Hận Thù Quyết
Thắng
Qua
những ǵ được phân tách và dẫn giải từ
chương 6 đến hết chương 8, về Khổng
Long Satan, Mănh Thú Phản Kitô và Mănh Thú Duy Nhân, Sách Khải
Huyền đă cho thấy cuộc Hận Thù Quyết
Thắng của “ma qủi hay Satan, tên cám dỗ cả
thế gian” (Rev.12:9) diễn tiến có thể được
tóm gọn như sau. Khổng long Satan tỏ ra
chống đối mầu nhiệm Lời nhập
thể ở chỗ: “‘Bấy giờ con rồng đứng
trước người nữ sắp sinh con, chực
sẵn để nuốt người con của bà khi con
trẻ được sinh ra’, một h́nh ảnh
biểu hiệu cho việc ‘ma qủi hay Satan’ chống đối
không chấp nhận (‘đứng trước’) mầu
nhiệm nhập thể, cũng như âm mưu phá
hoại (‘chực sẵn để nuốt’) công cuộc
cứu thế của Thiên Chúa làm người nơi Đức
Giêsu Kitô nhờ đệ nhất tạo vật của
Ngài là Trinh Nữ Maria” (trang 130-131). Khổng long Satan cũng t́m cách hủy
hoại công cuộc cứu chuộc loài người, ở
chỗ: “V́ Satan ‘đă
giao chiến với thành phần giữ các mệnh
lệnh của Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu’, theo
chiến lược ‘chống đối’ mầu
nhiệm nhập thể và ‘phá hoại’ công cuộc cứu
chuộc của Thiên Chúa như thế, mà Sách Khải
Huyền đă cho thấy, ở câu cuối cùng của
cả đoạn về hai ‘dấu lạ xuất hiện
trên không trung’: ‘Con rồng đă đứng trên băi
biển’ (Rev.12:17), tức ở ngay biên giới giữa nước
và đất: nước là một thể lỏng, có
thể biểu hiệu cho những ǵ mầu nhiệm và
thần linh, như mầu nhiệm nhập thể bị
ngụy thần phạm thượng ‘lộng ngôn’; và đất
là một thể đặc, có thể biểu hiệu cho
những ǵ cụ thể và nhân bản, như việc cứu
chuộc của Thiên Chúa bị con người tỏ ra
thái độ ‘vô ơn’. Và đó cũng là lư do hiện
hữu của hai con mănh thú, một xuất thân từ
biển và một từ đất tiến lên (x.Rev.13:1,11)”
(trang 134). Đúng thế, v́ không làm ǵ được
chính Thiên Chúa, không thể ngăn được mầu
nhiệm Lời nhập thể cũng như công cuộc
cứu thế của Thiên Chúa thực hiện nơi Chúa
Giêsu Kitô và nhờ Mẹ Người, Khổng long “Satan,
tên cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9) “đă giao
chiến với thành phần giữ các mệnh lệnh của
Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Rev.12:17). “Thành phần
giữ các mệnh lệnh của Thiên Chúa” đây tức
là thành phần tin nhận mầu nhiệm Lời nhập
thể, tin nhận “Chúa Giêsu là Đức Kitô” (1Jn.2:22), tin
nhận “Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn.7); do đó,
thành phần này, để thể hiện và chứng
tỏ niềm tin sâu xa đích thực trong ḷng của ḿnh
vào “Chúa Giêsu là Đức Kitô” (1Jn.1:22), cũng là thành
phần, qua đời sống và hoạt động của
ḿnh, “làm chứng cho Chúa Giêsu”, tức là thành phần “đi
khắp thế gian loan báo tin mừng cho tất cả
mọi tạo vật” (Mk.16:15), thành phần “đi
tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi
các dân nước và rửa tội cho họ” (Mt.28:19),
họ chính là thành phần làm cho công cuộc cứu độ
của Chúa Cứu Thế và Mẹ Đồng Công được
“trổ sinh muôn vàn hoa trái” (Jn.15:5) trong lịch sử loài
người cho đến tận thế. Thế nhưng, để “giao
chiến với thành phần giữ các mệnh lệnh của
Thiên Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Rev.12:17) này, tức
thành phần tin nhận mầu nhiệm Lời nhập
thể, mầu nhiệm “Chúa Giêsu Kitô đến trong xác
thịt” (2Jn.7), cũng là thành phần làm cho công cuộc cứu
chuộc sinh hoa kết trái nơi trần gian, khổng long
Satan đă thực hiện mưu đồ và gian kế của
ḿnh qua hai con mănh thú, một con
biểu hiệu cho quyền lực của hắn và
một con là biểu hiệu cho hoạt động của
hắn. Thật vậy, khổng long Satan
“chống đối” mầu nhiệm Lời nhập
thể bằng quyền lực của hắn là “mănh thú
xuất thân từ biển”, một mănh thú được
“con rồng đă ban cho nó năng lực và ngai ṭa của
ḿnh cùng với quyền bính cả thể” (Rev.13:2), và khổng
long Satan cũng “phá hoại” công cuộc cứu chuộc loài
người bằng hoạt động của hắn là
“mănh thú từ đất tiến lên”, một con mănh thú
“nói năng như con rồng” (Rev.13:11). Theo xuất xứ của hai mănh
thú này, một “xuất thân từ biển” và một “từ
đất tiến lên”, nếu “mănh thú từ đất
tiến lên” là hoạt động
phá hoại của khổng long Satan ở nơi nhân tính con người,
th́ “mănh thú xuất thân từ biển” là quyền lực chống đối của khổng
long Satan ở theo bản
chất gian dối của hắn (x.Jn.8:44). Nếu “mănh thú xuất thân từ
biển” là quyền lực
chống đối theo bản chất gian dối của
khổng long Satan đối với mầu nhiệm Lời
nhập thể, th́ quyền
lực chống đối này chính là quyền lực tội lỗi. V́ tội lỗi
chính yếu được thể hiện qua việc không
tin vào Chúa Kitô: “Khi Đấng An Ủi đến, Ngài
sẽ chứng tỏ cho thế gian thấy họ sai
