Chương Mười
Hai
Theo sự tích Đức
Mẹ hiện ra ở những nơi danh tiếng được
Giáo Hội chính thức công nhận, như ở Guadalupe
năm 1531, ở Paris năm 1830, ở La Salette năm 1846, ở
Lộ Đức năm 1858 v.v., chỉ có ở Fatima
năm 1917,
Đức Mẹ mới rơ
ràng mạc khải Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của
Mẹ ra cho loài người một cách hết sức
từ ái và đau thương.
Ngày 13/6/1917, với Lucia, một
trong ba Thiếu Nhi Fatima được “Chúa Giêsu dùng để
làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”, Đức
Mẹ đă hứa: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ
là nơi con nương náu và là đường đưa
con đến với Chúa” (FILOW:161,195). Thế rồi, trước
khi biến đi, Đức Mẹ đă x̣e hai bàn tay của
Người ra, làm cho 3 Thiếu Nhi ch́m ngập trong Thiên Chúa
và thấy, trong ḷng bàn tay phải xoè ra của Mẹ,
có một Trái Tim bị gai
nhọn từ chung quanh đâm vào.
Sau khi đă trưởng
thành để có thể bắt đầu công khai làm Tông Đồ
Fatima cho Mẹ, chị Lucia c̣n thấy Đức Mẹ với
Trái Tim bị gai nhọn quấn chung quanh hai lần
nữa. Lần thứ nhất, khi Đức Mẹ bế
Chúa Hài Nhi hiện
ra với chị vào ngày
10/12/1925. Lần thứ hai, vào ngày 13/6/1929, khi hiện ra với
chị, Đức Mẹ cầm trong tay Trái Tim có lửa và
ṿng gai đứng dưới chân thập giá, (thập giá
bằng ánh sáng xuất hiện lơ lửng trên trần
nhà nguyện, trên thập giá có Chúa Kitô tử nạn và bên dưới
cạnh sườn của Chúa có cả chén thánh cùng với
bánh thánh đang hứng máu nhỏ xuống từ thánh nhan
Ngài).
Qua sắc lệnh Acta
Apostolicae Sedis của Thánh Bộ Lễ Nghi ngày 4/5/1944 về
việc lập Lễ Trái Tim Mẹ, th́ Trái Tim Mẹ
biểu hiệu cho hai điều:
“Sự Thánh Thiện
tuyệt vời và độc đáo của linh hồn
Mẹ Thiên Chúa, đặc biệt là T́nh Yêu tha thiết
nhất của Mẹ đối với Chúa Giêsu Kitô, Đấng
vừa là Chúa vừa là Con của Mẹ, cũng như
sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ đối với
con người được Máu Thần Linh của Chúa
Giêsu cứu chuộc” (TWTAF3:82).
Trái Tim Mẹ là biểu
hiệu cho “sự thánh thiện tuyệt vời và độc
đáo của linh hồn Mẹ Thiên Chúa”.
Thật vậy, “được
dựng nên theo h́nh ảnh của Thiên Chúa” (STK 9:6; Gia 3:9) con
người nên thánh là con người nên giống Thiên Chúa.
Càng nên giống Thiên Chúa, con người càng nên thánh; hay, nói
ngược lại, càng
nên thánh là càng nên giống Thiên
Chúa. “Là nguyên ủy và là cùng Đích” (KH 21:6), Thiên Chúa chính là
lư tưởng tối cao cho loài người và là mô phạm
tuyệt đối của loài người. Chúa Kitô đă
chẳng dạy con người “hăy nên trọn lành như
Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt
5:48) hay sao?
Thế nhưng, con người
làm sao biết được Thiên Chúa như thế nào để
mà nên giống Ngài, nhờ đó, có thể nên trọn lành và
thánh thiện như Ngài?
Theo lịch sử cứu độ
được Thiên Chúa thực hiện nơi Dân Do Thái, “là
Thần Linh” (Gn 4:24), Thiên Chúa chỉ tỏ ḿnh ra cho con người
qua trung gian Ngài tuyển chọn và sai đến, chẳng
hạn qua Moisen hay các vị tiên tri,
và nơi những ǵ Ngài
muốn, chẳng hạn nơi lề luật hay các lời
tiên tri. Con người chỉ cần nhận biết Thiên
Chúa qua các sứ giả của Ngài bằng cách giữ
lề luật hay lời của Ngài do sứ giả Ngài
nhân danh Ngài truyền cho là con người đáp ứng đúng
với ư muốn của Ngài:
“Vậy, các ngươi hăy
thánh hoá ḿnh và hăy nên thánh, v́ Ta, Thiên Chúa, Chúa các ngươi là
Thánh. Bởi đó, hăy cẩn thận giữ những ǵ mà
Ta là Chúa, Đấng thánh hóa các ngươi, đă ban
truyền” (Lv 20:7-8).
