Trong chuyến tông du Ba Tây để khai mạc biến cố Đệ Ngũ Tổng Nghị Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu La Tinh và Caribbean ngày 13/5/2007 ở Ba Tây, Vị Giáo Hoàng xuất thân từ một quốc gia gây ra hai Thế Chiến I và II đã nhận định về tính cách sai lầm và hậu quả tai hại của hai chủ nghĩa cộng sản và tư bản liên quan tới vấn đề an sinh xã hội như thế này:
“’Thực tại’ ấy là gì? Đâu là thực? Phải chăng chỉ có các sản vật về thể lý, chỉ có các vấn đề về xã hội, kinh tế và chính trị là ‘thực tại’? Đây chính là cái sai lầm cả thể của những chủ nghĩa then chốt trong thế kỷ vừa qua, một sai lầm tai hại nhất, như chúng ta đã có thể thấy nơi những hậu quả của cả các thể chế Mát-Xít và tư bản. Chúng làm sai lạc ý niệm về thực tại, bằng cách tách nó ra khỏi thực tại nồng cốt và trọng yếu là Thiên Chúa. Bất cứ ai loại trừ Thiên Chúa ra khỏi chân trời của mình đều làm sai lầm đi ý niệm về ‘thực tại’, bởi thế, chỉ có thểđâm đầu vào những ngõ tối tăm mù mịt hay theo những chỉđạo hủy hoại mà thôi” (diễn từ khai mạc, đoạn 3, “Những Người Môn Đệ và Thừa Sai”).
“Cả chủ nghĩa tư bản và Mát-Xít đều đã hứa hẹn vạch ra con đường kiến tạo nên những cấu trúc chính đáng, và họđã tuyên bố rằng, một khi được thiết lập, những cấu trúc ấy sẽ tự mình hoạt động; họ công bố là chẳng những các cấu trúc ấy không cần đến bất cứ một thứ luân lý cá nhân nào trước đó, mà chúng còn phát động một thứ luân lý chung. Và lời hứa hẹn có tính cách ý hệ này đã cho thấy là sai lầm. Các sự kiện đã rõ ràng minh chứng điều ấy. Thể chế Mát-Xít, nơi nào được chính quyền thi hành áp dụng, chẳng những để lại một gia sản buồn thảm nơi tình trạng hủy hoại về kinh tế và môi sinh, mà còn là một thứđau thương áp bức các linh hồn nữa. Và chúng ta có thể thấy được cũng một điều như thế xẩy ra ở cả Tây Phương, nơi mà khoảng cách giầu nghèo đang liên tục gia tăng, gây ra một tình trạng suy thoái đáng lo ngại về phẩm vị con người bởi những thứ thuốc phiện, rượu chè cùng những thứảo tưởng dối trá về hạnh phúc” (cùng nguồn vừa dẫn, đoạn 4 “Để Nơi Người họ được sự sống”).
Thật vậy, thực tế cho thấy nền văn minh Tây phương càng ngày càng mất gốc vì lìa xa Thiên Chúa của Kitô giáo, như vị Giáo Hoàng xuất thân từ một nước cộng sản Ba Lan vào cuối thập niên 1970, và sau 26 năm rưỡi dẫn dắt Giáo Hội, đã để lại tác phẩm cuối cùng của mình về Âu Châu như một di chúc “Hồi Niệm và Căn Tính” cho châu lục Kitô giáo này, đã xót xa nhận định:
“Tôi muốn đề cập đặc biệt đến cái mất mát về ký ức và di sản Kitô Giáo của Châu Âu, một mất mát được đi kèm theo bởi một thứ khuynh hướng bất khả thần tri và thái độ lạnh lùng dưng dưng vềđạo nghĩa là những gì làm cho nhiều người Âu Châu cảm thấy sống thiếu gốc gác thiêng liêng và một cái gì đó như là thành phần thừa hưởng đã làm phung phí đi một gia sản được lịch sử ký thác cho họ” (Tông Huấn “Giáo Hội ở Âu Châu, đoạn 7).
Phải chăng vì thế, vì văn minh Tây phương đang bị khủng hoảng và phá sản như thế, mới xuất hiện một “nhóm lính”, biểu hiệu cho lực lượng Hồi giáo nói chung, một tôn giáo có nguồn gốc chủ trương tích cực cải cách xã hội suy đồi, cũng như cho thành phần khủng bố quá khích nói riêng, thành phần chủ trương sử dụng võ lực (trong đó ngoài súng đạn còn có cả phi đạn tầm xa, được tiêu biểu nơi mũi tên bắn tới), và thậm chí dám liều mạng ôm bom tự vận vì danh Thiên Chúa (tiêu biểu cho hình ảnh nhóm lính xuất hiện trên đỉnh núi)?
