MẸ MÂN CÔI - NGUỒN HY VỌNG CỨU ĐỘ CUỐI THỜI
Tại sao Năm Mân Côi được bế mạc vào Ngày Truyền Giáo 19/10/2003, chứ không vào cuối Tháng Mân Côi?
Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 Giáo Hội cử hành ba biến cố một lúc: Mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng (1978-2003) của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mừng Mẹ Têrêsa Calcutta được ĐTC tuyên phong lên bậc Chân Phước trong chính Ngày Giáo Hội Truyền Giáo, và bế mạc Năm Mân Côi. Không phải ngẫu nhiên Ṭa Thánh, đúng hơn, Đức Thánh Cha đương kim của chúng ta, cố ư muốn cử hành ba biến cố này cùng một lúc trong Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003.
Trước hết, về việc mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào chính ngày Giáo Hội Truyền Giáo này không phải chỉ v́ thời điểm trùng hợp, thời điểm Ngài được tuyển bầu lên làm giáo hoàng (16/10/1978) và đăng quang giáo hoàng (22/10/1978) của Ngài xẩy ra trước và sau Ngày Chúa Nhật Giáo Hội Truyền Giáo năm 2003 này. Cho dù thời điểm có trùng hợp đi nữa, th́ biến cố Đức Thánh Cha được tuyển bầu làm giáo hoàng 25 năm trước đây vào Tháng Mân Côi cũng như vào gần dịp Chúa Nhật Truyền Giáo bao giờ cũng vào Tháng Mười đă là những dấu chỉ thời đại cho thấy vị giáo hoàng sẽ dẫn đắt Giáo Hội ấy như thế nào, một vị giáo hoàng, 25 năm năm sau, người ta phải công nhận là một Vị Giáo Hoàng “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu), một Vị Giáo Hoàng chẳng những hăng say truyền giáo qua hằng trăm chuyến tông du khắp thế giới, mà c̣n sâu xa chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng đời sống cầu nguyện, đặc biệt qua Kinh Mân Côi, một kinh nguyện Ngài đă thêm 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria ngày 16/10/2002, ngày bắt đầu năm giáo triều thứ 25 của Ngài.
Sau nữa, về việc tôn phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, vị duy nhất trong 6 vị tân Á Thánh được Giáo Hội tuyên phong vào cuối năm 2003 (5 vị khác vào ngày 9/11 cùng năm) được Giáo Hội thực hiện vào chính Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo. Sự kiện này cũng dễ hiểu, v́ Mẹ Têrêsa Calcutta chẳng những là vị sáng lập hội ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái, một hội ḍng phát triển nhanh nhất lịch sử các hội ḍng của Giáo Hội từ trước đến nay, mới trong ṿng 50 năm đă phát triển đến 120 quốc gia với cả 4 ngàn nữ tu trên khắp thế giới, mà c̣n được ĐTC Gioan Phaolô II, ngay sau ngày phong chân phước cho Mẹ, 20/10/2003, đă khẳng định với phái đoàn hành hương tham dự Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ rằng “Vị tân chân phước này chắc chắn là một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”.
Thế nhưng, vấn đề lạ ở đây là Năm Mân Côi được kết thúc, được bế mạc vào chính Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, 19/10/2003, chứ không phải vào cuối Tháng Mân Côi. Như thế không phải Giáo Hội nói chung và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói riêng, vị giáo hoàng đă ban hành bức Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ mật thiết sâu xa giữa đời sống nội tâm và cầu nguyện với việc tông đồ truyền giáo hay sao!? Nếu hoạt động tông đồ truyền giáo là hoạt động của một nội tâm dồi dào thần linh và là hoạt động cần phải được phát xuất từ một cuộc sống kết hợp nguyện cầu, một t́nh trạng thật sự và hoàn toàn “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu), th́ ĐTC đă chí lư khi xác quyết trong Sứ Điệp cho Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 2003 về thời điểm bế mạc Năm Mân Côi như sau: “Nếu Ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, được xẩy ra vào đúng lúc kết thúc Năm Thánh Mẫu đặc biệt này, được sửa soạn kỹ lưỡng, nó sẽ là một động lực mạnh mẽ hơn nữa cho việc dấn thân của cộng đồng giáo hội… Tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, bằng việc hằng ngày đọc kinh Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm đời sống của Chúa Kitô, là chú trọng đến sự kiện sứ mệnh của Giáo Hội phải được bảo dưỡng trước hết bằng việc cầu nguyện” (đoạn 2).
