Mănh Thú Phản Kitô
Bấy giờ tôi thấy một con mănh thú
xuất thân từ biển, có 10 xừng và 7 đầu;
trên các xừng của nó có 10 vương miện và trên các
đầu của nó có các danh hiệu lộng ngôn. Con mănh
thú mà tôi thấy đó giống như một con beo,
nhưng chân có móng giống như con gấu và có miệng
như sư tử. Con rồng đă ban cho nó năng
lực và ngai ṭa của ḿnh cùng với quyền bính cả
thể. Tôi để ư thấy rằng một trong
những đầu của con mănh thú h́nh như bị
trọng thương, nhưng vết thương này
đă được chữa lành. Cả thế giới
lạ lùng bỡ ngỡ đă đi theo con mănh thú này. Loài
người thờ phượng con rồng v́ nó đă ban
quyền bính của nó cho con mănh thú; họ cũng sùng bái
con mănh thú mà nói: ‘Ai có thể bằng con mănh thú, hay có
thể tiến lên đối chọi với nó?’ Con mănh
thú được ban cho một cái miệng để
thốt lên lời kiêu hănh và lộng ngôn, nhưng quyền
năng mà nó nhận được chỉ tồn tại
có 42 tháng. Nó bắt đầu phun ra những lời
lộng ngôn phạm đến Thiên Chúa, bằng cách
chửi rủa Ngài cũng như các phần tử trong
thiên gia của Ngài. Con mănh thú được phép nổi
lên chống lại dân của Thiên Chúa và thắng
được họ. Cũng thế, nó được
ban quyền bính trên mọi chủng tộc và mọi dân
tộc, mọi ngôn ngữ và mọi quốc gia. Con mănh thú
sẽ được mọi dân cư trên mặt
đất tôn thờ, những kẻ không có tên
được ghi trong cuốn sổ hằng sống
từ khi tạo thành thế giới, cuốn sổ
thuộc về Con Chiên đă bị sát hại” (Rev.13:1-8). Qua thị kiến của Thánh
Gioan Tông Đồ được thuật lại trong
Sách Khải Huyền trên đây, th́, “con mănh thú xuất thân
từ biển” này chính là hiện thân của “con khổng
long”, tức cũng là hiện thân của “Satan, tên cám
dỗ cả thế gian” (Rev.12:9). Bởi v́, về
diện mạo của ḿnh, “con mănh thú xuất thân từ
biển” này cũng có “10 xừng và 7 đầu” (Rev.13:1)
như con rồng có “7 đầu và 10 xừng” (Rev.12:3); và
về bản chất, nó lại được “con
rồng đă ban cho nó năng lực và ngai ṭa cùng với
quyền bính cả thể của con rồng” (Rev.13:2). Là hiện thân sống
động của chính khổng long Satan, kẻ “đă
đứng trước người nữ sắp sinh
con” (Rev.12:4), một thái độ tỏ ra lên mặt
nghêng ngang phản chống lại mầu nhiệm
nhập thể, phạm thượng đến ư
muốn tối cao của Thiên Chúa, mà “con mănh thú xuất
thân từ biển” cũng sẽ tác hành như khổng
long Satan, hay khổng long Satan hoạt động qua nó
cũng thế, ở chỗ “thốt lên lời kiêu hănh và
lộng ngôn... phun ra những lời lộng ngôn phạm
đến Thiên Chúa, bằng cách chửi rủa Ngài
cũng như các phần tử trong thiên gia của Ngài”
(Rev.13:5,6). “Con mănh thú xuất thân từ
biển” chẳng những là hiện thân sống
động của khổng long Satan ở diện
mạo, bản chất và tác hành của nó, mà c̣n ở
cả mưu đồ của nó nữa. Thật thế,
nếu khổng long Satan “uất hận trước
việc thoát thân của người nữ đă đi
giao chiến với phần con cái c̣n lại của
người nữ” (Rev.12:17) thế nào, th́ “con mănh thú
được phép nổi lên chống lại dân của
Thiên Chúa và thắng được họ. Cũng thế,
nó được ban quyền bính trên mọi chủng
tộc và mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ và mọi
quốc gia. Con mănh thú sẽ được mọi dân
cư trên mặt đất tôn thờ, những kẻ
không có tên được ghi trong cuốn sổ hằng sống
từ khi tạo thành hoàn vũ, cuốn sổ thuộc
về Con Chiên đă bị sát hại” (Rev.13:7-8). Thế nhưng, “con mănh thú
