1) CẢI THIỆN: tại sao?
Thời gian đă trọn. Nước
Thiên Chúa đă gần.
HĂY
CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG và
tin vào Phúc Âm (Marcô
Tại sao chúng ta phải
cải thiện đời sống?
Chúng
ta phải cải thiện v́ 3 lư do chính yếu sau đây:
-
Lư do thứ nhất: v́ chúng ta là kẻ có
tội nhưng muốn được đời đời
cứu rỗi.
-
Lư do thứ hai: v́ hạt giống Ơn Thánh
trong chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái.
-
Lư do thứ ba: v́ Chúa là Thiên Chúa của chúng ta đă bị xúc
phạm nhiều lắm rồi.
1.- Chúng ta cần phải
cải thiện:
V̀ CHÚNG TA LÀ KẺ CÓ TỘI NHƯNG
MUỐN ĐƯỢC ĐỜI ĐỜI CỨU RỖI.
Thật vậy, nếu chúng
ta thánh thiện và trọn hảo như các thánh ở trên trời,
chúng ta đâu cần phải cải thiện; việc
cải thiện đâu có nghĩa ǵ đối với chúng
ta nữa.
Thế nhưng, ai trong chúng ta
dám cho ḿnh là đă nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng
trọn lành?
Thánh Gioan viết trong thư thứ
nhất, đoạn 1, câu 10 như sau: Nếu chúng ta nói ḿnh
không bao giờ phạm tội là chúng ta cho Người (Chúa
Kitô) là gian trá và lời của Người không có ở
trong chúng ta. Bởi thế, c̣n sống trên đời
là chúng ta c̣n phải liên lỉ cải thiện đời
sống.
Nếu
không cải thiện đời sống, chắc chắn, theo tự nhiên, chúng ta sẽ không được
cứu rỗi và sẽ hư đi đời đời.
Chúa
Giêsu, qua Phúc Âm thánh Mathêu, đoạn 11, từ câu 20 đến
câu 24, đă chẳng khẳng định điều này hay
sao, khi Người mạnh mẽ cảnh áo
thẳng vào mặt những thành thị
mà Người đă làm nhiều phép lạ nhất song họ
vẫn không chịu cải hối: 'Khốn cho ngươi,
hỡi Chorazin! Cũng khốn cả cho ngươi, hỡi
Theo
kinh nghiệm bản thân của một người Kitô
hữu, chúng ta cũng cảm thấy được rằng,
nếu không cải thiện đời sống, chúng ta khó ḷng
mà
được rỗi linh hồn.
Không
phải hay sao, theo tự nhiên, về tâm
trí, con người mà bản tính đă vướng mắc
nguyên tội của chúng ta vốn có xu hướng yêu tối
tăm hơn ánh sáng (Gioan
Thế
nhưng, đối với những người vô thần
hay những người Kitô hữu lún sâu trong vũng tội,
đến nỗi hầu như đă hoàn toàn tuyệt vọng
cho hần rỗi đời đời của ḿnh, th́
cải thiện không cần thiết và chẳng có nghĩa
ǵ đối với họ cả. Người
vô thần th́ cho chết là hết, nên phải chiếm cho bằng
được thiên đường trần gian này bằng
bất cứ giá nào, kẻo uổng. Họ cho tôn giáo
là mê hoặc, cho những người đi tu là ngu dại nhất trên
đời.
Người
Kitô hữu tuyệt vọng th́ lại có thể cho rằng
làm ǵ có hoả ngục, nên không sợ bị trầm luân đời
đời, do đó, không cần phải cải thiện
làm ǵ cho mệt; dù có hoả ngục đi nữa, người
ta xuống hoả ngục nhiều th́ ḿnh xuống cũng đâu
có sao, một khi ḿnh không ở vào thành phần được
tiền định cứu rỗi th́ cho dù có cải thiện
chăng nữa, cuối cùng cũng hư đi như thường,
vậy th́ tội ǵ mà không hưởng thụ cho đă ở
đời này.
