Các Tín Điều
Thánh Mẫu Những
tín điều về Mẹ Maria gồm có: tín điều
Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa, tín điều Mẹ Maria
Trọn Đời Đồng Trinh, tín điều Mẹ
Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, tín điều
Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn Xác, và tước
hiệu Mẹ Maria Là Mẹ
Giáo Hội. Để có một cái nh́n tổng quát và
đầy đủ các tín điều hay tước
hiệu về Mẹ Maria, xin trưng dẫn toàn bộ
giáo huấn của Giáo Hội theo thứ tự dưới
đây. Tín
điều Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa
được Công Đồng Chung Eâphêsô tuyên tín năm
431 là: “Tuyệt thông cho những ai không
tuyên xưng rằng Đấng Emmanuel thực sự là
Thiên Chúa, và bởi thế, Đức Trinh Nữ là Mẹ
của Thiên Chúa (theotokos) (v́ Mẹ đă hạ sinh Ngôi Lời
Thiên Chúa hóa thành nhục thể theo xác thịt)”. (DS
252 hay “The
Christian Faith”, edited by J. Neuner, SJ, và J. Dupuis,
SJ, revised edition, first published by Theological Publications,
trang 149) Tín
điều Mẹ Maria Trọn Đời Đồng
Trinh được Công Đồng
Latêran tuyên tín năm 649, như sau: “Khốn
cho những ai không theo các vị Nghị Phụ thánh đức
tuyên xưng một cách chân thực và xác đáng rằng Đức
Maria, trinh nguyên và vô nhiễm, là Mẹ Thiên Chúa, v́ Mẹ đă
thực sự thụ thai chính Thiên Chúa Ngôi Lời, Đấng
được Thiên Chúa Ngôi Cha hạ sinh trước các
kỳ thời, bởi Chúa Thánh Thần mà không cần đến
hạt giống loài người, và đă sinh ra Người
hoàn toàn không bị hư hại ǵ, t́nh trạng đồng
trinh của Mẹ sau khi sinh con cũng không hề bị sứt
mẻ”. (DS
503 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 166) Tín
điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội
được Đức Piô IX long trọng tuyên bố
bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ
Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để
vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và
hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn
khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo;
bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh
tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của
ḿnh, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lư
cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu
thai của ḿnh, nhờ ơn sủng cùng với đặc
ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào
công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc
loài người, đă được ǵn giữ vô
nhiễm khỏi mọi t́ vết của nguyên tội, là điều
được Thiên Chúa mạc khải, v́ thế, tất
cả mọi tín hữu đều phải mạnh
mẽ và liên lỉ tin tưởng”.
(DS
2803 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 204) Tín
điều Mẹ Maria Mông Triệu Cả Hồn Lẫn
Xác được Đức Piô XII
long trọng tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus
Deus” ngày Lễ Kính Các Thánh, 1/11/1950, như sau: “Để
tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đă ban muôn vàn
ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ
Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng
đă chiến thắng tội lỗi và sự chết, để
Người Mẹ cao cả của Người được
hiển vinh hơn, và để toàn thể Giáo Hội hân
hoan phấn khởi; bằng quyền bính của Chúa Giêsu
Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm
quyền của ḿnh, Tôi công bố, tuyên xưng và xác
nhận như là một tín điều được
Thiên Chúa mạc khải: Người Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên, sau
khi hoàn tất cuộc đời trần thế của
ḿnh, đă được mang lên hưởng vinh quang trên
trời cả thân xác lẫn linh hồn”.
