Khổng Long Satan Phải,
các cuộc Mẹ Maria hiện ra từ trước đến
nay, tiêu biểu nhất là ở Balê năm 1830, ở La
Salette năm 1846, ở Lộ Đức năm 1858 và ở
Fatima năm 1917, chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó
là dẫn con cái Giáo Hội nói riêng và loài người nói
chung về với Thiên Chúa, tức làm cho Ngài được
nhận biết và yêu mến nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Ngài cũng
là Con Mẹ. Lời kêu gọi cuối cùng của Mẹ để
kết thúc Biến Cố Fatima nói riêng cũng như để
đúc kết các cuộc hiện ra trước đó của
Mẹ nói chung, (có thể v́ đă được “đúc
kết” như thế mà sau các biến cố được
kể đến trên đây không c̣n một cuộc
hiện ra của Mẹ nào nữa, hay có chăng nữa cũng
chỉ lập lại sứ điệp cuối cùng này mà
thôi), đó là: “Đừng xúc phạm đến Chúa là
Thiên Chúa của chúng ta nữa, v́ Ngài đă bị xúc
phạm nhiều lắm rồi”. Đúng thế, “nhận biết”
Thiên Chúa là mục đích chính yếu của con người
sống trên trần gian này. Theo mạc khải, đó chính
là sự sống đời đời của con người
(cả ở đời này lẫn đời sau): “Sự
sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy
nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô”
(Jn.17:3). Thế nhưng, con người
nói riêng và tạo vật nói chung không thể nào tự ḿnh
có thể nhận biết
“Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn.4:24), nếu chính Ngài không
tỏ ḿnh ra cho họ. Vậy “Thiên Chúa là Thần Linh” đă
tỏ ḿnh ra cho thụ tạo của Ngài, trong đó có con
người, như thế nào, nếu không phải Ngài đă
chính thức và trọn vẹn tỏ ḿnh Ngài cho nhân
loại chúng ta qua chính Con Ngài là “Lời hóa thành nhục
thể và ở giữa chúng ta” (Jn.1:14): “T́nh yêu Thiên Chúa đă
tỏ ra nơi chúng ta là ở chỗ Ngài đă sai Con
Một Ngài đến thế gian để chúng ta nhờ
Con mà có sự sống” (1Jn.4:9). Nếu “Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đă ban Con Một ḿnh để ai tin Con th́ không
phải chết, nhưng được sự sống đời
đời” (Jn.3:16), th́ Thiên Chúa tỏ ḿnh ra, ở chỗ
“ban Con Một ḿnh” chính là để thông ban “sự
sống đời đời” cho nhân loại, tức
Thiên Chúa muốn nhân loại, qua “Con Một Ngài” nhận biết Ngài, bằng
cách “tin Con” Ngài. Và nếu “nhận biết là sự
sống đời đời” th́ việc Thiên Chúa tỏ
ḿnh ra cho con người cũng chính là việc Ngài thông ban
“sự sống đời đời” cho con người:
“Thiên Chúa đă ban cho chúng ta sự sống đời đời,
và sự sống này ở nơi Con Ngài. Ai có Con th́ có
sự sống; ai không có Con Thiên Chúa th́ không có sự
sống” (1Jn.5:11-12). V́ mục đích chính yếu Thiên
Chúa muốn dựng nên chung tạo vật và riêng con người
là để ban “sự sống đời đời”, tức
để tạo vật có thể tham dự và chung hưởng
“sự sống đời đời” của Ngài và với
Ngài, ở chỗ “nhận biết” Ngài như Ngài nhận
biết chính Ḿnh Ngài, mà Ngài đă ban cho con người khả năng để họ
có thể “nhận biết Ngài, như ư định của
Ngài trong việc tạo thành họ: “Chúng ta hăy dựng nên
con người theo h́nh ảnh chúng ta, tương tự
như chúng ta” (Gn.1:26). Như thế, con người là
tấm gương phản ảnh “Thiên Chúa vô h́nh”
(Col.1:13). Thật ra, Thiên Chúa vô cùng toàn
hảo không cần phải, như con người, soi gương
mới biết được dung nhan diện mạo của
ḿnh, nghĩa là Thiên Chúa phải làm một gương soi
là con người th́ Ngài mới biết được
ḿnh Ngài. Là Đấng Tự Hữu, tức là Đấng
không phát xuất từ hay được sinh ra bởi
một nguyên nhân ngoại tại nào khác ngoài chính ḿnh, Thiên
Chúa tự ḿnh đă có “sự sống đời đời”
và là Đấng Hằng Sống, nghĩa là Đấng
Hằng Nhận Biết Ḿnh. Nếu Thiên Chúa Hằng Sống là Hằng Biết Ḿnh như
thế, th́ nơi Ngài phải hằng
có một ư tưởng chính xác hay một h́nh ảnh
