Chương Mười
Năm
TRÁI TIM MẸ ĐAU THƯƠNG
Vô Nhiễm Nguyên Tội là
bản chất, là thực tại làm nên Trái Tim Mẹ, đến
nỗi, nếu không có đặc ân này, Người không
phải là Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa nữa, nếu không
muốn nói, trên đời này sẽ không có Mẹ Maria
nữa. Cũng thế, Đau Thương là đặc
tính, là diện mạo của Trái Tim Mẹ, đến nỗi,
có thể nói, nếu không có Đau Thương, Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ khó có thể nhận thấy được.
Đức Kitô không có Thiên Tính
th́ không thể là Đức Kitô thế nào, Mẹ Maria không
Vô Nhiễm Nguyên Tội không phải là Mẹ Maria như
vậy. Đức Kitô dù có Thiên Tính, “Đấng không
biết đến tội” (2Cor 5:21), nếu không “trở
nên tội lỗi” (2Cor 5:21), “dù là Con” (DT 5:8), nếu “không
biết tuân phục nơi những ǵ phải chịu” (DT
5:8), và, “dù thân phận là Thiên Chúa” (Phil 2:6), nếu không
“chết trên thập giá” (Phil 2:8), th́, Ngài chỉ là một
“Kitô giả”, v́, Ngài sẽ không thể “kéo mọi sự lên
cùng (Ngài)” (Gn 12:32),đúng như “Ư Đấng đă sai
(Ngài) là (Ngài) không được làm hư những ǵ đă
ban cho (Ngài)” (Gn 6:39). Cũng thế, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên
Tội Mẹ Maria không Đau Thương, trên thực
tế, có thể nói, Trái Tim Mẹ hoàn toàn vô nghĩa, không
cần phải Vô Nhiễm Nguyên Tội nữa.
Thật sự, theo Phúc Âm cũng
như theo mạc khải tư ở
Theo Phúc Âm, ông già Simeon đă
chẳng nói với Mẹ Maria, khi Mẹ cùng với thánh
Giuse, theo luật Moisen, dâng con trai đầu ḷng là Chúa Giêsu
cho Thiên Chúa ở trong đền thánh Giêrusalem, rằng: “Con
Trẻ này là duyên cớ cho nhiều người trong Israel
bị vấp ngă cũng như được chỗi
dậy, là dấu hiệu chống đối, c̣n chính bà
sẽ bị lưỡi gươm đâm thâu, làm cho tâm tưởng
của nhiều người được bộc lộ”
(Lc 2:34-35).
Theo mạc khải tư ở
Fatima, lần thứ nhất, ngày 13/6/1917, trong ánh sáng
chiếu tỏa từ hai bàn tay x̣e ra của Đức
Mẹ trước khi Người biến đi, 3 Thiếu
Nhi Fatima đă được thấy, trước ḷng bàn
tay phải của Mẹ, một Trái Tim đội ṿng gai
nhọn đâm vào, Trái Tim mà, như chị Lucia sau này
diễn tả cho vị truyền chị phải viết lại
“tất cả mọi sự” (FILOW:150)“Chúng con hiểu
rằng, đây là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria
bị tội lỗi loài người
làm tổn thương, cần phải được đền
tạ” (FILOW:161).
Lần thứ hai, ngày
10/12/1925, để giữ đúng lời hứa từ ngày
13/7/1917 là Mẹ sẽ trở lại để xin thông công
đền tạ Mẹ vào các Ngày Thứ Bảy đầu
Tháng, Đức Mẹ đă cùng với Chúa Hài Đồng
hiện ra với chị Lucia, bằng cử chỉ một
tay Người đặt lên vai của chị, c̣n tay kia Người
đưa cho chị xem một Trái Tim đội một ṿng
gai nhọn.