(DS
3903 hay “The
Christian Faith”, như trên, trang 207) Tước
hiệu Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội
được Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố
ngay trong buổi họp Công Đồng Chung Vaticanô II để
ban hành Hiến Chế Tín Lư về Bản Chất Giáo Hội
Lumen Gentium (Aùnh Sáng Muôn Dân) vào ngày 21/11/1964, như sau: “Khi
chúng ta xét đến những liên hệ chặt chẽ
gắn bó Đức Maria và Giáo Hội, như những
mối liên hệ này đă được diễn đạt
hết sức rơ ràng trong Hiến Chế Công Đồng
này, những mối liên hệ khiến chúng ta phán
quyết, trong giây phút rất long trọng này đây, đặc
biệt rất thích đáng để làm măn nguyện một
ước vọng, một ước vọng chúng tôi bộc
lộ ở vào lúc kết thúc buổi họp cuối này,
và cũng là ước vọng của rất nhiều
vị Nghị Phụ, khẩn khoản yêu cầu là trong
Công Đồng đây, vai tṛ từ mẫu mà Đức
Thánh Trinh Nữ Maria thực hiện đối với dân
Kitô Giáo cần phải được công bố bằng
những từ ngữ rơ ràng. V́ lư do này, chúng tôi thấy
rằng, trong cuộc họp công khai này, chúng tôi phải
chính thức công bố tước hiệu mà Đức
Trinh Nữ Maria cần được tôn kính, tước
hiệu đă được đệ xin từ
nhiều nơi trong Giáo Hội hoàn vũ, và cũng là một
tước hiệu đối với chúng tôi đáng
chấp nhận và thỏa ḷng cách đặc biệt; v́ tước
hiệu này mang lại một cách xác thực tuyệt vời
vị trí hiển nhiên xứng hợp với Mẹ Thiên
Chúa trong Giáo Hội được Công Đồng này đă
công nhận. Bởi thế, để vinh danh Đức
Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng
tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội, tức
là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân
lẫn mục tử, thành phần gọi Người là
một Người Mẹ rất yêu dấu; và v́ thế
chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hăy dâng lên Mẹ
Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hăy
nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi
rất ngọt ngào này”. (trích dịch từ
“Theotokos”, by Michael O’Carroll, C.S.Sp, Michael Glazier, Inc., third revised edition, 1988, trang 251)
Nếu căn cứ vào kiểu
cách Đức Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ
Maria Là Mẹ Giáo Hội này th́ có khác ǵ với lần Đức
Piô IX công bố tín điều Mẹ Maria Đầu Thai
Vô Nhiễm Nguyên Tội và lần Đức Piô XII công
bố tín điều Mẹ Maria Lên Trời Cả Hồn
Lẫn Xác. V́ Đức Phaolô VI cũng dùng đến
quyền bính tối cao của ḿnh, chẳng những “công bố Rất Thánh Maria là
Mẹ Giáo Hội” mà c̣n “truyền
cho toàn thể Dân Kitô Giáo” phải “kính tôn” Mẹ và
“cầu nguyện” với Mẹ “bằng tên gọi
rất ngọt ngào này” nữa. Và việc Đức Phaolô
VI đă “công bố” và “truyền” làm như thế không
phải chỉ bằng một văn kiện, mà là
bằng lời nói sống động ngay trước
mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang
tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành
phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa. Nếu
“Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội” được
thẩm quyền tối cao của Giáo Hội công bố một
cách long trọng chưa từng có như thế, th́ điều
công bố này lại có thể sai lầm được
chăng, và có thể phủ nhận và không đáng tin
chăng? Do đó, “Rất Thánh Maria là Mẹ Giáo Hội”,
theo cách thức và ngôn từ công bố của Đức
Phaolô VI, cũng có thể mang một tính chất quan
trọng và thiết yếu như các Tín Điều Thánh
Mẫu chính thức khác. Bản Tuyên Xưng Đức Tin
do Thánh Bộ Phụ Trách Tín Lư Đức Tin phác họa và
phổ biến ngày 9/1/1989 cho các vị có trách nhiệm liên
quan đến các chân lư đức tin và luân lư, có đoạn
thứ hai về việc: “Tôi
phải lấy cả ư muốn lẫn trí khôn thuận phục
các giáo huấn do Giáo Hoàng hay Giám Mục Đoàn công bố
khi các ngài thực hành Huấn Quyền chính thức của
ḿnh, cho dù các ngài không có ư công bố những giáo huấn
này bằng một hành động dứt khoát” (đoạn
2, Tông Thư Motu Proprio: “Ad Tuendam Fidem” của ĐTC Gioan
Phaolô II, L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 28/1550,
15/7/1998).