Trong Phúc Âm thánh Luca, chúng ta
thấy sự Thánh Thiện của Mẹ Maria cũng được
tỏ ra khi Mẹ nhận biết Thiên Chúa qua sứ
giả của Ngài là tổng thần Gabriel được
Ngài sai đến truyền tin Ngôi Lời nhập thể
cho Mẹ và khi Mẹ hoàn toàn tuân phục Thánh Ư của Thiên
Chúa. Mẹ đă chứng tỏ là Mẹ “nhận
biết" và “tuân phục” Thiên Chúa qua câu nói bất hủ
của Mẹ: “Này tôi là tôi tớ Thiên Chúa, tôi Xin Vâng như
lời sứ thần truyền” (Lc 1:38).
Xin lưu ư, ở đây, Đức
Mẹ không thưa, “Xin Vâng như ư Thiên Chúa muốn”, mà là
”Xin Vâng như lời sứ thần truyền”. Tức là, Đức
Mẹ đă “tuân phục”Thiên Chúa bằng Đức Tin, qua
việc “nhận biết” sứ giả của Ngài.
Để rồi, nhờ
hiệp nhất với Thánh Ư Thiên Chúa toàn chân, toàn thiện
và toàn ái bằng đức tin như thế, Mẹ Maria
thực sự đă nên giống Thiên Chúa, đến nỗi,
có thể nói, nếu Chúa Kitô “là hiện thân đích thực
của hữu thể Cha” (DT 1:3) th́ Mẹ Maria là phản
ảnh của vinh quang Thiên Chúa, đúng như Mẹ đă được
thần hứng xướng lên: “Thiên Chúa toàn năng đă
làm nơi tôi những sự trọng đại, danh Ngài là
thánh” (Lc 1:49). Nhờ
tác động “nhận
biết” qua việc tuyệt đối “tuân phục” này của
Mẹ mà, trên thực tế, cả thân xác của Mẹ cũng
đă được kết hiệp với Thần Tính vô
cùng thiện hảo của Thiên Chúa khi “Ngôi Lời hóa thành
nhục thể” (Gn 1:14)trong ḷng của Mẹ.
Như thế, với lời"Xin
Vâng” bất hủ, tỏ ra Đức Tin “nhận
biết” Thiên Chúa của Mẹ và Đức Mến “tuân phục”
Ư Muốn của Ngài, Trái Tim Mẹ quả thực sự là
biểu hiệu cho “sự thánh thiện tuyệt vời và độc
đáo của linh hồn Mẹ Thiên Chúa” vậy.
Trái Tim Mẹ là biểu
hiệu cho “t́nh yêu tha thiết nhất của Mẹ đối
với Chúa Giêsu, Đấng vừa là Chúa vừa là Con của
Mẹ”.
Khi Mẹ Maria chấp
nhận Thiên Chúa, qua việc “nhận biết” và “tuân phục”
Ngài, là Mẹ chấp nhận Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời
nhập thể, Đấng Thiên Sai cũng là Chúa Cứu
Thế. Mở đầu ca vịnh Ngợi Khen, được
thần hứng, Mẹ đă tuyên xưng điều này:
“Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, và ḷng tôi hoan hỉ mừng
vui trong Thiên Chúa, Cứu Chúa của tôi” (Lc 1:46-47).
Phải, Thiên Chúa của
Mẹ cũng chính là Cứu Chúa của Mẹ, Đấng
mà Mẹ đă được “diễm phúc hơn mọi người
nữ” (Lc 1:28,42) thụ thai “bởi Thánh Linh” (Mt 1:20).
Thế nhưng, để có
thể chấp nhận Thiên Chúa, có thể thụ thai Ngôi Lời
Nhập Thể, qua việc “nhận biết” và “tuân phục”
Ngài một cách hoàn toàn tuyệt đối và trọn
hảo như Mẹ, con người cần phải có một
T́nh Yêu Thiên Chúa tha thiết đến mức nào, bằng
không, họ sẽ không thể nào thực hiện được
điều này như Mẹ.
Thật thế, để có
thể “Xin Vâng” Ư Muốn của Thiên Chúa, Mẹ Maria đă
phải hoàn toàn “bỏ sự sống của ḿnh đi” (Mt
16:25), mặc dù nơi Mẹ không có ǵ là t́ vết của
nguyên tội xấu xa đáng phải bỏ đi như
nơi chúng ta là những người bị nhiễm
mắc nguyên tội.