Lần thứ ba, ngày 13/6/1929,
cũng để giữ đúng lời Mẹ hứa ngày
13/7/1917 về việc Mẹ sẽ trở lại để
xin dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ, Mẹ đă cùng với Chúa Giêsu tử giá hiện ra
với chị Lucia, mà, theo chị diễn thuật lại
th́: “Ở dưới cánh phải của thập giá có Đức
Mẹ và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội ở trong tay của
Người. (Đó là Đức Mẹ
Thế nhưng, đă được
đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, đặc ân làm cho
Mẹ không bị ảnh hưởng hay hậu quả ǵ
do nguyên tội gây ra cho tất cả gịng dơi loài người,
th́, làm sao đau thương lại là một hậu
quả tất yếu của nguyên tội có thể
chạm đến Trái Tim Mẹ được, có thể
ảnh hưởng đến Trái Tim Mẹ được?
Nếu thực sự Trái Tim
Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Đau Thương như
thế th́ tại sao Đau Thương và Đau Thương
như thế nào?
Phải, theo nguyên tắc,
trong cấp trật ân sủng, v́ có trước mọi
sự và mọi sự được dựng nên cho ḿnh,
Mẹ Maria đáng lẽ không liên quan ǵ đến nguyên tội
cả, thế nhưng, trên thực tế, trong thời
gian, được sinh ra bởi gịng dơi loài người đă
bị hư đi v́ nguyên tội, nếu không có ơn
miễn trừ đặc biệt của Thiên Chúa, Mẹ
Maria cũng nhiễm nguyên tội như thường.
Cũng thế, theo lư và
ân sủng, với đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội,
Mẹ Maria, chẳng những, về luân lư, không có đam
mê, nhục dục, tính hư, nết xấu, mà c̣n, về
bản chất, không cực khổ khi làm việc và đau
thương trong đời sống, tuy nhiên, trên thực
tế, v́ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội là một đặc
ân miễn trừ, dó đó, vào một lúc nào đó và v́ một
lư do nào đó, Thiên Chúa không miễn trừ nữa, Mẹ
Maria vẫn có thể chịu Đau Thương như thường.
Tuy tác dụng của đặc
ân Vô Nhiễm Nguyên Tội nơi con người của
Mẹ Maria và tác dụng của Thánh Sủng nơi con người
của Kitô hữu, tuy giống nhau ở chỗ cũng là Ơn
Thánh Hóa Mẹ cũng như Kitô hữu, song hoàn toàn khác
hẳn nhau trong việc miễn trừ về phương
diện tiêu cực gây ra bởi nguyên tội.
Trường hợp của
Kitô hữu, v́ đă nhiễm nguyên tội rồi mới được
thánh hóa nhờ phép rửa, nên Thánh Sủng không hề
miễn trừ cho họ khỏi mọi đam mê, nhục
dục, tính hư, nết xấu theo bản tính tự
nhiên, nghĩa là, họ vẫn c̣n khả năng phạm tội,
đau khổ và chết.
Trường hợp của
Mẹ Maria, v́ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nghĩa là được
thánh hóa ngay từ khi mới đầu thai, không hề
biết đến nguyên tội là ǵ, do đó, theo ân sủng,
con người Mẹ đă được miễn trừ
khỏi mọi hậu quả của nguyên tội, không
phải chịu tác hại bởi nguyên tội.
Tuy nhiên, “không phải
chịu” không có nghĩa là không có khả năng chịu, v́
tự Mẹ, không phải như Chúa Giêsu, Đấng mà, với
Thiên Tính, “Cha đă thánh hóa” (Gn 10:36)tự bẩm sinh, nên không
thể chịu đau khổ và chịu chết, nếu
chính Ngài “không tự ư bỏ nó (sự sống của Ngài) đi
và có quyền bỏ nó đi” (Gn 10:18).
V́ c̣n có khả năng
chịu Đau Thương như thế, khi không cần được
miễn trừ nữa, theo ư muốn của Thiên Chúa,
Mẹ vẫn có thể chịu Đau Thương như
thường. Như trường hợp, nếu Chúa không
miễn trừ nữa, tức không đặc biệt ǵn
giữ nữa, Mẹ cũng đă chết như mọi
người, mà, theo đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội,
Mẹ đáng lẽ không phải chịu như vậy. Tuy
nhiên, nguyên do việc chết của Mẹ, v́ đặc ân
Vô Nhiễm Nguyên Tội, đă không gây ra bởi tự nhiên,
mà hoàn toàn bởi siêu nhiên, bởi ḷng mến Chúa, một ḷng
mến Chúa đă lên đến tuyệt đỉnh, đến
nỗi, nếu không c̣n sự nâng đỡ đặc
biệt của ân sủng, sức loài người sẽ không
thể chịu được nữa.