lầm về tội lỗi, về sự công chính và
về việc luận phạt. Về tội lỗi là ở
chỗ họ từ chối không tin vào Thày” (Jn.16:8-9). Và nếu “mănh thú từ đất
tiến lên” là hoạt động
phá hoại của khổng long Satan nơi nhân tính của
con người đối với công cuộc cứu
chuộc nhân loại, th́ hoạt
động phá hoại này chính là hoạt động chết chóc, một hoạt động của
tội lỗi và cho tội lỗi. Thật thế, hoạt động chết chóc
là hoạt động của tội lỗi, ở chỗ:
“Qua một người mà tội lỗi đă lọt vào
thế gian, và cùng với tội lỗi là chết chóc, như
thế, chết chóc đă đến với tất
cả mọi người là v́ tất cả mọi người
đă phạm tội” (Rm.5:12); và hoạt động chết chóc là hoạt động
cho tội lỗi, ở chỗ: “Nó (mănh
thú từ đất tiến lên: hoạt động
chết chóc của khổng long Satan nơi nhân tính con người) đă
dùng quyền bính của con mănh thú thứ nhất (là quyền
lực tội lỗi theo bản chất gian dối
nơi khổng long Satan) để
khơi dậy những lợi lộc cho ḿnh, bằng cách
làm cho thế giới và mọi dân cư trên thế giới
sùng bái con mănh thú thứ nhất, con mănh thú mang vết
trọng thương đă được chữa lành”
(Rev.13:12).
Thật vậy, căn cứ vào
chân dung đích thực của hai con mănh thú, một
“xuất thân từ biển”, biểu hiệu cho quyền lực chống đối
theo bản chất gian
dối của khổng long Satan đối với mầu
nhiệm Lời nhập thể, và một “từ đất
tiến lên”, biểu hiệu cho hoạt động phá hoại của khổng long Satan nơi nhân tính con người
đối với công cuộc cứu chuộc nhân
loại, th́ cả hai chính là “lề luật của tội
lỗi và chết chóc” (Rm.8:2), tức là tất cả
những ǵ khổng long Satan đă dùng để cầm buộc
con người trong ngục quốc của hắn, đúng
như Sách Khải Huyền đă bóng bẩy cho thấy
t́nh trạng khổng long Satan thống trị loài người
bằng “lề luật tội lỗi và chết chóc” được
biểu hiệu qua hai mănh thú như sau: “Con
mănh thú (thứ nhất - lề luật tội
lỗi) được phép nổi lên
chống lại dân của Thiên Chúa và thắng được
họ. Cũng thế, nó được ban quyền bính
trên mọi chủng tộc và mọi dân tộc, mọi ngôn
ngữ và mọi quốc gia. Con mănh thú sẽ được
mọi dân cư trên mặt đất tôn thờ...”
(Rev.13:7,8); “Nó
(mănh
thú thứ hai - lề luật chết chóc) buộc
tất cả mọi người, nhỏ cũng như lớn,
giầu cũng như nghèo, nô lệ cũng như tự
do, phải chấp nhận một ấn ảnh trên bàn
tay phải của họ hay trên vầng trán của họ”
(Rev.13:16).
Thật vậy, kể từ
nguyên tội, loài người đă hoàn toàn bị khổng
long Satan khống chế, đến nỗi, con người
đă thực sự “chết trong tội lỗi của
ḿnh” (Jn.8:24), tức đă ở trong một t́nh trạng
chết chóc, một t́nh trạng bất lực không
thể sống tự do lành thánh, đúng như Sách
Khải Huyền bóng bẩy cho biết: “nó (con
mănh thú thứ hai - lề luật chết chóc nơi con người) cũng
không để cho một người nào mua bán bất cứ
một sự ǵ, trừ phi họ trước hết được
đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số
biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú”
(Rev.13:16-17). Vị Tông Đồ Dân Ngoại
Phaolô đă chia sẻ kinh nghiệm thực tế về
t́nh trạng chết chóc nơi bản thân ḿnh trong
việc ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực “không
thể mua bán bất cứ một sự ǵ”, như mua bán
thửa ruộng có kho tàng được chôn dấu ở
đó hay mua bán viên ngọc qúi ở phương xa
(x.Mt.13:44-46), nghĩa là ngài không thể sống “niềm
tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa” (Rm.8:21). “Tôi
không thể nào hiểu nổi ngay cả chính các hành động
của ḿnh nữa. Tôi không làm điều tôi muốn làm mà
lại làm điều tôi chán ghét. Khi tôi tác hành nghịch
lại với
ư muốn của ḿnh th́ chứng tỏ tôi cho rằng
lề luật là tốt. Điều này cho thấy không
phải tôi là người đă làm như thế mà do tội
lỗi ở trong tôi. Tôi biết rằng không có ǵ tốt ở
nơi tôi, nơi xác thịt của tôi cả; ước
muốn làm điều ngay chính th́ có đó, song không có sức
để làm. Điều xẩy ra là, tôi làm không phải điều
thiện hảo tôi muốn làm mà là điều gian ác tôi không
định làm. Nếu tôi làm điều ngược
lại với ư muốn của ḿnh th́ không phải là tôi
làm mà là tội lỗi ở trong tôi. Như thế có
nghĩa là, dù tôi có muốn làm điều ngay chính, th́ bao
giờ cũng có một lề luật xui khiến tôi làm điều
sai trái ở ngay bên. Con người nội tâm của tôi đồng
ư với lề luật của Thiên Chúa, thế nhưng, tôi
lại thấy nơi các phần thân thể của tôi một
lề luật khác chống lại lề luật nơi
tâm trí của tôi; điều này đă làm tôi trở thành tù
nhân cho lề luật tội lỗi nơi các phần
thể của ḿnh. Tôi là một con người khốn
nạn biết bao. Ai có thể cứu tôi thoát khỏi thân
xác ở dưới quyền lực chết chóc này?”