xuất thân từ biển” là hiện thân sống
động của “khổng long Satan, tên cám dỗ cả
thế gian” này “đă chống lại dân của Thiên Chúa
và thắng được họ... và sẽ
được mọi dân cư trên mặt đất tôn
thờ”, ở chỗ nào và bằng cách nào, nếu không
phải ở vết trọng thương nơi một
trong “7 đầu” của nó và bằng vết trọng
thương đă khỏi này của nó: “Tôi để ư
thấy rằng một trong những đầu của
con mănh thú h́nh như bị trọng thương, nhưng
vết thương đó đă được chữa
lành. Cả thế gian lạ lùng bỡ ngỡ đă
đi theo con mănh thú này” (Rev.13:3). Thật vậy, “7 đầu”
(Rev.13:1) của “con mănh thú xuất thân từ biển”,
cũng như “7 đầu” (Rev.12:3) của chính khổng
long Satan (như đă được dẫn giải
ở trang 75-76), tiêu biểu cho mưu mô của ma qủi
được chất chứa trong 7 mối tội
đầu. Mà mối tội đầu tiên trong 7 mối
tội đầu này, một mối tội đầu
tiên trong các mối tội c̣n lại, đó là mối
tội kiêu ngạo. Việc “con rồng đứng
trước người nữ sinh con” là một thái
độ phát xuất từ “những ư nghĩ kiêu
căng” (Lk.1:51) của khổng long Satan, hay từ
“đầu” óc kiêu căng của hắn cũng vậy. Thế nhưng, chiếc
“đầu” tượng trưng cho “những ư nghĩ
kiêu căng” này của hắn “đă bị trọng
thương” nơi một trong bảy đầu của
“con mănh thú từ biển tiến lên” là hiện thân
của hắn. Không phải ở chỗ hắn chỉ
vô cùng nhục nhă v́ bị “thần Micae cùng với các
thần của ngài khống chế và bị mất
chỗ của ḿnh trên trời” (Rev.12:7,8), tức “bị
hất nhào xuống đất cùng với quân quốc
của ḿnh” (Rev.12:9), mà c̣n ở chỗ hắn không
thể ngăn cản
được ư định của Thiên Chúa nơi
mầu nhiệm Lời nhập thể “được
hạ sinh bởi một người nữ” (Gal.4:4). Trái
lại, dù hắn có “ŕnh chờ để nuốt đi
con của người nữ khi con trẻ này
được sinh ra” (Rev.12:4), thế mà, “người
nữ (cũng vẫn) đă sinh một con trai, một
người con trai được chỉ định
chăn dắt tất cả mọi dân nước
bằng cây gậy sắt (tức
bằng thập giá
cứu rỗi). Con bà được mang
lên cùng Thiên Chúa, mang lên ngai ṭa của ḿnh. C̣n chính
người nữ đă tẩu thoát vào sa mạc (tức
tẩu thoát vào đức tin), một
nơi đặc biệt Thiên Chúa đă dọn sẵn cho
bà” (Rev.12:5-6). Tuy nhiên, sở dĩ “vết
trọng thương” nơi một trong “7 đầu”
của “con mănh thú xuất thân từ biển”, hiện thân
của khổng long Satan, “đă được chữa
lành”, đến nỗi làm cho “cả thế gian lạ
lùng bỡ ngỡ đă đi theo con mănh thú này” (Rev.13:3), là
nhờ ở bản chất gian dối khéo che đậy
của “ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả thế gian”
(Rev.12:9), đúng như lời Chúa Giêsu phán cùng những
người Do Thái không chịu tin vào Người về
hắn như sau: “Qúi vị xuất phát từ một
người cha là ma qủi và t́nh nguyện làm theo các ư
muốn của hắn. Hắn đă mang đến cho con
người sự chết ngay từ ban đầu, và
hắn không bao giờ tuân theo sự thật; sự
thật không có nơi ḿnh hắn. Nói năng dối trá là
miệng lưỡi của hắn; hắn là tên gian trá và
là cha của các sự dối trá” (Jn.8:44). Đúng thế, “ma qủi hay
Satan, tên cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9) này “đă mang
đến cho con người sự chết ngay từ ban
đầu” bằng “miệng lưỡi nói năng
dối trá” của hắn, như đă thấy tỏ
tường trong gian kế hắn mặc h́nh “con cựu
xà” (Rev.12:9) trực tiếp đến cám dỗ nguyên
tổ Evà để gián tiếp đánh gục Adong.