Ngoài ra, với đặc ân Vô
Nhiễm Nguyên Tội, dù Mẹ không có xu hướng và
mầm mống phạm tội, trên thực tế, Mẹ
vẫn có thể phạm tội, như trường hợp
của hai nguyên tổ khi c̣n ở trong t́nh trạng công chính
nguyên thủy, t́nh trạng mà phần hạ của các ngài
vẫn c̣n lệ thuộc phần thượng của các
ngài, đam mê chưa lấn át lư trí và ư chí. Mẹ vẫn có
thể phạm tội là v́ Mẹ có tự do và ư riêng,
nếu Mẹ không chịu bỏ ḿnh đi, bỏ sự
sống của ḿnh đi.
Tuy cũng có tự do (x.Gn
10:18) và ư riêng (x.Mc 14:36), “giống anh em ḿnh mọi bề”
(DT 2:17), Chúa Giêsu vẫn không thể “phạm tội” (DT
4:15), không thể làm trái với ư Cha là Đấng đă sai
Ngài được, v́ Thiên Tính của Ngài, ngay từ lúc
nhập thể, đă hoàn toàn thánh hóa và làm chủ nhân tính, dùng
nhân tính như dấu hiệu để tỏ ḿnh ra và như
bí tích để thông ḿnh ra cho thế gian.
Phần nhân tính của Chúa Kitô,
tự bẩm sinh được kết hợp với
Thiên Tính ngay từ ban đầu như thế, có thể so
sánh, như vỏ với nhân của một “hạt lúa
miến” (Gn 12:24)được gieo xuống đất là
thế gian, một lớp vỏ mục nát đi do nhân
nẩy mầm, (chứ không phải nhân chỉ nẩy
mầm nếu hạt mục nát trước đă,
bằng không, nhân không thể nẩy mầm). “Cha ơi, đă
đến giờ rồi! Xin hăy tôn vinh Con Cha để Con
Cha cũng được tôn vinh Cha” (Gn 17:1), không phải là
một phát biểu chứng tỏ nhân (tượng trưng
cho Thiên Tính) nẩy mầm (tượng trưng cho việc
tỏ ḿnh ra của Thiên Tính) làm cho vỏ (tượng trưng
cho nhân tính) mục nát đi (tượng trưng cho ảnh
hưởng tuyệt đối của Thiên Tính là nhân nơi
nhân tính là vỏ) hay sao?
Hạt Lúa Miến Thần
Linh là Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, đó thực
sự đă được Chúa Cha gieo xuống đất
(tượng trưng cho thế gian nói chung và nhân tính nói
riêng). Mẹ Maria chính là mảnh đất đă lănh
nhận Hạt Lúa Miến Thần Linh này, và là một
mảnh đất tốt duy nhất đă làm cho Hạt
Giống này trổ sinh gấp trăm (x.Mt 13:23).
Dĩ nhiên, sự kết hợp
giữa hạt giống và mảnh đất không thể
nào mật thiết và duy nhất như sự kết hợp
bẩm sinh giữa vỏ và nhân. Mẹ Maria được
kết hợp với Chúa Giêsu, theo ân sủng, dù tới mức
tuyệt đối, tới mức “gấp trăm”, hơn
hết mọi thần thánh, mà mức độ ân sủng
của các ngài, cao lắm, cũng chỉ “gấp sáu mươi”
hay “ba mươi” mà thôi, Mẹ cũng không thể nào
kết hợp với Chúa Giêsu một cách bẩm sinh như
nhân tính của Ngài kết hợp với Thiên Tính của
Ngài.