Giáo Hội Truyền Giáo toàn cầu ngày nay phải chăng là dấu chỉ tiên báo thời thế mạt?
Ngày Giáo Hội Truyền Giáo 19/10/2003 được Giáo Hội cử hành 3 biến cố một lúc, liên quan đến ĐTC Gioan Phaolô II, đến Mẹ Têrêsa Calcutta và đến Kinh Mân Côi như thế, phải chăng là một dấu chỉ thời đại cho thấy những ǵ đă được nói đến về thời thế mạt, về cuộc chung thẩm cánh chung cũng như về tước hiệu Thánh Mẫu Mân Côi Fatima?
Đúng thế, theo Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 24 câu 12 và 14, th́ thời thế mạt hay thời tận thế sẽ được diễn tiến thứ tự như sau: trước hết là t́nh trạng ḷng người trở nên nguội lạnh; sau đó là việc truyền bá phúc âm hóa được thực hiện khắp thế giới; và sau hết mới tới cùng tận. Nguyên văn của hai câu Phúc Âm rất quan trọng này như sau: “V́ sự dữ tăng phát mà ḷng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh… Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau khi đó mới tới tận cùng”.
Đem áp dụng hai câu Phúc Âm này vào lịch sử cận đại và hiện đại của thế giới, kể từ thời Cách Mạng Kỹ Nghệ cuối thế kỷ 17, sang thời Cách Mạng Chính Trị với cuộc Cách Mạng Pháp từ cuối thế kỷ 18 năm 1789, tới thời Cách Mạng Xă Hội với việc xuất hiện chủ nghĩa Cộng Sản vào hậu bán thế kỷ 19, và thời Cách Mạng Nhân Bản với Bản Hiến Chương Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc ban hành ngày 10/12/1948, chúng ta thấy ứng nghiệm hơn bao giờ hết từng lời từng chữ sự kiện “v́ sự dữ tăng phát mà ḷng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh”. Hiện tượng thiếu ơn kêu gọi và bao viện tu bỏ trống ở các nước Âu Mỹ không phải là một chứng cớ hay sao? Nạn tu tŕ lạm dụng t́nh dục, phá giới, phản chống Giáo Hội v.v. không phải là một chứng cớ mạnh mẽ hơn nữa hay sao?? Trào lưu ly dị và phá thai nơi đời sống hôn nhân gia đ́nh cũng không cho thấy hiển nhiên tính chất ứng nghiệm của lời Chúa Giêsu tiên báo ấy hay sao???Cũng chính “v́ sự dữ tăng phát mà ḷng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh” như thế, là muối đất men bột (x Mt 5:14, 13:33), Giáo Hội Chúa Kitô, kể từ thập niên 1960, thập niên của Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), đă ư thức được sứ mệnh là bí tích cứu độ của ḿnh (x Lumen Gentium, 1), cũng như nhận thức được bản chất của ḿnh là truyền giáo (x Ad Gentes, 2), đă nỗ lực canh tân để thực sự trở thành “Ánh Sáng Muôn Dân” (nhan đề của Hiến Chế Tín Lư về Giáo Hội ban hành ngày 21/11/1964), nhờ đó mang lại “Vui Mừng và Hy Vọng” (nhan đề của Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội ban hành ngày 7/12/1965) đến cho một thế giới càng văn minh vật chất và nhân bản càng sặc mùi văn hóa sự chết. Chính vị giáo hoàng bất ngờ xuất hiện trước mắt thế giới từ một nước cộng sản Balan đă được Thiên Chúa sai đến để thực hiện chiều hướng “duc in altum” (thả lưới ở chỗ nước sâu) và “ad gentes” (cho muôn dân) này của Công Đồng Chung Vaticanô II. Chính tên hiệu giáo hoàng kép Gioan Phaolô (Gioan nội tâm; Phaolô truyền giáo) Ngài chọn đă cho thấy rơ chủ hướng dứt khoát ấy của giáo triều Ngài.