(Rm.7:15-24). Đúng thế, “lề luật tội
lỗi và sự chết” là những ǵ cầm buộc con
người, làm cho con người bất lực không
thể sống theo tự do lành thánh, chính là những ǵ đă
ăn sâu vào nhân tính con người. Thế nhưng: “Chính
v́ để tiêu diệt công việc của ma qủi mà
Con Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra” (1Jn.3:8), bằng cách “sinh ra
bởi một người nữ, sinh ra theo lề
luật để giải cứu những ai lệ thuộc
lề luật khỏi lề luật, hầu chúng ta được
hưởng thân phận làm con cái thừa nhận”
(Gal.4:4-5). “Thế nên, đối với thành phần ở
trong Chúa Giêsu Kitô th́ không c̣n vấn đề luận
phạt nữa. Lề luật của thần trí, một
thần trí sự sống nơi Chúa Giêsu Kitô, đă
giải cứu anh em khỏi lề luật tội lỗi
và sự chết” (Rm.8:1-2). Bởi vậy, “anh em không c̣n ở
trong xác thịt mà là ở trong thần trí, v́ Thần Linh
Thiên Chúa ở trong anh em. Ai không có Thần Linh của Chúa
Kitô th́ người ấy không thuộc về Chúa Kitô.
Nếu Chúa Kitô ở trong anh em th́ trong khi thân xác chết đi
cho tội lỗi th́ tâm linh lại sống cho công chính.
Nếu Thần Linh của Đấng đă phục sinh
Chúa Kitô từ trong kẻ chết ở trong anh em, th́ Đấng
đă phục sinh Chúa Kitô từ trong kẻ chết cũng
sẽ mang lại cho thân xác chết chóc của anh em
sự sống, nhờ Thần Linh của Người ở
trong anh em” (Rm.8:9-11). Thế nhưng, không phải v́
con người đă được Lời nhập
thể, tử giá và phục sinh nơi “Chúa Giêsu là Đức
Kitô” (1Jn.2:22) cứu chuộc qua Bí Tích Rửa Tội, nhờ
đó, chung con người họ đă trở nên “đền
thờ của Thiên Chúa và được Thần Linh Thiên
Chúa ở cùng” (1Cor.3:16), và riêng “thân xác của (họ) là đền
thờ của Thánh Linh, Đấng ngự bên trong -
Thần Linh (họ) đă lănh nhận từ Thiên Chúa”
(1Cor.6:19), mà con người Kitô hữu đă hoàn toàn thoát
khỏi cảnh giằng co nội tâm. Trái lại, họ
càng trở nên mục tiêu tấn công của khổng long
Satan là tên “luôn muốn ŕnh chực để nuốt con người
nữ khi con trẻ được sinh ra” (Rev.12:4), tên phá
hoại công cuộc cứu chuộc loài người qua
con “mănh thú từ đất tiến lên”, tức con mănh thú
tiêu biểu cho hoạt động
phá hoại công cuộc cứu
chuộc loài người của khổng long Satan nơi
nhân tính con người, hay nói cách khác, “mănh thú từ đất
tiến lên” là nội công phá
hoại của khổng long Satan nơi nhân tính con người.
“Con
mănh thú thứ hai được phép ban sự sống cho
h́nh ảnh của con mănh thú thứ nhất, để
h́nh ảnh này có quyền năng phát ngôn và hạ thủ
bất cứ ai từ chối không chịu tôn thờ h́nh
ảnh ấy. Nó buộc tất cả mọi người,
nhỏ cũng như lớn, giầu cũng như nghèo,
nô lệ cũng như tự do, phải chấp nhận
một ấn ảnh trên bàn tay hữu của họ hay
trên vầng trán của họ. Hơn nữa, nó cũng không
để cho một người nào mua bán bất cứ một
sự ǵ, trừ phi họ trước hết được
đóng dấu danh xưng của con mănh thú hay con số
biểu hiệu cho danh xưng của con mănh thú. (Rev.13:15-17).