Phần
chúng ta, một khi c̣n cố gắng và tha thiết với việc
cải thiện đời sống là chúng ta c̣n tin ở đời
sau. Nói cách khác, Thiên Chúa và đời sau vô cùng bất
tận, theo Đức Tin dạy, đă là mục tiêu thu hút
nỗ lực cải thiện đời sống của chúng
ta là kẻ có tội, để chúng ta xứng đáng được
đời đời tham hưởng sự sống
Thần Linh vô cùng viên măn với Đấng toàn chân, toàn thiện
và toàn mỹ.
Nếu những người
vô thần hay Kitô hữu tuyệt vọng có lư của họ
để tự miễn trừ việc cải thiện
cho họ, th́ chúng ta cũng tự cảm nghiệm
thấy, ngay trong thâm tâm của ḿnh, một động
lực bắt chúng ta phải cải thiện, không cải
thiện không được. Động lực đó là, về luân lư,
chúng ta cảm thấy áy náy và cắn rứt mỗi lần
làm sai trái điều ǵ, đến nỗi, nếu không
cải thiện sẽ không được yên tâm mà
sống, do đó, về tâm linh, chúng ta luôn cảm thấy, đúng
như thánh Augustinô đă diễn tả tâm trạng của
ngài, cũng là tâm trạng chung của loài người, trong
cuốn Tự Thú, là: Chúa đă dựng nên con v́ Chúa và cho Chúa,
nên ḷng con khắc khoải cho tới khi đạt được
Chúa.
Lư
do thứ nhất của việc cải thiện là như
thế: V́ chúng ta là kẻ có tội nhưng muốn được
đời đời cứu rỗi.
Điển h́nh là trường
hợp của người trộm lành. Người trộm lành đă
tỏ ra nhận biết tội lỗi của ḿnh và đă
muốn được cứu rỗi, qua câu của anh ta nói
với người trộm dữ và lời kêu xin của
anh ta thưa với Chúa Giêsu: Mày không kính sợ Thiên Chúa
hả, mày không thấy là mày cũng bị cùng một án
phạt như vậy (như Chúa Giêsu) hay sao? Chúng
ḿnh dầu sao cũng xứng đáng bị như vậy
mà. Chúng ḿnh chẳng qua chỉ là trả giá cho
những việc chúng ḿnh làm thôi, c̣n người này có làm điều
ǵ nên tội đâu... Hỡi Giêsu, xin nhớ đến
tôi khi Ngài lên Nước của Ngài (Luca
2.- Chúng ta cần phải
cải thiện:
V̀ HẠT GIỐNG ƠN THÁNH TRONG CHÚNG TA CẦN
PHẢI TRỔ SINH HOA TRÁI.
Thật
vậy, để được sống đời đời,
con người phải có hay phải được tham
dự vào Sự Sống Thần Linh của chính Thiên Chúa.
Sự
Sống Thần Linh này, thật ra, đă được ban
cho con người ngay từ ban đầu, khi con người
mới được dựng nên trong t́nh trạng công chính
nguyên thủy, không biết đến tội lỗi là ǵ.
Thế nhưng, con người đă mất Sự
Sống Thần Linh này nơi nguyên tội, khi hai nguyên tổ
của ḿnh bị Con Cựu Xà là Satan sát hại ngay từ đầu
bằng nọc độc dối trá của nó (xem Gioan
8:44). Để phục hồi Sự Sống Thần Linh
này cho con người, Thiên Chúa đă yêu thế gian đến
nỗi đă ban Con Một của Ngài, để ai tin vào
Con sẽ không phải chết nhưng được
sống đời đời (Gioan 3:16).