Một trong những việc Ngài làm liên quan đến vấn đề củng cố nội tâm của Giáo Hội đó là việc tổ chức Mừng Đại Năm Thánh 2000, để Giáo Hội có thể bắt đầu lại từ Chúa Kitô, bằng việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” (Redemptor Hominis, Bức Thông Điệp đầu tiên của Ngài ban hành Chúa Nhật thứ nhất 4/3/1979), Đấng “là tâm điểm của vũ trụ và lịch sử”. Một trong những thành đạt về truyền giáo Ngài được lịch sử thế giới ghi công đó là hoạt động ngoại giao mục vụ của Ngài tại Balan trong chuyến tông du thứ hai 6/1979, một chuyến tông du được các chính khách nổi tiếng trên thế giới đương thời công nhận đă ảnh hưởng tới việc sụp đổ bất ngờ cả khối Cộng Sản Đông Âu cuối năm 1989, rồi tới khối Cộng Sản Liên Bang Sô Viết vào ngày 25/12/1991. Việc truyền giáo của Ngài vẫn tiếp tục cho tới dịp mừng ngân khánh giáo hoàng của Ngài là 102 chuyến tông du khắp thế giới không phải là những ǵ đă ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên báo: “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước”. Sự kiện giáo triều của Ngài lúc bắt đầu mới có 85 quốc gia liên hệ ngoại giao với Ṭa Thánh Vatican hay với Quốc Đô Vatican nay đă lên tới 174 quốc gia, quá gấp đôi một chút, không phải là dấu chứng cho thấy ảnh hưởng truyền giáo của Ngài đă lan “tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8) như Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ trước khi về trời hay sao?
Sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” chẳng những được thực hiện bởi chính hàng giáo phẩm, bởi chính đấng thừa kế chính vị trưởng tông đồ đoàn Phêrô, mà c̣n được thực hiện bởi đặc sủng nữa, bởi một nữ tu nhỏ con, tầm thường, ốm yếu, đơn thân và vô danh tiểu tốt vào hậu bán thập niên 1940. Đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vị nữ tu sáng lập hội ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái này đă không thực hiện một đức ái trọn hảo Kitô giáo tại Calcutta, rồi tới khắp Ấn Độ từ đầu thập niên 1960, sau đó tới khắp thế giới, nhất là thế giới Cộng sản trong suốt thập niên 1980 và 1990. Cho tới khi Mẹ qua đời ngày Thứ Sáu 5/9/1997, tức sau 47 năm sau, từ khi hội ḍng của Mẹ được Giáo Hội chính thức công nhận ngày 7/10/1950, đă có hơn 4 ngàn Chư Thừa Sai Bác Ái đă có mặt tại 123 quốc gia, kể cả các nước cộng sản. Như thế, t́nh trạng “v́ sự dữ tăng phát mà ḷng mến của hầu hết trở nên nguội lạnh”, đối với Chúa cũng như đối với nhau, đă không được đền đắp và cải tiến bằng đức bác ái trọn hảo của riêng bản thân Mẹ Têrêsa cũng như của chung hội ḍng của Mẹ, một đức ái thực sự “như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” hay sao?
Tuy nhiên, nơi sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” bởi Mẹ Têrêsa Calcutta và hội ḍng Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ c̣n có một tín hiệu chung thẩm nữa. Ở chỗ, vị sáng lập hội ḍng này, qua những lần được Chúa Giêsu thầm thĩ thúc giục trong ḷng, Mẹ đă chủ trương phục vụ hết mọi thành phần nghèo khổ nhất trong các người nghèo, và Mẹ nh́n thấy nơi thành phần nghèo khổ nhất này h́nh ảnh của Chúa Kitô, đúng như những ǵ Vị Thẩm Phán Cánh Chung phán với cả thành phần chiên lẫn dê: “Khi các người làm (không làm những điều ấy) cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Ta là làm (không làm) cho chính ta” (x Mt 25:40,45). Phải chăng những việc Mẹ Têrêsa đă làm và Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ đang tiếp tục làm trên khắp thế giới cho thành phần hẹn mọn nhất được đồng hóa với Chúa Kitô đây, chẳng những “như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước” thấy, mà c̣n là những ǵ đang sửa soạn cho Chúa Kitô đến trong vinh quang đức ái, có các thần trời sống bác ái hầu cận để phán xét thế gian về ḷng mến của họ (x Mt 25:31)?
