Chính vì thế giới không thể nào tự cứu được mình, trái lại, càng văn minh càng bạo loạn, mà Giáo Hội Công giáo nói chung và thành phần thiểu số Kitô hữu đích thực của Chúa Kitô nói riêng mới được sai đến để trở thành một lực lượng cứu nguy phần rỗi của nhân loại, bằng chính chứng từ tử đạo của mình. Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort), từ đầu thế kỷ 18, đã tiên báo về sự xuất hiện của thành phần này trong tác phẩm Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính của ngài, ở đoạn 58 và 59 như sau:
“Họ sẽ là những vị tông đồđích thực của những thời buổi sau này, thành phần mà Chúa các Đạo Binh sẽ ban cho họ lời nói và sức mạnh để họ thực hiện những điều kỳ diệu và vinh thắng tước đoạt các chiến lợi phẩm từ tay quân thù của Người...” (đoạn 58).
“Họ sẽ là thành phần môn đệđích thực của Chúa Giêsu Kitô, bước theo gót chân nghèo hèn, khiêm hạ, bị thế gian khinh chê, yêu thương bác ái của Người; họ giảng dạy con đường hẹp của Thiên Chúa bằng sự thật nguyên vẹn của Thiên Chúa theo Phúc Âm thánh hảo, chứ không theo những tâm niệm của thế gian... Họ sẽ ngậm nơi miệng của mình thanh gươm hai lưỡi Lời Thiên Chúa. Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộđức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả sẽ phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của người vô đạo, vương quốc của kẻ tôn thờ ngẫu tượng và vương quốc của Tín Đồ Hồi Giáo” (đoạn 59).
Như đã suy luận, ba vương quốc sẽ bị Vương Quốc của Thiên Chúa, qua đạo binh dàn trận được Mẹ Maria là “Đức Bà Thắng Trận” – “Đức Mẹ Mân Côi” ở Fatima, huấn luyện đây, (được Thánh Long Mộng Phố nói tới và được người dịch in đậm trên đây), có thể được hiểu theo thứ tự bại trận trước hết là cộng sản (“vô đạo”), như lịch sử cho thấy quả thực đã xẩy ra từ cuối thế kỷ 20, rồi tới tư bản (“tôn thờ ngẫu tượng”), như lịch sử cũng cho thấy đang đi đến chỗ tự diệt bằng những cuộc tàn sát sự sống, và sau hết mới tới vương quốc liên quan tới “tín đồ Hồi giáo”. Có thể văn minh Tây phương cho dù có mạnh về chính trị, quân sự và kinh tế cũng sẽ bị văn minh Hồi giáo được Đấng Quan Phòng Thần Linh sử dụng để thanh tẩy thế giới Kitô giáo, một thế giới văn minh đang quay cuồng tự diệt.
Thật vậy, những gì vị giáo hoàng này đã nhận định về loài người liên quan đến “những hủy hoại lớn lao”, “những tàn phá vĩđại” từ năm 1978, trước khi ngài vĩnh viễn ra đi, đã biến thành một hiện tượng diễn tiến như cuộc biển động sóng thần Nam Á xẩy ra vào ngày 26/12/2004, một thiên tai đã kinh hoàng tàn sát trên 200 ngàn người cách đột ngột trong một thời gian rất ngắn. Ngài viết trong tác phẩm cuối cùng của mình, “Hồi Niệm và Căn Tính”, ở Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, ấn bản Anh ngữ, trang 11, như sau:
“Đến đây, chúng ta không thể câm lặng trước vấn đề ngày nay trở nên thảm khốc hơn bao giờ hết. Cuộc sụp đổ của các chếđộđược xây dựng trên các ý hệ sự dữ đã đi đến chỗ chấm dứt những hình thức diệt chủng vừa được đề cập tới ở những xứ sở liên hệ.
"Tuy nhiên, vẫn còn có một cuộc diệt chủng về pháp lý đối với những con người đang được cưu mang nhưng chưa vào đời. Trong trường hợp này, cuộc diệt chủng ấy được ban bố bởi những thứ quốc hội được chọn bầu theo dân chủ (biệt chú của người dịch: ởđây vị tác giả muốn nhấn mạnh đến tính cách khác biệt giữa những chếđộ chuyên chếđộc tài sắt máu trong thế kỷ 20 với thể chếđược gọi là tự do dân chủ nhân quyền), những thứ quốc hội nhân danh quan niệm tiến bộ về dân sự cho xã hội và cho toàn thể nhân loại.
"Chúng ta cũng không thể thinh lặng trước những vi phạm trầm trọng khác đến việc làm hụt hẫng đi lề luật của Thiên Chúa. Tôi đang nghĩ tới, chẳng hạn, áp lực mãnh liệt của Quốc Hội Âu Châu trong việc nhìn nhận các cuộc hợp hôn đồng tính như là một loại gia đình khác, có quyền nhận con nuôi. Thật là hợp lý, thậm chí cần phải đặt vấn đề phải chăng đó không phải là công cuộc của một thứ ý hệ sự dữ khác, có lẽ còn tinh xảo và kín đáo hơn, có ý muốn khai thác chính nhân quyền để chống lại con người và đời sống gia đình”.
Nếu bí mật Fatima phần thứ ba là một thị kiến tử đạo, (một hành động tử đạo cần phải có một đức tin cao cả mãnh liệt được tiêu biểu như leo lên được một đỉnh núi “dốc đứng”, một hành động chỉ thực hiện được bởi thành phần chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, theo Người đến bất cứ nơi nào Người đến – Rev 14:4, cho dù dưới chân cây Thập Tự Giá như ở phần cuối thị kiến Bí Mật Fatima phần ba cho thấy), bao gồm mọi thành phần Kitô hữu trong Giáo Hội, kể từ Đức Giáo Hoàng trở xuống cho tới giáo dân, thì phải chăng đó là hình ảnh về Giáo Hội vào thời điểm trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, như được Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói tới ở số 675:
“Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi hình thức lừa bịp vềđạo giáo, ở chỗ nó cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp vềđạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitô, một chủ trương ngụy kitô làm cho con người tôn vinh mình hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.
Nếu quả thực Bí Mật Fatima phần thứ ba là hình ảnh Giáo Hội trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai như thế, thì phải chăng Mẹ Maria là vị đến sửa soạn Giáo Hội trở thành diễm lệ để nghênh đón vị lang quân của Giáo Hội, như Sách Khải Huyền nói tới ở đoạn 21 câu 2. Căn cứ vào tất cả những diễn giải trên, có thể nói Biến Cố Fatima là một Dấu Chỉ Thời Đại cho thấy Dự Án Thần Linh, một dự án cứu độ Thiên Chúa muốn thực hiện vào Thời Điểm Maria, một dự án được tiết lộ tất cả trong Bí Mật Fatima.