Những kẻ tin và chịu
phép rửa tội sẽ được cứu rỗi (Marcô
V́
được tái sinh vào sự sống đời đời,
Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô như
thế, bản tính nhân loại bị hư đi v́ nguyên tội
của con người đă được thánh hóa trong chân
lư (Gioan 17:19), họ được mặc lấy con người
mới được dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa trong
công chính và thánh thiện chân thật (Êphêsô 4:24) và con người
của họ trở nên đền thờ của Thiên Chúa
(1Côrintô
Điều
làm cho con người vượt qua sự chết mà vào
sự sống (Gioan
Thế
nhưng, trên thực tế, Ơn Thánh như một
Hạt Giống Thần Linh vô cùng viên măn cần phải được
lớn lên thành cây vĩ đại làm nơi cho chim trời
ẩn náu (xem Mathêu
(Mathêu
26:41) của chúng ta, do đó, sẽ lệ thuộc vào chúng
ta trong việc phát triển và trổ sinh hoa trái.
Nếu
Hạt Giống Thần Linh trong chúng ta là Ơn Thánh không
phát triển và trổ sinh hoa trái, th́, cho dù chúng ta không làm
mất Ơn Thánh bởi tội trọng chúng ta phạm đi
nữa, Ơn Thánh không bị mất đó cũng chẳng
khác nào nén bạc bị đem chôn, vẫn c̣n nguyên,
mà vẫn bị luận phạt như thường
(xem Mathêu 25:14-30; Luca 19:12-27). Và, v́ mang Ơn Thánh đem chôn đi
như thế, cuộc sống Kitô hữu của chúng ta mà
bản chất là truyền giáo trở thành vô nghĩa, và chính
chúng ta là Kitô hữu như muối ướp thế gian cũng
sẽ, như Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm thánh Mathêu, đoạn 5,
câu 13: chỉ đáng đổ ra ngoài cho người ta
giầy đạp dưới chân.
Kinh nghiệm sống đạo
thực tế đă cho chúng ta thấy rằng chúng ta
nhiều khi giống như cây vả xum xuê lá cành mà không sinh
hoa kết trái ǵ hết, đáng bị Chúa nguyền rủa
cho chết đi (xem Mathêu
Để
biết Hạt Giống Thần Linh trong chúng ta là Ơn
Thánh có thực sự phát triển trong chúng ta hay không, có
thể căn cứ vào chính hoa trái được trổ
sinh bởi Ơn Thánh.
Ơn Thánh là ǵ, nếu không
phải là Sự Sống Thiên Chúa ở nơi chúng ta. Bởi thế,
nếu chúng ta làm mất Ơn Thánh là chúng ta làm mất
Sự Sống Thiên Chúa. Sự Sống
Thiên Chúa ở nơi chúng ta là ǵ, nếu không phải là T́nh
Yêu Thiên Chúa ở nơi chúng ta. Bởi
thế, làm mất Ơn Thánh cũng là làm mất Ơn Nghĩa
Chúa, tức làm mất T́nh Yêu Thiên Chúa ở nơi chúng ta.
V́ Ơn Thánh nơi chúng ta là T́nh Yêu Thiên Chúa
nên, hoa trái của Ơn Thánh là tất cả những ǵ được
phát xuất từ T́nh Yêu này.
Hoa Trái của Ơn Thánh được
phát xuất bởi T́nh Yêu Thiên Chúa ở trong chúng ta là ǵ,
nếu không phải là ḷng tín phục Thiên Chúa và ḷng yêu thương
tha nhân.
Hoa
trái của Ơn Thánh là ḷng tín phục Thiên Chúa ở chỗ:
Ai yêu Thày th́ sẽ giữ lời Thày (Gioan
Vậy, nếu chúng ta chưa
giữ lời Chúa, luật Chúa, chưa thương yêu anh em
ḿnh, th́ cứ nắm chắc là Ơn Thánh chưa phát
triển và chưa sinh hoa kết quả ǵ trong chúng ta
hết, cần chúng ta cải thiện hơn nữa.
Đó
là lư do thứ hai cần phải cải thiện: V́ Hạt
Giống Ơn Thánh trong chúng ta cần phải trổ sinh
hoa trái.