Do đó, hạt giống
lệ thuộc vào đất trong việc nẩy sinh
thế nào, Thánh Sủng nơi Kitô hữu cũng lệ thuộc
vào bản tính tự nhiên của họ mà phát triển như
vậy. Nếu bản tính của Kitô hữu càng là một
mảnh đất tốt th́ Thánh Sủng càng phát triển
tối đa tầm vóc thần linh viên măn của ḿnh;
bằng không, không sớm th́ muộn, Thánh Sủng cũng
sẽ bị chết đi, chứ không thể nào sống
một cách èo uột hay ương ương dở dở
được” (x.KH 3:16; Mt 12:30).
Chúa Kitô, Lời của Thiên Chúa
nói với loài người trong những ngày sau hết này
(x.DT 1:2), được gieo vào cung ḷng Mẹ Maria và hoàn toàn
lệ thuộc vào Mẹ trong việc tỏ ḿnh và thông ḿnh
ra của Ngài. Tuy nhiên, mảnh đất Maria Vô Nhiễm
Nguyên Tội là một mảnh đất tuyệt hảo
tốt, đă làm cho Lời Chúa gieo ở đó trổ sinh
“gấp trăm”, nghĩa là, qua Mẹ Maria, Thiên Chúa, nơi
Chúa Kitô, đă có thể tỏ hết và thông hết Ḿnh ra,
theo như ư định của Ngài.
V́ đất chủ động
trong việc làm cho hạt giống trổ sinh nơi ḿnh
thế nào, (để nhờ đó, đất cũng được
nhờ hạt giống trổ sinh hoa trái theo), Mẹ Maria cũng
có trách nhiệm gần như chủ động trong
việc tiếp nhận và điều dưỡng Con Thiên
Chúa làm người như vậy.
Thiên Chúa toàn quyền đă chọn
mảnh đất Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria để
gieo Lời Thần Linh của Ngài. Để thực
hiện điều này, Ngài đă sai sứ thần của
Ngài đi gieo Tin Mừng Giêsu cho tạo vật đệ
nhất diễm phúc trong hết mọi thụ tạo là Đức
Maria. Thiên sứ đến, theo lời lẽ của ngài,
không phải để hỏi ư kiến của Mẹ là
việc Thiên Chúa gieo Lời của Ngài nơi Mẹ có được
hay chăng? Bởi v́, ư Chúa đă muốn và giờ Chúa đă
điểm, là Ngài làm, c̣n tạo vật của Ngài có
chấp nhận việc làm hay không là điều khác, Ngài
vẫn để họ tự do và toàn quyền quyết định.
Đối với trường
hợp của Mẹ Maria, Mẹ đă Xin Vâng. Nhưng, để
Xin Vâng, để làm hài ḷng Thiên Chúa chí tôn, vô cùng thiện
hảo và chí ái, nếu nói ngược lại, để khỏi
phật ḷng Thiên Chúa, khỏi xúc phạm đến Ngài v́ ḷng
kính sợ Ngài cũng vậy, Mẹ Maria đă phải hoàn
toàn “bỏ sự sống ḿnh” đi. Dầu sao, theo bản
chất, việc bỏ sự sống của Mẹ này cũng
là một Đau Khổ, tuy không bằng hay không giống như
Đau Khổ mà Chúa Kitô phải lănh nhận trong vườn
cầu nguyện khi Ngài than lên: “Tâm thần của Thày buồn
sầu đến chết mất” (Mc 14:34), “Cha ơi,
nếu được, xin cất chén này cho Con” (Mc 14:36).
Phải, đây là trường hợp Đau Thương
thứ nhất Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ
phải chịu.