Bởi nguyên tội này, “nó
đă được ban quyền bính trên mọi chủng
tộc và mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ và mọi
quốc gia. Con mănh thú sẽ được mọi dân
cư trên mặt đất tôn thờ” (Rev.13:7,8).
Vương quốc của “ma qủi hay Satan, tên cám
dỗ cả thế gian” (Rev.12:9), đă được
thiết lập kể từ nguyên tội nhờ “con mănh
thú xuất thân từ biển” và nơi con mănh thú này là
như vậy. Nếu, theo dự án cứu
rỗi của ḿnh, Thiên Chúa thiết lập vương
quốc Ngài trên thế gian nhờ Chúa Giêsu Kitô và nơi
Chúa Giêsu Kitô thế nào, th́ “con mănh thú xuất thân từ
biển” đến để thiết lập
vương quốc cho “ma qủi hay Satan, tên cám dỗ
cả thế gian” như thế chính là và phải là
phản kitô. Mà, theo Thánh Tông Đồ Gioan, “phản kitô”
có thể là một “tinh thần” hay một “con
người”, tuy nhiên, dù mặc h́nh thức nào đi
nữa, nội dung của “phản kitô” đều
chỉ nhắm đến việc chối bỏ “Chúa
Giêsu là Đức Kitô”, tức không công nhận “Chúa Giêsu
Kitô đến trong xác thịt”: -
“Ai là kẻ dối trá? Họ là kẻ chối rằng
Chúa Giêsu là Đức Kitô. Họ là tên phản kitô,
chối cả Cha lẫn Con” (1Jn.2:22);
-
“Mọi tinh thần không nhận biết Chúa Giêsu Kitô
đến trong xác thịt th́ không phải bởi Thiên
Chúa. Tinh thần như vậy là tinh thần phản kitô”
(1Jn.4:3 đối
chiếu với 4:2);
-
“Nhiều kẻ lừa đảo đă lẩn vào
thế gian, những con người không nhận biết
Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt. Những con
người như vậy là những con người
lừa đảo. Đó là tên phản kitô!” (2Jn.7). Như thế, “con mănh thú xuất
thân từ biển” là con mănh thú phản kitô, một con mănh
thú chống lại mầu nhiệm Lời nhập
thể hay là phủ nhận con người Chúa Giêsu Kitô
cũng vậy. Việc chống đối mầu
nhiệm Lời nhập thể hay phủ nhận con
người Chúa Giêsu Kitô của con mănh thú phản kitô
được tỏ hiện, trước hết,
nơi cá nhân quận vương Hêrôđê, người
đă lùng giết hài nhi Giêsu (x.Mt.2:13), rồi tới toàn
dân Do Thái: “Người đă tới với dân riêng
của Người, song họ không chấp nhận
Người” (Jn.1:11), và sau hết tới các lạc thuyết
“phản Kitô”, tiêu biểu là các lạc thuyết đă
được đề cập đến ở
phần một, chương ba, trang 36-37, như lạc
thuyết Lưỡng Ngôi (Nestôriô), lạc thuyết
Nhất Tính (Monophysitism), lạc thuyết Nhất Ư
(Monothelitism). Ngoài ra, c̣n phải kể
đến lạc thuyết chính yếu “phản Kitô”
đầu tiên do linh mục Ariô (256-336) ở Alexandria
truyền bá từ năm 318, hoàn toàn phủ nhận
thần tính của Chúa Giêsu Kitô. Theo vị linh mục này,
chỉ có một Ngôi Vị duy nhất nơi Thiên Chúa là
Chúa Cha mà thôi, c̣n Lời là phương tiện của Thiên
Chúa trong việc tạo dựng. Lạc thuyết Ariô
“phản kitô” này đă bị Công Đồng Chung Nicêa
năm 325, công đồng chung đầu tiên của Giáo
Hội, luận bác. Kết qủa là Kinh Tin Kính đă có
chữ “đồng bản thể” (homoousios) mà cho tới
ngày nay Kitô hữu vẫn c̣n phải tuyên xưng: “Tôi tin
kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa...