Thật vậy, thực tế
sống đạo cho thấy, nếu Kitô hữu môn đệ
Chúa Kitô muốn sống thoải mái, tức không muốn
bị g̣ bó và giằng co nội tâm để “vào qua
cửa hẹp”, như trường hợp “tù nhân” Phaolô
nơi chính bản thân ngài trên đây, trái lại, muốn
vào qua “cửa dẫn đến diệt vong th́ rộng, đường
đi dễ dàng và nhiều người chọn theo con đường
này” (Mt.7:13-14), th́, Sách Khải Huyền cho biết: “trừ
phi, trước hết, họ được đóng
dấu danh xưng của con mănh thú hay con số biểu
hiệu cho danh xưng của con mănh thú” (Rev.13:17). Như
thế, “ấn ảnh trên bàn tay phải (nơi việc
làm chủ tâm) hay trên vầng trán (nơi tâm trí chủ trương)”
(Rev.13:16) của con người đây không là ǵ khác ngoài
“danh xưng của con mănh thú hay con số biểu hiệu
cho danh xưng của con mănh thú được đóng
dấu” nơi họ. “Danh
xưng của con mănh thú” đây là ǵ nếu không
phải là “tên” phản kitô,
tức “tên” chống đối
mầu nhiệm Lời nhập thể, “tên” “không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đến
trong xác thịt” (2Jn.7), và “con số biểu hiệu cho
danh xưng của con mănh thú” đây là ǵ, nếu không
phải là “một con số biểu hiệu cho một con
người. Con số của con người này là 666”
(Rev.13:18). Con số 6 ở đây liên quan đến
điều răn thứ 6, tức điều răn “làm sự dâm dục”, hay điều
răn phạm tội xác thịt
cũng thế. Tuy nhiên, “xác thịt” theo nghĩa
chung, không phải chỉ là những việc dâm dục của
thân xác con người, mà c̣n bao gồm tất cả
những ǵ phản ngịch lại với “thần trí”,
không hợp với Thiên Chúa, những ǵ Thiên Chúa không hài
ḷng: “Xác thịt có xu hướng phản nghịch
lại với Thiên Chúa; nó không lụy phục lề
luật Thiên Chúa. Thật thế, nó không thể nào; nên
những ai sống theo xác thịt th́ không thể hài ḷng
Thiên Chúa” (x.Rm.8:6-8). Tất nhiên, những điều không
hợp với Thiên Chúa, không làm hài ḷng Ngài do “xác thịt”
gây ra này không thể nào từ Thiên Chúa hơn là từ
thế gian mà có: “Đừng yêu chuộng thế gian hay
những ǵ thế gian cung hiến cho. Nếu ai yêu chuộng
thế gian th́ t́nh yêu của Cha không có chỗ đứng
nơi họ, v́ không ǵ thế gian cung hiến cho họ
lại từ Cha mà đến. Nhục dục, tham lam và
hoang tưởng - tất cả những điều này từ
thế gian mà có” (1Jn.2:15-16). “Nhục dục” liên quan đến
thể xác và khoái lạc, “tham lam” liên quan đến của
cải và giầu sang, và “hoang tưởng” liên quan đến
danh vọng và quyền bính. Ba lănh vực “thế gian cung
hiến cho” này, liên quan trực tiếp đến “xác
thịt” của con người không từ Thiên Chúa mà có,
chính là ba con số 6 đứng liền nhau, tức 666, hoàn
toàn phản nghịch lại với Đấng: “Thánh,
thánh, thánh là Chúa các đạo binh” (Is.6:3), “Thánh, thánh, thánh
là Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng” (Rev.4:8). Chính “Lời đă hóa thành nhục
thể” (Rev.1:14) là Con Thiên Chúa, khi mặc lấy “xác
thịt”, “hạ sinh bởi một người nữ”
(Gal.4:4), cũng đă bị “Satan, tên cám dỗ cả
thế gian” (Rev.12:9) đến thử xem Người có
“con số 666” chăng, khi hắn cám dỗ Người
về “nhục dục” ở việc ăn uống liên
quan đến xác thể (x.Lk.4:3-4), về “tham lam” ở
việc chiếm hưởng giầu sang phú qúi liên quan đến
của cải thế gian (x.Lk.4:5-8), và về “hoang tưởng”
ở việc kiêu căng cậy ḿnh liên quan đến
danh vọng quyền bính (x.Lk.4:9-12). Con số 666 này, về h́nh thức,
là “biểu hiệu cho một con người” (Rev.13:18), tức
cho những ǵ liên quan đến con người “xác
thịt” vẫn “yêu chuộng” và “xu hướng” về,
những ǵ thuộc về thế gian, những ǵ “thế
gian cung hiến cho” con người, như “nhục dục,
tham lam và hoang tưởng”, nhưng về nội dung, con
số 666 này cũng là “biểu hiệu cho danh xưng của
mănh thú (thứ nhất)” (Rev.13:17) nữa, v́ những ǵ
thế gian cung hiến cho con người “xác thịt” đây
cũng mang tính cách và mục tiêu “phản kitô” như chính
bản chất của “mănh thú xuất thân từ
biển”, biểu hiệu cho quyền năng chống đối
mầu nhiệm Lời nhập thể của khổng
long Satan. Như thế có nghĩa là, gian
kế và chiến thuật của khổng long “Satan, tên
cám dỗ cả thế gian” (Rev.12:9), qua hoạt động
phá hoại công cuộc cứu chuộc nhân loại nơi
nhân tính con người, hay qua “mănh thú từ đất
tiến lên” cũng thế, là làm sao cho con người cũng
trở thành “phản kitô” như hắn, ở chỗ,
trong tâm tưởng (tức “trên vầng trán”), họ “không
công nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (2Jn.7),
hoàn toàn “chối bỏ Chúa Giêsu là Đức Kitô” (1Jn.2:22),
và trong việc làm (tức “trên tay phải”), họ cố
ư sống theo “xác thịt”, không tuân giữ mệnh
lệnh Thiên Chúa và trở thành “những kẻ thù của
thập giá Chúa Kitô” (Phil.3:18). Nếu “tinh thần nào công
nhận Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt là tinh
thần thuộc về Thiên Chúa, c̣n tinh thần nào không
nhận biết Người (đến trong xác thịt)
là tinh thần không thuộc về Thiên Chúa. Tinh thần như
thế là tinh thần phản kitô” (1Jn.4:1-2), th́ thực
tế cho thấy, và càng ngày càng cho thấy, “tinh thần
phản kitô” ở chỗ không chấp nhận “Chúa Giêsu
Kitô đến trong xác thịt” được tỏ
hiện rơ ràng qua bốn dấu hiệu sau đây: ¹ Dấu hiệu thứ
nhất của “tinh thần phản kitô” là việc không
tin tưởng, khinh thường
hay xúc phạm đến “Chúa Giêsu Kitô đến trong xác
thịt” đang hiện diện thực sự trong Bí Tích
Thánh Thể, bằng chính Ḿnh Thánh và Máu Thánh của Người.