Nếu
căn cứ vào đoạn thứ hai của
Bản Tuyên Xưng trên đây, th́ việc Đức Thánh
Cha Phaolô VI công bố tước hiệu Mẹ Maria Là
Mẹ Giáo Hội, một tước hiệu nói lên chính
thực tại của vai tṛ Mẹ Maria thực sự là
Mẹ của Giáo Hội, cũng là một đối tượng
của Đức Tin, như các Tín Điều Thánh
Mẫu khác.
Giáo
lư Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc,
tuy chưa được Giáo Hội chính thức long
trọng tuyên bố như các tín điều trên đây,
tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II cũng đă công nhận
và tŕnh bày vai tṛ cộng tác của Mẹ trong dự án cứu
độ của Thiên Chúa cũng như trong công cuộc cứu
chuộc của Chúa Kitô, qua bài giáo lư (trong loạt 70 bài vào
thời khoảng 6/9/1995-12/11/1997) về Mẹ, hôm Thứ
Tư ngày 9/4/1997, như sau: “Từ
ngữ ‘cộng tác viên’ áp dụng cho Mẹ Maria đ̣i có
một ư nghĩa đặc biệt. Việc các tín
hữu cộng tác trong ơn cứu chuộc xẩy ra sau
biến cố Canvê, một biến cố sinh hoa kết
trái do nỗ lực nguyện cầu và hy sinh của
họ. C̣n Mẹ Maria đă cộng tác trong chính biến
cố này và với vai tṛ làm mẹ; bởi thế,
việc cộng tác của Mẹ bao hàm toàn thể công cuộc
cứu độ của Chúa Kitô. Chỉ có một ḿnh
Mẹ đă được liên kết vào hiến tế
cứu chuộc bằng cách này, một hiến tế mang
ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Hiệp nhất với Chúa Kitô và tùy thuộc vào Người,
Mẹ đă hợp tác để chiếm lấy ơn cứu
độ cho toàn thể nhân loại. Vai tṛ làm cộng
sự viên của Đức Trinh Nữ bắt nguồn từ
thiên mẫu chức của Mẹ... Việc cộng tác đặc
thù của Mẹ Maria vào dự án cứu độ có một
ư nghĩa như thế nào? Điều này cần phải
t́m thấy nơi ư định đặc biệt của
Thiên Chúa đối với Mẹ Chúa Cứu Thế, nhân
vật mà vào hai trường hợp, một ở
tiệc cưới Cana và một ở chân Thập Giá, Chúa
Giêsu đă ngỏ lời như với một ‘Bà’
(x.Jn.2:4;19:26). Mẹ Maria đă liên kết trong công cuộc
cứu chuộc như một người đàn bà. Tạo
dựng nên con người ‘có nam có nữ’ (x.Gn.1:27), Chúa cũng
muốn đặt một Tân Evà bên cạnh một Tân
Adong trong việc cứu độ. Cha mẹ đầu
tiên của chúng ta đă chọn con đường tội
lỗi như là một cặp vợ chồng; Con Thiên Chúa
và việc cộng tác của Mẹ Người cũng có
nhau để tái thiết lập gịng giống loài người
theo phẩm giá nguyên thủy của nó... Công Đồng đă
nghĩ đến vấn đề tín lư này và nhận làm
của ḿnh khi nhấn mạnh đến việc đóng
góp của Đức Trinh Nữ chẳng những vào
việc hạ sinh Đấng Cứu Thế, mà c̣n vào
sự sống của Nhiệm Thể Người
nữa qua các thế hệ cho đến lúc ‘cánh chung’:
nơi Giáo Hội Mẹ Maria ‘đă cộng tác’ (x.Lumen
Gentium, đoạn 63)
và Mẹ đă ‘cộng tác’ trong công cuộc cứu độ
(cùng nguồn, đoạn 53)... Hơn nữa, Công Đồng
Chung Vaticanô II tŕnh bày Mẹ Maria chẳng những như
‘Mẹ của Đấng Cứu Chuộc thần linh’,
mà c̣n là ‘cộng tác viên quảng đại một cách đặc