được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản thể
với Chúa Cha”. Một khi trực tiếp
chối bỏ “Chúa Giêsu là Đức Kitô”, là Lời
nhập thể, tức là gián tiếp chối bỏ chính
Thiên Chúa: “tên phản kitô, chối cả Cha lẫn Con”
(1Jn.2:22). Bởi thế, lịch sử Giáo Hội c̣n cho
thấy xẩy ra những ǵ được Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II diễn tả trong bài giáo lư về
Thiên Chúa ngày 4 tháng 9 năm 1985 như sau:
“Công
Đồng Chung Vaticanô I, một công đồng buộc phải
nói lên giáo huấn của ḿnh để đương
đầu với các sai lầm của thế kỷ 19
về thuyết phiếm thần cũng như về
thuyết duy vật là những lư thuyết sai lầm
đă bắt đầu nổi lên từ thời ấy.
Công Đồng Chung Vaticanô I dạy rằng: “Hội Thánh
tin tưởng và tuyên xưng chỉ có một Thiên Chúa
hằng sống và chân thật duy nhất là Hóa Công và là
Chúa trời đất, Đấng toàn năng, hằng
hữu, vô biên, khôn thấu, vô cùng trong trí khôn, trong ḷng
muốn và trong mọi sự thiện hảo; Đấng
chỉ là một bản thể linh thiêng duy nhất,
tuyệt đối đơn thuần và không thay
đổi, phải được công nhận thật
sự và chính yếu khác với thế giới, rất
thánh hảo nơi chính ḿnh và bởi chính ḿnh, và cao vượt
trên tất cả mọi sự ngoài chính ḿnh Ngài hay có
thể nghĩ tới”. (Hiến Chế Dei Filiua. 1-4,
DS 3001)
Một khi “chối bỏ Chúa
Giêsu là Đức Kitô”, tức chối bỏ Thiên Chúa
nhập thể, và một khi “chối bỏ cả Cha
lẫn Con” (1Jn.2:22), tức chối bỏ Thiên Chúa
hiện hữu, là hoàn toàn chối bỏ thế giới
thần linh và thay vào đó một thế giới vô
thần, một thế giới duy vật, một thế
giới thuần tự nhiên, như nhận định
của Đức Thánh Cha Lêô XIII trong Thông Điệp
“Humanum Genus” về Tam Điểm ban hành ngày 20/4/1884,
như sau: -
“Giáo điều nền tảng của Thành Phần theo
Tự Nhiên Chủ Nghĩa, thành phần đă quá rơ qua danh
xưng của ḿnh, là ở chỗ bản tính con
người và lư trí con người phải là chủ
chốt và hướng viên trong tất cả mọi
sự. Trên nền móng này, họ chẳng để ư
đến phận sự đối với Thiên Chúa là
bao, hay họ cố chấp theo những tư
tưởng sai lầm và mơ hồ của họ.
Họ chối bỏ tất cả những ǵ Thiên Chúa
chỉ dạy; họ không chấp nhận tín điều
tôn giáo hay chân lư lại có thể hiểu được
bằng lư trí con người, cũng không chấp nhận
một vị tôn sư nào có đủ thế giá đáng
tin...” (đoạn 12).