Thế rồi, trong cuộc đời
làm Mẹ Chúa Cứu Thế, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ c̣n chịu những trường hợp Đau Thương
khác nữa. Như khi thấy Chúa bắt đầu đổ
ra những giọt máu đầu tiên trong công cuộc cứu
chuộc nhân loại qua phép cắt b́. Như khi thấy Chúa
tể càn khôn phải lẩn trốn cuộc sát hại của
Hêrôđê. Như khi Chúa là ánh sáng sự sống duy nhất của
linh hồn ḿnh biến mất ba ngày liền trong đền
thánh Giêrusalem. Như khi Chúa từ giă Mẹ sau 30 năm chung
sống để ra đi hoàn tất ư Cha, Đấng đă
sai Ngài. Như khi, nhất là, thấy Chúa là sự sống
bị loài người yêu tối tăm hơn ánh sáng hành
hạ và giết đi một cách vô cùng ô nhục và
khốn nạn hơn cả một tội nhân kinh tởm
nhất trên đời!
Theo mạch văn và ư văn
của câu ông già Simeon nói, th́ “Con Trẻ này (chẳng
những) là duyên cớ cho nhiều người trong
Về việc chịu Đau
Thương, Mẹ Maria không phải chịu cực h́nh và
tử giá nơi thân xác như Chúa Kitô. Nhưng, chính v́ không c̣n
ai yêu Chúa hơn Mẹ, không c̣n ai hiệp nhất với Chúa
hơn Mẹ, không c̣n ai nhận biết Chúa hơn Mẹ,
do đó, cũng không có ai Đau Thương hơn Mẹ
trong công cuộc Đồng Công với Chúa để cứu chuộc nhân loại như
vậy.
Tất cả những ǵ Chúa
Giêsu, Con chí tôn, chí ái của Mẹ chịu trên thân xác, th́
Mẹ chịu trong ḷng yêu của Mẹ, trong Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Đau Thương mà Trái Tim Vô
Nhiễm Nguyên Tội Mẹ chịu cùng với Chúa Giêsu
ấy, c̣n cả thể và mênh mông hơn tất cả mọi
khốn khổ của nhân loại, nhất là của các
thánh tử đạo, từ khi hai nguyên tổ sa ngă cho đến
tận thế hợp lại.
Chính nhờ Vô Nhiễm Nguyên Tội
mà Mẹ Maria đă có thể chịu được
hết mọi Đau Thương đến cùng tột vượt
ngoài sức chịu đựng tự nhiên của bản
tính nhân loại như thế, để có thể tái sinh
nhân loại vào sự sống đời đời là Chúa
Kitô, Đấng “là sự sống lại và là sự
sống” (Gn 11:25) của họ và cho họ.
Ngược lại, cũng
chính v́ Đau Thương hầu như vô cùng đối với
bản tính nhân loại này nơi Mẹ, mà Trái Tim Mẹ đă
thật sự và hoàn toàn là Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Cho đến nay, mặc
dầu Mẹ đă được Mông Triệu cả hồn
lẫn xác, không c̣n Đau Thương như khi c̣n sống ở
trên thế gian nữa, thế mà, theo mạc khải ở
Fatima, với chị Lucia, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội
Mẹ vẫn c̣n Đau Thương, Đau Thương v́
tội lỗi của loài người hằng giây hằng
phút xúc phạm đến Chúa cũng như đến chính
Mẹ, Người Mẹ đă yêu họ hơn chính ḿnh và
mạng sống ḿnh là Chúa Kitô, khi hiến dâng Ngài làm của
lễ đền bồi t́nh yêu nhưng không và phép công
thẳng vô cùng của Thiên Chúa đối với họ.
Phải, chỉ khi nào Mẹ
hết yêu Thiên Chúa và thương nhân loại, bấy giờ
Mẹ mới hết Đau Thương. Chính T́nh Yêu đă
làm Mẹ Đau Thương.
Khi c̣n sống trên trần
gian, cũng chỉ v́ yêu Chúa và nhân loại, Mẹ đă
thực sự cảm nghiệm được Đau Thương
ngay nơi bản thân của Mẹ. Ngày nay, tuy Mẹ không c̣n
thực sự cảm nghiệm thấy Đau Thương
một cách cụ thể như khi c̣n ở trên trần
gian, nhưng, v́ yêu Chúa và nhân loại, Mẹ đă tỏ ra
cho nhân loại thấy rằng Mẹ vẫn Đau Thương.