biệt’, Mẹ ‘đă cộng tác bằng đức tuân
phục của Mẹ, bằng đức tin, đức
cậy và đức mến bừng cháy của Mẹ
trong công cuộc của Chúa Cứu Thế’. Công Đồng
c̣n nhắc lại rằng hoa trái cao qúi của việc cộng
tác này là thiên chức làm mẹ phổ quát của Mẹ:
‘V́ lư do này, Mẹ là mẹ của chúng ta theo trật
tự ân sủng’” (L’Osservatore
Romano, bản Anh Ngữ, số 16/1487,
16-4-1997, trang 7)
Đă có 500 vị giám mục, 40
vị hồng y và mấy triệu tín hữu, trong đó
có Mẹ Têrêsa Calcutta, đồng kư tên đệ tŕnh Đức
Thánh Cha để xin ngài công bố tín điều Mẹ
Maria Là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Là Đấng
Trung Gian Aân Sủng và Là Đấng Biện Hộ Cho Dân
Chúa. Nếu Biến Cố Paris và Lộ Đức liên
quan đến tín điều Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên
Tội th́ tước hiệu và tác dụng thần
năng vô địch của tước hiệu “Ta là Đức
Mẹ Mân Côi” trong Biến Cố Fatima cũng rất có
thể sẽ liên quan đến tín điều Mẹ
Maria Đồng Công Cứu Chuộc. Biết đâu
việc công bố Tín Điều Thánh Mẫu cuối cùng
này nằm ở trong Bí Mật Fatima phần thứ ba,
phần chỉ có Đức Thánh Cha được đọc,
tức phần thuộc về phần nhiệm của
riêng ngài, nên không một vị giáo hoàng nào (Gioan XXIII, Phaolô
VI và Gioan Phaolô II) sau khi xem xong đă cảm thấy
cần phải công bố nội dung của nó.
Trong năm tín điều này, hai
tín điều đầu được Giáo Hội tuyên
tín cách nhau 118 năm, c̣n ba tín điều tiếp theo
lại được thẩm quyền Giáo Hoàng, chỉ
trong thời khoảng 110 năm. Sở dĩ ba tín điều
Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác
Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội là “dấu
chỉ thời đại” cho Thời Điểm Maria là
v́, so với hai tín điều đầu, Mẹ Maria Là
Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Maria Trọn Đời Đồng
Trinh, Giáo Hội chỉ tuyên tín khi có lạc giáo mà thôi,
trong khi ba tín điều sau là do Giáo Hội tự động
“nhận biết và yêu mến Mẹ”. Chẳng hạn như tín điều
Mẹ Maria Là Mẹ Thiên Chúa được tuyên tín là v́
lạc thuyết Lưỡng Ngôi, một lạc
thuyết được khai triển thêm bởi vị thượng
phụ giáo chủ (từ năm 428)
ở Antiôkia là Nestôriô (?-450),
thành lạc thuyết Nestorianism, chủ trương
Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Kitô
(khristotokos) mà thôi, chứ không phải là Mẹ Thiên Chúa
(theotokos), v́ theo Nestoriô, Đức Kitô là một con người
được kết hợp với thần tính của
Ngôi Lời Thiên Chúa, và Ngôi Lời Thiên Chúa ở nơi Đức
Kitô “như ở trong một đền thờ”. Trường hợp tín điều
Mẹ Maria Trọn Đời Đồng Trinh cũng
thế, Giáo Hội tuyên tín vào dịp phi bác lạc
thuyết Nhất Ư (Monothelitism), một lạc thuyết
biến thiên từ lạc thuyết Nhất Tính
(Monophysitism) nơi Chúa Giêsu Kitô. Theo lạc thuyết
Nhất Tính, như Eutyches (378-454), một đan sĩ ở