-
“Những ǵ liên quan đến đời sống gia
đ́nh theo chủ trương của Thành Phần Tự
Nhiên Chủ Nghĩa hầu như được gồm
tóm trong những tuyên ngôn sau đây. Hôn nhân thuộc về
một loại hợp đồng buôn bán, một thứ
hợp đồng có quyền hồi lại theo ư
muốn của những ai giao kèo với nhau, và các nhà
cầm quyền trong chính phủ có quyền trên mối
giây hôn nhân này; trong việc giáo dục giới trẻ không
ǵ được dạy về vấn đề tôn giáo
như là một ư tưởng vững vàng và chắc
chắn; mỗi người, khi tới tuổi, phải
được tự do theo đuổi bất cứ cái
ǵ họ thích. Tam điểm hoàn toàn đồng ư với
những chủ trương này; chẳng những
chấp nhận thôi mà c̣n, từ lâu nay, đă cố
hợp pháp hóa nữa” (Đoạn 21). Trong các Thành Phần theo Tự
Nhiên Chủ Nghĩa này, có thể kể đến hai
thành phần tiêu biểu là Thành Phần Hội Kín Tam
Điểm và Thành Phần theo Tân Tiến Chủ Nghĩa.
Về Thành Phần Hội Kín Tam
Điểm, Đức Lêô XIII, trong cùng bức Thông
Điệp Humanum Genus trên đây, đă nhận
định thế này: “Bởi
thế, cái mà phái Tam Điểm là, dĩ nhiên kể
cả mục tiêu họ theo đuổi, đă đủ
rơ từ những ǵ Ta đă vắn tắt tóm
lược. Các chủ trương chính yếu của
họ th́ hoàn toàn và rơ ràng nghịch với lư trí
đến nỗi không c̣n ǵ ngông cuồng hơn. Tột
đỉnh của sự cuồng si và ḷng vô đạo
hung tợn này là muốn hủy diệt đi tôn giáo
với cả Giáo Hội chính Thiên Chúa đă thiết
lập và bảo toàn cho đến tận thế,
để nỗ lực mang lại cho Giáo Hội đă
trải qua mười tám thế kỷ những tập
tục và thói sống của dân ngoại... Trong dự
định điên rồ và gian ác này, ḷng hận ghét khôn
nguôi và cơn khát thù hằn mà Satan đă khơi dậy
chống lại Chúa Giêsu Kitô đă trở nên hầu
như tỏ tường trước con mắt xác
thịt của chúng ta. Ngoài ra, Tam Điểm c̣n cố
hết sức đạt tới một mục tiêu
nữa là làm mất hết các nề nếp đức
hạnh và cuộc sống ngay chính, hỗ trợ
những kẻ muốn làm theo thỏa thích của ḿnh
như loài thú, những ǵ đem loài người
đến chỗ diệt vong nhục nhă và bất
xứng” (đoạn 24). Về Thành Phần theo Tân
Tiến Chủ Nghĩa, Đức Piô X, trong Thông
Điệp “Pascendi Dominici Gregis” về Tân Tiến Chủ
Nghĩa (Modernism) ban hành ngày 3/7/1907, đă nhận định
như sau: -
“Họ khinh thường tất cả mọi quyền
bính và chấp nhận sống thả lỏng; và dựa
vào một lương tâm sai lầm, họ cố gắng
hướng về việc yêu chuộng chân lư mà thật
ra chỉ là hoa trái kiêu hănh và cố chấp” (đoạn
3).
-
“Tôn giáo, tự nhiên hay siêu nhiên, cũng giống như
bất cứ một sự kiện nào khác, phải
được cắt nghĩa một cách nào đó.
Thế nhưng, một khi thần học tự nhiên
đă bị hủy hoại, và con đường dẫn
đến mạc khải bị đóng lại bởi
các luận lư phủ nhận thế giá của nó, và
tất cả mọi mạc khải ngoại tại hoàn
toàn bị phủ nhận, th́ rơ ràng là việc cắt
nghĩa này sẽ chẳng t́m thấy ǵ khác ở ngoài
chính bản thân con người. V́ việc cắt nghĩa
này phải t́m kiếm ở nơi con người; và v́
tôn giáo là một h́nh thức của đời sống, mà
việc cắt nghĩa này chắc chắn phải t́m
thấy nơi đời sống của con người.