Abraham đem đứa con của
lời hứa duy nhất dấu yêu trên hết mọi
sự của ḿnh đi giết để tế lễ Chúa,
Đấng ban người con đó cho ông để làm cho
ông, lúc ông không c̣n khả năng sinh sản theo tự nhiên,
trở nên tổ phụ của một dân tộc hằng
hà vô số như sao trời, như cát biển, (x.STK
15:5;18:11-12;21:1;22:2,17-18) theo như
ư Chúa muốn thế nào,
Mẹ Maria cũng đă hy hiến cho Thiên Chúa ư muốn
rất trọn lành và tha thiết nhất trên
đời của Mẹ là
trọn đời giữ ḿnh đồng trinh hiến thân
cho một ḿnh Thiên Chúa vô cùng chí tôn, chí ái, như vậy.
Qua lời Mẹ Maria thưa
với sứ thần của Thiên Chúa: “Việc ấy
xẩy ra thế nào được, v́ tôi không hề
biết đến nam nhân” (Lc 1:34), đă đủ nói lên
ḷng Mẹ kính mến Chúa trên hết mọi sự là dường
nào. Bởi v́, trong Trái
Tim của Mẹ, không hề
có một h́nh bóng của bất cứ tạo vật nào, mà
“nam nhân” là hiện thân. Mẹ Maria không thưa với sứ
thần: “...v́ tôi giữ ḿnh đồng trinh”, một câu
phát biểu chỉ diễn tả cuộc sống đồng
trinh bề ngoài mà thôi, song chưa chắc bề trong đă
hoàn toàn trinh khiết, bởi những vương vấn,
những xao xuyến hoặc những khát khao thầm kín đôi
khi không làm được, như trường hợp
bất lực về thể lư, “hoạn nhân do người
ta làm ra” (Mt 19:12), hoặc nhiều khi không được
làm, như trường hợp phải giữ luân lư hay đạo
lư kẻo bị lương
tâm cắn rứt hay người
đới cười chê v.v.
Nếu không một ai trên đời
này có thể hiểu biết Thiên Chúa vô cùng chí tôn, chí ái
hơn Mẹ Maria hay như Mẹ Maria, th́ cũng không một
ai có thể kính mến Ngài như Mẹ và hơn Mẹ được.
Được đặc ân
Vô Nhiễm Nguyên Tội ngay từ khi đầu thai trong
ḷng mẹ của ḿnh, trí khôn của Mẹ không hề
bị bóng tối sự
chết và tội lỗi làm cho mù quáng và trở nên vô tri như
nơi chúng ta, trái lại, linh hồn của Mẹ đă được
“đầy ơn phúc” (Lc 1:28), được “Thiên Chúa là Ánh
Sáng” (1Gn 1:5) ở cùng ngay từ đầu, do đó, trí khôn
Mẹ đă được “ánh sáng ban sự sống” (Gn
8:12) làm chủ và soi dẫn.
Với ơn khôn ngoan của
Chúa Thánh Linh, “Đấng ḍ thấu mọi sự sâu
nhiệm nơi Thiên Chúa” (1Cor 2:10), Mẹ
đă nhận biết Thiên Chúa
như Thiên Chúa biết Ḿnh Ngài. Dĩ nhiên, v́ không phải là
chính Thiên Chúa, Mẹ Maria không thể nào biết Thiên Chúa “như”
Ngài biết Ḿnh Ngài. Bởi thế, ư nghĩa của
chữ “như” ở đây phải hiểu theo nghĩa
“hăy nên trọn lành 'như'’ Cha các con trên trời”, tức
Mẹ Maria đă biết Thiên Chúa hết khả năng mà loài
người có thể được Thiên Chúa ban cho để
biết Ngài. Và, v́ được biết Thiên Chúa “như”
Ngài biết Ḿnh Ngài như thế, Mẹ Maria cũng đă
không thể nào không yêu Ngài “như” Ngài yêu chính Ḿnh Ngài.
Tuy nhiên, nếu Mẹ Maria
chỉ nhất quyết giữ ư muốn tốt lành của
Mẹ trong việc giữ ḿnh đồng trinh v́ yêu mến
Thiên Chúa trên hết mọi sự, mà không sẵn sàng thưa
“Xin Vâng”ư của Thiên Chúa muốn Mẹ làm Mẹ Ngôi Lời
nhập thể, một thiên chức hoàn toàn trái nghịch
lại với bản chất và khả năng “không hề
biết đến nam nhân” của Mẹ, th́ Mẹ đă
không yêu Thiên Chúa “như” Ngài yêu chính Ḿnh Ngài.