¹ Dấu hiệu thứ hai của
“tinh thần phản kitô” là việc không tin tưởng,
bất tuân phục hay chống đối “Chúa Giêsu Kitô đến
trong xác thịt” nơi quyền bính Giáo Hoàng, một con người
bằng xương bắng thịt kế vị Thánh Phêrô,
để đại diện Chúa Kitô chăn dắt đoàn
chiên của Người trên thế gian. ¹ Dấu hiệu thứ ba của
“tinh thần phản kitô” là việc không tin tưởng,
khinh thường và bất kính Đức Maria, Mẹ
Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội Trọn Đời Trinh
Nguyên, người nữ đă thụ thai và hạ sinh “Chúa
Giêsu Kitô đến trong xác thịt”. ¹ Dấu hiệu thứ
bốn của “tinh thần phản kitô” là việc khinh
bỉ (như kỳ thị), giầy đạp (như
ly dị) hay hủy hoại (như phá thai) tất cả
những ǵ thấp hèn (như nghèo khổ), yếu kém (như
thai nhi) hay bất hạnh (như tật nguyền) là thân
phận sống đă được “Chúa Giêsu Kitô đến
trong xác thịt” mặc lấy (x.Phil.2:7-8; 2Cor.8:9) để
có thể đồng hóa ḿnh với “các người anh em
bé mọn nhất của (Người)” (Mt.25:40,45) và cũng
để nhờ đó “cứu lấy những ǵ
trầm hư” (Lk.19:10). Nếu khổng long Satan hoạt động
phá hoại công cuộc cứu chuộc nhân loại nơi
nhân tính con người, nhất là nơi con người
Kitô hữu, ở chỗ làm cho cả “bàn tay phải và
trên vầng trán” của họ, cả tâm tưởng
lẫn hành động của họ, mang “ấn ảnh”
“phản kitô” là “con số 666” “nhục dục, tham lam và
hoang tưởng” như thế, th́ “gịng dơi người
nữ, thành phần giữ các giới răn của Thiên
Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu” (Rev.12:17) sẽ là và phải
là thành phần “tinh tuyền và theo Con Chiên đến
nơi nào Con Chiên tới” (Rev.14:4). “Gịng dơi người nữ”: “tinh
tuyền”, ở chỗ, họ “giữ các giới răn
của Thiên Chúa”: Họ là thành phần “đứng trên
biển thủy tinh, đă chiếm được
phần thắng trên con mănh thú và h́nh ảnh của nó cũng
như con số biểu hiệu cho danh xưng của nó”
(Rev.15:2). “Gịng dơi người nữ”: “theo
Con Chiên đến nơi nào Con Chiên tới”, ở chỗ,
họ “làm chứng cho Chúa Giêsu” (Rev.12:18): “Họ đă được
cứu chuộc như hoa trái đầu mùa của con người
cho Thiên Chúa và cho Con Chiên” (Rev.14:4), chẳng những
bằng máu của Con Chiên mà c̣n bằng chính máu của
họ ḥa với máu Con Chiên nữa, “họ là những người
sống sót qua những giai đoạn thử thách cả
thể; họ đă giặt áo ḿnh trở nên trắng tinh
trong máu của Con Chiên” (Rev.7:14). Như thế, để có
thể “làm chứng cho Chúa Giêsu”, trước hết,
“gịng dơi người nữ” phải “tinh tuyền”, ở
tinh thần sống đạo, sống đức tin của
ḿnh, được chứng thực bằng việc
“giữ các giới răn của Thiên Chúa” (Rev.12:17),
nhất định không để “mănh thú từ đất
tiến lên” là hoạt động phá hoại công cuộc
cứu chuộc của khổng long Satan nơi nhân tính
ḿnh in h́nh ảnh hay dấu danh xưng phản kitô
(x.Rev.14:9,11) vào tâm trí (“trên vầng trán”) hay việc làm của
ḿnh (“trên tay phải”). Tuy trong việc “làm chứng cho Chúa
Giêsu” cũng cần có một kiến thức sâu xa về
Người, tuy nhiên, kiến thức giáo lư này, thực
tế cho thấy, vẫn không bằng chứng sống đức
tin. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă nhận định
điều này như sau:
-
“Việc cập nhật hóa những kỹ thuật
về mục vụ... việc đào sâu hơn nữa vào các nền tảng đức
tin về thánh kinh cũng như thần học cũng chưa
đủ. Điều cần thiết đó là một
niềm phấn khởi ‘hăng say nên thánh’ mới mẻ
nơi các nhà truyền giáo và trong toàn thể cộng đồng
Kitô giáo”
(Tông Huấn
Redemprores Missio về sự khẩn thiết của
việc truyền giáo, ban hành ngày 7-12-1990, đoạn 90). -
“Kiến thức về Thánh Kinh và Thánh Truyền th́ quan
trọng, việc học hỏi giáo lư th́ đáng giá;
thế nhưng tất cả những thứ này có ǵ là
tốt nếu đức tin không có việc làm. Việc
tuyên xưng Chúa Kitô kêu gọi việc theo Chúa Kitô. Việc
tuyên xưng đức tin đúng đắn cần
phải được kèm theo bằng việc sống đúng
đắn” (Lời ĐTC
GPII trong Thánh Lễ Chúa Nhật ngày 21/6/1998 tại
quảng trường Heldenplatz, trong cuộc thăm Aùo
Quốc 19-21/1998. O’sservatore Romano bản Anh Ngữ, số
25/1547, 24/6/1998).
