Bài 4

S Đip Fatima là mt Linh Đạo Cu Độ nơi Mnh Lnh Ln Ht Mân Côi

 

Mỗi nơi Mẹ Maria hiện ra Mẹ đều muốn nhắn nhủ chung loài người và riêng Kitô hữu Công Giáo chúng ta một điều gì đó hết sức hệ trọng liên quan đến phần rỗi đời đời của chúng ta, tức đến việc trị đến của vương quốc Thiên Chúa. Chẳng hạn cả 2 lần đầu tại Pháp quốc, ở Paris với chị Catarina Labuarê tập sinh Dòng Vinh Sơn Phaolô năm 1830, cũng như ở La Salette với hai thiếu niên Melanie Mathieu (nữ) và Maximin Giraud (nam) năm 1846, Mẹ đã báo động về tình hình phá sản đức tin khủng khiếp ở nước này; để rồi, vào lần thứ ba cũng tại Pháp Quốc, Mẹ đã hiện ra ở Lộ Đức với thiếu nữ Bernadetta năm 1858, để kêu gọi Kitô hữu thống hối cùng cầu nguyện cho các tội nhân và xưng Mẹ là Đấng Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tuy nhiên, ở đâu thì ở, nhắn nhủ gì thì nhắn nhủ, sứ điệp duy nhất Mẹ kêu gọi vào mỗi lần và trong tất cả mọi lần Mẹ hiện ra đó là sứ điệp Mẹ đã nói với thành phần phục dịch tiệc cưới ở Cana: “hãy làm những gì Người bảo” (Jn 2:5).

Đúng thế, Mẹ đến là để mang con cái của mình về với Thiên Chúa, để lay tỉnh họ dạy và để dọn đường cho Con Mẹ, hầu khi đến Người được nghênh đón bởi thành phần phù dâu khôn ngoan cầm đèn sáng trong tay (x Mt 25:4,10). Theo ý nghĩa này thì câu Chúa Giêsu nói trống trong Phúc Âm Thánh Mathêu về dụ ngôn 10 cô phù dâu chờ đón tân lang “Vào lúc nửa đêm, có tiếng kêu: ‘Chàng rể đến, hãy ra nghênh đón Người’” (Mt 25:6) phải được áp dụng đặc biệt vào trường hợp của Mẹ Maria. Chính Mẹ là nguồn phát ra, là người hô lên, là chính tiếng kêu báo ấy. Quả thực chúng ta không biết đích xác ngày giờ Chúa Kitô đến lần thứ hai (x Mt 24:36), nhưng chúng ta cũng vẫn có thể tự hỏi là tại sao trong cả hai ngàn năm lịch sử Kitô giáo, Mẹ Maria của chúng ta, như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ngày xưa, không hề hiện ra để cảnh báo con cái mình cũng như để kêu gọi họ “hãy cải thiện đời sống! Triều đại Thiên Chúa đã đến” (Mt 3:2), mà chỉ cho tới đầu thế kỷ 19, thời điểm thế giới Kitô Giáo Âu Châu nói chung và Pháp quốc nói riêng bắt đầu bị trầm trọng khủng hoảng đức tin, một dấu hiệu cho thấy ứng nghiệm lời tiên báo của chính Chúa Kitô: “Khi Con Người đến liệu Người có còn thấy được đức tin trên thế gian này nữa hay chăng?” (Lk 18:8).

Trong tất cả mọi sứ điệp Mẹ Maria ban bố ở những nơi Mẹ hiện ra trên thế giới trong Thời Điểm Maria của Mẹ từ đầu thế kỷ 19, qua Biến Cố Thánh Mẫu ở Paris năm 1830, phải công nhận là không có một sứ điệp nào bằng sứ điệp Mẹ đã ban bố ở Fatima. Sở dĩ như thế chẳng những là vì tính cách quan trọng của chính Biến Cố Fatima liên quan đến vai trò của Giáo Hội Hoàn Vũ cũng như liên quan đến lịch sử thế giới, những gì đã được trình bày ở những chương trước đây, mà còn bởi chính nội dung của sứ điệp có thể được gọi là Linh Đạo Cứu Độ này nữa. Thật ra khi hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima năm 1917 sáu lần liền, từ tháng 5 tới tháng 10, không lần nào Mẹ noí rõ rằng, chẳng hạn như, “Đây, Mẹ ban cho các con ba mệnh lệnh, đó là cải thiện đời sống, lần hạt Mân Côi và tôn sùng Trái Tim Mẹ”. Thế nhưng, căn cứ vào những gì chính yếu Mẹ kêu gọi ở Đệ Nhất Biến Cố Thánh Mẫu này, chúng ta thấy Sứ Điệp Fatima bao gồm 3 Mệnh Lệnh Fatima.