Thật vậy, “của ở
đâu, ḷng ở đó” (Mt
Do đó, khi loài người nói
chung và con cái Mẹ nói riêng không nhận biết Mẹ và yêu
mến Mẹ, Đấng thật sự là Mẹ của họ,
Đấng đă sinh Chúa Giêsu cho họ và sinh họ cho Chúa
Giêsu trong Ơn Thánh, Đấng hằng ở cùng họ và
hằng cứu giúp họ, trái lại, c̣n vô ơn xúc
phạm đến Mẹ, c̣n phạm thượng đến
Mẹ, th́ Trái Tim Mẹ hằng yêu thương họ và
hằng ở với họ phải chịu Đau Thương
một cách siêu linh và thiêng liêng (hợp với thể
thức Mẹ ở với họ)
là chừng nào.
Trái Tim Đau Thương của
Mẹ Maria, như chị Lucia thị kiến ba lần, được
biểu hiệu bằng Trái Tim đội mạo gai. Gai đâm
vào Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ đây, theo
như Đức Mẹ cắt nghĩa cho chị vào ngày
10/12/1925: “Hỡi con gái của Mẹ, hăy nh́n vào Trái Tim
Mẹ đây bị ṿng gai quấn chung quanh do những
kẻ vong ân đâm vào từng giây từng phút bằng
những tội phạm thượng và bội bạc của
họ” (FILOW:195).
Phải, Trái Tim Mẹ Đau
Thương hiện nay là do hai tội: “phạm thượng”
và “bội bạc” của chính “những kẻ vong ân”.
“Những kẻ vong ân” đây,
theo ư của Mẹ, là thành phần nào, nếu không phải
là những kẻ đă được ơn mà không để
ư đến ơn của Mẹ hay có biết cũng không đền
đáp cho xứng đáng. Phải chăng họ là
những người con của Mẹ, những người
mệnh danh Kitô hữu, chi thể của Chúa Kitô, Đấng
mà Mẹ đă sinh ra cho họ và đă hy hiến Ngài để
họ được sống đời đời.
Thế mà, họ chẳng
những không nhận biết Mẹ của họ, không yêu
mến đền đáp Mẹ của họ, trái lại,
“bội bạc” th́ chớ, họ lại c̣n vào phe với
kẻ thù là Satan đả kích Mẹ, hạ bệ Mẹ,
lăng nhục Mẹ v.v. bao nhiêu có thể, hết cách có thể,
bằng những lời lộng ngôn “phạm thượng”
đến Mẹ, Đấng mà chính Thiên Chúa đă nâng lên, đă
tôn vinh, đă ban chính Ḿnh Ngài cho Mẹ, đă trở nên Con của
Mẹ.
Tội lộng ngộn
“phạm thượng” đến Mẹ của “những
kẻ vong ân” đây, như Chúa Giêsu thầm tỏ cho chị
Lucia biết vào đêm 29 rạng 30 tháng 5 năm 1930 (LS:238),
có thể được tỏ ra qua 5 h́nh thức cụ
thể sau đây:
1.- Lộng ngôn
phạm đến Việc Đầu Thai Vô Nhiễm Tội
của Mẹ;
2.- Lộng ngôn
phạm đến Đức Đồng Trinh của
Mẹ;
3.- Lộng ngôn phạm
đến Chức Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Nhân Loại của
Mẹ;
4.- Công khai gieo
rắc vào ḷng các thiếu nhi sự thờ ơ, dể duôi
và thù ghết Mẹ Vô Nhiễm;
5.- Trực tiếp
lăng nhục ảnh tượng Mẹ.
“Những kẻ vong ân” có
biết chăng, khi họ khinh Mẹ là họ khinh Chúa, khi
họ lăng nhục Mẹ là họ lăng nhục
Mẹ Thiên Chúa, khi họ phạm đến Mẹ là
phạm đến chính Thiên Chúa.
Trái Tim Mẹ Đau Thương
không phải v́ chính Mẹ bị xúc phạm cho bằng v́
Thiên Chúa qua Mẹ đă bị xúc phạm. Lời kêu gọi
Đau Thương cuối cùng của Mẹ tại