Chúng ta không biết sự kiện “Tin mừng về nước trời sẽ được loan báo khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau khi đó mới tới tận cùng” sẽ xẩy ra như thế nào. Nói cách khác, chúng ta không biết được chính xác việc loan báo tin mừng khắp thế giới của Giáo Hội đây sẽ kéo dài tới bao lâu th́ ngày cùng tháng tận mới tới. Chúng ta, cũng qua Mạc Khải, chỉ biết rằng “cho tới khi đủ số Dân Ngoại”, tức cho tới khi “toàn dân Do Thái” trở lại nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai (x Rm 11:25-26), như Sách Giáo Lư Giáo Hội Công Giáo, ở số 674, xác nhận, mới tới ngày cùng tháng tận. Như vậy, dù chúng ta cũng không biết “đủ số Dân Ngoại” là bao nhiêu, và cho tới bao giờ mới đủ, nhưng hễ bao giờ thấy “toàn dân Do Thái” nhận biết Chúa Kitô của Kitô giáo là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế của họ, th́ bấy giờ chúng ta biết rằng thời hạn của Dân Ngoại đă măn. Hoạt động truyền giáo ngay trước thời cùng tận như lời Chúa Giêsu tiên báo trong Phúc Âm Thánh Mathêu trên đây, theo nghĩa này, là để tăng lên cho “đủ số Dân Ngoại”. Tuy nhiên, nếu v́ dân Do Thái cứng ḷng mà Dân Ngoại được hưởng phúc thế nào, th́ dân Do Thái cũng được Thiên Chúa của họ xót thương khi Dân Ngoại bắt đầu quay ra phản bội Ngài, hay nói cách khác, khi con cái Giáo Hội bắt đầu chạy theo văn minh vật chất và duy nhân bản trở thành vô thần, bỏ Chúa.
Hiện tượng hay t́nh trạng Dân Ngoại hay các phần tử của Giáo Hội Chúa Kitô càng ngày càng trở thành vô thần cũng đă được Chúa Kitô tỏ cho biết khi Người nói về dụ ngôn 10 cô phù dâu, thành phần Kitô hữu môn đệ chờ mong Người tái giáng, một biến cố xẩy ra vào ngay nửa đêm, tức vào lúc mọi người đang mê ngủ, kể cả những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu theo với đèn (x Mt 25:5-6). Đúng thế, như Chúa Kitô được chôn táng trong mồ trước khi vinh hiển phục sinh thế nào, Giáo Hội cũng sẽ phải trải qua những ngày tăm tối khủng khiếp cuối cùng về đức tin như vậy, trước khi được phục sinh trong vinh quang của Chúa Kitô tái giáng. Sách Giáo Lư Công Giáo ở số 675 đă khẳng định t́nh trạng này như sau:
• “Trước khi Chúa Kitô đến lần thứ hai, Giáo Hội phải trải qua một cuộc thử thách sau cùng, một cuộc thử thách sẽ làm lay chuyển đức tin của nhiều tín hữu (x Lk 18:8; Mt 24:12). Bách hại đi kèm theo cuộc lữ hành của Giáo Hội trên mặt đất (x Lk 21:12; Jn 15:19-20) sẽ tỏ ra cho thấy ‘mầu nhiệm của gian tà’ nơi h́nh thức lừa bịp về đạo giáo, ở chỗ nĩ cống hiến con người một giải đáp trước mắt cho những vấn nạn của họ với giá họ phải trả là chối bỏ sự thật. Cái lừa bịp về đạo giáo thượng hạng là cái lừa bịp Phản Kitơ, một chủ trương ngụy kitơ làm cho con người tơn vinh ḿnh hơn Thiên Chúa và hơn Đấng Thiên Sai đến trong xác thịt của Ngài (x 2Thess 2:4-12; 1Thess 5:2-3; 2Jn 7; 1Jn 2:18,22)”.