Điển h́nh là trường
hợp của Thánh Phêrô tông đồ. Sau khi chối Chúa Giêsu 3
lần ngài đă ăn năn khóc lóc
thảm thiết (Luca 22:62). Bù đắp lại, ngài cũng
đă tuyên xưng một cách cương quyết con yêu Thày
(Gioan 21: 15-17) 3 lần trước khi lănh nhận sứ mệnh
Thày trao cho, một sứ mệnh mà ngài sẽ phải hy
sinh chết với Thày (Mathêu 26:35) để làm chứng cho
Thày, Đấng đă đến "cho chiên được
sống và sống sung măn hơn (Gioan 10:10).
3.- Chúng ta cần phải
cải thiện:
V̀ CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA ĐĂ BỊ XÚC
PHẠM NHIỀU LẮM RỒI.
Lư
do thứ ba này là lư do mà Mẹ Maria đă đưa ra vào
lần hiện ra cuối cùng tại Fatima, 13/10/1917: Đừng
xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa,
v́ Ngài đă bị xúc phạm nhiều lắm rồi.
Lư
do thứ ba này cũng là lời nói cuối cùng của Đức
Mẹ ở
V́
con người cứ xúc phạm đến Thiên Chúa mà
nhiều linh hồn đă bị sa hỏa
ngục và thế giới lâm cảnh chiến tranh tàn
khốc. Về việc các linh hồn bị sa hỏa ngục,
Đức Mẹ đă cho 3 Thiếu Nhi Fatima thị kiến
thấy hỏa ngục và các linh hồn bị hư đi đời
đời ở trong đó vào lần hiện ra thứ ba, 13/7/1917.
Về
việc thế giới lâm cảnh chiến tranh, Giaxinta đă
nói trong thời gian chịu bệnh trước khi về
trời: Đức Mẹ đă tiên báo là sẽ có nhiều
chiến tranh và bất ḥa xảy ra trên thế giới.
Chiến tranh là h́nh phạt gây ra bởi tội lỗi của
con người. Nếu loài người
biết cải thiện đời sống, Thiên Chúa sẽ
tha cho thế giới, bằng không, h́nh phạt sẽ
xẩy ra v.v.
Để
cứu chung con cái loài người cho khỏi h́nh phạt ở
đời này là chiến tranh và án phạt hỏa ngục đời
sau vô cùng, Đức Mẹ đă van nài con người
cải thiện đời sống qua lời kêu gọi
hết sức bi thương và khẩn cấp "đừng
xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa,
v́ Ngài đă bị xúc phạm nhiếu lắm rồi".
Qua lời kêu gọi này,
về h́nh thức của câu nói, Đức Mẹ đă kêu
gọi tất cả mọi người cải thiện đời
sống chứ không riêng ǵ thành phần Kitô hữu. Bởi v́, Đức Mẹ đă
không nói: Đừng xúc phạm đến Thiên Chúa là Chúa của
chúng ta nữa, chứ không phải là Cha của chúng ta
nữa. Nếu tự mỗi người không cải thiện
th́ họ khó ḷng, nếu không muốn nói là không thể, được
cứu rỗi, nghĩa là sẽ phải sa
hỏa ngục. Nếu ai cũng không chịu cải thiện
hay không đủ số người chịu cải thiện,
để dập tắt đi cái ng̣i chiến tranh được
phát xuất từ chính ḷng con người, th́, dù Thiên Chúa có
không ra tay trừng phạt con người, tự con người
cũng sẽ đâm chém nhau mà tự hủy diệt
bằng những cuộc đại chiến.
Cũng
qua lời kêu gọi này, về tinh thần của câu nói, Đức
Mẹ h́nh như kêu gọi riêng thành phần con cái của
Mẹ, trong đó đi tiên phong là 3 Thiếu Nhi Fatima,
Giaxinta (7 tuổi), Phanxicô (9 tuổi) và Lucia (10 tuổi).
Mẹ kêu gọi con cái Mẹ hăy v́ yêu mến Thiên Chúa mà đừng
xúc phạm đến Ngài nữa, nghĩa là, v́ Thiên Chúa đă
bị xúc phạm nhiều lắm rồi mà các con hăy
cải thiện đời sống đi, đừng
xúc phạm đến Ngài nữa.