Contantinôpôli đă chấp nhận và hết ḿnh ủng hộ,
chủ trương rằng nhân tính của Chúa Giêsu Kitô
bị tiêu biến trong thần tính của Người khi
hiệp nhất với thần tính, do đó, nơi Người
chỉ c̣n lại một bản tính duy nhất. C̣n theo
lạc thuyết Nhất Ư, do vị thượng phụ
giáo chủ Contantinôpôli (610-638 AD) là Sergius chủ trương,
với mục đích nhằm tái hợp các giáo hội đang
bị phân rẽ v́ lạc thuyết Nhất Tính, th́ ông công
nhận Chúa Giêsu Kitô có cả hai bản tính, thần tính và
nhân tính, tuy nhiên, ông lại cho rằng, nơi Người
chỉ có một hành động duy nhất (mono-energism) và
chỉ có một ư muốn duy nhất (monothelitism). Nếu
nơi Chúa Giêsu Kitô chỉ có một hành động và một
ư muốn duy nhất như Sergius quan niệm như
thế, th́ ông vẫn mặc nhiên cho rằng Người
chỉ có duy một bản tính chứ không phải có hai
bản tính. Trong bản phi bác lạc thuyết Nhất Ư của
Sergius này, Công Đồng Lateranô năm 649 đă dành riêng
khoản thứ 3 (trong 16 khoản), một khoản liên
quan trực tiếp đến tín điều Mẹ Maria
Trọn Đời Đồng Trinh như đă được
trích dẫn trên đây. Trong khi hai Tín Điều Thánh
Mẫu đầu tiên là tín điều Mẹ Maria Là
Mẹ Thiên Chúa và tín điều Mẹ Maria Trọn Đời
Đồng Trinh được Giáo Hội tuyên tín chỉ
v́ có trường hợp lạc thuyết để
bảo vệ Đức Tin Tông Truyền của Giáo Hội,
bằng những thành ngữ nghiêm trọng “tuyệt thông cho những ai”
hay “khốn cho những ai”,
th́ ba Tín Điều Thánh Mẫu c̣n lại là tín điều
Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria Hồn Xác
Lên Trời và Mẹ Maria Là Mẹ Giáo Hội lại được
Giáo Hội tự động công bố như chỉ để
tỏ ra “nhận biết và yêu mến Mẹ”, được
diễn tả qua các thành ngữ “để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ
Thiên Chúa”, hay “để Người
Mẹ cao cả của Người được
hiển vinh hơn” hoặc “để
vinh danh Đức Trinh Nữ”, đúng như lời
tiên đoán của thánh Louis Grignion de Montfort đă được
nhắc đến từ đầu: “Vào
lần đến lần thứ hai của Chúa Giêsu Kitô,
Mẹ Maria phải được Thánh Linh làm cho nhận
biết và tỏ hiện, để qua Mẹ, Chúa Giêsu Kitô
cũng được nhận biết, mến yêu và phục
vụï”.
Như thế, Thời Điểm
Maria, đúng như Mẹ đă tiết lộ ở Bí
Mật Fatima phần thứ hai, là thời điểm
“Thiên Chúa muốn thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, tức đối
với thành phần con cái cưng yêu của Mẹ, như
Mẹ đă nói về thân phận của riêng thiếu nhi
Lucia trong lần hiện ra thứ hai, 13/6/1917, là Thời Điểm
“Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được
nhận biết và yêu mến”. Thế nhưng, Thiên Chúa đă
“thiết lập ḷng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ Maria trên thế giới” như thế nào, và con cái
Mẹ cần phải “nhận biết và yêu mến
Mẹ” ra sao, nhất là cần phải “làm cho Mẹ được
nhận biết và yêu mến Mẹ” như thế nào? |