Tuy nhiên, dù các cô phù dâu khôn ngoan có ngủ, nhưng ḷng của họ vẫn thức, v́ dầu đức cậy của họ vẫn c̣n đó, không cạn kiệt, không tuyệt vọng chán chường trước bóng dáng biệt tăm của “Đấng đang đến, đă đến và sẽ đến” (Rev 1:8), tức họ vẫn có thể đốt lên cây đèn đức tin cho nó lại bừng sáng ngọn lửa đức mến để rạng rỡ tiến ra nghênh đón chàng rể Giêsu bất chợt đến với cô dâu Giáo Hội (x Rev 21:2).
Việc cầu Kinh Mân Côi ngày nay là tác động ngưỡng vọng Chúa Kitô tái giáng!
Nếu đức mến là ngọn lửa bừng sáng ở phần bên trên ngọn đèn đức tin, một đức mến là tiêu biểu cho việc tông đồ truyền giáo và là một đức mến sáng ngời nơi việc tông đồ truyền giáo, th́ đức cậy là một chất lỏng ở dưới ḷng của cây đèn đức tin, một đức cậy tiêu biểu cho đời sống nội tâm, và là sinh lực của đời sống cầu nguyện, th́ phải chăng Kinh Mân Côi có liên hệ với thời thế mạt, v́ Kinh Mân Côi là một kinh nguyện thông dụng nhất của Kitô hữu và cho Kitô hữu, một kinh nguyện, với nội dung khi được đọc lên, chứng tỏ con người dù tội lỗi đến đâu cũng vẫn c̣n ḷng trông cậy, vẫn c̣n khao khát muốn được cứu rỗi, vẫn c̣n nhận biết Đấng Tối Cao nơi Kỳ Công Tuyệt Tác Maria của Ngài.
Đúng thế, thực tế cho thấy, dù linh hồn đă hoàn toàn bị tắt lửa đức mến, ở chỗ, bỏ cả Chúa, không c̣n xưng tội rước lễ, tức không c̣n dám đến với Chúa qua các Bí Tích Thánh, nhất là trường hợp ở trong những hoàn cảnh (như chung sống ngoại hôn) không thể hay không được xưng tội rước lễ, nhưng nếu c̣n dầu đức cậy, c̣n biết cầm lấy tràng hạt, c̣n nắm chặt lấy Kinh Mân Côi, tức c̣n nhận biết chẳng những Vị đă được “Thiên Chúa là Đấng toàn năng đă làm cho những sự trọng đại” (Lk 1:49), qua lời chúc tụng “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà…”, mà c̣n nhận biết chính bản thân vô cùng hèn yếu và khốn nạn đáng thương của ḿnh nữa, qua lời tuyên xưng van nài “cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”, chắc chắn họ vẫn c̣n kịp thời để ra đón Chúa Kitô bất cứ lúc nào Người đến. Phải chăng đó là lư do tại sao trong Biến Cố Thánh Mẫu Fatima 1917, Mẹ Maria không xưng ḿnh với một tước hiệu nào khác, như Mẹ đă xưng ḿnh ở Lộ Đức năm 1858 với tước hiệu “Ta Hoài Thai Vô Nhiễm Tội”, mà lại là tước hiệu: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi” vào lần hiện ra cuối cùng ngày 13/10/1917, một tước hiệu được kèm theo hiện tượng mặt trời biến động trên không trung làm cho 10 ngàn người chứng kiến bấy giờ tưởng tận thế xẩy ra?
Trước hết, tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến chính Đức Mẹ. Theo lịch sử Giáo Hội, nếu tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi được gắn liền với Vị Nữ Vương Thắng Trận, ở cả việc chinh phục lạc giáo, như chinh phục bè rối Albigense thời Thánh Phụ Đaminh vào thế kỷ 12, lẫn việc chiến thắng ngoại thù của Giáo Hội, như ở trận hải chiến gần Vịnh Côrintô với Hồi giáo năm 1571, những sự kiện lịch sử đă được Đức Thánh Cha Lêô nhắc đến trong Thông Điệp về Kinh Mân Côi của Ngài, Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883, th́ không c̣n thời nào như thời đại văn minh của con người ở thế kỷ 20 tới nay, một thời đại văn minh đầy lạc thuyết, với biết bao tiên tri giả xuất hiện (x Mt 24:5,11,24), được tiêu biểu và gồm tóm nơi Tân Tiến Thuyết là lạc thuyết đă bị Thánh Giáo Hoàng Piô X lên án qua Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis ban hành ngày 8/9/1907, v́ theo Ngài nó là “tổng hợp tất cả các lạc thuyết” (Thông Điệp, số 39), cũng như qua Bản Lên Án Những Sai Lầm của Tân Tiến Thuyết ban hành ngày 3/7/1907, cũng là thời đại Giáo Hội bị cả ngoại thù là các lực lượng cực đoan tôn giáo (nhất là Hồi giáo, kể cả Ấn giáo) bách hại và sát hại.