- “Ngay từ đầu chỉ có
12 người đă ra đi khắp thế giới. Hỡi
các bạn trẻ, Giáo Hoàng tin vào qúi bạn trong việc qúi
bạn chứng tỏ một chân dung Kitô Giáo mới cho một
Aâu Châu cũ kỹ. Qúi
bạn hăy dấn thân bằng chứng từ cá nhân. Qúi
bạn là ‘nét chữ của Chúa Kitô’ (2Cor.3:3), là tấm
danh thiếp của Người! Những ai gặp qúi
bạn đều phải nắm chắc được
rằng họ đă t́m thấy đúng địa
chỉ. Trong việc Tôi thi
hành việc mục vụ của ḿnh ở các miền đất
khác nhau trên thế giới, Tôi đă càng ngày càng cảm
nghiệm được sự thật Tôi đă viết
trong Thông Điệp Redemptoris Missio: ‘Dân chúng ngày nay tin vào
những chứng nhân hơn
là vào các vị thày, vào cảm nghiệm hơn là giảng
dạy, và vào đời sống cùng tác hành hơn là lư
thuyết’ (đoạn 42). Khi gặp qúi bạn, bạn bè
của qúi bạn phải có thể cảm nhận được
rằng có một cái ǵ đó nơi qúi bạn mà họ không
thể cắt nghĩa được, một cái ǵ đó
qúi bạn biết rất rơ, một cái ǵ đó Thánh
Vịnh đă diễn tả rất rơ ràng: ‘Chúa là mục
tử tôi, tôi không c̣n thiếu thốn ǵ’”. (Lời ĐTC
GPII giảng trong Thánh Lễ tại Vương Cung Thánh Đường
Salzburg Thứ Sáu 19/6/1998, trong cuộc viếng thăm Nước
Aùo. L’Osservatore Romano, bản Anh Ngữ, số 26/1548,
1/7/1998) Tuy nhiên, nếu muốn làm chứng
cho ai th́ phải biết sự thật về người
đó thế nào, th́ muốn làm chứng cho Lời
nhập thể, Kitô hữu cũng phải biết
“tất cả sự thật” (Jn.16:13) về Chúa Giêsu Kitô
như vậy. Bằng không họ có thể sẽ làm chứng
gian, chứng dối, chứng không đúng với sự
thật, và v́ thế họ có thể sẽ trở thành
“các tiên tri giả” (Mt.24:11,24). Hiện tượng các loại
tiên tri giả này, thực tế đă cho thấy đặc
biệt xuất phát từ ḷng Giáo Hội, kể từ thời
điểm hậu Công Đồng Vaticanô II, chẳng
những nơi một số cấp tiến chê Giáo Hội
quá chậm tiến trong vấn đề ngừa thai nhân
tạo, vấn đề phá thai, vấn đề đồng
tính luyến ái, vấn đề đàn bà làm linh mục,
vấn đề linh mục lập gia đ́nh v.v., mà c̣n
nơi một số thủ cựu trách Giáo Hội quá
cấp tiến trong việc hội nhập văn hóa
(nhất là về phương diện phụng vụ),
hay trong việc ḥa đồng tôn giáo (như đối
thoại liên tôn), hoặc trong việc mở đường
cho việc phá thai bằng việc gợi ư ngừa thai
theo phương pháp tự nhiên v.v. Chính v́ thế, Kitô
hữu chứng nhân, hơn bao giờ hết, cần
phải hiểu biết giáo lư kỹ lưỡng hơn, để
chẳng những chính ḿnh khỏi ngả theo chiều áp
lực của đa số, mà c̣n có thể lên tiếng
bênh vực Giáo Hội nữa. Ngoài ra, việc học hiểu
hay giảng dạy giáo lư hiện nay cũng rất
cần thiết là v́ sự hiện diện của chủ
nghĩa vô thần nơi thế giới cũng như của
luồng gió vô đạo mới nơi Kitô hữu. Để đối phó với
chủ nghĩa vô thần, Công Đồng Chung Vaticanô II chủ
trương: “Phương
thuốc cần phải áp dụng đối với chủ
nghĩa vô thần được t́m thấy nơi
việc tŕnh bày giáo huấn của Giáo Hội một cách
thích hợp, cũng như nơi đời sống xứng
hợp của Giáo Hội và của các phần thể Giáo
Hội... Kết qủa này gặt hái được chính
yếu là nhờ chứng tá của một đức tin
sống động và trưởng thành, tức là một
đức tin được huấn luyện để
nh́n thấy được rơ ràng những khó khăn mà
thấu triệt chúng” (Hiến
Chế Gaudium et Spes, 21). Để đối phó với
luồng gió vô đạo mới, ngoài bản Hướng
Dẫn Tổng Quan Vấn Đề Giáo Lư do Thánh Bộ
Giáo Sĩ phổ biến ngày 11-4-1971, Đức Gioan Phaolô
II cũng đă cảnh giác Hội Đồng Giám Mục
Tây Ban Nha ngày 19-2-1998: “Không
được hướng dẫn về giáo lư hay ít
gắn bó với đức tin sẽ khiến cho các tín
hữu không kịp trở tay trước những nguy
hiểm thực sự của trào lưu tục hóa, của
khuynh hướng luân lư tương đối hay của
việc coi thường đạo nghĩa, mà nguy cơ
khó tránh được là t́nh trạng mất đi ḷng đạo
đức sâu xa nơi dân của Qúi Huynh… Bởi thế,