Ba
Thiếu Nhi Fatima, dù c̣n nhỏ, nhưng, h́nh như đă
hiểu được thâm ư này của Đức Mẹ,
các em đă tự động biết cũng như
nhắc nhở nhau v́ yêu Chúa mà tránh làm điều mất ḷng
Chúa.
Chẳng
hạn, có một lần Phanxicô đă tâm sự với Lucia
như thế này: Em yêu Chúa quá đi. Nhưng Ngài lại buồn
rầu quá sức v́ bao nhiêu là tội lỗi! Chúng ta không bao
giờ được tái phạm bất cứ một tội
nào nữa ... Rồi, vào trước lần Đức
Mẹ hiện ra ngày 13/7/1917, thấy Lucia bị cám dỗ hồ
nghi việc Đức Mẹ hiện ra và quyết định
không đi với ḿnh đến nơi Đức Mẹ hiện
ra nữa, như Đức Mẹ đă xin các em hăy đến
với Mẹ như vậy 6 lần liền, vào đúng
ngày 13 mỗi tháng, Phanxicô nói với Lucia: Thiên Chúa đă buồn
rầu v́ bao tội lỗi đủ rồi, bây giờ chị
lại không đi th́ Ngài càng buồn hơn nữa (Hồi
Kư Lucia 4).
Theo
tâm lư tự nhiên, khi yêu ai, chúng ta sẽ không bao giờ dám
làm mất ḷng người ḿnh yêu, trái lại, c̣n t́m hết
cách để làm đẹp
ḷng người ḿnh yêu, cho dù có phải
bỏ tính mê nết xấu của ḿnh, kể cả bỏ
những ǵ vô tội vạ chỉ hợp với ḿnh mà không
hợp
với hay không ưng ư người
ḿnh yêu. Cũng thế, là Kitô hữu được Thiên Chúa
yêu thương và ở cùng qua Ơn Thánh Ngài ban cho khi tôi
lănh nhận Bí Tích Rửa Tội tái sinh, nhờ đó, tôi được
tham dự vào Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa, th́,
động lực chính yếu thôi thúc tôi phải cải
thiện đời sống, đó là v́ tôi không muốn làm mất
ḷng Đấng đă không tha cho Con Một Ḿnh lại trao nộp
Người v́ tất cả chúng ta (Rôma
Và, cũng chỉ có ḷng yêu
mến mới làm cho con người cải thiện
thực sự, cải thiện hết ḿnh, cải thiện
nhanh chóng và cải thiện cho đến cùng. Thêm vào đó, cũng chỉ
có ḷng yêu mến mới có thể thiêu hủy hết mọi
tội lỗi của họ, dù hằng hà sa
số như cát biển hay chất cao ngất tầng mây
như sao trời.
Đó
là lư do thứ ba cần phải cải thiện: v́ Thiên Chúa
là Chúa của chúng ta đă bị xúc phạm nhiều lắm
rồi.
Điển
h́nh là trường hợp của người phụ
nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành mà Phúc Âm thánh
Luca đoạn 7, câu 37 đă đề cập tới. Thế
mà, v́ yêu Chúa Giêsu, qua việc bất chấp mọi chê cười,
trước mặt người biệt phái, chị đă
qùi xuống ngay chân của Chúa Giêsu, lấy nước
mắt rửa chân cho Ngài, lấy tóc ḿnh lau khô, rồi hôn chân
Ngài và xức dầu thơm cho chân của Ngài (xem Luca
hết
sức hài ḷng với chị qua lời Ngài nói cùng ông Simon,
người chủ nhà thuộc thành phàn biệt phái đă mới
Ngài đến dự tiệc: "Tôi cho ông biết, đó
là lư do tại sao chị đă được tha nhiều tội
lỗi, v́ chị đă yêu nhiều" (Luca 8:47).
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL,
"Sứ Điệp Fatima - Màng Lưới Cứu Rỗi trong Mùa Biển Động Cuối Thời" xuất bản 11/1993
Tác phẩm về Thánh Mẫu Fatima thứ 2/20 tác phẩm