Thực tế đă xẩy
ra khác hẳn, Mẹ Maria thực sự đă yêu Thiên Chúa
“như” Ngài yêu chính Ḿnh Ngài khi Mẹ thưa “Xin Vâng”, để
chấp nhận Ngôi Lời nhập thể là “hiện thân đích
thực của bản thể Cha” (DT 1: 3) được
ban trực tiếp cho Mẹ trước rồi nhờ
Mẹ và qua Mẹ cho loài người sau. “Thiên Chúa đă yêu
thế gian đến nỗi đă ban Con Một của
Ḿnh” (Gn 3:16) thế nào, th́ Mẹ Maria cũng yêu Thiên Chúa là Cứu
Chúa của Mẹ nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ, như
vậy, khi “Xin Vâng” cộng tác với Ngài trong việc ban
Ngài cho thế gian.
Thế nhưng, Mẹ Maria
vẫn chưa yêu Thiên Chúa “như” Ngài yêu chính Ḿnh Ngài,
nếu, sau khi chấp nhận Thiên Chúa nhập thể trong
ḷng trinh nguyên của ḿnh, Mẹ lại giữ Ngài cho một
ḿnh Mẹ thôi, không chịu hay không hợp tác với Ngài
trong việc cứu chuộc thế gian, đúng như chương
tŕnh cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đă
chẳng muốn giữ Thày của ḿnh cho riêng ngài cũng
như cho chung nhóm tông đồ của ngài hay sao, khi ngài
thành thực can ngăn Thày trong việc Thày phải chịu
số phận tử giá mà Thiên Chúa đă định cho Thày
(x.Mt 16:21-23). Kết quả là ngài đă bị Thày trách
mắng hết sức thậm tệ.
Trái lại, bởi biết
Thiên Chúa “như” Ngài biết Ḿnh Ngài, Mẹ Maria đă “phán đoán
đúng như Thiên Chúa” (Mt 16:23) khi “Xin Vâng” hiến dâng chính
Con Duy Nhất dấu yêu hơn sự sống của
Mẹ mà Thiên Chúa đă
ban cho Mẹ để Mẹ
dâng lại cho Chúa v́ phần rỗi nhân loại, khi “đứng
dưới chân thập giá Chúa Giêsu” (Gn 19:25). Chính tác động
hy hiến Con cho Thiên Chúa này đă chứng tỏ Mẹ yêu
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Cứu Chúa của Mẹ như thế
nào.
Như thế, Khi “không hề
biết đến nam nhân”, Mẹ đă yêu Thiên Chúa trên
hết mọi sự. Khi bỏ ư muốn giữ ḿnh đồng
trinh của ḿnh để “Xin Vâng” làm Mẹ Ngôi Lời
nhập thể, Mẹ đă yêu Thiên Chúa hơn chính ḿnh
Mẹ. Khi “đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu” để
hiến dâng Ngài là Người-Con-Thiên-Chúa của Mẹ cho
Thiên Chúa, Mẹ đă yêu Thiên Chúa “như” Ngài yêu chính Ḿnh
Ngài.
Quả thực Trái Tim Mẹ
là biểu hiệu cho “T́nh Yêu tha thiết nhất của
Mẹ đối với Chúa Giêsu, Đấng vừa là Chúa
vừa là Con của Mẹ”.
Trái Tim Mẹ là biểu
hiệu cho “sự dịu dàng từ mẫu của Mẹ đối
với con người được Máu Thần Linh của
Chúa Giêsu cứu chuộc”.
Về ư nghĩa và biểu
hiệu sau cùng này của Trái Tim Mẹ, trong bài giảng
tại Fatima ngày 13/5/1982, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đă
diễn tả một cách hết sức sâu sắc và đầy
đủ như sau:
“Khi tử nạn trên thập
giá, Chúa Giêsu đă nói với thánh Gioan: 'Này là Mẹ con' (Gn
19:26), và khi 'môn đệ đem Người về nhà ḿnh',
mầu nhiệm làm mẹ thiêng liêng của Mẹ Maria được
hiện thực hoá cách vô hạn trong lịch sử nhân
loại. Làm mẹ tức là săn sóc đến đời
sống của con cái. V́ Mẹ Maria là Mẹ của tất
cả chúng ta, việc chăm sóc của Mẹ đối với
đời sống con người có tính cách đại đồng.