trung thực về chính Ngài, và “ư tưởng chính xác” hay
“h́nh ảnh trung thực” nơi Thiên Chúa đây c̣n là ǵ khác
hơn ngoài Lời của Ngài cũng là Con của Ngài:
“Ngay từ ban đầu đă có Lời; Lời ở
nơi Thiên Chúa” (Jn.1:1); “Người Con này là phản ánh
vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của hữu
thể Cha” (Heb.1:3). Bởi thế, Lời của
Thiên Chúa hay Con của Thiên Chúa, “được sinh ra mà
không phải tạo thành, đồng bản thể với
Chúa Cha”, theo Kinh Tin Kính của Giáo Hội Công Giáo này, chính
là “sự sống đời đời” nơi Thiên Chúa và
của Thiên Chúa Hằng Sống: “Đây là điều
chúng tôi đă loan báo cho anh em, điều đă có từ
ban đầu, điều tai chúng tôi đă nghe, điều
mắt chúng tôi đă nh́n, điều chúng tôi đă trông
thấy và tay chúng tôi đă sờ thấy, chúng tôi muốn
nói về lời sự sống. (Sự sống này đă
trở nên hữu h́nh; chúng tôi đă thấy và làm chứng
cho sự sống ấy, rồi chúng tôi loan báo cho anh em
sự sống đời đời này, một sự
sống hằng ở nơi Cha và đă trở nên hữu
h́nh cho chúng ta). Điều chúng tôi đă thấy và đă
nghe th́ chúng tôi đem loan báo cho anh em, để anh em được
chia sẻ sự sống với chúng tôi. Mối hiệp
thông này của chúng ta là được thông hiệp với
Cha và với Con Ngài là Đức Giêsu Kitô” (1Jn.1:3). Đúng vậy, chính v́ ư định
của Thiên Chúa trong việc dựng nên con người
tạo vật chúng ta “theo h́nh ảnh và tương tự
như” Ngài là để tạo vật chúng ta có thể
“thông hiệp với Cha và với Con Ngài là Đức Giêsu
Kitô” như thế, tức được “sự sống
đời đời” như Thiên Chúa và của Thiên Chúa,
hay được “nhận biết” Thiên Chúa như Ngài
nhận biết Ḿnh Ngài là chính Lời của Ngài cũng
là Con của Ngài, mà “Lời đă hóa thánh nhục thể
và ở giữa chúng ta, chúng ta đă được
thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của
Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy
ân sủng và chân lư” (Jn.1:14), đúng như Kinh Tin Kính của
Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng: “V́ loài người chúng tôi
và để cứu rỗi chúng tôi, Người đă từ
trời xuống thế”. Vâng, chỉ v́ “không ai đă từng
được thấy Thiên Chúa (mà) Chính Thiên Chúa Ngôi Con duy
nhất hằng ở nơi Cha (mới) là Đấng
tỏ Cha ra” (Jn.1:18), và cũng v́ muốn con người được
dựng nên theo h́nh ảnh Thiên Chúa có thể được
“thông hiệp với Cha và với Con Ngài là Đức Giêsu
Kitô”, mà “tới thời điểm ấn định,
Thiên Chúa đă sai Con Ngài đến, được hạ
sinh bởi một người nữ, được
hạ sinh theo lề luật, để giải cứu
khỏi lề luật những ai lụy thuộc lề
luật, nhờ đó chúng ta được hưởng
t́nh trạng làm những đứa con được thừa
nhận” (Gal.4:4-5), một mầu nhiệm thần linh, cũng
là một biến cố yêu thương, đă được
Giáo Hội Công Giáo chiêm ngưỡng và xác nhận nơi
Kinh Tin Kính của ḿnh: “Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người
đă nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria và đă làm
người”. Mầu nhiệm “Thiên Chúa Ngôi Con
duy nhất” “nhập thể trong ḷng Trinh Nữ Maria và đă
làm người” này cũng được Sách Khải
Huyền diễn tả như sau: “Trên không trung một
dấu lạ cả thể xuất hiện, đó là
một người nữ ḿnh mặc mặt trời, chân
đạp mặt trăng và đầu đội
triều thiên mười hai tinh tú. V́ người nữ đă
mang thai, nên bà kêu la đau đớn khi chuyển bụng
sinh con” (Rev.12:1-2). Tuy nhiên, ngay bên cạnh “dấu lạ
cả thể xuất hiện trên không trung” này, Sách
Khải Huyền c̣n cho biết: “Đoạn có một
dấu lạ khác cũng xuất hiện trên không trung: đó
là một con khổng long, ḿnh rực lửa, có bảy đầu
và mười sừng; bảy đầu của nó có
bảy vương miện. Đuôi của nó đă quét
một phần ba tinh tú trên trời mà hất xuống đất.