trước Cuộc Kỷ Niệm Mừng Long Trọng
Năm 2000, Tôi tha thiết xin Qúi Huynh hăy phát động một
giai đoạn giáo lư mới để giúp cho con người
đương thời nhận thức được
mầu nhiệm Thiên Chúa và chính ḿnh họ, cũng như để
giúp họ sống đời cầu nguyện chúc tụng
và tạ ơn tặng ân Nhập Thể của Chúa Kitô cùng
việc cứu chuộc của Người” (Tuần san L’Osservatore
Romano, bản Anh ngư,ơ số 10/1532, ngày 11/3/1998, trang 5). Phải, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, tuy nhấn mạnh đến khía cạnh chứng
nhân bằng đời sống đức tin, cũng
vẫn không hề coi nhẹ việc học hiểu và đào
luyện cả giáo sĩ lẫn giáo dân về mặt lư
thuyết. Đối với việc đào
tạo giáo sĩ, ngài đă căn dặn Hội Đồng
Giám Mục Dutch ngày 18-6-1998 như sau: “Hăy
lưu ư đến phẩm chất của việc
huấn luyện về kiến thức - triết lư,
thần học và luân lư - để các vị linh mục
sau này có thể đảm trách việc rao giảng Phúc Aâm
trong một thế giới có những khuynh hướng
chủ quan và đường lối diễn đạt
thuần túy theo khoa học, thường thay thế cho
khoa nhân loại học đứng đắn và cố
gắng hiến cho cuộc sống độc lập với
niềm tin vào Thiên Chúa một ư nghĩa nào đó. Nhờ
thế, họ mới có thể mang lại những đáp
ứng cho những vấn nạn được công
luận tranh căi và cho những chủ trương có khuynh
hướng làm sai lệch chân lư và thực chất”
(đoạn 5. Tuần San L’Osservatore Romano,
ấn bản Anh ngữ, số 28/1550, 15/7/1998).
Đối với giáo dân, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đă nhắc nhở phái đoàn
giám mục Hoa Kỳ (đợt thứ 7 sang chầu Đức
Thánh Cha và viếng mộ Thánh Phêrô) ngày 6-6-1998, về
việc thành phần này
phải được học hỏi giáo lư như
sau: “Bởi
giáo dân ở ngay biên giới của sứ mệnh Giáo Hội
trong công việc truyền giáo cho tất cả mọi lănh
vực của sinh hoạt loài người - bao gồm
cả nơi làm việc, các ngành khoa học và y học, địa
hạt chính trị và địa hạt đa diện
văn hóa - mà họ phải được học
hiểu giáo lư một cách cứng cát và đầy đủ
‘để chứng tỏ cho thấy chỉ có đức
tin Kitô giáo mới tạo nên một giải đáp đúng
đắn... cho những vấn đề và các niềm
hy vọng do cuộc sống gợi lên trong ḷng mọi người
cũng như trong xă hội’ (Tông Thư
Christifideles Laici, đoạn 4)”.
(Đoạn 4. Tuần San L’Osservatore Romano,
bản Anh ngữ, số 23/1545, ngày 10-6-1998).
Thật thế, ngày nay, hơn bao
giờ hết, “mănh thú từ đất tiến lên” là
hoạt động phá hoại công cuộc cứu chuộc
nhân loại của khổng long Satan nơi nhân tính con người,
đang tận dụng “thời hạn vắn vỏi” (Rev.20:3;
xem Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria: 50.7)
sau “thời kỳ ngàn năm” (Rev.20:2,7)
cuối cùng của ḿnh, tức sau khi “con rồng, tức
con cựu xà là ma qủi hay Satan” (Rev.20:2)
đă hoàn toàn bị thảm bại trước tử giá
của “Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt” (1Jn.4:2,3;
2Jn.7), cũng là sau lúc hắn “đă
bị bắt và bị xiềng trói” (Rev.20:2)
rồi lại “được thả ra khỏi ngục
của ḿnh” (Rev.20:7), làm cho chung
xă hội loài người và riêng thành phần tu tŕ tận
hiến càng nổi bật “con số 666” (Rev.13:18), “con
số biểu hiệu danh xưng mănh thú” (Rev.13:17)
“xuất thân từ biển” biểu hiệu cho quyền
lực chống đối mầu nhiệm Lời
nhập thể của hắn. Thật vậy, trong Bí Mật La
Salette năm 1846, Mẹ Maria đă tiên báo cuộc tấn công
kinh hoàng của khổng long Satan trong “thời gian ngắn
hạn” của hắn trên thế giới nói chung và nơi
thành phần tu tŕ nói riêng như sau: -
“Những linh mục, những thừa tác viên của Con
Mẹ, những linh mục mà, với cuộc sống tội
lỗi, với việc cử hành những mầu
nhiệm thánh cách bất kính và khô đạo, với ḷng
ham mê tiền bạc, ḷng yêu chuộng danh vọng cũng
như khoái lạc, những vị linh mục đă trở
nên những hố phân ô uế...