Mệnh Lệnh cần phải được kể đến trước nhất là việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”. Bởi vì, ngay từ lần đầu tiên, khi hai mệnh lệnh kia chưa được đề cập tới, thì Mẹ Maria, ngay trước khi biến đi, đã đề cập đến mệnh lệnh này rồi. Chưa hết, sau đó, cứ mỗi lần hiện ra là mỗi lần Mẹ lập lại mệnh lệnh “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” này. Ở đây, chúng ta để ý đến 3 điểm chính yếu liên quan đến hay được chất chứa trong lời Mẹ Maria kêu gọi thực hiện Mệnh Lệnh Fatima thứ nhất là Lần Hạt Mân Côi này.

Thứ nhất, Mẹ Maria không kêu gọi là “hãy lần hạt Mân Côi” (say Rosary), mà là “cầu Kinh Mân Côi” (pray Rosary). Bởi vì, Mẹ chú trọng đến chính cốt lõi của việc cầu nguyện là tấm lòng của con người, vì cầu nguyện chính là tác động con người bộc phát hay bày tỏ nỗi khao vọng thần linh của con người. Đó là lý do, trong Kinh Lạy Cha rất vắn gọn, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy tinh thần và đường lối cũng như cung cách cầu nguyện bày tỏ nỗi khát vọng thần linh của con người, những nỗi khát vọng được thể hiện qua các ước nguyện về Chúa, như ước “nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, cũng như các ước nguyện về chính bản thân mình, như ước nguyện được “lương thực hằng ngày” là luôn biết chu toàn ý muốn của Cha, ước nguyện được Cha thương “tha nợ” nếu có nhỡ yếu đuối làm trái ý của Cha cách nào, và ước nguyện được đời đời thông hưởng sự sống thần linh với Cha bằng việc nhờ ơn Cha thắng vượt các chước cám dỗ và sự dữ phản lại ý muốn tối cao của Cha trên đời này. Nếu chúng ta “cầu Kinh Mân Côi” bằng cả tâm hồn của mình, chúng ta mới thực sự “cùng Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô”, như ĐTC GPII định nghĩa về việc cầu Kinh Mân Côi trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài ban hành ngày 16/10/2002, ở đoạn 3. Nhờ đó, chúng ta mới chứng tỏ chúng ta thật sự khao khát sống đức tin đầy ơn phúc như Mẹ Maria, một đức tin có sức đồng công cứu chuộc.

Thứ hai, qua Mệnh Lệnh Fatima thứ nhất là Lần Hạt Mân Côi (nên đổi lại là Cầu Kinh Mân Côi) này, chúng at còn thấy một điểm thứ hai Mẹ Maria muốn nhấn mạnh ở đây, đó là “hằng ngày” (every day). Có cái vừa lạ vừa hay là Mẹ Maria không buộc hay không đòi chúng ta phải cần Kinh Mân Côi bao nhiêu mỗi ngày. Mẹ hoàn toàn để tùy lòng và tùy hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, Mẹ quả thực muốn chúng ta và kêu gọi chúng ta “hãy cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”, chứ không phải hai ngày một lần hay một tuần một lần hay một tháng một lần hoặc thỉnh thoảng một lần hay hứng thì làm không hứng thì thôi. Đúng thế, nếu “cầu Kinh Mân Côi” là tác động của lòng muốn, của khát vọng thần linh nơi con người, như trên vừa nhận định liên quan đến điểm thứ nhất nơi lời kêu gọi của Mẹ đối với Mệnh Lệnh Fatima thứ nhất này, thì con người sẽ không thể nào thôi khát vọng cho đến khi được hoàn toàn thỏa nguyện, nghĩa là con người sẽ liên lỉ bày tỏ và bộc lộ khát vọng thần linh của mình ra bằng việc sốt sắng “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”, chẳng những tối thiểu 3 kinh trước khi đi ngủ, hay khá hơn với 1 chuỗi 50 kinh, mà thậm chí có thể lên tới cả 1 tràng 200 kinh, như vị Giáo Hoàng Totus Tuus của Mẹ là Đức Gioan Phaolô II, vị có thể nói là bận bịu hơn chúng ta gấp trăm lần, thành phần thường viện lý không có giờ để “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”, nhưng có giờ để làm những việc ưa thích và cho là ưu tiên, như xem truyền hình, phim bộ v.v. Việc tỏ ra chưa sốt sắng “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” của chúng ta là dấu chứng tỏ chúng ta chưa thực sự hay chưa hết sức khao khát thần linh, chưa liên lỉ cùng Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng Kinh Mân Côi để có thể Sống Chúa Kitô như Mẹ.