Thế là đường lối ḥa nhập tôn giáo đă
được thành h́nh. Hơn nữa, có thể nói
sự kiện hiện thực đầu tiên của
mọi hiện tượng sống động - cũng
như của tôn giáo, như nhận định trên
đây, đều thuộc về thể loại này - có
được là do một nhu cầu hay một thúc
động nào đó; riêng về đời sống, th́ nó
bắt nguồn nơi hướng động của cơi
ḷng, một hướng động được
gọi là cảm thức. Thế nên, nếu Thiên Chúa là
đối tượng của tôn giáo, th́ chúng ta phải
kết luận rằng, đức tin là căn bản và
nền tảng của hết mọi tôn giáo cũng
phải được bao gồm trong cảm thức
nội tâm phát xuất từ nhu cầu cần đến
thần linh này. Nhu cầu cần đến thần linh
này, một nhu cầu chỉ cảm nghiệm thấy trong
những hoàn cảnh đặc biệt và thích hợp nào
đó, tự ḿnh nó không thể ở trong lănh vực
của ư thức, mà trước hết được
ẩn nấp dưới ư thức, hay, dùng từ ngữ
vay mượn từ triết học tân tiến, ở
trong tiềm thức, nơi cũng ẩn nấp và không
hiện lộ căn nguyên của nó” (đoạn 7).
-
“Ta phải xác nhận rằng nó (Tân Tiến Chủ
Nghĩa) là tổng hợp tất cả mọi lạc
thuyết... Tổ chức của nó có ư chẳng những
hủy diệt một ḿnh Công Giáo mà c̣n tất cả
mọi tôn giáo nữa... Lư thuyết về việc
thần linh vĩnh viễn ḥa nhập với vũ
trụ mà Thành Phần theo Tân Tiến Chủ Nghĩa
nắm giữ chủ trương và tuyên nhận rằng
mọi hiện tượng của lương tâm
tiến hành bởi con người là con người.
Từ chỗ này họ đi đến kết luận
sống sượng là đặt con người
tương đồng với Thiên Chúa, tức là chủ
trương phiếm thần. Việc các Thành Phần theo
Tân Tiến Chủ Nghĩa phân biệt giữa khoa học
và đức tin cũng đưa đến cùng một
kết luận như thế. Đối tượng
của khoa học, theo họ, là một thực tại có
thể biết được; trái lại, đối
tượng của đức tin là một thực
tại không thể biết được. Mà cái không
thể biết được th́ không thể biết
được ở chỗ không có một sự cân
đối nào giữa đối tượng và trí
tuệ - một thiếu sót về sự cân đối mà
không một sự ǵ, ngay cả chủ trương
của Thành Phần theo Tân Tiến Chủ Nghĩa, có
thể dẹp nó đi. Bởi thế, cái không thể biết
được vẫn là cái và đời đời
vẫn là cái không thể biết được
đối với tín hữu cũng như đối
với triết gia. Do đó, nếu có một tôn giáo nào
đi nữa, th́ chỉ có thể là một tôn giáo của
một thực tại không thể nào biết
được... Những lư luận này đủ
chứng tỏ quá rơ ràng để cho thấy, bằng
nhiều đường lối như thế nào, Tân
Tiến Chủ Nghĩa đă dẫn đến vô
thần chủ nghĩa và đến việc hoàn toàn
hủy diệt tất cả mọi tôn giáo. Bước
đầu tiên của con đường này là việc sai
lầm của Trào Lưu Thệ Phản, bước
thứ hai là việc sai lầm của Tân Tiến Chủ
Nghĩa, bước tiếp theo mới là vô thần
chủ nghĩa” (đoạn 39). Riêng về hiện tượng
vô thần hay vô thần chủ nghĩa, Công Đồng
Chung Vaticanô II đă nhận định trong Hiến
Chế Mục Vụ “Gaudium et Spes” về Giáo Hội trong
Thế Giới Tân Tiến, ban hành ngày 7-12-1965, đoạn
20, như sau: “Vô
thần hiện đại nhiều khi cũng
được tŕnh bày như một hệ thống; không
kể tới những nguyên nhân
