giống như bất chính".
(RCH trang 992)
Trên thực tế, Phong Trào
Thời Mới cho rằng v́ không ư thức nên người
ta mới tách khỏi thần tính của ḿnh mà thôi. Để
nhận thức được thần tính của ḿnh,
họ cần ư thức lại, thế thôi. Họ ư
thức lại thần tính của ḿnh bằng những
phương pháp luyện tập tâm linh, như Thiền,
Yoga v.v. Sau khi cảm nghiệm được thần tính
của ḿnh, cá thể của con người sẽ được
biến đổi, nhờ đó thế giới cũng
sẽ được biến đổi, và nhân loại
sẽ bước vào một Thời Mới.
Đối với Phong Trào Thời
Mới, Đức Kitô đúng là Thiên Chúa, song Người
cũng chỉ là Thiên Chúa như mọi người thôi.
Sở dĩ Đức Kitô là Thiên Chúa hơn mọi
người là v́ Người nhận thức được
thần tính của ḿnh, do đó, Người có thể
thể hiện quyền năng thần linh của ḿnh.
Bởi thế, Phong Trào Thời Mới coi Chúa Kitô chỉ là
một nguyên lư thần linh (a divine principle) và là một
nhiệt lực (an energy force) hay là một tâm thức Kitô (a
Christ-conciousness) mà mọi người có thể đạt được:
"Đức Kitô không phải là
Thiên Chúa, Người không đến như Thiên Chúa.
Người là hóa thân một phương diện của
Thiên Chúa. Người là linh hồn hóa thân của mọi
tạo vật. Người hiện thân cho năng lực
là phương diện tâm thức của Hữu Thể mà
chúng ta gọi là Thiên Chúa.
"Đức Kitô là ǵ? Trong
tất cả mọi sự sống đều có một
tính chất, một năng lực, như đặc tính
căn bản của ḿnh, mạnh mẽ phát triển, mănh
liệt diễn xuất thần tính. Nó là một tính
chất có thể nói là bất cứ thể thức nào bao
bọc lấy tôi, tôi sẽ không bị cầm giữ
bởi nó như là một tù nhân, song tôi sẽ biến đổi
nó thành một thể thức vĩ đại hơn. Tôi
sẽ sử dụng tất cả cuộc sống,
tất cả kinh nghiệm như những bước
tiến đến những mạc khải thần linh cao
cả hơn. Đức Kitô là một lực tiến hóa
nền tảng trong tạo vật.
"Cuộc hạ sinh thật
sự của Đức Kitô không phải là cuộc hạ
sinh của Giêsu. Giêsu là một cá nhân tự ḿnh phải tái
diễn lại những giai đoạn nào đó.
Người theo mẫu thức của Phật Tổ đă
thiết định... Chính Người cũng phải được
đánh thức dậy. Trong tâm thức của ḿnh,
Người đă phải chạm đến mẫu
thức
Kitô"
(SIIR trang 93-94)
Về các phương pháp luyện
tập tâm linh được Phong Trào Thời Mới
sử dụng để giúp con người nhờ đó đạt
đến thần tính của ḿnh, ĐTC Gioan-Phaolô II đă
lên tiếng trong cuốn Bước Qua Ngưỡng
Cửa Hy Vọng của Ngài như sau:
"Không phải là không thích
hợp để cảnh giác những Kitô hữu say mê đón
nhận một số những tư tưởng nơi
những truyền thống tôn giáo Viễn Đông -
chẳng hạn như những kỹ thuật và những
phương pháp suy niệm cũng như thực hành
khổ chế... Một vấn đề khác là việc
trở lại với những tư tưởng về
chủ đạo thức cổ xưa nấp dưới
h́nh thức của cái gọi là Thời Mới. Chúng ta không
thể tự dối ḿnh cho rằng cái Thời Mới này
sẽ làm canh tân đạo giáo (phụ chú: xem tông huấn
Redemptoris Missio của ĐTC Gioan-Phaolô II ban hành ngày 7-12-1990,
số 38, về ư tứ "canh tân đạo giáo"
ở đây). Nó chỉ là một đường lối
mới trong việc thực hành khuynh hướng chủ đạo
thức (gnosticism), một thái độ có tinh thần
muốn t́m hiểu sâu xa về Thiên Chúa lại làm lệch đi
Lời của Ngài bằng những lời của nhân
loại. Khuynh hướng chủ đạo thức này
không bao giờ hoàn toàn tách biệt khỏi lănh giới
của Kitô giáo. Trái lại, nó luôn luôn hiện hữu sát cánh
với Kitô giáo, đôi khi mặc lấy thể thức
của một trào lưu triết lư, song thường mang
những đặc tính của một tôn giáo, hay một
dị giáo tàng h́nh dù không bị điểm mặt,
tương khắc với tất cả những ǵ chính
yếu của Kitô
giáo"
(CTH trang 89-90)
(Xin coi tiếp phụ bản 10:
"Chúa Kitô Tái Giáng?", trang 415, chi tiết liên quan đến
vị Tôn Sư và Chúa của Phong Trào Thời Mới)