Hiện tượng mặt trời biến động ngày 13/10/1917 là một dấu chỉ thời đại cho thấy Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Trời Đất, cho thấy quyền năng vô địch của Mẹ trên vũ trụ cũng như trong lịch sử loài người diễn tiến trong vũ trụ này. Nếu mặt trời là tiêu biểu cho mặt trời công chính là Chúa Kitô th́ Mẹ Mân Côi Maria đang sửa soạn cho Vị Thẩm Phán Chung Thẩm này đến trong vinh quang vào ngày thế mạt. Ngoài ra, nếu mặt trời là trung tâm của vũ trụ, liên quan đến vận mệnh của vũ trụ nói chung và của loài người nói riêng, th́ Mẹ Mân Côi Maria, một khi làm cho mặt trời biến động như thế, Mẹ sẽ là vị nắm trong tay ḿnh vận mệnh của cả vũ trụ lẫn thế giới loài người.
Chính Thiên Chúa, Đấng “muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, một bí mật đă được Mẹ Maria tiết lộ cho 3 Thiếu Nhi Fatima biết ngày 13/7/1917, thực sự đă làm cho uy quyền Mẹ Maria được loài người nhận biết vào cuối thế kỷ 20, qua hiện tượng Ngài đă làm cho Nước Nga trở lại vào chính Lễ Giáng Sinh 25/12/1991, khi vị lănh đạo cuối cùng của Khối Liên Bang Sô Viết là Gorbachev chính thức từ chức. Tuy nhiên, hiện tượng Nước Nga tự động trở lại quyết liệt này, chỉ xẩy ra sau khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hoàn toàn đáp ứng ư Thiên Chúa muốn, như được Mẹ tỏ cho chị Lucia ngày 13/6/1929, là việc Ngài muốn ĐTC phải cùng với hàng giáo phẩm thế giới hiệp dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Tuy nhiên, tác động hiến dâng cần thiết đă được Đức Piô XII thực hiện từ ngày 31/10/1942 và 7/7/1952, rồi Đức Phaolô VI vào ngày 21/11/1964 trong Công Đồng Chung Vaticanô II, nhưng cuối cùng chỉ hoàn trọn vào ngày 25/3/1984, đúng như cách thức Thiên Chúa muốn, sau biến cố Đức Gioan Phaolô II bị ám sát vào chính ngày 13/5/1981, ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima lần đầu tiên.
Sự kiện Mẹ Maria xuất hiện liên tiếp từ đầu thế kỷ 19, và sự kiện Thiên Chúa làm cho Mẹ được nhận biết vào cuối thế kỷ 20, đă xẩy ra đúng như lời tiên báo của Thánh Long Mộng Phố trong cuốn Thành Thật Sùng Kính Mẹ Maria, ở số 49 và 54 (dưới đây), được viết từ đầu thế kỷ 18 về “những thời buổi sau này” liên quan đến việc tỏ hiện của Mẹ Maria, Đấng đă bắt đầu Thời Điểm Maria của ḿnh với Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830 với chị Thánh Catarina Labuarê, qua Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức năm 1858 với Thánh Nữ Bênađetta, đến Biến Cố Thánh Mẫu tuyệt đỉnh ở Fatima năm 1917 với 3 Thiếu Nhi Fatima, 2 em nhỏ trong 3 em bấy giờ đă được phong chân phước ngày 13/5 trong Đại Năm Thánh 2000.