Để trả lời cho câu hỏi “Việc Hồi giáo liên kết toàn cầu có nghĩa là gì đối với Kitô Giáo?”, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, trong cuốn “Salt of The Earth” (Muối Đất), ấn bản Anh ngữ do Ignatius xuất bản năm 1997, trang 245-246, ở chương “Priorities of the Church’s Development – Những điều ưu tiên trong Việc Phát Triển của Giáo Hội”, đã nhận định:
“Việc liên kết này là một hiện tượng muôn mặt. Về một phương diện thì các yếu tố tài chính góp phần vào việc này. Quyền lực về tài chính có được nơi các quốc gia Ả Rập là một quyền lực giúp cho họ có thể xây dựng các đền thờ lớn lao khắp nơi, để bảo đảm về sự hiện diện của các cơ cấu văn hóa Hồi Giáo cùng với những điều khác đại loại như thế. Thế nhưng, chắc chắn đó không phải là một yếu tố duy nhất. Yếu tố khác nữa đó là một căn tính được gia tăng, một tâm thức mới về mình.
“Trong bối cảnh về văn hóa của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cho đến thập niên 1960, cái trổi vượt của các quốc gia Kitô Giáo về kinh tế, văn hóa, chính trị và quân sự quá lớn mạnh đến nỗi thực sựđẩy Hồi Giáo vào hạng thứ yếu, và Kitô Giáo, có thể nói, các nền văn minh theo căn gốc Kitô Giáo có thể tỏ ra mình như là một quyền lực chiến thắng trong lịch sử thế giới. Thế nhưng, vào lúc ấy lại xẩy ra một cuộc khủng hoảng đại thể về luân lý nơi thế giới Tây phương, một thế giới mang tính cách là một thế giới Kitô Giáo. Trước những tương phản sâu xa về luân lý nơi Tây phương cùng với sự bất lực nội tại của nó – một nỗi bất lực đột nhiên nghịch lại với một quyền lực mới về kinh tế của các quốc gia Ả Rập – hồn sống của Hồi Giáo đã bừng lên. Chúng tôi cũng là một nhân vật nào đó nữa chứ; chúng tôi biết được mình là ai mà; tôn giáo của chúng tôi đang vững mạnh đây; các người không còn thứ tôn giáo như thế nữa.
“Đó thực sự là cái cảm thức hôm nay nơi thế giới Hồi Giáo: ở chỗ, các quốc gia Tây phương không còn khả năng giảng dạy một sứđiệp về luân lý nữa, mà chỉ có một thứ kiến thức về kỹ thuật để cống hiến cho thế giới mà thôi. Kitô Giáo đã bị lịm tắt mất rồi; nó thực sự không còn hiện hữu như là một tôn giáo nữa; thành phần Kitô hữu không còn luân lý hay đức tin nữa; tất cả những gì còn lại đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi; chúng tôi có một thứ tôn giáo vững vàng chắc chắn.
“Bởi vậy thành phần tín đồ Hồi Giáo giờđây đã ý thức rằng thực sự Hồi Giáo cuối cùng trở thành một tôn giáo cường tráng hơn, và họ có một cái gì đó để nói với thế giới, thực sự họ là một lực lượng về tôn giáo chính yếu cho tương lai. Trước đây, sharia (luật Hồi Giáo - chú thích của người dịch) và tất cả những thứấy đã biến mất trên hiện trường ở một nghĩa nào đó; giờđây trở thành một niềm hãnh diện mới. Thế là một nhiệt tình mới, một cường độ mới về nhu cầu sống Hồi Giáo đã bừng lên. Đó là một quyền lực mạnh mẽ nơi Hồi Giáo: Chúng tôi có một sứđiệp về luân lý đã từng hiện hữu mà không bị lũng đoạn từ hồi các vị tiên tri, và chúng tôi sẽ nói cho thế giới biết cách sống sứđiệp này, trong khi Kitô Giáo chắc chắc không thể nào làm nổi. Dĩ nhiên là cờđã đến tay chúng tôi nhờở quyền lực nội tại này của Hồi Giáo, một thứ quyền lực thậm chí thu hút cả những lãnh vực về hàn lâm nữa”.
Thực tế đã hiển nhiên cho thấy thành phần Kitô hữu đang bị bách hại và sát hại rất nhiều ở thế giới Hồi giáo. Thậm chí cả vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Công giáo cũng bị một tín đồ Hồi giáo người Thổ Nhĩ Kỳ là Ali Agca mưu sát (hụt), (khi đang mặc chiếc áo choàng trắng, đúng như trong thị kiến của phần ba Bí Mật Fatima), tại ngay cung lòng của thế giới Công Giáo là thành Vatican ngày 13/5/1981. Thế giới nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng đã tỏ ra rất hồi hộp về chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI vào những ngày 28/11 đến 1/12/2006, một chuyến tông du đã bị nhóm khủng bố quốc tế Al Qaeda lên tiếng hăm dọa ra tay; bởi đó, chính bản than người viết này, bấy giờ, rất lo rằng vị giám mục mặc áo trắng bị chết thực sự bởi vừa đạn và tên (phi đạn tầm xa) có thể sẽ là vị Giáo Hoàng đã (vô ý dám) nói động tới Hồi giáo trong bài diễn văn của ngài ở Đại Học Đường Regensburg ngày 12/9/2006 trong chuyến tông du Bavaria Đức quốc của ngài trước đó. Nếu Bí Mật Fatima phần 3 quả thực là những gì đã xẩy ra và ứng nghiệm, thì vị giáo hoàng bị ám sát chết thật không thể không xẩy ra cho một vị nào đó trong tương lai.