Sự chăm sóc của mẹ ôm ấp toàn thể đứa
con của ḿnh. Việc làm mẹ của Mẹ Maria bắt
nguồn từ sự chăm sóc của Mẹ đối với
Chúa
Giêsu. Trong Chúa Giêsu, dưới
chân thập giá, Mẹ đă chấp nhận thánh Gioan, và
nơi thánh Gioan, Người đă
chấp nhận tất
cả chúng ta một cách trọn vẹn. Mẹ Maria đặc
biệt quan tâm ấp ủ tất cả chúng ta trong Chúa
Thánh Linh...
“Khi ở trên thập giá, Chúa
Giêsu nói: 'Thưa Bà, này là con Bà' (Gn 19:26), là Ngài, bằng một
kiểu cách mới, đă mở Trái Tim của Mẹ Ngài
ra, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội, và tỏ cho Trái Tim Mẹ
những kích thước và chiều hướng mới của
t́nh yêu mà, bởi quyền năng của hy sinh thập
tự, Mẹ đă được kêu gọi trong Thánh Linh.
Chúng ta dường như thấy được chiều
kích của t́nh mẫu tử này nơi sứ điệp
Fatima, một t́nh mẫu tử mà giới hạn của nó đă
bao trọn con đường của nhân loại tiến đến
với Thiên Chúa, con đường dẫn vượt qua
thế giới này và vượt cả ra ngoài thế giới
này, xuyên luyện ngục. Sự quan tâm của Mẹ Chúa Cứu
Thế là sự quan tâm cho công cuộc cứu rỗi, công cuộc
của Con Mẹ. Đó là một quan tâm đối với
sự cứu độ, sự cứu độ đời
đời, của tất
cả mọi người. Đến nay đă 65 năm
trôi qua từ ngày 13 tháng 5 năm 1917, nhưng vẫn khó ḷng
mà bất khả ngộ trước giới hạn t́nh yêu
cứu độ của Mẹ hằng ôm ấp thế
kỷ của chúng ta một cách chuyên biệt là dường
nào. Trong ánh sáng của t́nh mẫu tử này, chúng ta hiểu được
trọn vẹn sứ điệp của Mẹ Fatima... Có
thể nào Mẹ là Đấng,
với tất cả quyền năng của t́nh yêu được
nung nấu trong Thánh Linh, hằng muốn ơn cứu
rỗi cho mọi người
lại có thể khoanh tay ngồi nh́n ơn cứu độ
của họ đang bị mai một từ căn
bản? Không, Mẹ làm sao để xẩy ra như
vậy được.
“Bởi thế, sứ điệp
của Mẹ Fatima trong khi là một sứ điệp từ
mẫu, nó c̣n có tính cách mạnh mẽ và quyết liệt
nữa. Nó có vẻ khẩn trương. Nó có vẻ
giống như của thánh Gioan Tẩy Giả trên bờ
sông Gióc-Đan. Nó kêu gọi hối cải. Nó báo trước
cho biết. Nó kêu gọi cầu nguyện. Nó đề
cập đến kinh Mân Côi. Sứ điệp được
gửi đến mọi người. T́nh yêu của
Mẹ Chúa Cứu Thế lan đến mọi nơi có
sự tác động của ơn cứu độ.
Sự chăm
sóc của Mẹ vươn đến
từng cá nhân ở thời đại của chúng ta, cũng
như cho tất cả mọi xă hội, mọi quốc
gia, mọi dân tộc.
“Trên thập giá, Chúa Kitô nói:
‘Thưa bà, này là con Bà!’. Bằng những lời này, Ngài đă
mở Trái Tim Mẹ của Ngài ra theo một đường
lối mới. Sau đó chút xíu, lưỡi đ̣ng của
người lính Rôma đă đâm vào cạnh sườn của
Đấng bị đóng đanh. Trái Tim bị đâm thâu đó
đă trở nên biểu chứng của ơn cứu độ
đạt được nhờ cuộc tử nạn của
Con Chiên Thiên Chúa. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, được
mở ra với những lời 'Thưa Bà, này là con Bà', đă
được hiệp nhất, một cách linh thiêng, với
Trái Tim Con của Người, Trái Tim được mở
ra bởi lưỡi đ̣ng của một người
lính. Trái Tim của Mẹ Maria được mở ra bởi
cùng một t́nh yêu mà Chúa Kitô đă yêu con người và
thế giới, khi Ngài hiến ḿnh trên thập giá v́ họ,
cho đến khi lưỡi đ̣ng của người
lính đâm vào làm cho tuôn trào ra” (FAOS:77,79-80).