Vẫn biết chúng ta có thể tỏ ra khao khát thần linh bằng những cách cầu nguyện khác, như viếng Chúa hay chầu Thánh Thể, rước lễ thiêng liêng, đi Đường Thánh Giá, lần Chuỗi Thương Xót, nguyện Kinh Nhật Tụng, lãnh nhận Bí Tích, nhất là cử hành Thánh Lễ. Thế nhưng, chúng ta có làm những việc giao tiếp thần linh này hay không, hoặc chỉ lấy lý để biện minh cho việc không thích hay coi thường việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” mà thôi. Vả lại, cho dù chúng ta có làm tất cả những việc cầu nguyện là giao tiếp thần linh ấy đi nữa, nhất là có chú trọng đến Phụng Vụ mấy đi nữa, thì việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” cũng vẫn không phải là đồ bỏ, là việc làm vô ích, như ĐTC GPII đã thẳng thắn giải quyết vấn đề này trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài, ở đoạn 4 là: “Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã làm sáng tỏ, kinh nguyện này chẳng những không tương khắc với Phụng Vụ mà còn bảo trì Phụng Vụ, vì kinh nguyện ấy như là một thứ dẫn nhập tuyệt hảo cho Phụng Vụ và là một vang vọng của Phụng Vụ, giúp con người tham dự trọn vẹn và sâu xa vào Phụng Vụ cùng gặt hái được những hoa trái của Phụng Vụ trong đời sống thường nhật của họ”.

Thứ ba, lời Mẹ Maria kêu gọi “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” còn liên quan đến vấn đề “hòa bình thế giới” nữa. Đó là lý do, ngoại trừ lần 2, 4 và 6, Mẹ Maria chỉ kêu gọi trống là “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”, còn các lần khác, bao giờ Mẹ cũng thêm, “để chấm dứt chiến tranh” (lần 5) hay “để cầu cho hòa bình thế giới và chấm dứt chiến tranh” (lần 1 và 3). Sở dĩ Kinh Mân Côi và tình trạng hòa bình thế giới có liên quan mật thiết với nhau là vì quyền lực lịch sử của Kinh Mân Côi cũng như vì quyền lực cứu độ của Kinh Mân Côi.

Về quyền lực lịch sử của Kinh Mân Côi, chúng ta thấy ngay nơi nguồn gốc của chính Lễ Đức Mẹ Mân Côi, vì ngay từ đầu lễ này đã được gọi là Lễ Đức Mẹ Thắng Trận. Đúng thế, ĐTC Lêô XIII, trong Thông Điệp Supremi Apostolatus ban hành ngày 1/9/1883, đã nhắc đến sự kiện này như sau:

“Công hiệu và quyền lực của việc tôn sùng này còn được thể hiện trong thế kỷ 16, khi mà lực lượng hùng hậu của người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe dọa chụp cái gông hoang đường và man rợ lên gần hết cả Âu Châu. Đức Giáo Hoàng lúc ấy là Thánh Piô V, sau khi khơi động lòng nhiệt thành của các vua chúa trong việc cùng nhau tự vệ, đã hăng hái nỗ lực, hơn hết mọi sư, để xin Mẹ Thiên Chúa hết sức quyền năng thương đến thế giới Kitô giáo. Tấm gương hết sức cao qúi này được dâng lên thiên đình, và tất cả hợp một lòng một ý với ngài lúc bấy giờ. Thế là, sẵn lòng hy sinh mạng sống và máu đào để bảo toàn Đức Tin và quê hương của mình, các chiến sĩ tín hữu Chúa Kitô hiên ngang đối đầu với địch quân ở gần vịnh Côrintô; trong khi đó, những người không thể đi chiến đấu như họ thì hợp lại thành đạo quân sốt sắng nguyện cầu, hiệp nhất trong lời kinh Mân Côi liên tục chúc tụng Mẹ Maria, kêu xin Người ban chiến thắng cho thành phần đang chiến đấu của mình. Đức Mẹ cao sang quả thật đã ban ơn trợ giúp. Trong trận thủy chiến gần quần đảo Echinades, hạm đội Kitô hữu đã đại thắng mà không bị thiệt hại nặng và địch quân hoàn toàn thảm bại. Để tưởng nhớ đặc ân này và để kỷ niệm một cuộc chiến đáng ghi nhớ như thế, vị Thánh Giáo Hoàng này đã muốn lập một lễ tôn kính Đức Mẹ Thắng Trận, một lễ mà Đức Giáo Hoàng Gregôriô XIII đã đặt cho danh xưng là ‘Rất Thánh Mân Côi’. ”
Về quyền lực cứu độ của Kinh Mân Côi, quyền lực không phải chỉ liên quan đến lãnh vực chiến tranh chính trị như vừa được kể đến, mà còn liên quan đến chính phần rỗi đời đời của các linh hồn nữa. Thật thế, chiến tranh không phải là việc Thiên Chúa giáng phạt loài người tội lỗi, đúng hơn, là hậu quả của tội lỗi loài người. Chiến tranh là dấu chứng thực cho thấy con người không có đức bác ái thương yêu, trái lại, lòng họ tràn đầy những hận thù ghen ghét, tức chất chứa đầy những chết chóc trong bản thân mình (x 1Jn 3:14-15). Đó là lý do, để thoát khỏi chiến tranh, con người cần phải cải thiện đời sống, cần phải nhận biết sự thật, cần phải trở về với Đấng là Chủ Lịch Sử. Thế nhưng, thực tế cho thấy, đến với Chúa là Đấng Thánh, là Đấng Toàn Thiện, không phải là chuyện dễ, dù chính Ngài đã tự hạ đến với loài người chúng ta và ở giữa chúng ta qua Mầu Nhiệm Nhập Thể, nhất là đã cứu chuộc và thánh hóa chúng ta qua Mầu Nhiệm Vượt Qua của Ngài nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Chẳng hạn, muốn đến với Ngài trong Bí Tích Thánh Thể bằng việc lên rước lễ, con người phải sạch trọng tội; và muốn được sạch tội lỗi để có thể rước lấy Người, con người lại còn phải đến với Ngài trong tòa giải tội, và phải thực lòng thống hối ăn năn dốc lòng chừa không tái phạm tội được xưng thú nữa. Có những trường hợp, điển hình nhất là việc ăn ở vợ chồng với nhau bất hợp pháp, con người không thể nào đến với Chúa được nếu không dứt khoát bỏ nhau. Vậy thì con người vô cùng yếu đuối làm sao có thể trở về với Chúa, có thể đến với Chúa đây, nếu không qua Mẹ Maria, bằng việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày”. Vì, qua việc “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” này, tội nhân chúng ta chẳng những tỏ ra nhận biết Thiên Chúa là Đấng đã hóa thành nhục thể nơi cung lòng Trinh Nữ Maria, khi chúng ta nguyện Kinh Lạy Cha, cũng như tỏ ra tri ân cảm tạ Thiên Chúa vì đã yêu thương cứu chuộc chúng ta nơi Mầu Nhiệm Chúa Kitô, khi chúng ta đọc Kinh Sáng Danh sau mỗi chục kinh, mà còn nhận biết và yêu mến Mẹ (x Lk 1:48-49) nơi mỗi lời Kinh “Kính Mừng Maria Đầy Ơn Phúc”, và xin Mẹ thương đến thân phận tội lỗi của mình nơi lời Kinh “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”.

Như thế, chính việc thực hành Mệnh Lệnh Fatima thứ nhất, mệnh lệnh “cầu Kinh Mân Côi hằng ngày” là Kitô hữu Công giáo chúng ta đã gián tiếp thực hiện (ít là bằng ước vọng) cả hai Mệnh Lệnh Fatima còn lại, mệnh lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm, khi chúng ta tỏ ra nhận biết và yêu mến Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, và mệnh lệnh Cải Thiện Đời Sống, khi chúng ta xưng thú mình là những tội nhân đáng thương cần được cứu độ ở mọi nơi và trong mọi lúc, nhất là trong giờ lâm tử: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen”.