Bấy giờ con rồng đứng trước người
nữ sắp sinh con, chực sẵn để nuốt người
con của bà khi con trẻ được sinh ra”
(Rev.12:3-4). Qua thị kiến của Tông Đồ
Gioan về “dấu lạ khác cũng xuất hiện trên
không trung” đây, ngay bên cạnh “dấu lạ cả
thể” kia, đă cho thấy một cảnh hoàn toàn tương
phản nhau giữa “con khổng long” và “người
nữ”, chỉ trừ hai điểm giống nhau, ở
chỗ, cả hai đều “xuất hiện” với tính
cách là “một dấu lạ”, biểu hiệu cho những
ǵ sẽ xẩy ra song được báo trước cho
biết, và “xuất hiện” ở cùng một nơi, đó
là “trên không trung”, biểu hiệu cho thời điểm
trước chiến cuộc xẩy ra, chứ không
phải “dưới đất”, biểu hiệu cho
cả nơi và lúc cuộc chiến thực sự bùng
nổ. “Cảnh hoàn toàn tương
phản” nhau giữa “người nữ” nơi “dấu
lạ cao cả” và “con khổng long” nơi “dấu lạ
khác” được nhận thấy qua 4 điều sau đây:
Û
Điều tương
phản thứ nhất giữa hai “dấu lạ xuất
hiện trên không trung”, đó là: trong khi “người
nữ ḿnh mặc mặt trời”, h́nh ảnh biểu
hiệu cho thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức
Maria, nhân vật “xuất hiện” như rạng đông
báo hiệu “mặt trời công chính với những tia
sáng chữa lành sẽ mọc lên” (Mal.3:20) là Đức
Giêsu Kitô; th́ “con khổng long ḿnh rực lửa” hận thù,
được biểu lộ qua thái độ nó “đứng
trước người nữ sắp sinh con, chực
sẵn để nuốt người con của bà khi con
trẻ được sinh ra”. Û
Điều tương
phản thứ hai giữa hai “dấu lạ xuất
hiện trên không trung”, đó là: trong khi “người
nữ chân đạp mặt trăng”, một h́nh ảnh
biểu hiệu cho vai tṛ Mẹ Giáo Hội của Đức
Maria, một mẫu gương vừa là Trinh Nữ lănh
nhận Chúa Kitô đồng thời cũng vừa là
Mẹ hạ sinh Chúa Kitô, một mẫu gương mà Giáo
Hội, như mặt trăng hấp thụ và phản
ánh mặt trời thế nào, cũng lănh nhận ơn cứu
chuộc của Chúa Kitô là “ánh sáng thế gian” (Jn.8:12) để
“soi sáng cho tất cả mọi người trong nhà”
(Mt.5:15) nhân loại như vậy; th́ “con khổng long”
lại không có chân mà chỉ có đuôi, một cái “đuôi”
gương mù “của nó đă quét một phần ba tinh tú
trên trời mà hất xuống đất”, biểu
hiệu cho con số thần trời bị hư đi
theo nó. Û Điều tương
phản thứ ba giữa hai “dấu lạ xuất
hiện trên không trung”, đó là: trong khi “người
nữ đầu đội triều thiên mười sao
tinh tú”, một h́nh ảnh biểu hiệu cho vương
quyền Nữ Vương Thần Thánh của Đức
Maria, thành phần bao gồm cả “thần” là “12 đạo
binh thiên thần” (Mt.26:53) lẫn “thánh” là toàn thể thành
phần được cứu rỗi trong số 12 chi
tộc dân Do Thái cùng với số những người
tin vào Đức Giêsu Kitô nhờ chứng của “nhóm 12”
(Mt.10:5), “12 tông đồ” (Mt.10:2); th́ “con khổng long có
bảy đầu và mười sừng; trên bảy đầu
của nó có bảy vương miện”, là h́nh ảnh
biểu hiệu cho các chước cám dỗ của ma qủi được
tóm lại trong bảy
mối tội đầu, yếu tố vương miện
làm chủ điều khiến con người
nhiễm nguyên tội để như sừng tấn công mười
điều răn Chúa. Û Điều tương
phản thứ bốn giữa hai “dấu lạ xuất
hiện trên không trung”, đó là: trong khi “người
nữ kêu la đau đớn khi chuyển bụng sinh
con”, một h́nh ảnh biểu hiệu cho thiên chức Đồng
Công Cứu Chuộc của Đức Maria trong sứ
mệnh hạ sinh Con Mẹ “bên thập giá Chúa Giêsu”
(Jn.19:25) như “giá chuộc mọi người” (1Tim.2:6);
th́ “bấy giờ con rồng đứng trước người