• “Qua Mẹ Maria ơn cứu độ thế giới đă được mở màn thế nào th́ cũng qua Mẹ Maria nó phải được chấm dứt như thế… Vào lần đến thứ hai của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh sẽ làm cho Mẹ được nhận biết và hiện lộ, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô được nhận biết, yêu mến và phụng sự” (đoạn 49);
• “Quyền năng của Mẹ Maria trên tất cả mọi quỉ thần đặc biệt sẽ được sáng tỏ vào những thời buổi sau này, khi mà Satan sẽ giăng bẫy tấn công gót chân của Mẹ, tức là tấn công những tôi tớ khiêm hạ của Mẹ cũng như tấn công các con cái nghèo hèn của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ dấy lên để chống lại hắn” (số 54).
Nếu tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến người cầu Kinh Mân Côi, đến chính Mẹ Maria, th́ tước hiệu này c̣n liên quan cả đến chính Kinh Mân Côi nữa. Thật thế, tước hiệu “Ta là Mẹ Mân Côi” liên quan đến chính bản chất của việc cầu nguyện nói chung, nhất là của việc cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi nói riêng. Theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ở đoạn 3 của Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Ngài đă định nghĩa “việc cầu kinh Mân Côi không là ǵ khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô”.
Vậy khi trung thành cầu Kinh Mân Côi, linh hồn chẳng những tỏ ra nhận biết Thiên Chúa nơi Kỳ Công Tuyệt Tác Maria của Ngài, và nhận biết thân phận tội lỗi đáng thương của ḿnh, mà c̣n tỏ ra ngong ngóng trông đợi Chúa Kitô nữa. Thật thế, khi chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi, linh hồn không phải chỉ suy tưởng nguyên về những ǵ Người đă làm cho loài người khi Người c̣n sống trên trần gian, mà thực sự họ tỏ ra khao khát được hoàn toàn hiệp nhất nên một với Người, được trọn vẹn nên giống hệt như Người, nhất là được đời đời hợp hoan với Người trên nơi trường sinh vinh phúc, nghĩa là họ khao khát cho những ǵ Người làm được “nên trọn” (Jn 19:30), nơi bản thân họ, trên thế gian, trong lịch sử loài người, nhất là vào ngày cùng tháng tận. Có thể nói việc cầu Kinh Mân Côi chính là việc ngưỡng vọng Chúa Kitô tái giáng trong vinh quang, là việc ngưỡng vọng cho Vương Quốc của Người trị đến.
Nếu Mẹ Maria thực sự xuất hiện là để dọn đường cho Con Mẹ tái giáng, như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả xưa kia dọn đường cho Người đến với dân Do Thái lần đầu, th́ lời Mẹ kêu gọi vào ngày 13/10/1917 để hoàn toàn kết thúc Biến Cố Thánh Mẫu Fatima: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, v́ Người đă bị xúc phạm nhiều lắm rồi”, cũng là lời âm vang của sứ điệp Phúc Âm: “Thời gian đă trọn. Nước Thiên Chúa đă gần. Hăy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mk 1:15). Mẹ Maria đă và đang dọn đường cho Con Mẹ tái giáng ở chỗ Mẹ hiện ra đây đó để thức tỉnh con người, nhờ đó họ có thể tỉnh thức khi Người đến, tức để họ có thể ra nghênh đón Người. Mẹ Maria dọn đường cho Con Mẹ đến là ở chỗ đó, ở chỗ sửa soạn cho thành phần Kitô hữu, như những kẻ giúp việc ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:5), sẵn sàng cho việc Người tỏ vinh hiển của Người ra vào giờ của Người. Như thế, nếu việc cầu Kinh Mân Côi là tác động “cùng Mẹ Maria chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô” th́ việc cầu Kinh Mân Côi này cũng là tác động tỏ ra muốn nghe theo lời Mẹ căn dặn “hăy làm theo những ǵ Người bảo” để Chúa Kitô có thể tỏ vinh quang của Người ra nơi chính bản thân con người cầu Kinh Mân Côi, và qua họ trên thế gian, tức để thế gian là nơi đă được “Lời hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14) sửa soạn sẵn sàng nghênh đón “Con Người đến trong vinh quang” (Mt 25:31).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, những ngày cuối Tháng Mân Côi 2003