-
“Những vị làm đầu, những nhà lănh đạo
dân Thiên Chúa đă bỏ bê việc cầu nguyện và khổ
hạnh, ma qủi đă làm cho trí tuệ của họ mù
tối. Họ trở nên những v́ tinh tú lang thang sẽ
bị lôi kéo làm cho hư đi bởi cái đuôi của ma
qủi xưa kia. Thiên Chúa sẽ cho phép con cựu xà gây
chia rẽ giữa những người chủ trị
trong mỗi xă hội và nơi từng gia đ́nh...
-
“Xă hội của con người đang ở vào cận điểm
của những biến cố trầm trọng
nhất...
-
“Vào năm 1864, (theo thế giới sử là
năm Hiệp Hội Lao Nhân Quốc Tế do Karl Marx thành
lập ở Luân Đôn và Nữu Ước, tiền thân
của đảng cộng sản, một đảng đóng
vai như như là tiền hô của qủi vương), Luxiphe cùng với một
số lớn ma qủi sẽ được thả ra
khỏi hỏa ngục, chúng sẽ dần dần làm
mất đức tin ngay cả nơi thành phần
tận hiến cho Thiên Chúa. Chúng sẽ làm cho họ mù quáng
đến nỗi, trừ khi có ơn đặc biệt,
bằng không họ sẽ mặc tinh thần của các
thần dữ trong hỏa ngục; một số ḍng tu
sẽ mất đức tin và nhiều linh hồn ở đó
sẽ hư đi.
-
“Những sách xấu sẽ lan tràn khắp mặt đất
và thần tối tăm sẽ lan truyền khắp nơi
một sự lơ là chểnh mảng toàn diện trong
tất cả những ǵ liên quan đến việc phụng
thờ Thiên Chúa...
-
“Khắp nơi sẽ có những sự lạ phi thường,
khi mà đức tin đă bị lu mờ đi dần
dần và ánh sáng giả tạo soi dẫn người
ta...
-
“Đức tin chân thật đối với Chúa đang
bị quên lăng mất rồi, mỗi người chỉ
muốn làm chủ lấy ḿnh và nắm đầu người
cùng lứa với ḿnh, họ sẽ hủy bỏ dân quyền
cũng như giáo quyền, tất cả mọi trật
tự và mọi công chính sẽ bị chà đạp dưới
chân, không c̣n t́nh yêu tổ quốc hay gia đ́nh mà là tàn sát,
giận hờn, ghen ghét, dối trá và nổi loạn...
-
“Tất cả mọi chính quyền dân sự sẽ có cùng
một dự định duy nhất, đó là hủy
bỏ và loại trừ mọi nguyên tắc đạo
giáo, thay vào đó là khuynh hướng duy vật, vô
thần, duy linh và lầm lỗi đủ thứ. -
“Thời tiết sẽ bị đảo lộn, trái đất
sẽ không c̣n nẩy nở ǵ hơn ngoài trái xấu, các
tinh tú sẽ bị di động bất thường,
mặt trăng sẽ chỉ phản chiếu một thứ
ánh sáng đỏ mầu bạc nhược. Nước
và lửa sẽ làm cho bầu trái đất những cuộc
rung chuyển và những trận động đất
kinh hồn nuốt tiêu đi các núi đồi cùng các thành
phố v.v...” Trước t́nh trạng khủng
hoảng cả nơi trật tự thiên nhiên, lẫn
trật tự xă hội loài người cũng như
trật tự trong Giáo Hội Chúa Kitô như thế,
Mẹ Maria đă lên tiếng cũng trong Bí Mật La
Salette như sau: -
“Mẹ khẩn thiết kêu gọi trái đất. Mẹ
kêu gọi các môn đệ đích thực của Thiên Chúa
hằng sống là Đấng ngự trên Trời; Mẹ
kêu gọi các môn đệ của Chúa Kitô làm người,
Vị Cứu Tinh chân thật duy nhất của loài người;
Mẹ kêu gọi con cái của Mẹ, những tín hữu đích
thực, những người đă hiến ḿnh cho Mẹ
để Mẹ dẫn đắt họ đến cùng
Con Thần Linh của Mẹ, những người mà
Mẹ bồng trên tay, tức những người
sống theo tinh thần của Mẹ. Sau hết, Mẹ
kêu gọi những Tông Đồ Cuối Thời,
những môn đệ trung kiên của Chúa Giêsu Kitô,
những người sống trong khinh chê thế gian và
chính ḿnh, sống trong nghèo khó và khiêm hạ, sống trong
khinh chê và thầm lặng, sống trong nguyện cầu
và khổ chế, sống trong tinh tuyền và kết hợp
với Thiên Chúa, sống trong khổ đau và ẩn
khuất trước mắt thế gian. Đây là lúc
họ xuất thân làm cho thế gian tràn đầy ánh sáng.
Hăy đi mà tỏ ra ḿnh là con cái dễ thương
nhất của Mẹ. Mẹ ở bên các con và ở trong
các con, nếu đức tin của các con là ánh sáng soi cho
các con trong những ngày bất hạnh này. Chớ ǵ ḷng
nhiệt thành của các con làm cho các con đói khát vinh quang
và vinh dự của Chúa Giêsu Kitô. Hăy chiến đấu, hỡi
con cái ánh sáng, các con là thành phần ít ỏi. V́ đây là thời
điểm của mọi thời điểm, tận cùng
của mọi cùng tận”.
(Trích
dịch từ tập “Apparition of the Blessed Virgin on the
Mountain of La Salette the 19th of September, 1846”, tập tài liệu
do “the Shepherdess of La Salette” xuất bản ngày 15 tháng 11
năm 1879, với phép in của Đức Giám Mục Zola
cai quản giáo phận Lecce). |