nữ sắp sinh con, chực sẵn để nuốt người
con của bà khi con trẻ được sinh ra”, một
h́nh ảnh biểu hiệu cho việc “ma qủi hay Satan”
chống đối không chấp nhận (“đứng trước”)
mầu nhiệm nhập thể, cũng như âm mưu
phá hoại (“chực sẵn để nuốt”) công
cuộc cứu thế của Thiên Chúa làm người
nơi Đức Giêsu Kitô nhờ đệ nhất
tạo vật của Ngài là Trinh Nữ Maria. Phải, “con khổng long” đây,
theo Sách Khải Huyền, cũng cùng trong đoạn
về hai “dấu lạ xuất hiện trên không trung” sau đó
cho biết, đó là “con cựu xà, tức ma qủi hay
Satan, tên cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9). Thế nhưng, “Satan” đă “cám
dỗ cả thế gian” như thế nào, nếu không
phải hắn đă “cám dỗ cả thế gian” cũng
làm như hắn, trong việc “chống đối không
chấp nhận mầu nhiệm nhập thể, cũng
như âm mưu phá hoại công cuộc cứu thế của
Thiên Chúa”. Ở đây chúng ta mới có
thể hiểu được nguyên do sâu xa tại sao vào
ngày 10-12-1925, cả Mẹ Maria và Chúa Hài Đồng
hiện ra với chị Lucia ở Pontevedra nước
Tây Ban Nha để xin riêng chị cũng như chung con
cái Mẹ đền tạ hai thứ tội, đó là
tội “lộng ngôn và vô ơn”: tội “lộng ngôn” ở
tại việc “chống đối không chấp nhận
mầu nhiệm nhập thể”, và tội “vô ơn” ở
tại việc “phá hoại công cuộc cứu thế của
Thiên Chúa”. Chiến lược này của
Satan cũng được Sách Khải Huyền, ở câu
kết đoạn về hai “dấu lạ xuất
hiện trôn không trung”, đă cho biết như sau: “Uất
hận bởi việc người nữ thoát thân, con
rồng đă đi giao chiến với con cái c̣n lại của
bà, với thành phần giữ các mệnh lệnh của
Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Rev.12:17). “Thành phần giữ các mệnh
lệnh của Thiên Chúa” mà “con rồng giao chiến” đây
là ai, nếu không phải là thành phần nhận biết
Thiên Chúa, nhận biết Ngài nơi “Lời đă hóa thành
nhục thể” (Jn.1:14), Đấng đă “được
hạ sinh bởi một người nữ, được
hạ sinh theo lề luật” (Gal.4:4). “Thành phần... làm chứng cho Chúa
Giêsu” mà “con rồng giao chiến” đây không phải
chỉ là “thành phần giữ các mệnh lệnh của
Thiên Chúa”, để bù lại những tội “lộng
ngôn” phạm thượng đến Thiên Chúa làm người
nơi “Lời đă hoá thành nhục thể”, mà c̣n là thành
phần nỗ lực làm cho mọi người nhận
biết Thiên Chúa nữa, bằng đời sống chứng
nhân sống động đích thực của ḿnh, để
bù lại những tội “vô ơn” loài người
xử với “Đấng không tiếc song đă phó
nộp Con Một Ngài” (Rm.8:32). V́ Satan “đă giao chiến với
thành phần giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa và
làm chứng cho Chúa Giêsu”, theo chiến lược
“chống đối” mầu nhiệm nhập thể và
“phá hoại” công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa
như thế, mà Sách Khải Huyền đă cho thấy, ở
câu cuối cùng của cả đoạn về hai
“dấu lạ xuất hiện trên không trung”: “Con rồng đă
đứng trên băi biển” (Rev.12:17), tức ở ngay biên
giới giữa nước và đất: nước là
một thể lỏng, có thể biểu hiệu cho
những ǵ mầu nhiệm và thần linh, như mầu
nhiệm nhập thể bị ngụy thần phạm thượng
“lộng ngôn”; và đất là một thể đặc,
có thể biểu hiệu cho những ǵ cụ thể và
nhân bản, như việc cứu chuộc của Thiên Chúa
bị con người tỏ ra thái độ “vô ơn”. Và
đó cũng là lư do hiện hữu của hai con mănh thú,
một xuất thân từ biển và một từ đất
tiến lên (x.Rev.13:1,11). |