khác, hệ thống này qúa nhấn mạnh
đến khát vọng được tự lập
của con người đến độ làm cho khó chấp
nhận bất cứ sự lệ thuộc nào vào Thiên
Chúa. Những người chủ trương thuyết vô
thần như vậy cho rằng tự do hệ tại
ở điều con người là chính cùng đích cho
ḿnh, là kẻ tạo nên và điều khiển lịch
sử riêng của ḿnh. Họ tưởng rằng quan
niệm trên không thể đi đôi với sự nh́n
nhận Thiên Chúa là Đấng tác thành và là cùng đích
của mọi sự, hay ít ra quan niệm như thế
th́ quả quyết có Thiên Chúa cũng bằng thừa. Chủ
thuyết này có thể được cổ vơ thêm v́
sự tiến triển về kỹ thuật hiện nay
đem lại cho con người cảm tưởng ḿnh
đầy thế lực. Trong số những h́nh
thức vô thần hiện đại, chúng ta không thể
bỏ qua một h́nh thức vô thần mong giải phóng
con người, nhất là giải phóng về
phương diện kinh tế và xă hội. H́nh thức vô
thần này cho rằng tự bản chất, tôn giáo
ngăn cản sự giải phóng trên, và khi gây cho con
người niềm hy vọng hăo huyền vào cuộc
sống mai hậu, tôn giáo đă làm cho họ sao lăng
việc xây dựng xă hội dương thế này.
Bởi vậy, những người chủ trương
lư thuyết ấy, một khi lên nắm chính quyền,
họ kịch liệt chống lại tôn giáo, dùng
những phương tiện cưỡng bách mà chính
quyền có để truyền bá thuyết vô thần
nhất là trong phạm vi giáo dục thanh thiếu niên”. Theo tiến tŕnh và gian kế
của “ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả thế gian”
(Rev.12:9), th́ chỉ cần, trước hết “chối
bỏ Chúa Giêsu là Đức Kitô” (1Jn.2:22), Thiên Chúa nhập
thể, là có thể từ đó “chối bỏ cả Cha
lẫn Con” (1Jn.2:22), để tiến đến Tự
Nhiên Chủ Nghĩa, rồi sang Vô Thần Chủ
Nghĩa, và sau cùng dẫn con người đến chính
Satan. Thật thế, Satanism đă bắt nguồn từ
Aleister Crowley (1875-1947), một
con người tự xưng ḿnh là một “con mănh thú”
trong Sách Khải Huyền, với chủ trương
“tất cả lề luật là làm theo những ǵ ḿnh
muốn”. Môn đồ của Crowley là LaVey ở Hoa
Kỳ, người đă thành lập “giáo hội Satan”
năm 1966, và phổ biến “thánh kinh Satan” năm 1969,
với những chủ trương chính yếu sau
đây: ̃
Tiếp tục cuộc
phản loạn ma quái chống lại Thiên Chúa và bất
cứ những ǵ là thần linh; ̃
Con người như là
một con cờ thí trong trận chiến linh thiêng; ̃
Chối bỏ cuộc
tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Thiên
Chúa nhập thể, biến cố đă làm lúng túng dự
án Satan, để trả đũa Thiên Chúa, bằng cách
lôi kéo loài người xuống Hỏa Ngục dành cho Satan
và các thần của hắn; ̃
Trong tất cả
những ǵ Satan đă chọn lựa để loại
trừ th́ trên hết phải loại trừ hết
mọi ảnh hưởng của Thiên Chúa hiện
diện nơi bất cứ một nơi chốn hay khía
cạnh nào. Những chủ trương trên
đây của Satanism qủa thật phát xuất bởi
“con mănh thú xuất thân từ biển”, con mănh thú “phản
kitô”, con mănh thú “thốt lên lời kiêu hănh và lộng ngôn...
phun ra những lời lộng ngôn phạm đến Thiên
Chúa, bằng cách chửi rủa Ngài cũng như các
phần tử trong thiên gia của Ngài” (Rev.13:5,6). |